Báo cáo thực tập tài trợ cho xuất nhập khẩu Báo cáo thực tập tại Ngân hàng thương mại

Mục lục Chương I: Một số vấn đề cơ bản về tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại. 1.1.. Một số vấn đề cơ bản về hoạt động xuất nhập khẩu trong nền kinh tế 1.1.1. Sự cần thiết của hoạt động xuất nhập khẩu. 1.1.2. Nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu 1.1.3. Các nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu. 1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu. 1.2.1. Khái niệm, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu . 1.2.1.1. Khái niệm. 1.2.1.2.

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1368 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo thực tập tài trợ cho xuất nhập khẩu Báo cáo thực tập tại Ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vai trò. 1.2.2. Các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại. 1.3. Các yếu tố ảnh hưỡng tới hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM ở Việt Nam. Chương II : Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại NHNT Hà Nội . 2.1. Khái quát về NHNT Hà Nội . 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNT Hà Nội . 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của NHNT Hà Nội . 2.1.3. Tình hình 1 số hoạt động kinh doanh chính của NHNT Hà Nội . 2.1.3.1. Về huy động vốn. 2.1.3.2. Về cho vay. 2.1.3.3. Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ. 2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại NHNT Hà Nội . 2.3. Đánh giá hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội 2.3.1 Những mặt đạt được 2.3.2 Những tồn tại và nguyên nhân Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng xuất nhập khẩu tại NHNT Hà Nội 3.1 Phương hướng hoạt động và nhiệm vụ công tác năm 2003 của NHNT Hà Nội 3.2. Giải pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại NHNT Hà Nội 3.2.1. Nhóm giải pháp về quản trị điều hành 3.2.2 Giải pháp về nghiệp vụ tín dụng tài trợ XNK 3.2.3. Chiến lược con người và công nghệ ngân hàng 3.2.4. Chính sách khách hàng 3.3. Kiến nghị 3.3.1 Đối với các cơ quan quản lý vĩ mô 3.3.2. Đối với NHNT Việt Nam 3.3.3. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XNK Chương I: Một số vấn đề cơ bản về tài trợ cho xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại. 1.1. Một số vấn đề cơ bản về hoạt động xuất nhập khẩu 1.1.1. Sự cần thiết của hoạt động xuất nhập khẩu . Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không thể chỉ dựa vào nền sản xuất trong nước mà còn phải quan hệ với các nước bên ngoài. Do có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu...mà mỗi quốc gia có thế mạnh trong việc sản xuất một số mặt hàng nhất định. Để đạt được hiệu quả kinh tế đồng thời đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng ở trong nước, các quốc gia đều mong muốn có được những sản phẩm chất lượng cao với giá rẻ hơn từ các nước khác đồng thời mở rộng được thị trường tiêu thụ đối với các sản phẩm thế mạnh của mình. Chính từ mong muốn đó đã làm nảy sinh hoạt động thương mại quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế thông qua mối quan hệ rộng rãi vượt ra ngoài biên giới quốc gia sẽ là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế bên ngoài, đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế ở mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Thương mại quốc tế được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản xuất khẩu và nhập khẩu. Do vậy, xác định được vai trò quan trọng cũng như có sự quan tâm thích đáng đến hoạt động xuất nhập khẩu là nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động thương mại quốc tế. Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có những nét đặc thù riêng đó là nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng kĩ thuật lạc hậu, công nghệ thủ công... đang rất cần được đổi mới, bên cạnh đó tiềm lực xuất khẩu lại lớn nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Tất cả những điều này cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu đối với nước ta càng quan trọng hơn. Vai trò của xuất nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua một số khía cạnh cơ bản sau: Xuất khẩu - Xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho đất nước tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. - Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước sẽ khuyến khích các ngành, nghề phát triển bởi họ phần nào có được thị trường tiêu thụ ổn định và mở rộng hơn. Đồng thời, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế sẽ tạo cho các nhà sản xuất sự năng động và sáng tạo trong kinh doanh, sự quan tâm đúng đắn đến việc nâng cao hiệu quả quản lí, đổi mới công nghệ cũng như nâng cao chất lượng của sản phẩm. - Xuất khẩu tạo điều kiện cho việc nhập khẩu có thể diễn ra thuận lợi hơn nhờ nguồn ngoại tệ thu được và mối quan hệ quốc tế mà nó tạo ra. Nhập khẩu Song song với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Cụ thể: - Nhập khẩu tạo ra hàng hoá bổ sung cho hàng hoá thiếu hụt trong nước và thay thế những sản phẩm trong nước không sản xuất được hay sản xuất với chi phí cao hơn để đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng nội địa một cách tốt nhất, từ đó tạo sự ổn định về cung-cầu trong nước và cao hơn là sự ổn định kinh tế vĩ mô. - Nhập khẩu có tác động đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, đổi mới công nghệ tạo tiền đề thuận lợi cho sản xuất. - Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc cung cấp các nguyên vật liệu, máy móc thiết bị đầu vào cho xuất khẩu cũng như góp phần định hướng sản phẩm, định hướng thị trường cho xuất khẩu. Cuối cùng, một vai trò hết sức quan trọng của cả xuất và nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế-xã hội đó là tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân và mở rộng hợp tác quốc tế. 1.1.2. Nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu. Như đã nói trên, trong nền kinh tế mở các doanh nghiệp luôn phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt. Họ không chỉ phải cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước mà còn phải cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Để chiến thắng trong cạnh tranh, ngoài việc cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước như sự ưu đãi về thuế, sự điều chỉnh tỉ giá hối đoái phù hợp... các doanh nghiệp còn cần phải có một tiềm lực tài chính mạnh để thực hiện các hoạt động như đổi mới dây chuyền công nghệ, mua sắm máy móc hiện đại, mua sắm nguyên vật liệu, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành... Song trên thực tế do khả năng tài chính có hạn nên hầu hết các doanh nghiệp đều cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Nhu cầu tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu nảy sinh từ những đòi hỏi đó và nó gắn liền với các giai đoạn của hoạt động này. Do hoạt động thương mại quốc tế hiện nay là rất đa dạng và vì thế cũng hết sức phức tạp (nó bao gồm nhiều mối quan hệ như: thương mại giữa các nước phát triển, thương mại giữa các nước đang phát triển, thương mại giữa các nước phát triển và đang phát triển...) nên để phù hợp với điều kiện Việt Nam cũng như với đề tài nghiên cứu, ở đây tôi chỉ xin đề cập đến hoạt động thương mại quốc tế giữa các nước phát triển và đang phát triển. - Xuất khẩu hàng hoá từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển chủ yếu là hàng hoá tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị, kỹ thuật, công nghệ. Đây là những hàng hoá mà để hoàn thành hoạt động xuất khẩu cần phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ phân tích nhu cầu, kí kết hợp đồng, sản xuất cung ứng, lắp ráp chạy thử... đến thanh toán tiền hàng. Nhu cầu tài trợ thường để đáp ứng các chi phí cho quảng cáo, thiết kế mẫu mã, sản xuất và cung cấp công trình. - Xuất khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển chủ yếu là các mặt như nông, lâm, thuỷ hải sản, hàng thô hay mới qua sơ chế... Và nhu cầu tài trợ thường là để thu mua chế biến xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời. Để có cái nhìn tổng quát về nhu cầu tài trợ nảy sinh trong hoạt động xuất nhập khẩu ta sẽ xem xét nhu cầu tài trợ của các nhà xuất khẩu và nhập khẩu hình thành trong cùng một hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá máy móc, thiết bị kĩ thuật, công nghệ. Nhu cầu tài trợ cho xuất khẩu Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hoá máy móc thiết bị thường kéo dài từ nhiều tháng cho tới vài năm, do đó thông thường nhu cầu tài trợ thường nảy sinh ở nhiều giai đoạn khác nhau. Cụ thể: + Giai đoạn phân tích nhu cầu, thiết kế, tìm kiếm khách hàng, đại diện tại các hội chợ, đàm phán sơ bộ, lập kế hoạch: Để hoàn thành tốt giai đoạn này các chuyên gia phải thực hiện các chuyến đi dài ngày và tiến hành nhiều cuộc đàm phán, phải làm ra hàng mẫu và mô hình để trưng bày, giới thiệu. Sau đó họ còn phải hoàn tất các tài liệu thiết kế và tính toán chính xác cho đàm phán hợp đồng. Chi phí cho những hoạt động này không phải nhỏ, đặc biệt với các cơ sở kinh doanh tiềm lực tài chính còn hạn hẹp. + Giai đoạn ký kết hợp đồng: Trong trường hợp nhà xuất khẩu chưa có uy tín cao ở nước ngoài, đối tác có thể yêu cầu một bảo đảm giao hàng hoặc bảo đảm hoàn thành công trình. Đảm bảo này sẽ có hiệu lực nếu việc giao hàng hoặc hoàn thành công trình không đúng như thoả thuận. Trường hợp khác, nếu nhà xuất khẩu cần tiền đặt cọc mà nhà nhập khẩu là người nước ngoài đang gặp khó khăn về tài chính, nhà xuất khẩu có thể đề nghị ngân hàng của mình cung cấp tín dụng tương đương với số tiền đặt cọc và nhà nhập khẩu có nghĩa vụ chi trả cho khoản tín dụng đó + Giai đoạn chuẩn bị sản xuất: Sau khi đã kí hợp đồng, nhà xuất khẩu sẽ tiến hành chuẩn bị sản xuất. Nhất là việc xây dựng các công trình lớn như, nhà máy, xí nghiệp... việc này thường đi kèm với chi phí lớn vượt quá mức đặt cọc. + Giai đoạn sản xuất: Mặc dù đã có những thoả thuận về việc thanh toán tiếp theo của người mua, trong thời gian này thường nảy sinh các nhu cầu tài chính cao về vật tư và chi phí liên quan khác vượt qua các khoản thanh toán giữa chừng. + Giai đoạn cung ứng: Ngay cả trong giai đoạn cung ứng cũng có thể nảy sinh các chi phí cần được tài trợ như chi phí vận tải, bảo hiểm... tuỳ theo điều kiện cung ứng. + Giai đoạn lắp ráp, chạy thử, bàn giao công trình: Sau khi hàng hoá được giao tới địa điểm qui định, nhà xuất khẩu còn cần chi phí cho lắp ráp chạy thử cho tới khi được người mua thu nhận và chấp nhận thanh toán. + Giai đoạn bảo hành: Trong giai đoạn này người mua có quyền yêu cầu được bảo hành ở ngân hàng của nhà xuất khẩu trước khi thanh toán. +Giai đoạn thanh toán: Hiện nay, để việc cung cấp hàng hoá xuất khẩu được thuận lợi người xuất khẩu thường phải dành cho người mua một ưu đãi thanh toán trong nhiều năm mà người xuất khẩu và ngân hàng của họ có thể chấp nhận được. Trong thời gian chờ được thanh toán nhà xuất khẩu thường có nhu cầu được tài trợ để đảm bảo vốn cho quá trình tái sản xuất tiếp theo. Nhu cầu tài trợ nhập khẩu Với hoạt động nhập khẩu, nếu như nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ để đẩy mạnh hoạt động bán hàng thì các nhà nhập khẩu cũng nảy sinh nhu cầu tài trợ để mua hàng khi khả năng tài chính không đáp ứng được. Vì vậy về phía nhà nhập khẩu cũng hình thành nhu cầu tài trợ trên nhiều mặt. - Giai đoạn trước khi kí kết hợp đồng: ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu cần có những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác nhu cầu của mình để tiến hành đấu thầu một cách phù hợp. -Giai đoạn sau khi kí kết hợp đồng: Sau khi kí kết được hợp đồng, nhà nhập khẩu cần được tài trợ để đặt cọc, tạm ứng cho nhà xuất khẩu.... -Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà nhập khẩu có thể phải thực hiện những khoản thanh toán giữa chừng cho nhà xuất khẩu hay tài trợ cho các công việc ở điạ phương để chuẩn bị cho đầu tư. - Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung ứng hàng hoá có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm đối với các nhà nhập khẩu. - Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi xuất trình chứng từ (có thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì thường nhà nhập khẩu chỉ có thể nhận được hàng khi giá trị trên hoá đơn đã ghi rõ hoặc có thể tài trợ được. - Xử lí tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán tiếp thì nhà nhập khẩu còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời gian từ khi nhập hàng về tới khi hàng hoá được tiêu thụ. Nếu sản phẩm là những dây chuyền công nghệ để sản xuất thì nhà nhập khẩu sẽ có nhu cầu được tài trợ cho giai đoạn từ khi sản xuất sản phẩm mới tới khi tiêu thụ được các sản phẩm làm ra và thu được tiền hàng. Qua việc xem xét nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu ở trên ta có thể khẳng định rằng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một nhu cầu tài trợ rất lớn. Vậy thì để đáp ứng cho nhu cầu đó có những nguồn tài trợ nào. Dưới đây là một số nguồn tài trợ thường dùng cho xuất nhập khẩu. 1.1.3. Các nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản, do vậy nó cũng được tài trợ từ rất nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, những nguồn tài trợ thường được sử dụng là: Tín dụng thương mại (hay tín dụng nhà cung cấp): là nguồn tài trợ được thực hiện thông qua hình thức mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ với các công cụ chủ yêú là kỳ phiếu và hối phiếu. Đây là nguồn tài trợ ngắn hạn được ưa dùng vì dễ thực hiện, khả năng chuyển thành tiền mặt cao (thông qua chiết khấu tại các ngân hàng), linh hoạt về thời hạn. Tuy nhiên, các công cụ như hối phiếu thường được sử dụng trên cơ sở có ngân hàng đứng ra chấp nhận hay bảo đảm. Vốn tự có: Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp khác nhau mà vốn tự có có thể là vốn Ngân sách cấp, vốn cổ phần của các sáng lập viên công ty cổ phần hay vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân. Vốn tự có chủ yếu bao gồm vốn khi thành lập doanh nghiệp như nói trên và phần lợi nhuận để lại + khấu hao. Sử dụng vốn tự có doanh nghiệp có thể giảm được hệ số nợ, tạo sự chủ động trong kinh doanh. Tuy vậy, nguồn tài trợ này có hạn chế là qui mô không lớn và nhiều khi chi phí cơ hội của việc giữ lại lợi nhuận cao. Phát hành cổ phiếu: Với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay họ có thể phát hành cổ phiếu công ty để huy động nguồn vốn trung và dài hạn. Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp có được sự chủ động trong việc huy động và sử dụng vốn, giảm được nguy cơ phá sản khi gặp khó khăn (vì có thể không phải phân chia lợi tức cổ phần hoặc có thể hoãn trả lợi tức khi bị lỗ hoặc không có nhiều lãi) hay làm tăng vốn chủ sở hữu, giảm hệ số nợ của doanh nghiệp...Tuy nhiên, chỉ có các doanh nghiệp thỏa mãn những điều kiện nhất định mới được sử dụng hình thức này. Với nước ta, do thị trường tài chính còn chưa phát triển nên hình thức tài trợ này còn ít được sử dụng hoặc nếu có sử dụng thì hiệu quả chưa cao. Phát hành trái phiếu công ty: Đây cũng là một hình thức tài trợ khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường gần như cổ phiếu. Trái phiếu là một giấy chứng nhận nợ của doanh nghiệp. Sử dụng phát hành trái phiếu doanh nghiệp có thể huy động vốn cho hoạt động kinh doanh mà không dẫn đến phải chia quyền kiểm soát doanh nghiệp như khi sử dụng cổ phiếu thường. Tuy nhiên, với trái phiếu doanh nghiệp thường phải trả lợi tức cố định cho dù hoạt động kinh doanh có lãi hay không. Điều này dễ làm tăng khả năng phá sản đối với doanh nghiệp khi gặp khó khăn về tài chính. Ngoài ra, với thị trường tài chính chưa phát triển như đã nói trên thì hình thức này cũng khó phát huy tốt được ưu thế của nó. Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng có thể tài trợ cho các doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức và với những mục đích sử dụng khác nhau như: cho vay ngắn hạn theo hạn mức tín dụng, cho vay theo hợp đồng, cho vay có đảm bảo... để thu mua dự trữ, sản xuất, nhập khẩu nguyên vật liệu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Hoặc cho vay dài hạn để đầu tư dự án, mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ... Tuỳ vào từng doanh nghiệp mà Ngân hàng có thể áp dụng những hình thức nhất định sao cho thuận lợi với cả hai bên. Một đặc điểm khá nổi bật của tín dụng ngân hàng là có khả năng linh hoạt về lãi suất cũng như thời hạn. Các nguồn tài trợ khác: Ngoài các nguồn tài trợ trên các doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn có thể được tài trợ bằng các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ viện trợ của nước ngoài, hỗ trợ của Chính phủ...Hiện nay các nguồn này thường cũng được sử dụng thông qua các Ngân hàng. Như vậy, nguồn tài trợ cho xuất nhập khẩu rất đa dạng nhưng trong đó nguồn tín dụng ngân hàng nhờ có những ưu thế riêng nên vẫn nắm giữ một vị trí đặ c biệt đối với sự phát triễn của đất nước nói chung vá hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng 1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu. 1.2.1. Khái niệm, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu . Khái niệm. Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế được rất nhiều nhà kinh tế học đề cập đến và do đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng.Tuy nhiên, theo cách hiểu chung nhất thì: tín dụng là một quan hệ xã hội giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật. Trên cơ sở đó ta có thể hiểu “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, đơn vị kinh tế-xã hội, các cơ quan Nhà nước và các tầng lớp dân cư ”. Tín dụng ngân hàng ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhờ có khả năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà nó đã không ngừng được mở rộng sang tất cả các ngành, lĩnh vực khác nhau trong đó có hoạt đọng xuất nhập khẩu, nó đã trở thành một nguồn tài trợ không thể thiếu đối với hoạt động xuất nhập khẩu của các quốc gia. Sự tham gia hỗ trợ của các ngân hàng cho hoạt động xuất nhập khẩu có tác động tích cực không chỉ về mặt tài chính mà còn về cả việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Như vậy,mặc dù tín dụng vô cùng phong phú và đa dạng nhưng chúng đều thể hiện hai mặt sau: Thứ nhất: Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định. Thứ hai: Đến thời hạn hai bên thoả thuận, người sử dụng hoàn trả cho người sở hữu một số tiền lớn hơn. Phần tăng thêm được gọi là lợi tức hay tiền lãi. Theo khái niệm của C.Mác "Tín dụng dưới các hình thức biểu hiện đơn giản nhất là sự tín nhiệm ít nhiều có căn cứ khiến cho một người này giao cho người khác một số tư bản nào đó. Số tiền này được trả trong một thời gian nhất định... Khi tư bản được cho vay người ta tăng số tiền phải hoàn trả lên thêm một tỷ lệ phần trăm nhất định coi là quyền sử dụng tư bản". Theo kinh tế học hiện đại, quan điểm về tín dụng là hoàn toàn thống nhất với quan điểm trên của Mác nhưng nhấn mạnh thêm cơ sở để thiết lập một quan hệ tín dụng đó là "lòng tin" và cụ thể hoá thêm những nhân tố hướng tới quan hệ tín dụng. Cụ thể, trong kinh tế học khẳng định rằng: Người ta chỉ sẵn sàng giao phó tiền bạc hoặc tài sản của mình cho người nào mà người ta tin tưởng, hiểu rộng ra đây là sự giao phó niềm tin, trao cho nhau niềm tin. Người ta chỉ cho vay một khi người ta tin rằng người sử dụng số tiền đó sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn (có hiệu quả) sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ (thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình). Tuy nhiên, trong thực tế không phải mọi việc lúc nào cũng đều trôi chảy, mà không hiếm trường hợp người ta vay không thực hiện được nghĩa vụ của mình đối với chủ nợ do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan gây ra. Những trường hợp này thường dẫn đến tổn thất cho người cho vay, người ta nói rằng đó là rủi ro trong kinh doanh tín dụng. Vì vậy, để ngăn chặn những tổn thất có thể xảy ra hay để hạn chế thấp nhất những rủi ro trong kinh doanh tiền tệ - tín dụng, người ta phải đặc biệt quan tâm đến khả năng trả nợ của người đi vay và từ đó có những biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho tài sản của mình đem cho vay. Trên cơ sở nhận thức đó, người ta có thể có nhiều cách gọi tên khác nhau (định nghĩa tín dụng khác nhau) nhưng dù cách nào chúng đều thống nhất với ở ba điểm chủ yếu về tính chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả. Vậy tóm lại, tín dụng là quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối quan hệ thông qua vận động của giá trị vốn tín dụng, được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu . Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu được thể hiện qua các mặt sau: - Thứ nhất, giống như các nguồn tài trợ khác tín dụng ngân hàng là một nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để thu mua dự trữ, sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, mua sắm máy móc thiết bị...phục vụ cho quá trình sản xuất cũng như tái sản xuất của doanh nghiệp. - Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường . Kinh doanh có hiệu quả là yêu cầu của hạch toán kinh tế đồng thời cũng là một trong những điều kiện cung cấp tín dụng của ngân hàng. Do đó, tín dụng ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu quả kinh doanh, nâng cao mức doanh lợi. Bên cạnh đó, với khả năng linh hoạt về thời hạn và lãi suất của tín dụng ngân hàng sẽ khuyến khích sự chủ động và sáng tạo của các doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn sao cho phù hợp với nhu cầu về vốn trong mỗi thời kỳ khác nhau. Thứ ba, tín dụng ngân hàng thúc đẩy hoạt dộng xuất nhập khẩu diễn ra thuận lợi và nhanh chóng hơn. Thứ tư, xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cao và do việc thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa người mua và người bán sự có mặt của ngân hàng sẽ là một đảm bảo cho cả hai bên, nhà xuất khẩu sẽ hạn chế được những rủi ro không thanh toán khi ngân hàng đứng ra đảm bảo cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu và ngược lại nhờ nguồn tín dụng của ngân hàng nhà nhập khẩu thực hiện được những nhập khẩu quan trọng trong khi khả năng tài chính của họ chưa đáp ứng được. Thứ năm, ngân hàng là một đầu mối tiếp nhận các nguồn tài trợ của nước ngoài cho hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi vì hiện nay phần lớn các nguồn tài trợ của các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế cho một quốc gia nào đó được thực hiện qua các ngân hàng nước sở tại. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu càng có ý nghĩa hơn khi ngân hàng thực hiện các chính sách của Nhà nước, trong đó có chính sách hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Ngân hàng sẽ cung cấp cho các nhà xuất nhập khẩu những khoản tín dụng lớn với lãi xuất ưu đãi mà nhờ đó họ có thể giải quyết vấn đề thiếu vốn trong hoạt động kinh doanh của mình. 1.2.2. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại. Thương mại quốc tế bao gồm những mối quan hệ rất đa dạng,phức tạp. Với tư cách là trung gian tài chính,ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra liên tục nhanh chóng,thuận lợi cho cả nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu.Dựa trên các tiêu chí ta có thể chia tín dụng xuất nhập khẩu ra thành các hình thức như sau: Căn cứ vào phương thức thanh toán: a) cho vay trong khuôn khổ thanh toán bằng L/C. Thư tín dụng (L/C) là một văn bản pháp lý trong đó một ngân hàng cam kết sẽ trả một số tiền nhất định cho nhà xuất khẩu hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với quy định đề ra trong thư tín dụng. Đối với L/C trong thanh toán hàng nhập khẩu: +Cho vay ký quỹ L/C Ký quỹ là một quy định của ngân hàng phát sinh trong trường hợp khách hàng xin được bảo lãnh,khách sẽ phải nộp một khoản tiền nhất định vào tài khoản của họ tại ngân hàng mà họ xin được bảo lãnh và khoản tiền đó se được phong toả cho đến khi nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng chấm dứt.Thông thường khoản tiền này được tính tỷ lệ với giá trị hợp đồng mà khách hàng xin được bảo lãnh.Trong trường hợp thiếu sự tin cậy hoặc thương vụ tiềm ẩn rủi ro cao ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng ký quỹ 100% giá trị hợp đồng.Đối với những khách hàng đáng tin cậy hoặc có quan hệ thường xuyên thì ngân hàng có thể chấp nhận mức ký quỹ thấp hơn so với giá trị họp đồng. Thông thường mức ký quỹ L/C phụ thuộc vào các yếu tố sau. -Khả năng thanh toán của khách hàng. -Đối tượng khách hàng -Loại L/C: L/C trả chậm thì mức ký quỹ thấp,loại L/C trả ngay thì bắt buộc mức ký quỹ cao hơn. -Loại hàng hoá nhập khẩu,khả năng tiêu thụ. Trên cơ sở các yếu tố trên,ngân hàng sẽ quyết định mức ký quỹ,nếu như khách hàng không có đủ số dư trên tài khoản thì phải tiến hành làm đơn xin vay ngoại tệ ký quỹ L/C. + Cho vay thanh toán hàng nhập khẩu hoặc tài trợ thanh toán toàn bộ chứng từ giao hàng. Theo hình thức này khách hàng phải lập phương án sản xuất kinh doanh mang tính khả thi cho lô hàng nhập về phục vụ sản xuất kinh doanh .Đồng thời khách hàng phải lên kế hoách tài chính nhằm xác định khả năng thanh toán khi đến thời điểm thanh toán dự kiến,xác định khoản thiếu hụt với ngân hàng tài trợ. Trên cơ sở xem xét và phân tích kế hoạch và phản ánh của khách hàng,ngân hàng sẽ ra quyết định tài trợ và xác định mức ngân hàng chấp nhận tài trợ. Đối với L/C trong thanh toán hàng xuất khẩu + Cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở trên cơ sở L/C đã được chấp nhận do ngân hàng mở L/C phát hành theo yêu cầu của nhà nhập khẩu .Ngân hàng có thể cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu để tiêu thụ sản phẩm và có thể thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. +Cho vay chiết khấu hoặc ứng trước tiền hàng xuất khẩu : Để đáp ứng nhu cầu vốn,nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong có thể thương lượng với ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ hoặc ứng trước tiền cho mình trước khi bộ chứng từ được thanh toán. b) Cho vay trong khuôn khổ phương thức nhờ thu kèm chứng từ. +Nhờ thu đi trong thanh toán hàng xuất khẩu:Ngân hàng cho vay thu mua,sản xuất hàng xuất khẩu,chiết khấu hoặc ứng trước bộ chứng từ hàng xuất khẩu. +Nhờ thu đến trong thanh toán hàng nhập khẩu :Ngân hàng tiếp nhận chứng từ từ ngân hàng nước ngoài,xuất trình hối phiếu đòi tiền nhà nhập khẩu.Nếu nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán,thì cần phải có sự tài trợ của ngân hàng cho vay thanh toán hàng nhập khẩu . c) Cho vay trên cơ sở hối phiếu: Trong kinh doanh ngoại thương hối phiếu đóng vai trò rất quan trọng,trên cơ sở hối phiếu ngân hàng có các hình thức cho vay sau: + Chiết khấu hối phiếu: Chiết khấu hối phiếu là một loại tín dụng ngân hàng cung cấp cho khách hàng dưới hình thức mua lại hối phiếu trước khi nó đến hạn thanh toán,tức là ngân hàng mua lại khoản nợ phải đòi.Chiết khấu hối phiếu tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu nhận được tiền sớm hơn nhằm đáp ứng được nhu cầu về vốn đối với khoản tín dụng cung ứng hàng mà anh ta cấp cho nhà nhập khẩu. Cơ sở để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị của hối phiếu sau khi đã trừ đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu mà ngân hàng chiết khấu hưởng.Các ngân hàng sẽ xác định khối lượng tín dụng cấp ra(giá trị chiết khấu) theo công thức sau: Tck=M(1-Lck*t/3600)-P Trong đó: Tck :Giá trị chiết khấu M :Mệnh giá hối phiếu Lck : Lãi suất chiết khấu t :Thời hạn chiết khấu(ngày) P : lệ phí Có 2 hình thức chiết khấu: -Chiết khấu miễn truy đòi: Ngân hàng mua lại bộ chứng từ của người xuất khẩu,giá mua sẽ thấp hơn giá trị bộ chứng từ,do ngân hàng tính trừ lại chi phí chiết khấu và thời gian cần thiết trung bình để đòi tiền nhà nhạap khẩu nước ngoài.Chiết khấu miễn truy đòi có nghĩa là người xuất khẩu bán hãn bộ chứng từ cho ngân hàng,nhạn tiền và không còn trách nhiệm hoàn trả,trách nhiệm thu tiền và quyền sữ dụng số tiền thu được hoàn toàn thuộc về ngân hàng. ở Việt Nam các ngân hàng ít sữ dụng hình thức chiết khấu này vì nó tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng. -Chiết khấu được phép truy đòi: Cũng tương tự như hình thức trên nhưng trách nhiệm thanh toán hối phiếu vẩn còn đối với người chiết khấu hối phiếu(nhà xuất khẩu ) và giá trị chiết khấu cao hơn. +Chấp nhận hối phiếu: Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu. Người vay khoản tín dụng này chính là nhà nhập khẩu và khoản vay chỉ là một hình thức, một sự đảm bảo về tài chính. Thực chất ngân hàng chưa phải xuất tiền thực sự cho người vay. Tuy nhiên khi đến hạn, nếu nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán thì người cho vay (ngân hàng) - người đứng ra chấp nhận hối phiếu phải trả nợ thay. Tín dụng chấp nhận hối phiếu xảy ra trong trường hợp bên bán thiếu tin tưởng khả năng thanh toán của bên mua. Họ có thể đề nghị bên mua yêu cầu một ngân hàng đứng ra chấp nhận trả tiền hối phiếu do bên bán ký phát. Nếu ngân hàng đồng ý, điều đó cũng có nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận một khoản tín dụng cho bên mua để họ thanh toán cho bên bán khi hối phiếu đến hạn. Đối với ngân hàng, kể từ khi ký chấp nhận trả tiền hối phiếu cũng chính là thời điểm bắt đầu gánh chịu rủi ro nếu như bên mua không có tiền thanh toán cho bên bán khi hối phiếu đến hạn thanh toán. Đương nhiên nếu đến hạn thanh toán hối phiếu, bên mua có đủ tiền thì ngân hàng thực sự không phải ứng tiền ra. Như vậy, khoản tín dụng này chỉ là hình thức, là một sự đảm bảo về tài chính. Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ chỉ nhận được một khoản phí chấp nhận, khoản tiền bù đắp cho chi phí gánh chịu rủi ro tín dụng mà thôi. 1.2.2.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay: a)-Tín dụng ngấn hạn: Tín dụng ngấn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm,thường được sử dụng cho vay bổ sung vốn lưư động phục vụ sản xuất kinh doanh của các đơn vị,chiếm tỷ trọng lớn tại ngân hàng,cho vay để nhập khẩu nguyên liệu,vật tư,máy móc thiết bị,để thu mua chế biến hàng xuất khẩu .. b)-Tín dụng trung và dài hạn Thời hạn của tín dụng trung và dài hạn tuỳ theo quy định của mổi nước,ở Việt Nam tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1-5 năm,tín dụng dài hạn từ 5 năm trở lên.Hình thức tín dụng này được cung cấp để đầu tư mua sắm tài sản cố định,xây dựng mới,cải tạo mở rộng,khôi phục,cải tiến thiết bị.. 1.2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: a)-Tín dụng có bảo đảm: Đây là hình thức tín dụng nhằm đảm bảo an toàn vốn cho vay của ngân hàng.Các doanh nghiệp muốn được vay vốn của ngân hàng phải có vật tư tài sản cầm cố,thế chấp,bảo lãnh của người thứ 3 đối với khoản vay.Những tài sản này là cơ sở đảm bảo cho ngân hàng có khả năng thu hồi vốn cho vay trong trường hợp doanh nghiệp không có khả năng trả được nợ. b)-Tín dụng không có đảm bảo. Đây là hình thức ngân hàng cho vay mà không cần tài sản thế chấp cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba.Cơ sở để cho vay mà không cần đảm bảo là dựa vào uy tín,quy mô,hiệu quả kinh doanh,phương án trả nợ. 1.2.2.4. Một số hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu khác Bao thanh toán toàn phần và bao thanh toán từng phần * Bao thanh toán toàn phần (factoring): là một hình thức tài trợ chính trong hoạt động xuất khẩu. Đó là hoạt động mua bán những khoản thanh toán chưa tới hạn và ngắn hạn từ những hoạt động xuất khẩu, cung ứng hàng hoá dịch vụ. Khác với hoạt động mua bán lại chứng từ thanh toán ở phần trên, hoạt động factoring chỉ sử dụng cho những hoạt động._. xuất khẩu thường xuyên theo định kỳ, theo hợp đồng ngắn hạn và cho nhiều nhà xuất khẩu khác nhau trong cùng một nước hoặc nhiều nước trong cùng một thời điểm. Chỉ có những khoản thanh toán đáp ứng những điều kiện sau mới được phép mua bán: - Những khoản mua bán phải tồn tại một cách hợp pháp, phải có đủ tư cách pháp lý độc lập với quyền một người thứ ba. - Hàng hoá đã được cung ứng đầy đủ và đảm bảo chất lượng cho những khoản thanh toán này. - Thời hạn thanh toán này tối đa là 180 ngày. - Không có quyền cấm chuyển nhượng các khoản thanh toán này của người nhập khẩu hoặc nước nhập khẩu. * Bao thanh toán từng phần (forfaiting): cũng là nghiệp vụ mua bán những khoản thanh toán chưa tới thời hạn như factaring nhưng khác ở một số điểm sau: - Forfaiting chỉ bao những khoản thanh toán cụ thể riêng lẻ trong toàn bộ quá trình XNK dài hạn và cho từng đối tượng nhập khẩu riêng. - Thời hạn thanh toán của factoring tối đa là 6 tháng trong khi thời hạn đối với forfaiting là 6 tháng đến 10 năm. Forfaiting được coi là hình thức tín dụng trung và dài hạn. - Factaring phục vụ cho những hoạt động XNK không sử dụng tới tín dụng chứng từ còn forfaiting lại dựa vào chúng và sự bảo đảm của ngân hàng. Tín dụng thuê mua Thuê mua là hình thức tài trợ vốn, ra đời ở Mỹ vào năm 1952, sau đó nhanh chóng thâm nhập vào Châu Âu đầu những năm 1960 và dần dần hiện nay đang được các nước trên thế giới áp dụng. Thuê mua là hình thức thuê tài sản dài hạn mà trong thời gian đó người cho thuê chuyển giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người đi thuê sử dụng. Người thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê và khi kết thúc thời hạn họ có thể được quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được mua lại tài sản thuê hay là được quyền thuê tiếp. Điều này tuỳ thuộc vào thoả thuận của hai bên khi ký hợp đồng thuê. Có hai loại hình thức thuê mua. Đó là: cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. - Cho thuê tai chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác. Bên đi thuê được chuyển quyền sở hữu hoặc tiếp tục thuê khi kết thúc thời hạn thuê. - Cho thuê vận hành: bên đi thuê thuê máy móc, thiết bị trong thời gian ngắn để sử dụng vào mục đích tạm thời. Mọi rủi ro và lợi ích đem lại đối với quyền sở hữu tài sản cho thuê vẫn thuộc người cho thuê. So với hình thức cho vay truyền thống, hình thức thuê mua này có những ưu điểm sau: + Các doanh nghiệp sẽ không phải bỏ tiền mua thiết bị ngay lập tức mà trả tiền thuê thiết bị theo định kỳ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hơn về vốn để tập trung cho sản xuất. Hình thức này có ý nghĩa nhất đối với doanh nghiệp không đủ vốn nhưng vẫn có thể đi thuê thiết bị thiết bị để sản xuất và dùng một phần lợi thu được từ sản xuất để trả tiền thuê định kỳ. + So với đi vay ngân hàng, việc thế chấp để được thuê máy móc thiết bị đơn giản hơn nhiều do thiết bị thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê trong suốt thừoi gian thuê, nên khi bên thuê không trả được nợ, bên cho thuê có thể lấy lại toàn bộ tài sản cho thuê. Ngày nay các ngân hàng thường lập công ty tài chính riêng để hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp và làm phong phú thêm hoạt động của mình. Tài trợ bảo lãnh và tái bảo lãnh Trong thương mại quốc tế, rủi ro là một yếu tố luôn luôn xuất hiện trong các thương vụ khác nhau (rủi ro thanh toán, rủi ro không thực hiện hợp đồng). Từ đó nảy sinh nhu cầu bảo lãnh để hạn chế rủi ro. Trong mua bán quốc tế, đôi khi nhà xuất khẩu không nắm chắc được khả năng tài chính để thanh toán và mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu. Do vậy, nhà xuất khẩu sẽ yêu cầu nhà nhập khẩu phải có một tổ chức thường là ngân hàng đứng ra bảo lãnh thanh toán. Ngược lại, do không biết rõ hoặc không tin tưởng nhau, nhà nhập khẩu có thể yêu cầu nhà xuất khẩu có ngân hàng đứng ra bảo lãnh giao hàng hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Ngân hàng nhận bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng, dùng để vay vốn nước ngoài dưới hình thức tín dụng thương mại hoặc tín dụng tài chính. Trách nhiệm của ngân hàng bảo lãnh là đảm bảo thi hành đúng cam kết với nước ngoài trong trường hợp người xin bảo lãnh không thực hiện đủ nghiệp vụ nào đó với nước bên ngoài. Bảo lãnh cũng có nhiều hình thức khác nhau: + Mở thư tín đụng trả chậm + Ký bảo lãnh hay ký chấp nhận trên các hối phiếu + Phát hành thư bảo lãnh với người nước ngoài + Lập giấy cam kết trả nợ với nước ngoài.... Các lợi thế của các bên liên quan trong nghiệp vụ này - Đối với nhà nhập khẩu (bên được bảo lãnh): được hưởng một khoản vốn của bên xuất khẩu mà không phải trả lãi (thực chất có thể giá bán đã tính lãi rồi) chi trả một khoản phí cho người bảo lãnh. - Đối với nhà xuất khẩu: hoàn toàn yên tâm rằng đến hạn sẽ được thanh toán nợ. Nếu cần tiền, nhà xuất khẩu cũng có thể đem bộ chứng từ chiết khấu tại một ngân hàng khác để đáp ứng nhu cầu vốn của mình. - Đối với ngân hàng bảo lãnh: với bất kì ngân hàng nào, khi tiến hành bảo lãnh, nghĩa là được sự tín nhiệm, được sự tin tưởng về phía bên xuất khẩu, bên nhập khẩu. Khi bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng chỉ cho vay trừu tượng nghĩa là ngân hàng không bỏ ra một khoản vốn nào cả, mà chỉ lấy uy tín, danh dự của ngân hàng ra cho vay, làm cơ sở cho vay. Thủ tục bảo lãnh cho vay ngắn hạn theo phương thức cho vay thông thường nghĩa là khi bảo lãnh cho khách hàng thì khách hàng phải có mục đích xin vay, có khả năng thanh toán và có tài sản thế chấp. Khi đến hạn, nếu nhà nhập khẩu không có đủ khả năng thanh toán, thì cần phải làm thủ tục xin vay tại ngân hàng. Như vậy, mục đích bảo lãnh đã được thực hiện, nghĩa là ngân hàng bảo lãnh muốn khách hàng của mình vay nhằm thu thêm được một khoản lãi, có khách hàng mới về mặt tín dụng và chi phí bảo lãnh. 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam Do việc cho vay có liên quan chặt chẽ đến cả ngân hàng và khách hàng mà nó phục vụ, các chính sách cho vay phải được phác hoạ một cách cẩn thận sau khi đã xem xét nhiều yếu tố. Sau đây là một số yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến tín dụng tài trợ XNK của ngân hàng thương mại. 1/ Chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước Các hoạt động kinh tế nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng chịu tác động rất lớn bởi chính sách chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước. - Về mặt tích cực: chính sách vĩ mô của Nhà nước có thể tạo điều kiện cho vay XNK của ngân hàng được mở rộng và phát triển. Nếu Nhà nước dùng chính sách tiền tệ mở rộng thì NHTM được cấp thêm vốn dự trữ, khả năng cho vay của ngân hàng sẽ gia tăng. Các ngân hàng có thể có chính sách cho vay tự do hơn. Chính sách lãi suất linh hoạt, lãi suất thực dương luôn là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động tín dụng của ngân hàng. Hoạt động tín dụng tài trợ XNK chủ yếu diễn ra theo hình thức cho vay bằng ngoại tệ. Vì vậy nếu Nhà nước cho phép tập trung ngoại tệ vào ngân hàng, quản lý ngoại tệ một cách chặt chẽ thì ngân hàng sẽ có nhiều nguồn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập máy móc, thiết bị, nguyên liệu của nhà nhập khẩu. - Về mặt tiêu cực: Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có thể gây ra nhiều rủi ro cho hoạt động tín dụng XNK của ngân hàng. Nếu Nhà nước không có chiến lược hướng về xuất khẩu thì hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp XNK rất hạn chế. Từ đó dẫn đến hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ ít đi lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm xuống. Khi Nhà nước áp đặt một hàng rào thuế quan, phi thuế quan thì nó sẽ dẫn đến tăng giá của một số loại hàng nhập khẩu, lượng hàng nhập khẩu giảm dẫn đến nhu cầu vay vốn giảm. Ngoài ra, việc thay đổi nhỏ trong chính sách lãi suất, tỷ giá hối đoái cũng tác động không ít đến hoạt động tín dụng tài trợ XNK của Ngân hàng. Môi trường pháp không ổn định, cơ chế chính sách hay thay đổi làm ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của từng ngân hàng. Đây chính là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho các NHTM. 2/ Môi trường kinh tế chính trị, xã hội trong và ngoài nước Đất nước, khu vực mà có nền kinh tế bị rơi vào khủng hoảng hoặc luôn luôn bị chao đảo, biến động mạnh về kinh tế, chính trị dễ dẫn đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng bị thu hẹp. Ngược lại, nếu kinh tế ổn định sẽ dẫn đến chính sách cho vay tự do hơn. Thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 ở khu vực Đông Nam á đã chứng minh điều đó. Tất cả hoạt động của các ngành các lĩnh vực của các quốc gia trong khu vực, đặc biệt hoạt động của hệ thống ngân hàng đã bị ảnh hưởng sâu sắc. Hàng loạt ngân hàng của Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia bị tàn phá do không thu lại được các khoản nợ, không cho vay được để bù đắp chi phí khi nhu cầu tín dụng của khu vực giảm. Tình hình chính trị xã hội chiến tranh cũng như thiên tia, dịch hoạ cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả kháng đối với các khoản cho vay của Ngân hàng. 3/ Khả năng ý thức thanh toán của doanh nghiệp XNK Nhu cầu tín dụng của ngân hàng là yếu tố quyết định đến hoạt động tín dụng ngân hàng được mở rộng hay thu hẹp. Song nếu có nhu cầu vay vốn để nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu nhưng khả năng hoàn trả của doanh nghiệp không cao thì ngân hàng cũng sẽ không cho vay. Mặt khác, khi ngân hàng cấp vốn cho vay các doanh nghiệp XNK, nhưng vì một nguyên nhân nào đó các ngân hàng này gặp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh (bị huỷ bỏ hợp đồng, hàng bị mất cắp giảm giá trị...) làm cho họ không thu hồi đủ vốn để trả lại các khoản vay cho ngân hàng. Đối với ngân hàng khi mà có quá nhiều khách hàng đến hạn trả mà khôn có khả năng thanh toán hoặc cố ý chây ỳ thiếu ý thức tôn trọng các điều khoản thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thì ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán của mình thậm chí ngân hàng còn rơi vào tình trạng phá sản. Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và của doanh nghiệp hoạt động XNK nói riêng với thái độ ý thức thanh toán của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động tín dụng của ngân hàng. 4/ Năng lực cho vay của ngân hàng Khả năng huy động vốn của năng lực cho vay phụ thuộc vào vốn tự có của ngân hàng. Do đó nếu doanh nghiệp kinh doanh XNK có nhu cầu vốn lớn, trong khi nguồn vốn của ngân hàng nhỏ thì sẽ không thoả mãn yêu cầu của doanh nghiệp. Tín dụng XNK của ngân hàng thương mại gắn liền với nguồn vốn ngoại tệ. Do đó làm thế nào để huy động đủ ngoại tệ đáp ứng nhu cầu vay của doanh nghiệp nhập khẩu đang là vấn đề lớn đối với nhiều NHTM. 5/ Các nhân tố khác. Trình độ quản lý kinh doanh, quản lý vốn cũng như trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên tín dụng không phải là không có ý nghĩa đối với hoạt động cho vay XNK của ngân hàng. Với một đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm, có trình độ trong thẩm định dự án, xem xét đơn vay vốn của khách hàng thì chất lượng tín dụng sẽ cao và ngược lại. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHTM cũng luôn phải đối mặt với rủi ro lãi suất hay tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái luôn luôn biến động, sự biến động này có thể diễn ra hàng ngày. Nếu tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ khuyến khích cả nhập khẩu và xuất khẩu, tạo điều kiện cho nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng sẽ phát triển. Hoạt động cho vay của ngân hàng chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Có nhân tố tác động tích cực khuyến khích mở rộng hoạt động cho vay. Song cũng có không ít những nhân tố kìm hãm, gây rủi ro cho hoạt động này của ngân hàng. Các ngân hàng khi cấp tín dụng cho doanh nghiệp XNK phải lường trước mọi rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động ngoại thương để từ đó có những quyết định đúng đắn, kịp thời, đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Chương II: Thực trạng hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại NHNT Hà Nội . 2.1. Khái quát về NHNT Hà Nội . Quá trình hình thành và phát triển của NHNT Hà Nội . Ngân hàng ngoại thương Việt Nam chi nhánh Hà Nội (gọi tắt là Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội) được thành lập theo quyết định số 177.NH.QĐ ngày 22 tháng 12 năm 1984 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( nay là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam),chính thức đi vào hoạt động từ 01/ 03/1985 theo sự quản lý và phân công của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam . Ngân hàng ngoại thương Hà Nội là một tổ chức tài chính có tư cách pháp nhân,thực hiện hạch toán kế toán và kinh tế thống nhất trong hệ thống Ngân hàng ngoại thương Việt Nam,hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính,đảm bảo và phát triển vốn,tự bù đắp chi phí và tự chịu rủi ro. Ngân hàng ngoại thương Hà Nội là ngân hàng trực thuộc và là chi nhánh cấp I trong hệ thống Ngân hàng ngoại thương Việt Nam,cùng với Ngân hàng ngoại thương TP.Hồ Chí Minh,Bà Rịa- Vũng Tàu được xếp loại doanh nghiệp hạng I Cơ cấu tổ chức của NHNT Hà Nội . 2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức: Hiện nay cơ cấu tổ chức Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội gồm các bộ phân như sau : 1).Phòng Tín dụng-Tổng hợp. 2).Phòng Kế toán và Tài chính 3).Phòng Thanh toán xuất nhập khẩu 4).Phòng Hành chính – Nhân sự 5).Phòng Ngân quỹ 6).Phòng Tin học 7).Phòng Dịch vụ ngân hàng 8).Phòng Giao dịch số 2 Hàng Bài 9).Tổ Kiểm tra và Kiểm toán nội bộ. Mỗi phòng do một Trưởng phòng điều hành và có một Phó phòng giúp việc. Sơ đồ tổ chức Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội : Giám Đốc Phó Giám Đốc Phó Giám Đốc Phó Giám Đốc Trụ Sở Chính Phòng Kế Toán -Tài Chính Phòng Tín Dụng Tổng Hợp Phòng Ngân quỹ Phòng Thanh Toán Quốc Tế Phòng Dịch Vụ Khách Hàng Phòng Tin Học Tổ Kiểm Tra Nội Bộ Phòng Hành Chính Nhân Sự Tổ Quan Hệ Khách Hàng Chi Nhánh Cấp 2 Chi Nhánh Cầu Giấy Chi Nhánh Thành Công Phòng Giao Dịch Phòng Giao Dịch Số 3 Phòng Giao Dịch Số 1 Phòng Giao Dịch Số 2 Chức năng,nhiêm vụ của các phòng ban: 1). Phòng Tín dụng – Tổng hợp: - Tham mưu,giúp Ban Giám đốc xây dựng các biện pháp để thực hiện chính sách,chủ trương của Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam về tiền tệ,tín dụng Ngân Hàng,… - Nghiên cứu phân tích kinh tế địa phương,giúp Ban giám đốc tham gia dựng chương trình kế hoạch kinh tế –xã hội của thành phố và Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam. - Giúp Ban giám đốc về công tác Pháp chế của chi nhánh và thực hiện nghiệp vụ về hoạt động thông tin tín dụng. - Thực hiện nghiệp vụ cho vay đối với các thành phần kinh tế theo Luật Ngân Hàng và Luật các tổ chức tín dụng,mở tài khoản cho vay,theo dõi hợp đồng tín dụng và tính lãi theo định kỳ. - Thẩm định và xem xét về bảo lãnh đối với những dự án có mức ký quỹ dưới 100%,chịu trách nhiệm theo dõi quản lý thu hồi vốn,sau đó chuyển cho các phòng nghiệp vụ liên quan để phát hành thư bảo lãnh trong hoặc ngoài nước. - Điều hoà vốn ngoại tệ và đồng Việt Nam. - Phối hợp với các phòng xây dựng kế hoạch vốn theo quý,năm. - Kinh doanh ngoại tệ và thực hiện nghiệp vụ bán ngoại tệ cho các tổ chức kinh tế. - Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. 2). Phòng Kế toán và Tài chính. a) – Bộ phận “ Xử lý nghiệp vụ chuyển tiền”: Nhận yêu cầu chuyển tiền từ các giao dịch viên tại FRONT-END,bộ phận này có nhiệm vụ kiểm tra tính pháp lý và xử lý tiếp các yêu cầu liên quan đến nghiệp vụ chuyển tiền của khách hàng gồm : -Về thanh toán: Liên hàng vãng lai nội bộ Vietcombank,bù trừ và liên hàng Ngân hàng Nhà nước. - Hạch toán điện đến từ nước ngoài theo MT 100,từ liên hàng nội bộ,từ bù trừ và từ liên hàng Ngân hàng Nhà nước và chuyển báo có cho Phòng Dịch vụ Ngân hàng để trả cho đơn vị hưởng hoặc mời khach đến nhận tiền. - Xử lý các nghiệp vụ nhờ thu: thanh toán nhờ thu đi,đến trong nước và nước ngoài,séc đích danh. - Tạo các bảng kê trả lương tự động,thực hiện các giao dịch chuyển tiền tự động (AFT),các giao dịch đầu tư tự động. - Đối chiếu liên hàng nội bộ (Online & Ofline). - Quản lý các báo cáo thuộc phần việc của mình. b) – Bộ phận “ Quản lý tài khoản “ (Account Management) Quản lý toàn bộ các tài khoản khách hàng và các tài khoản nội bộ trong và ngoài Bảng tổng kết tài sản ( các tài khoản nội bảng,ngoại bảng),bao gồm: Nhân và phân loại các báo cáo,phân loại chứng từ,bảng kê,liệt kê để chấm và đối chiếu tài khoản - Chấm,đối chiếu lần lượt từng tài khoản mình phụ trách. Đóng và lưu Nhật ký chứng từ. Tra soát,đối chiếu tài khoản. Kiểm tra,quản lý các món tiền gửi không kỳ hạn,có kỳ hạn,trái phiếu,kỳ phiếu đồng Việt Nam và ngoại tệ của chi nhánh tại Trung Ương,các tổ chức tín dụng khác và Kho bạc Nhà nước. Thực hiên nghiệp vụ mật mã ( xử lý điện qua Telex va SWIFT). Thực hiện chế độ báo cáo thống kê,cân đối ( tháng,năm) theo quy định. c)– Bộ phận “ Quản lý chi tiêu nội bộ”. Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến chi tiêu nội bộ và các nghiệp vụ khác như: - Phối hợp với các phòng nghiệp vụ quản lý,giám sát công tác điều chuyển vốn giữa Chi nhánh và Trung Ương. - Mở tài khoản theo dõi quản lý tài chính,tài sản cố định,công cụ lao động,tính toán,kiểm tra,số thuế phải nộp theo định kỳ. - Quản lý thu nhập,chi phí của Chi nhánh. - Tạo tài khoản nội bộ mới: VND,Ngân phiếu,Ngoại tệ. - Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. 3). Phòng Thanh toán xuất nhập khẩu. - Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thanh toán xuất,nhập khẩu hàng hoá,dịch vụ của khach hàng bao gồm nghiệp vụ L/C và nhờ thu kèm chứng từ - Phát hành thư bảo lãnh đối vơi nước ngoài kể cả việc mở và thanh toán L/C trả chậm với mức ký quỹ 100% và các hồ sơ bảo lãnh của Phòng Tín dụng – Tổng hợp thẩm định chuyển đến. - Thực hiện nghiệp vụ chuyển tiền đi nước ngoài của khách hàng. - Quản lý và kiểm tra mẫu dấu chữ ký của các Ngân hàng nước ngoài. - Thực hiên một số nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. 4). Phòng Hành chính – Nhân sự. a) – Công tác Tổ chức cán bộ: - Tham mưu giúp việc cho ban giám đốc trong việc bố trí điều động,bổ nhiệm,miễn nhiệm,khen thưởng,kỷ luật,tiếp nhận,tuyển dụng cán bộ thuộc diện quản lý của Chi nhánh theo sự quy định của Ngân Hàng Ngoại thương Việt Nam. - Xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ hằng năm và theo dõi triển khai thực hiện kế hoạch đó. - Tham mưu giúp việc cho Ban Giám đốc trong việc xây dựng quy hoạch cán bộ theo yêu cầu của Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam,Ngân Hàng Nhà nước thành phố và của Thành uỷ Hà Nội. - Hằng năm nhận xét đánh giá phân loại cán bộ theo quy định của Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam. - Thực hiện các chế độ chính sách đối với cán bộ nhân viên trong cơ quan. - Lưu giữ quản lý hồ sơ cán bộ theo chế độ quy định. - Thực hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ và công tác quân sự của cơ quan. - Thường trực công tác thi đua khen thưởng của cơ quan. b)- Công tác hành chính và quản trị: - Tham mưu cho Ban Giám đốc về những vấn đề chung của công tác hành chính,quản trị,xây dựng cơ bản,mua sắm tài sản,vật liệu,thực hiện hợp đồng về điện nước,điện thoại,sửa chữa,và xây dựng nhỏ cơ quan. - Trực tiếp quản lý con dấu,thực hiện công tác hành chính,văn thư,lưu trữ,in ấn,telex,fax. - Quản lý tài sản của chi nhánh,thực hiện công tác lễ tân. - Quản lý chi tiêu nội bộ của cơ quan. - Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. 5). Phòng Ngân quỹ. - Thu chi tiền đồng Việt Nam,Ngân phiếu thanh toán; - Thu chi các loại ngoại tệ: Tiền mặt,Séc du lịch,giám định tiền thật,tiền giả. - Chuyển tiền mặt và séc du lịch đi tiêu thụ nước ngoài qua Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam. - Quản lý kho tiền,quỹ nghiệp vụ,tài sản thế chấp,chứng từ có giá. - Thực hiện chế độ báo cáo về hoạt động thu chi tiền mặt VND,ngoại tệ,Ngân phiếu và Séc. - Thực hiện điều chuyển tiền mặt,đảm bảo định mức tồn quỹ VND,ngoại tệ,Ngân phiếu và Séc. - Xử lý các loại tiền mặt thanh toán đã hết hạn hoặc không đủ tiêu chuẩn lưu thông. - Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. 6). Phòng Tin học Ngân Hàng. - Thực hiện nghiên cứu và phát triển công nghệ ngân hàng,cải tiến,bổ sung các chương trình phần mềm hiện có và lập các chương trình phần mềm mới phục vụ cho hoạt động của chi nhánh Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội. - Quản lý và bảo quản,bảo dưỡng toàn bộ thiết bị tin học của chi nhánh,bảo mật các số liệu và thông tin theo quy chế của Ngành. - Là đầu mối quan hệ với phòng tin học Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam,các Ngân hàng khác trong lĩnh vực công nghệ thông tin. - Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. 7). Phòng Dịch vụ Ngân Hàng. a)- Bộ phận “ Thông tin khách hàng” ( Customer Information): - Tiếp nhận và mở hồ sơ khách hàng mới ( Hồ sơ CIF). - Tiếp nhân,quản lý và giải quyết các yêu cầu thay đổi về : Chủ tài khoản,địa chỉ,kế toán trưởng,mẫu dấu,mẫu chữ ký. - Tiếp nhận và trả lời các thông tin về tài khoản khách hàng : Số dư tài khoản,hoạt động ra vào tài khoản. - Tập hợp và trả sao kê,sổ phụ,bảng kê,phiếu tính lãi,bán ấn chỉ cho khách hàng ( các chứng từ có liên quan trả cho khách hàng). - Giải đáp thắc mắc,hướng đẫn quy trình,nghiệp vụ cho khách hàng.Phản ánh tình hình giao dịch và đề xuất chính sách thu hút khách hàng. b)- Bộ phận “ Dịch vụ khách hàng” ( Customer Service): - Xử lý toàn bộ các giao dịch liên quan đến tài khoản tiền gửi ( VND và ngoại tệ) của mọi đối tượng khách hàng với các loại tiền và bằng mọi hình thức: Tiền mặt,chuyển khoản,séc ( trừ phần tạo điện). - Xử lý các nghiệp vụ liên quan đến các tài khoản tiền gửi tiết kiệm,kỳ phiếu,trái phiếu( VND và ngoại tệ). - Xử lý các nghiệp vụ thanh toán thẻ và phát hành séc Vietcombank. - Xử lý nghiệp vụ mua,chuyển đổi ngoại tệ,séc du lịch bằng mọi hình thức( tiền mặt,ngân phiếu thanh toán hoặc chuyển khoản) và bán ngoại tệ theo hộ chiếu. - Chi trả kiều hối,chuyển tiền nhanh ( Money Gram). - Quản lý các đại lý uỷ nhiệm thu đổi. - Tiếp nhận và kiểm tra tính pháp lý các chứng từ nhờ thu trong nước,ngoài nước và séc đích danh. - Trực tiếp thu chi tiền mặt séc du lịch liên quan đến các nghiệp vụ trên theo hạn mức do Giám đốc giao. - Phát hành thư bảo lãnh( dự thầu hoặc đấu thầu) cho khách hàng trong nước có mức ký quỹ 100% và các hồ sơ bảo lãnh của Phòng Tín dụng – tổng hợp thẩm định chuyển đến. - Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. 8). Tổ kiểm tra và Kiểm toán nội bộ. -Lập kế hoạch định kỳ hoặc đột xuất về kiểm tra,kiêm toán nội bộ trình giám đốc duyệt và tiến hành kiểm tra,giám sát việc chấp hành các quy trình thực hiên nghiệp vụ,hoạt động kinh doanh và quy chế an toàn trong kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật về hgân hàng và quy định của Ngân hàng Nhà nước,điều lệ tổ chức và hoạt động và các quy định nội bộ của Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam. - Đánh giá mức độ đảm bảo an toàn trong hoạt đọng kinh doanh và kiến nghị các biện pháp nâng cao khả năng an toàn trong kinh doanh của chi nhánh. - Giúp Giám đốc thực hiện công tác kiểm toán nội bộ theo quy chế kiểm toán nội bộ đối với doanh nghiệp Nhà nước do Bộ Tài chính ban hành. - Kiến nghị,bổ sung,chỉnh sửa các văn bản quy định của Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam nếu phát hiện các sơ hở,bất hợp lý,dẫn đến không an toàn cho hoạt động kinh doanh của chi nhánh. - Phối hợp với các đoàn thanh tra,các cơ quan pháp luật,cơ quam kiểm toán trong việc thanh tra,kiểm tra,kiểm toán đối với các hoạt động của chi nhánh. - Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNT Hà Nội . Trong năm 2002 vừa qua,cùng với hệ thống Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam nói chung,Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội tiếp tục có nhiều thành công tích cực,tiếp tục khẳng định vị trí của mình trong quá trình phát huy các nguồn nội lực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.Đây là kết quả được duy trì trong những năm vừa qua,được thực hiện cụ thể trên các mặt nghiệp vụ: Về huy động vốn. Nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế luôn là yêu cầu bức thiết,nhất là đối với địa bàn Hà Nội.Hiện nay,Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội thực hiện huy động vốn bằng VND và các ngoại tệ mạnh thông qua các hình thức như: Tiết kiệm( có kỳ hạn và không kỳ hạn),phát hành kỳ phiếu,trái phiếu,mở tài khoản,... Nguồn vốn được huy đông từ dân cư,các doanh nghiệp,và các pháp nhân khác,... Về ngoại tệ,Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội thực hiện huy động và thu đổi 11 loại ngoại tệ,chủ yếu là các loại ngoai tệ mạnh và các ngoại tệ phục vụ cho nhu cầu xuất nhập khẩu của nền kinh tế. Trong năm 2002 vừa qua,với vị trí và uy tín được tạo dựng trong nhiều năm,Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội đã hoàn thành tốt công tác huy động vốn theo kế hoạch,đóng góp lớn vào thành tích huy động vốn chung của toàn hệ thống Ngân Hàng Ngoại Thương.Kết quả như sau: Tổng nguồn vốn huy động của chi nhánh trong năm 2002 là 4.142 tỷ đồng,tăng 26% so với cùng kỳ 2001. Trong đó : Huy động từ dân cư đạt 3.254 tỷ đồng,tăng 25% và chiếm 79%. Huy động từ các tổ chức kinh tế đạt 846 tỷ đồng,tăng 29% và chiếm 20% trong tổng nguồn vốn huy động. Nhờ vậy,tổng nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh trong năm 2002 là 4.242 tỷ đồng.Trong đó: Vốn điều lệ : 13 tỷ VND Vốn và các quỹ khác: 107 tỷ VND (do tích lũy qua các năm). Vốn huy động : 4.122 tỷ VND Trong đó: - VND : 1.331 tỷ - Ngoại tệ: 182 triệu USD Về công tác sữ dụng vốn. Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội sử dụng vốn theo nguyên tắc: An toàn và Hiệu quả. Ngân Hàng chủ yếu cho vay các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội và một số tỉnh lân cận.Hiện nay Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội cho vay 1 khách hàng tối đa là 80 tỷ đồng,và cho vay trung – dài hạn tối đa một dự án là 35 tỷ đồng. Ngân hàng tập trung cho vay phục vụ xuất nhập khẩu,đầu tư mở rộng sản xuất,xây dựng các nhà máy lớn trên địa bàn Hà Nội,cho vay các dự án phục vụ công nghiệp,giao thông công cộng,y tế,xây dựng cơ bản...Phương thức cho vay của Ngân hàng là khá phong phú,tuy vậy hai phương thức cho vay chủ yếu của Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức tín dụng. Với kết quả sử dụng vốn sinh lời của Chi nhánh trong năm 2002 đạt 99% tổng nguồn vốn huy động,tăng 62% so với năm 2001.Chi nhánh đã chủ động mở rộng hoạt động tín dụng nhằm đáp ứng vốn có hiệu quả cho nền kinh tế và tăng cường nguồn vốn cho Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam,thông qua 2 kênh sử dụng vốn chính là đầu tư tín dụng trực tiếp và điều chuyển vốn nội bộ. Công tác tín dụng của Chi nhánh trong năm 2002 đã thực sự khởi sắc: Doanh số cho vay đạt 3.625 tỷ đồng,tăng 64%.Doanh số thu nợ đạt 3.255 tỷ đồng,tăng 62%,dư nợ tín dụng đạt 985 tỷ đồng,tăng 60% so với năm 2001.Trong đó: - Dư nợ tín dụng ngắn hạn đạt 793 tỷ đồng,tăng 74%.Chi nhánh đã đáp ứng đầy đủ,kịp thời nhu cầu vốn cho các khách hàng,tạo điều kiện cho các doanh nghiệp năm bắt được thời cơ kinh doanh.Đặc biệt,Chi nhánh đã thực hiện cho vay USD để thu mua và làm hàng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi nhằm hỗ trợ hoạt động xuất khẩu của thành phố với doanh số cho vay đạt 4 triệu USD. - Dư nợ tín dụng trung và dài hạn đạt 192 tỷ đồng,tăng 107%.Chi nhánh đã chủ động tìm kiếm các dự án đầu tư có hiệu quả,đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất,phát triển kinh tế xã hội ở Thủ đô. Hiệu quả tín dụng của chi nhánh là rõ rệt,mặc dù mở rộng và tăng nhanh cả về doanh số và số dư cho vay nhưng vẫn đảm bảo an toàn và có chất lượng,dư nợ quá hạn chỉ chiếm 0,6% tổng dư nợ,đặc biệt trong năm 2002 không phát sinh một khoản nợ quá hạn nào. Tổng dư nợ các năm vừa qua: ( đơn vị : Tỷ đồng) Năm 2000 2001 2002 Tổng dư nợ 473 612 985 2.1.3.3. Về công tác thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ. Phát huy thế mạnh và uy tín đã tạo dựng được trên trường quốc tế của toàn hệ thống,Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội đã thực sự trở thành địa chỉ tin cậy cho các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn.Công tác thanh toán quốc tế năm 2002 có chất lượng tốt với tổng doanh số thanh toán XNK cả năm đạt 374 triệu USD,tăng 18 % so với năm 2001 ( Chủ yếu là thông qua L/C,D/P,D/A,TTR).Trong đó doanh số thanh toán nhập khẩu tăng 30%,riêng doanh số thanh toán xuất khẩu bằng 78% so với doanh số thanh toán xuất năm 2001 do khó khăn hoạt động xuất khẩu chung của cả nước. Doanh số thanh toán XNK qua các năm(Đơn vị:tỷ đồng) 2000 2001 2002 NK 210 236 307 XK 83 91 67 Đi đôi với hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu,công tác kinh doanh ngoại tệ cung được chú trọng nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu về ngoại tệ trong thanh toán XNK.Doanh số mua bán ngoại tệ năm 2002 tăng mạnh,đạt 131 triệu USD,tăng 13% so với năm 2001.Chi nhánh đã tự chủ động cân đối các nguồn ngoại tệ để cung ứng cho nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu ding của các doanh nghiệp và khách hàng có quan hệ. 2.1.3.4. Về công tác Kế toán,Thanh toán Ngân hàng. Hiện nay Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội đã tích cực chủ động tham gia cùng với Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam và Ngân Hàng Nhà nước ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại vào công tác thanh toán của ngân hàng đảm bảo thanh toán nhanh,chính xác và tăng nhanh vòng quay sử dụng vốn của các doanh nghiệp qua Ngân hàng. Có thể nói,hiên nay Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam nói chung và Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội nói riêng có công nghệ thanh toán hiện đại nhất trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội là đơn vị đầu tiên trong toàn hệ thống ứng dụng chương trình “Tầm nhìn 2010 – Hệ thống VCB Vision 2010”,đây là dự án của Ngân Hàng Thế Giới do Vietcombank triển khai dựa trên nền tảng công nghệ hiên đại nhất của Mỹ.Các ứng dụng nổi bật của chương trình này là: - Là hệ thống xử lý trực tuyến và các dịch vụ hỗ trợ. Có hệ thống định hướng khách hàng. Giao dịch một cửa Gửi một nơi,rút nhiều nơi( điều này các Ngân hàng khác chưa làm được). Thanh toán tự động. ... Nhờ đó,năm 2002 lượng khách hàng đến mở tài khoản tăng 46% so với năm 2001,số lượng khách hàng có tài khoản đến 31/12/2002 là 31.982,trong đó có 570 đơn vị và 4106 cá nhân mở tài khoản giao dịch tại chi nhánh. Số lượng tài khoản giao dịch qua các năm nhu sau: 2000 2001 2002 16.248 21.215 31.982 Doanh số thanh toán trong hệ thống Ngân Hàng Ngoại Thương đạt 34.509 tỷ đồng,tăng 45%; Thanh toán bù trừ đạt 5.045 tỷ đồng,tăng 16%; Thanh toán qua NHNN đạt 2.294 tỷ đồng,tăng 47% so với năm 2001; Thanh toán liên Ngân hàng áp dụng từ tháng 5-2002 đạt 656 tỷ đồng. 2.1.3.5. Về dịch vụ kiều hối,thẻ và bảo lãnh Ngân Hàng. Với chính sách đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng,công tácdịch vụ Ngân hàng của chi nhánh trong năm 2002 tăng mạnh. Chất lượng thanh toán và trình độ phục vụ ngày càng được nâng cao,công tác thanh toán chi trả kiều hối của Chi nhánh._.XNK nhằm khai thác tối ưu nguồn vốn hiện có. 3.2. Giải pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại NHNT Hà Nội Qua việc nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng XNK của chi nhánh NHNT Hà Nội trong vài năm gần đây, chúng ta thấy rằng bên cạnh những hoạt động đạt được hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng tài trợ XNK nói riêng vẫn tồn tại những vướng mắc cần giải quyết. Căn cứ vào mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, dựa vào phương hướng nhiệm vụ hoạt động trong những năm tới của chi nhánh và từ thực tiễn hoạt động của NHNT Hà Nội, em xin mạnh dạn nêu ra một số giải pháp và đề xuất sau. 3.2.1. Nhóm giải pháp về quản trị điều hành 1/ Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn Định hướng tín dụng XNK của chi nhánh phải phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước và nằm trong chiến lược kinh doanh của Ngân hàng. Điều kiện kiên quyết đảm bảo tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng nguồn vốn. Có huy động vốn được nhiều thì Ngân hàng mới có thể cho vay hoặc đa dạng hoá hoạt động kinh doanh phục vụ khách hàng và ngược lại, việc sử dụng vốn khuyến khích Ngân hàng đẩy mạnh đa dạng các hình thức huy động. Chính vì vậy, chi nhánh phải tiếp tục mở rộng khai thác các nguồn vốn theo các hướng: - Xây dựng đề án phát hành kỳ phiếu ra nước ngoài trên thị trường vốn quốc tế: NHNTHà Nội đã có uy tín trong hệ thống Ngân hàng quốc tế và thị trường trong và ngoài nước. Đây là cơ sở quan trọng nhất để huy động vốn bằng kỳ phiếu và kinh doanh trên thị trường chứng khoán quốc tế. Vấn đề quyết định thành công trong nghiệp vụ này là đội ngũ nhân viên có đủ trình độ kinh nghiệm nghề nghiệp. Trước hết nên phát hành kỳ phiếu trung gian với các Ngân hàng đại lý có uy tín. Mặc dù thực hiện mua mỗi giới hiệu quả chưa cao nhưng nghiệp vụ đảm bảo an toàn và làm tiền đề cho chiến lược kinh doanh lâu dài. Sau khi thâm nhập vào thị trường tiền tệ, lựa chọn và thử nghiệm, Ngân hàng sẽ từng bước thành lập văn phòng đại diện và chi nhánh tại các thị trường này để nhanh chóng hoàn hập với cộng đồng Ngân hàng quốc tế. - Tiếp tục khuyến khích dân cư gửi tiền vào chi nhánh bằng các chính sách tăng lãi xuất tiền gửi cả VNĐ lẫn ngoại tệ, cả ngắn hạn lẫn trung và dài hạn. Đối với khách hàng truyền thống, Ngân hàng nên có các phần thưởng xứng đáng, có chính sách ưu đãi riêng. - Chi nhánh cần sử dụng thế mạnh uy tín của mình để tranh thủ nguồn vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước dành cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các hoạt động kinh doanh XNK.. và thông qua mối quan hệ đối ngoại của hệ thống NHNT, chi nhánh nên đẩy mạnh vốn vay dài hạn ở các tổ chức quốc tế. 2/ Định hướng chiến lược tài trợ Chuyển hướng tài trợ từ cho vay thương vụ có tính chất riêng lẻ thụ đọng sang cho vay theo dự án khép kín chu trình lưu thông hàng hoá từ sản xuất đến tiêu thụ. Việc lựa chọn và thẩm định dự án đầu tư trở thành nhân tố có ý nghĩa quan trọng nhất đối với sự thành công của Ngân hàng. Một dự án mặc dù đá được các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt, nhưng trước khi quyết định cho vay, Ngân hàng cần phải thẩm định xem xét lại: - Tính pháp lý của bộ hồ sơ bao gồm hồ sơ dự án và hồ sơ xây dựng theo điều kiện xây dựng của Nhà nước, hồ sơ mua sắm thiết bị theo quy chế đấu thầu và quy định của bộ thương mại (nếu có thiết bị nhập khẩu), hồ sơ tín dụng theo quy định của Ngân hàng. - Phương án vay và trả nợ của dự án tính toán các nguồn vốn và nguồn tài trợ, dự kiến biến động của các thông số ảnh hưởng đến nguồn trả nợ. - Thẩm định nhóm chi tiêu hiệu quả: thời gian hoàn vốn, hiệu quả ròng (NPV), thể lệ hoàn vốn nội bộ, tỷ suất lợi nhuận... Đối với dự án có giá trị lớn vượt giới hạn tỷ lệ vốn có của doanh nghiệp và Ngân hàng, nên sử dụng hình thức cho vay đồng tài trợ thay bằng việc cho vay doanh nghiệp có dư nợ tại Ngân hàng hiện nay. 3.2.2 Giải pháp về nghiệp vụ tín dụng tài trợ XNK a-Đổi mứoi nhận thức tín dụng trong cơ chế thị trường Thực tiễn tín dụng ngân hàng sau 10 đổi mới là bằng chứng chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Tuy nhiên như nhiều nhà kinh doanh đánh giá, vẫn còn nhiều biểu hiện tư tưởng bao cấp, nhận thức không đúng về tín dụng trong nền kinh tế thị trường. Theo nguyên tắc của thị trường "ngân hàng phải bán những gì thị trường cần chứ không bán những thứ mà ngân hàng có", bởi vậy trước hết là các điều kiện sử dụng vốn quyết định quy mô, tính chất và thời hạn nguồn vốn. Hay nói cách khác, xây dựng thị trường đầu ra ổn định lâu dài là quyết định thắng lợi chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Trong thời gian qua, nhiều thời kỳ ngân hàng đọng vốn hàng tỷ đồng, vốn huy động luân chuyển chậm, vừa gây lãng phí cho nền kinh tế vừa làm mất vốn Việt Nam vì vốn vay phải trả lãi và phí đầu vào. Do đó giải pháp cơ bản trong nghiệp vụ tín dụng là: - Đổi mới cách tiếp cận khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Chỉ có những pháp nhân, thể nhân có quyền tự chủ về kinh tế, tự chủ về tài chính mới có đủ năng lực pháp lý để vay vốn ngân hàng. Những dự án cho vay chỉ định, được chính phủ cho phép ưu đãi về các điều kiện vay như miễn thế chấp tài sản, miễn ký quỹ không căn cứ vào tỷ lệ vốn tự có của ngân hàng và doanh nghiệp cũng phải yêu cầu làm rõ trách nhiệm của cơ quan: + Cơ quan thẩm định dự án + Cơ quan phê duyệt cấp các loại hồ sơ giấy phép + Cơ quan bảo hành + Hội đồng xét và phê duyệt đấu thầu xây dựng và mua sắm thiết bị Kiên quyết không cho vay các dự án không có hiệu quả và khả năng trả nợ kể cả những khoản có sự chỉ đạo, định hướng của các cơ quan chính quyền, địa phương, bộ ngành. b- Nâng cao chất lượng thẩm định dự án XNK Cũng như đối với các loại tín dụng khác, quy trình tín dụng XNK được chia thành 3 giai đoạn theo thời gian và tính chất khoản vay. * Giai đoạn thẩm định trước khi cho vay Đây là giai đoạn khởi đầu và quan trọng nhất thể hiện khả năng tiếp cận dự án và khách hàng của ngân hàng. Đối với những doanh nghiệp truyền thống có quan hệ uy tín được cán bộ tín dụng thường xuyên theo dõi thì chỉ cần tập trung thẩm định phương án kinh doanh của khách hàng. Dù là phương án cho vay vốn lưu động hay cố định thì những nội dung cơ bản cần xem xét là: + Khẳng định thị trường tiêu thụ hàng hoá dịch vụ trong phương án kinh doanh với các yếu tố khu vực thị trường tiêu thụ, giá cả, chất lượng cạnh tranh, quan hệ của doanh nghiệp trên thị trường, các đối tác bán hàng và mua hàng, thu thập thông tin của các ngân hàng và các doanh nghiệp khác, sử dụng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro bằng phương pháp thống kê, so sánh, tổng hợp và đánh giá sản phẩm trong mối quan hệ với chính sách Nhà nước có so sánh trên thị trường quốc tế. + Thẩm định lại toàn bộ số liệu, dữ liệu và các chỉ tiêu của dự án kinh doanh theo hệ thống các phương pháp và công thức có sẵn hoặc nạp dữ liệu cho máy tính theo chương trình được cài đặt sãn. * Giai đoạn phê duyệt và giải ngân Mặc dù hồ sơ vay được cácn bộ tín dụng thẩm định đầy đủ, nhưng khâu xem xét phê duyệt là không thể thiếu. Vì thực tế, không thể có một cán bộ tín dụng lý tưởng lại sự hiểu biết toàn diện được cả nghiệp vụ ngân hàng và kiến thức tổng hợp về thị trường, khoa học kỹ thuật, luật pháp,... nên khả năng đánh giá của họ không thể đầy đủ và hoàn toàn đúng. Kế toán là người kiểm soát cuối cùng trước khi giải ngân kiêm tra và lưu trữ tài sản thế chấp, cầm cố, hợp đồng tín dụng và khê ước vay tiền, trước khi phát tiền vay hoặc chuyển tiền thanh toán và lưu hồ sơ giải ngân như các loại chứng từ có giá. * Giai đoạn kiểm tra sau Đây là giai đoạn kiểm nghiệm tính chính xác, khách quan của phương án kinh doanh đã được ngân hàng thẩm định: + Kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay: về nguyên tắc, vốn vay chỉ được sử dụng đúng mục đích trong phương án kinh doanh. Việc phát triển tiền vay bằng tiền mặt, ngân phiếu, sec, sẽ gây khó khăn cho khả năng kiểm soát của ngân hàng. Giải pháp tốt nhất là giải pháp vốn vay qua tài khoản cho khách hàng vay là bắt buộc đối với doanh nghiệp và khuyến khích cá nhân hộ sản xuất. + Thu hồi và xử lý nợ Đối với nợ quá hạn, số tiền thu nợ từ khách hàng bao gồm trị giá của phần vốn gốc và phần lãi. Nếu hạch toán thu gốc toàn bộ tiền thu thì ngân hàng sẽ giảm được dư nợ quá hạn nhưng không có thu nhập, còn nếu hạch toán thu lãi trước thì sẽ mất vốn. Bởi vậy, theo nguyên tắc bảo toàn vốn thì ngân hàng cần thu gốc trước, đơn vị ngân hàng nào còn có nợ quá hạn thì không có thu nhập. Hiện nay, một số ngân hàng hạch toán thu nợ quá hạn cả gốc và lãi theo tỷ lệ 50/50 là không hợp lý. c- Quản lý tài sản thế chấp cầm cố - Xây dựng hệ thống kho tàng đủ tiêu chuẩn quản lý vật tự, hàng hoá... dùng làm tài sản thế chấp. Hoạt động kinh doanh kho bãi được thực hiện theo các chế độ khoán tài chính của công ty thu mua. Về nguyên tắc, tài sản thế chấp cầm cố cho khoản vay phải là những tài sản được hình thành trước và độc lập với vốn vay. Nhưng nếu ngân hàng có kho bãi đầy đủ điều kiện an toàn, có thể chấp nhận tài sản hình thành từ vốn vay để làm hàng hoá vật tư đảm bảo việc giải chấp trên cơ sở thanh toán của người vay. - Bảo hiểm tài sản, hàng hoá để phòng ngừa rủi ro bất khả kháng như thiên tai, lũ lụt, hoả hoạn,... tài sản do ngân hàng quản lý cần được bảo hiểm. Ngân hàng có thể thực hiện bằng hợp đồng thoả thuận với các tổ chức bảo hiểm trong nước và ngoài nước buộc người vay phải mua bảo hiểm cho hàng hoá thế chấp cầm cố với ngân hàng. - Thành lập các công ty mua bán, khai thác tài sản thế chấp tồn đọng của các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào thực trạng giá trị của tài sản tồn đọng và khả năng của công ty, tổ chức tín dụng chuyển giao tài sản tồn đọng cho công ty dưới hình thức uỷ thác hoặc trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng theo thoả thuận, giúp tổ chức tín dụng thu hồi vốn và khai thác sử dụng tài sản tồn đọng có hiệu quả. Việc xử lý cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế thủ tục pháp lý: có cơ chế cho phép ngân hàng được để lại tài sản thế chấp cho doanh nghiệp tiếp tục khai thác theo phương án sản xuất kinh doanh mới, giúp doanh nghiệp có nguồn trả nợ; ngân hàng được quyền trực tiếp ký hợp đồng uỷ quyền bán tài sản với trung tâm bán đấu giá, không qua các trung gian những tài sản thuộc diện xử lý của toà án. d- Quản lý rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK Ngoài những nhân tố rủi ro khách quan và chủ quan trong tín dụng thông thường, tín dụng tài trợ XNK còn chịu ảnh hưởng lớn của hai nhân tố lãi suất và tỷ giá của các đồng tiền giao dịch. Sự biến động thường xuyên của hai nhân tố, nếu tạo thêm thuận lợi cho ngân hàng trong nghiệp vụ tín dụng thì sẽ gây thiệt hại cho khách hàng và ngược lại. Để quản lý rủi ro đối với lãi suất và tỷ giá, các ngân hàng nước ngoài áp dụng các giải pháp nghiệp vụ kinh doanh hối đoái trên thị trường tiền tệ với các công cụ chủ yếu sau: + Hợp đồng mua bán kỳ hạn + Nghiệp vụ SWAP về lãi suất + Hợp đồng quyền chọn về lãi suất và tỷ giá Với các điều kiện về con người và cơ sở vật chất, thông tin và các quan hệ uy tín trên thị trường quốc tế hiện nay. NHNT Hà Nội có thể áp dụng các hình thức kinh doanh này nhằm tăng thu nhập về dịch vụ, đồng thời quản lý được các rủi ro về biến động của thị trường tiền tệ. Để triển khai được các nghiệp vụ này, ngân hàng cần có đủ các điều kiện chủ quan sau: 1. Đề án kinh doanh hiệu quả và các giải pháp bảo đảm an toàn phòng ngừa các rủi ro. 2. Có quy trình phù hợp với các quy chế của ngân hàng Nhà nước và thực tiễn kinh doanh của ngân hàng. Quan trọng nhất là đảm bảo quản lý chặt chẽ phán quyết, trạng thái hối đoái, hệ thống kiểm tra, kiểm soát và thông tin tiếp thị. 3. Có đủ điều kiện về con người và trang bị kỹ thuật và công nghệ ngân hàng e- Đa dạng hoá các hình thức tín dụng tài trợ XNK Hiện nay, NHNT Hà Nội chưa thực hiện tài trợ XNK dưới các hình thức như phát hành thư bảo lãnh với người nước ngoài, bao thanh toán, thuê mua tài chính.... Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam và giới hạn nguồn vốn kinh doanh của mình, NHNT Hà Nội không thể áp dụng ngay được các hình thức này. Song, trong những năm tới, ngân hàng nên cố gắng áp dụng tốt hình thức tín dụng bảo lãnh và tín dụng trả góp. Về tín dụng trả góp: Đối với các doanh nghiệp nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài, thời gian sử dụng khá lâu nên nhu cầu vay vốn trung và dài hạn lớn. Để giúp cho các doanh nghiệp này chi nhánh cấp tín dụng cho họ theo đó các doanh nghiệp này được phép trả dần theo số tiền vay theo định kỳ. Sở hữu không nhất thiết phải cùng vốn trung và dài hạn để cho các doanh nghiệp này vay mà có thể dùng vốn ngắn hạn (nguồn vốn mà chi nhánh có ưu thế nhất) để cho vay vì các doanh nghiệp sẽ trả định kỳ theo thoả thuận với chi nhánh. Về nghiệp vụ bảo lãnh: Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 196 QĐ-NH14 ngày 16/9/1994 về việc "Quy chế và nghiệp vụ bảo lãnh cho các ngân hàng". Quyết định số 196 QĐ-NH14 hướng dẫn thực hiện các loại bảo lãnh dự thầu, bảo đảm thực hiện hợp đồng, bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước, bảo đảm thanh toán, bảo đảm chất lượng sản phẩm theo hợp đồng, đảm bảo hoàn trả vốn vay. Trong những năm vừa qua thực hiện các loại hình bảo lãnh theo quyết định 196, các ngân hàng thương mại đã bảo lãnh cho rất nhiều doanh nghiệp tham gia đấu thầu thực hiện hợp đồng.... giúp cho việc triển khai thực hiện dự án, thu hút vốn và công nghệ cho sự phát triển nền kinh tế đất nước. Bên cạnh những mặt được đó, qua hơn 8 năm thực hiện quy chế bảo lãnh theo quyết định 196 NH - QĐ14 đã bộc lộ một số tồn tại bất hợp lý. Với những kinh nghiệm của các ngân hàng khác trong việc thực hiện nghiệp vụ này và bài học của bản thân mình, NHNT Hà Nội cần phải có nhận thức đúng về hình thức tín dụng bảo lãnh. Đây là hình thức tín dụng có tầm quan trọng trong việc giải quyết vấn đề vốn và đẩy mạnh tốc độ lưu thông hàng hoá, nhưng mặt trái của nó là gây ra hậu quả nghiêm trọng nêu không hiểu đúng bản chất và tính phức tạp của loại hình tín dụng này. Khi nghiên cứu về tư bản ngân hàng, C.Mác đã coi tín dụng bảo lãnh là loại đặc biệt - loại tín dụng chữ ký, mặc dù ngân hàng không xuất tiền vay nhưng lại chịu rủi ro như đối với số tiền vay cùng loại. Thật đáng tiếc là hiện nay vẫn nhiều ngân hàng quan niệm không đúng về bảo lãnh, coi đó chỉ là dịch vụ ngân hàng. Mức chi phí dịch vụ bảo lãnh hiện nay trung bình khoảng 1,2%/năm tưởng rằng đã cao vì ngân hàng không phải bỏ vốn, nhưng xét về mặt giá trị thì mức phí này thấp hơn so với lãi suất tín dụng, trong khi về mức rủi ro cho vay và bảo lãnh là như nhau. Chưa kể ngân hàng phải bỏ ra một tỷ lệ vốn nhất định từ nguồn vốn kinh doanh để trích lập quỹ bảo lãnh nhằm phòng ngừa rủi ro.Một số ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho doanh nghiệp nhập khẩu hàng từ nước ngoài, sau đó lại tiếp tục bảo lãnh cho doanh nghiệp mua hàng trong nước, trong khi việc kiểm soát hàng hoá không thể chặt chẽ vì quá nhiều con nợ từ bán buôn đến bán lẻ chịu. Có khi thư bảo lãnh phát hành đi rồi nhưng bị lãng quên khi đến hạn thanh toán mới hay tài sản mà ngân hàng chịu trách nhiệm trả thay không biết đang nằm ở những đâu.Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại không biết hạch toán trả thay doanh nghiệp, hạch toán ký quỹ bảo lãnh và quỹ rủi ro bảo lãnh vào tài khoản nào. Do đó, khi NHNT Hà Nội áp dụng hình thức bảo lãnh XNK thì cần lưu ý các điều trên và thực hiện quy trình nghiêm ngặt như một khoản cho cho vay cùng loại: + Thẩm định và lập đủ hồ sơ tín dụng + Phân kỳ kế hoạch thu nợ + Kiểm tra quản lý vốn như quy trình tín dụng + Tổ chức hạch toán nội bảng và ngoại bảng đầy đủ. 3.2.3. Chiến lược con người và công nghệ ngân hàng a- Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng Công nghệ ngân hàng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức cạnh tranh của một ngân hàng thương mại, thể hiện: - Tiết kiệm chi phí, đẩy mạnh tốc độ thanh toán và lưu chuyển tiền tệ, tập trung và sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh. Thực hiện kế toán giao dịch tức thời tại quầy, kiểm tra kiểm soát từ xa các nghiệp vụ thị trường liên ngân hàng, quản lý thông tin báo coá thống kê và thông tin phòng ngừa rủi ro, quản lý lưu trữ hồ sơ tín dụng, kế toán ngân hàng. Đảm bảo an toàn hiệu quả nghiệp vụ thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ. Công nghệ tin học của thế giới ngày nay đang mở ra những cơ hội thuận lợi cho ngân hàng ngoại thương Hà Nội trong chiến lược hiện đại hoá ngân hàng. Trong năm tới, ngân hàng cần tập trung thực hiện từng bước chiến lược đó như sau: Thứ nhất: Triển khai mạnh thanh toán trực tiếp với hệ thống SWIFT, đảm bảo luân chuyển vốn, chứng từ nhanh chóng, chính xác và quản lý vốn ngoại tệ tập trung, củng cố hệ thống thanh toán liên hoàn nội bộ qua mạng vi tính, đảm bảo thông tin cập nhật. Thực hiện thí điểm nối mạng với một số doanh nghiệp lớn và dần dần nhân rộng cho mạng lưới khách hàng có điều kiện. Thứ hai: Từng bước hiện đại hoá các phương tiện thanh toán không dùng tiền. Sử dụng thẻ thanh toán của ngân hàng và doanh nghiệp, thẻ rút tiền tự động, đảm bảo cho khách hàng gửi tiền một nơi mà có thể rút tiền bất cứ chi nhánh nào trong cả nước. Thứ ba: Nâng cấp cơ sở hoạt động và các phương tiện làm việc của ngân hàng b- Đào tạo, tuyển chọn cán bộ tín dụng Con người luôn là nhân tố quyết định thành công mọi hoạt động sản xuất xã hội. Chúng ta chuyển đỏi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và bắt đầu sự nghiệp công nghiệp hoá đòi hỏi: "xây dựng đội ngũ cán bộ ngân hàng có phẩm chất tốt, kến thức và năng lực về nghiệp vụ ngân hàng, áp dụng được công nghệ hiện đại và có trình độ ngoại ngữ là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động ngân hàng". Để đạt được yêu cầu đó, NHNT Hà Nội cần tập trung vào chiến lược con người với nội dung cơ bản sau: Thứ nhất: công tác đào tạo và đào tạo lại Một trong những nguyên nhân chất lượng tín dụng toàn ngành thấp là do chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, nhận thức không đầy đủ về quy luật thị trường và sản xuất hàng hoá. Do đó, đây là những mục tiêu để chi nhánh xây dựng các giải pháp trong bộ trong hoạch định chiến lược đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhân viên. Trước hết là công tác quy hoạch cán bộ các cấp, cần phải trang bị lại kiến thức cơ bản theo hai hình thức đào tạo tập trung và đào tạo định hướng, giúp cán bộ, công nhân viên ngân hàng tự học để có đủ trình độ phù hợp với cương vị đã đảm nhận. Cần phá bỏ triệt để tư tưởng cho đi học các đối tượng không nằm trong quy hoạch như sắp xếp nghỉ hưu, sức khoẻ hoặc năng lực không đủ điều kiện làm việc, cán bộ kỷ luật,... Các đối tượng đào tạo theo hướng tập trung, chuyên ngành. Trước hết ưu tiên cho cán bộ tín dụng, kế toán và triển khai chương trình phổ cập tin học. Đào tạo hoặc tuyển dụng tổ chuyên gia tin học có khả năng xây dựng các đề án tin học và lập trình các nghiệp vụ phát sinh của ngân hàng. Khuyến khích học ngoại ngữ đối với cán bộ chuyên môn, học chuyên môn đối với cán bộ chuyên ngữ và cán bộ nghiên cứu khoa học ngoài giờ bằng các hình thức khen thưởng vật chất hoặc nâng mức lương. Thứ hai: Công tác tuyển chọn và sử dụng cán bộ Tuyển chọn và sử dụng cán bộ là những nội dung quan trọng trong tiêu chuẩn hoá và trẻ hoá cán bộ. Khác với những năm đầu thập kỷ 90, càng khác xa với thời kỳ kinh tế bao cấp, hầu hết số người được đào tạo trong trường chưa thể có đủ ngay kiến thức tổng hợp, thậm chí chưa đáp ứng được công việc trong điều kiện hiện đại, chưa nói đến sự phát triển tron tương lai. Việc tuyển chọn cán bộ trẻ thay thế lớp người sắp nghỉ hưu có ý nghĩa quyết định trong tương lai phát triển của ngân hàng. Kinh nghiệm từ các doanh nghiệp nước ngoài cho thấy, hình thức tài trợ cho sinh viên và các cơ sở đào tạo: trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm đào tạo,... đã mang lại kết quả tốt cho Ngân hàng về đội ngũ nhân tài trẻ có năng lực và yêu cầu. Ngân hàng cần thực hiện tốt chế độ thi tuyến để có lớp người mới thực sự về chất. Những năm qua, việc thi tuyển chủ yếu tập trung vào ngoại ngữ cần phải đưa ra các môn thi chuyên ngành khác để lựa chọn cho cán bộ có đủ năng lực toàn diện về chuyên môn và nhận thức xã hội. Có được lớp người mới, số người cũ sẽ tự đào thải nếu không có ý thức vươn lên và thiếu ý thức trong công việc. Làm tốt công tác tuyển chọn cán bộ, chi nhánh sẽ dần khắc phục tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ như hiện nay. Thứ ba: Đối với cán bộ làm tín dụng XNK thì các yêu cầu và tiêu dùng chuẩn về năng lực cao hơn không những kiến thực nghiệp vụ mà cần trang bị cho họ trình độ cơ bản về thương mại, pháp luật, ngoại ngữ... nơi nào chưa có đủ điều kiện về cán bộ thì kiên quyết không cho thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế. 3.2.4. Chính sách khách hàng Khách hàng là nguyên nhân tồn tại và phát triển của NHTM. Nên khách hàng quyết định cơ cấu, quy mô nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân hàng, thể hiện uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường trong và ngoài nước. Để thực hiện tốt chính sách khách hàng, ngân hàng có thể vận dụng các hình thức, biện pháp sau đây: Thứ nhất: Phân loại khách hàng Đánh giá đúng khách hàng trước hết dựa vào quan hệ tín dụng của họ với Ngân hàng. Căn cứ chủ yếu để phân loại khách hàng là năng lực tài chính và kinh doanh. Cần phải phân tích khách quan và đúng đắn các loại nợ quá hạn để phân loại khách hàng, nhưng quan trọng nhất vẫn là việc thực hiện của các chi nhánh ngân hàng cơ sở cho từng đối tượng phù hợp với thực tiễn sinh động. Sử dụng cơ chế lãi suất ưu đãi cho cả đối tượng khách hàng lớn, truyền thống cũng như khách hàng đang gặp khó khăn. Thứ hai: Tổ chức hội nghị khách hàng Đây là hình thức tổ chức hoạt động có hiệu quả cho cả ngân hàng và khách hàng. Thông qua các hội nghị khách hàng, khách hàng có điều kiện tiếp xúc và trao đổi thông tin với nhau, đồng thời tạo cơ hội cho họ và ngân hàng hiểu về khó khăn vướng mắc để có các giải pháp cùng nhau tháo gỡ. Tổ chức một hội nghị khách hàng cũng cần phải coi trọng về khâu chất lượng, trước hết là công tác thẩm định lựa chọn khách hàng, thăm dò và xây dựng nội dung hội nghị để có đề tài trọng tậm, đồng thời tạo được không khí cởi mở để thông qua khách hàng mà đánh giá năng lực, phẩm chất của cán bộ ngân hàng. Một hình thức hội nghị phổ biến hiện nay của các ngân hàng nước ngoài là hội thảo chuyên đề do một ngân hàng chủ trì với sự tham gia của các bạn hàng là ngân hàng và doanh nghiệp với nhiều nội dung phú như: trao đổi kinh nghiệm, tổ chức thảo luận về nghiệp vụ mới và về biện pháp quản lý rủi ro. Thứ ba: Từ tư vấn tiếp thị đến hợp tác kinh doanh. Ngân hàng là người tư vấn có hiệu quả nhất về phương diện tài chính cho dự án kinh doanh của khách hàng. Trong ngoại thương, vai trò tiếp thị của ngân hàng rất quan trọng, giúp khách hàng tìm kiếm thị trường, bạn hàng và sản phẩm mới. Tham gia cấp tín dụng và bảo lãnh tín dụng hàng hoá xuất khẩu. Trong các nước tư bản, từ lâu tư bản ngân hàng đã thâm nhập vào tư bản công nghiệp và thương nghiệp, quản lý khép kín toàn bộ các khâu sản xuất và lưu thông. Sự sát nhập đó tạo nên sức mạnh tổng hợp của tập đoàn về tài chính, kinh doanh và tiêu thụ hàng hoá. 3.3. Kiến nghị 3.3.1 Đối với các cơ quan quản lý vĩ mô Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có một môi trường pháp lý ổn định và đồng bộ, đảm bảo cho các doanh nghiệp kinh doanh bình đẳng trước pháp luật, các quan hệ kinh tế xã hội được điều chỉnh theo định hướng XHCN. Thứ nhất: Hoàn thiện môi trường pháp lý ổn định đồng bộ và nhất quán Trách nhiệm về hành chính và kinh tế cần được quy định rõ ràng đối với các cơ quan, cá nhân ban hành văn bản, ra quyết định như quyết định thành lập doanh nghiệp, cấy giấy phép kinh doanh, thẩm định phê duyệt các dự án đầu tư ký xét duyệt các hồ sơ đề nghị bảo lãnh vay vốn, cấp vốn... Từng bước đưa ra các văn bản quy phạm pháp luật vào thực tiễn sản xuất xã hội bằng việc triển khai nghiệm minh và đồng bộ giữa các cơ quan hành pháp, bắt đầu từ công an, hải quan, biên phòng, thuế vụ. Triệt để ngăn chặn các hoạt động buôn lậu trốn thuế, làm hàng giả gây hậu quả trực tiếp và gián tiếp đến tín dụng ngân hàng. Theo điều 12 NĐ 178 về việc giữ tài sản và giấy tờ của tài sản cầm cố thế chấp có quy định "Nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu... tổ chức tín dụng phải giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản". Thực tế hiện nay, các tổ chức tín dụng chưa nắm rõ được danh mục các tài sản theo quy định phải đăng ký quyền sở hữu và cơ quan chức năng cấp chứng nhận quyền sở hữu đó. Vì vậy, Chính phủ cần ban hành văn bản pháp lý quy định cụ thể về đăng ký quyền sở hữu tài sản. Để đảm bảo tín dụng tài trợ XNK của NHTM có hiệu quả, trước hết chính sách XNK cần được hoàn thiện đồng bộ với chiến lược phát triển và kế hoạch của nền kinh tế quốc dân. Rà soát lại khả năng của các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh XNK và cho phép các doanh nghiệp có hàng XNK ổn định được phép XNK trực tiếp. Bộ thương mại cần quy định trách nhiệm cho các cơ quan cấp giấy phép đối với chất lượng và giá cả hàng hoá nhập khẩu, đặc biệt là thiết bị công nghệ. Thứ hai: Chính sách trợ giá và bảo hiểm XNK Có thể nói, một số hàng xuất khẩu của ta hiện nay chịu thua thiệt nhiều do thiếu vốn và cơ chế chính sách, đặc biệt là mặt hàng nông sản: gạo, cà phê, hạt điều,... Những dự án nhập khẩu thiết bị đòi hỏi phải được đầu tư đồng bộ tránh tình trạng như nhiều dự án do chi nhánh cho vay đều chậm tiến độ thi công, các nguồn đầu vào (nguyên liệu, nhân lực, cán bộ chuyên gia lành nghề) chưa được quy hoạch hợp lý trong khi hạn vay của các khoản tín dụng trong nước đã hết hạn, gây khó khăn cho ngân hàng. Nhằm bảo hiểm và khuyến khích hoá XNK Việt Nam, nhất là đối với hàng nông sản cần nhanh chóng thành lập tổ chức bảo hiểm xuất khẩu với các thành viên chủ yếu từ Chính phủ, các ngân hàng, Bộ Thương mại và các bộ ngành liên quan thực hiện hai chức năng cơ bản sau: + Tư vấn và thông tin tiếp thị cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XNK + Cấp tín dụng người mua và bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam Thứ ba: Nhà nước cần nhanh chóng thực thi các biện pháp xử lý tài sản thế chấp Hiện nay số lượng tài sản thế chấp ở ngân hàng khó lớn, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Theo nghị định 178/1999/NĐ-CP, khi khách hàng không trả được nợ thì tổ chức tín dụng được xử lý tài sản thế chấp thu hồi vốn. Tuy nhiên, hiện nay việc xử lý tài sản thế chấp theo đúng trình tự pháp luật để ngân hàng thu hồi vốn hiện còn rất phức tạp, nên hầu hết việc xử lý tài sản thế chấp đều được thực hiện theo phương thức thoả thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng vay, để khách hàng tự nguyện bán tài sản thế chấp trả nợ ngân hàng... song số lượng này không nhiều. Nhà nước cần thường xuyên giám sát, thanh tra các hoạt động tín dụng của ngân hàng từ khâu đầu cho đến khâu tháo gỡ những vướng mắc trong xử lý tài sản thế chấp. Cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính pháp lý để tạo điều kiện cho tài sản được mua bán chuyển nhượng dễ dàng, góp phần giảm nợ quá hạn của ngân hàng xuống đến mức cho phép tài sản mang tính hình thức thủ tục trong việc vay vốn của ngân hàng. 3.3.2. Đối với NHNT Việt Nam Với tốc độ phát triển kinh tế vượt bậc như hiện nay, mối quan hệ kinh doanh hiện nay, nhất là lĩnh vực tài trợ XNK không ngưng được mở rộng sang các nước, các khu vực mới. Vì vậy, NHNT Hà Nội phải tận dụng mọi cơ hội để tăng cường các mối quan hệ đại lý các ngân hàng nước ngoài. NHNT Việt Nam đã có 35 năm kinh nghiệm phát triển. Với thời gian phát triển như vậy, Ngân hàng đã tạo được quan hệ với 1600 ngân hàng nước ngoài. Vì thế, NHNT Việt Nam cần giúp đỡ NHNT Hà Nội, để chi nhánh tăng cường các mối quan hệ đại lý của mình, hạn chế những khó khăn do vấn đề này gây nên. NHNT Việt Nam cần định kỳ trao đổi kinh nghiệm nghiệp vụ trong toàn hệ thống để đúc rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng công tác, góp phần giữ vững thị phần của ngân hàng ngoại thương trong hoạt động tín dụng tài trợ XNK. 3.3.3. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XNK ở nước ta hiện nay, để nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng cho hoạt động XNK thì bên cạnh những kiến nghị đưa ra đối với cơ quan quản lý vĩ mô, ngân hàng ngoại thương Việt Nam thì nhất thiết phải đưa ra những kiến nghị đối với những doanh nghiệp XNK - một tác nhân quan trọng trong mối quan hệ tín dụng đối với các ngân hàng thương mại. Do trình độ còn non kém trong lĩnh vực ngoại thương của các cán bộ tại doanh nghiệp XNK nên đã tạo những bất lợi cho chính doanh nghiệp và ngân hàng. Để khắc phục nhược điểm này không còn cách nào khác là các khách hàng phải tự nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình như: + Các nhà kinh doanh XNK phải có trình độ về ngoại thương và thanh toán quốc tế. + Đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực, nghiệp vụ chuyên môn cao, trình độ ngoại ngữ tốt để có thể tiếp cận với những phương tiện tín dụng quốc tế hiện đại. + Cử cán bộ di dự các lớp nâng cao trình độ nghiệp vụ do các trường đại học hoặc tổ chức trong và ngoài nước đào tạo. Mời chuyên gia về giảng dạy, tư vấn trong lĩnh vực ngoại thương. + Cần có chế độ thưởng phạt và kích thích tinh thần làm việc của các thành viên trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp XNK cần đẩy mạnh hoạt động Marketing XNK để hạn chế rủi ro dẫn đến mất khả năng thanh toán với ngân hàng. Những diễn biến trên thị trường thế giới phức tạp khó có thể lường trước, hơn nữa cơ sở vật chất kỹ thuật của các doanh nghiệp chưa đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do vậy, có được một chiến lược marketing hiệu quả, hợp lý là cần thiết. Trên cơ sở nắm bắt thông tín, doanh nghiệp sẽ có phương thức, chiến lược thâm nhập vào thị trường XNK, sẽ có những quyết định về sản phẩm, giá cả đúng đắn góp phần mở rộng và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh XNK của mình. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng cho doanh nghiệp XNK sẽ có hiệu quả cao nếu các doanh nghiệp XNK chấp hành tuyệt đối các nguyên tắc điều kiện thoả thuận khi vay vốn ngân hàng. Cụ thể, là phải sử dụng vốn đúng mục đích như cam kết trong đơn xin vay vốn. Những tài sản mà doanh nghiệp đã mang thế chấp cầm cố tại chi nhánh thì không được quyền chuyển nhượng, cầm cố hay bán cho các cá nhân khác khi chưa trả đủ nợ cho Ngân hàng. Nếu doanh nghiệp còn dư nợ thì không được bằng cách này hay cách khác thiếu trung thực để được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng. Kết luận ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6913.doc
Tài liệu liên quan