Báo cáo Thực tập tại Tổng Công ty cổ phần Rượu Bia Nước Giải Khát Hà Nội

MỤC LỤC 1. Giới thiệu chung về Tổng công ty cổ phần Rượu Bia Nước Giải khát Hà Nội Tên giao dịch : Tổng công ty cổ phần Rượu Bia Nước Giải Khát Hà Nội. Tên giao dịch quốc tế : Hà Nội Beer Alcohol and Beverage Joint Stock Company. Tên viết tắt : HABECO. Trụ sở chính : 183 Hoàng Hoa Thám Ba Đình Hà Nội. Email : 1.1. Quá trình hình thành và phát triển Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội được thành lập ngày 6/5/2003 theo Quyết định số 75/QĐ - BCN của Bộ Công nghiệp hoạt động the

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1744 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Thực tập tại Tổng Công ty cổ phần Rượu Bia Nước Giải Khát Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o mô hình công ty mẹ – con, lấy Công ty Bia Hà Nội làm Công ty mẹ là Sau 5 năm hoạt động, Tổng công ty đã phát triển cả về chất lượng lẫn số lượng, trở thành một trong những thương hiệu hàng đầu Việt Nam, khẳng định vị trí xứng đáng trên thị trường, được người tiêu dùng mến mộ. Trong các sản phẩm đồ uống của Tổng công ty, mặt hàng Bia Hà Nội là “số 1”, mang đặc trưng hương vị văn hoá ẩm thực của người Hà Nội thanh lịch, hào hoa. Chỉ sau 5 năm hoạt động, Tổng công ty đã phát triển gấp 3 lần: GTSX công nghiệp từ 774 tỷ đồng lên 2. 454 tỷ đồng; Doanh thu 1.048 tỷ đồng lên 3.339 tỷ đồng; Nộp ngân sách 458 tỷ đồng lên 1.444 tỷ đồng; Từ 5 đơn vị phát triển lên thành 13 đơn vị; Từ phục vụ thị trường trong nước đã xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, CHLB Nga... được khách hàng ưa dùng. Đạt được thành tựu lớn lao đó, chúng ta không quên công lao đóng góp của các thế hệ đi trước đã đặt nền móng cho sự phát triển của Tổng công ty nói chung và Bia Hà Nội nói riêng. Tổng công ty cổ phần Rượu Bia Nước Giải Khát Hà Nội có truyền thống trên 100 năm xây dựng và phát triển với những cột mốc lịch sử như: - Tiền thân của Tổng công ty cổ phần Rượu Bia Nước Giải Khát Hà Nội là nhà máy Bia Hommel, được Pháp xây dựng từ năm 1896. Khi miền Bắc giải phóng, chủ nhà máy đã tháo dỡ máy móc mang đi, cái nào không mang theo được thì phá hỏng. - Đầu năm 1957, Nhà nước ta chủ trương khôi phục lại Nhà máy Bia Hommol và đổi tên thành Nhà máy Bia Hà Nội. Ngày 15/8/1958 mẻ bia Trúc Bạch đầu tiên được sản xuất thành công và tiếp theo đó là bia Hồng Hà, Hà Nội, Hữu Nghị được sản xuất để phục vụ nhân dân. Sự kiện này đánh dấu bước phát triển của ngành công nghiệp đồ uống non trẻ ra đời trên miền Bắc XHCN và ngày 15/8 đã trở thành ngày truyền thống của Bia Hà Nội suốt 50 năm qua. - Năm 1960, công suất nhà máy đạt 15 triệu lít/ năm, năm 1970 là 20 triệu lít/ năm.Năm 1978, ba năm sau khi thống nhất đất nước, nhà máy bia Hà Nội được Cộng hoà dân chủ Đức giúp đỡ cải tạo nhà nấu và năm 1983, nhà nấu liên hợp được đưa vào sử dụng, nâng công suất lên 30 triệu lít/ năm. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( 1986 ), ánh sáng của thời kì đổi mới đã thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trên khắp đất nước, trong đó có Nhà máy Bia Hà Nội. - Năm 1993 : Nhà máy Bia Hà Nội đổi tên thành Công ty Bia Hà Nội và bắt đầu quá trình đầu tư đổi mới thiết bị nâng công suất lên 50 triệu lít/năm. - Năm 2003 : Tổng công ty Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội được thành lập trên cơ sở sắp xếp lại Công ty Bia Hà Nội và các thành viên. - Năm 2004 : Dự án đầu tư chiều sâu đổi mới thiết bị công nghệ, nâng công suất bia Hà Nội lên 100 triệu lít / năm đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng về cả số lượng lẫn chất lượng. Đến nay, Tổng công ty giữ vai trò công ty mẹ với nhiều Công ty con, Công ty liên kết, đơn vị liên doanh , đơn vị phụ thuộc trải từ miền Trung Quảng Bình đế các tỉnh phía Bắc. Sản phẩm của công ty đã và đang đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của thị trường nội địa. Hơn thế nữa, Bia Hà Nội đã xuất khẩu sang CHLB Nga, CHLB Đức, Hà Lan, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản và được bạn bè đánh giá cao. 1.2. Ngành nghề kinh doanh +  Ngành nghề chủ yếu của Tổng công ty gồm: Sản xuất, kinh doanh Bia - Rượu - Nước giải khát và Bao bì; + Xuất nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, thiết bị, phụ tùng, phụ liệu, hoá chất; + Dịch vụ khoa học công nghệ, tư vấn đầu tư, tạo nguồn vốn đầu tư, tổ chức vùng nguyên liệu, kinh doanh bất động sản, các dịch vụ và ngành nghề khác theo luật định. 1.3. Các thành tích đạt được Trong chặng đường hình thành và phát triển, tập thể CBCNV Tổng  Công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội đã được Đảng và Nhà nước trao tặng: - Huân chương Lao động hạng Ba (1960 – 1962) - Huân chương Lao động hạng nhì (1960 – 1962) - Huân chương chiến công hạng Ba (1997) - Huân chương Lao động hạng Nhất (2000) - Huân chương Độc lập hạng Ba (2006) - Chính Phủ tặng cờ luân lưu (1992, 1993, 1996, 1998, 1999, 2000, 2002, 2003) - Bộ công nghiệp tặng cờ thi đua (1998, 1999, 2000, 2002, 2003). Năm 2005, 2006 được nhận Cờ thi đua của chính phủ. - Đảng Bộ Tổng Công ty 14 năm liên tục (1990 – 2003) được Thành ủy và Đảng Bộ Khối Công nghiệp khen tặng cờ thi đua và công nhận Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. - Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam tặng cờ thi đua Công đoàn cơ sở vững mạnh xuất sắc (1999, 2000, 2003 - 2006) và nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ tháng 6/2007. - 5 năm liên tục (1998 – 2002), Đoàn thanh niên Tổng Công ty được Thành đoàn và Trung ương đoàn tặng bằng khen. - 10 năm liên tục (1988 – 1998), đại đội tự vệ liên tục giữ cờ thi đua luân lưu của Quân khu Thủ đô tặng đơn vị tiên tiến xuất sắc, dẫn đầu phong trào dân quân, tự vệ trong toàn quân và Quân khu. - Ngoài ra, Tổng Công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội đón nhận nhiều bằng khen, giấy khen của các ngành, các cấp cho các mặt công tác sản xuất, kinh doanh, xã hội, quốc phòng, đời sống ….. - Tháng 6/2002, hệ thống quản lý chất lượng của Tổng Công ty được tổ chức TUV NORD của CHLB Đức chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO 9001:2000. - Năm 2005, HABECO được chấp nhận áp dụng hệ thống quản lý môi trường đáp ứng các yêu cầu của tiêu chuẩn ISO 14000:2004. - Năm 2006, HABECO xây dựng và áp dụng hiệu quả hệ thống quản lý an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn ISO 22000:2005. - Đạt Cúp Vàng chất lượng Việt Nam năm 2002, 2005. - Topten Thương hiệu mạnh Việt Nam năm 2005. - Cúp Sao Vàng Đất Việt năm 2003, 2005, 2007. - Cúp vàng Thương hiệu nổi tiếng năm 2004 tại Madrid. - Giải thưởng Vàng châu Âu về chất lượng và uy tín thương hiệu năm 2005 tại Bỉ. - Giải thưởng chất lượng quốc tế Châu Á Thái Bình Dương (IAPQA) năm 2006. 2. Sơ đồ tổ chức bộ máy của Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội đc tổ chức và hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con. Bộ máy tổ chức của công ty mẹ ngoài Đại hội đồng cổ đông giữ vai trò là Ban kiểm soát còn có Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, các giám đốc điều hành và các phòng ban giữ các chức năng và nhiệm vụ khác nhau được thể hiện ở sơ đồ dưới đây. Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy của Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội Nguồn: Bản công bố thông tin của HABECO 3. Kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội những năm gần đây 3.1. Tình hình tài chính Từ năm 2000 trở về trước, thị trường tiêu thụ sản phẩm chủ yếu tại Hà Nội và một số tỉnh lân cận ở phía Bắc. Từ năm 2001 đến nay, do có những đổi mới về chính sách và biện pháp bán hàng, sản phẩm của Tổng công ty đã có mặt tại hầu hết các tỉnh thành trong toàn quốc và đã được xuất khẩu sang các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, CHLB Đức…Liên tục 5 năm từ 2001 đến 2005, Tổng công ty luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Nhà nước và Bộ Công nghiệp ( nay là Bộ Công thương ) giao.Hàng năm, giá trị tổng sản lượng bình quân tăng 20,86%, tổng doanh thu tăng 23,29%, nộp ngân sách tăng 20,34% ,lợi nhuận tăng 15,17%, vốn chủ sở hữu năm 2005 so với năm 2001 bình quân tăng 31,97%. Chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao và được người tiêu dùng cũng như bạn bè thế giới mến mộ. Năm 2006, Việt Nam gia nhập WTO, HABECO cũng hoà mình vào làn sóng hội nhập đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ.Năm 2006, Tổng công ty đã triển khởi công xây dựng Nhà máy Bia Hà Nội tại Vĩnh Phúc công suất 100 triệu lít/ năm, và hiện nay đang thực hiện giai đoạn 2 mở rộng lên 200 triệu lít/ năm. Trong những năm vừa qua, phong trào phát huy sáng kiến cải tiến, tiết kiệm trong Tổng công ty không ngừng được đẩy mạnh. Nhiều sáng kiến, cải tiến, khắc phục khó khăn, tiết kiệm vật tư đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần làm lợi hàng tỉ đồng. Đội ngũ công nhân lao động lành nghề, thợ bậc cao tăng, bình quân bậc thợ được nâng lên, sau khi nhận chuyển giao công nghệ, người công nhân sử dụng vận hành thành thạo các máy móc thiết bị tiên tiến hiện đại của thế giới. Tổng công ty đã chọn phương án đầu tư từng bước có trọng điểm vừa để phù hợp với khả năng nguồn vốn, vừa để đảm bảo sản xuất và việc làm cho người lao động. Các công trình đầu tư xong, khi đưa vào sử dụng đều đảm bảo chất lượng, phát huy hiệu quả. Qua đó có thế thấy, quá trình đổi mới để phát triển của Tổng công ty cổ phần Bia – Rượu – Nước Giải Khát Hà Nội đã và đang diễn ra một cách thuận lợi. Có thế nhờ đó mà tốc độ phát triển của Tổng công ty tăng nhanh. Các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận trước thuế, sản lượng sản xuất và các khoản nộp ngân sách tăng đều qua các năm. Dưới đây là các chỉ tiêu kinh tế chính của Tổng công ty cổ phần Bia – Rượu – Nước Giải Khát Hà Nội trong những năm gần đây. Biểu đồ 1: Doanh thu của Tổng công ty HABECO các năm gần đây ( Đơn vị: tỷ đồng ) Nguồn: Báo cáo tài chính HABECO Biểu đồ 2: Lợi nhuận trước thuế của Tổng công ty HABECO những năm gần đây ( Đơn vị: tỷ đồng ) Nguồn: Báo cáo tài chính HABECO Biểu đồ 3: Tình hình nộp ngân sách nhà nước của Tổng công ty HABECO những năm gần đây ( Đơn vị: tỷ đồng ) Nguồn: Báo cái tài chính HABECO Biểu đồ 4: Sản lượng sản xuất của Tổng công ty HABECO những năm gần đây ( Đơn vị: triệu lít ) Nguồn: Báo cáo thường niên của Tổng công ty HABECO 3.2. Tình hình nhân sự của Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội là một công ty lớn, không ngừng mở rộng về quy mô. Những năm gần đây Tổng công ty lien tục sát nhập với những công ty nhỏ để tăng khả năng cạnh tranh cũng như chiếm lĩnh thêm thị phần tiêu thụ sản phẩm,vì vậy mà tình hình nhân sự của Tổng công ty tăng liên tục trong những năm gần đây, từ năm 2004 đến 2007, số lượng lao động của Tổng công ty đã tăng gần gấp 2 lần, giải quyết việc làm cho 3673 lao động. Biểu đồ 5: Số lượng cán bộ công nhân viên của Tổng công ty HABECO những năm gần đây ( Đơn vị: người ) Nguồn: Kế hoạch cổ phần hóa HABECO Thực hiện đúng theo nguyên tắc dân chủ, công khai trong doanh nghiệp, Tổng công ty luôn thực hiện đúng theo các chính sách về tiền lương của nhà nước áp dụng cho công ty cổ phần. Mức lương bình quân của cán bộ công nhân viên chức của toàn công ty luôn ở mức khá cao. Với mức tăng trưởng bình quân khoảng 20% mỗi năm, mức lương của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty cũng tăng bình quân khoảng 10%/ năm. Mức sống của nhân viên công ty dần dần ổn định và ngày càng nâng cao theo các năm. Bảng 1: Mức lương bình quân của cán bộ công nhân viên HABECO những năm gần đây 2004 2005 2006 2007 Cán bộ cấp cao 4,1 4,7 5,5 6,3 Nhân viên văn phòng 2,9 3,3 3,7 4,0 Công nhân 1,5 1,8 1,9 2,4 Nguồn: Báo cáo thường niên của Tổng công ty HABECO Như vậy có thể thấy từ một nhà máy nhỏ thời Pháp thuộc, giờ đây HABECO đã trở thành một trong những tổng công ty lớn ở Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất bia rượu nước giải khát, không những tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn công nhân viên mà hàng năm còn góp phần nâng cao ngân sách nhà nước, nâng cao thu nhập quốc dân… 4. Đánh giá những kết quả, những hạn chế trong hoạt động của Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội trong năm 2008 vừa qua, triển khai kế hoạch 2009 và định hướng hoạt động của doanh nghiệp đến năm 2010. 4.1. Đánh giá kết quả, những hạn chế trong hoạt động của Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội trong năm 2008 và triển khai kế hoạch năm 2009. Ngày 13/1/2009, Tổng công ty đã tổ chức hội nghị tổng kết công tác năm 2008 và triển khai kế hoạch công tác năm 2009. Ông Nguyễn Văn Việt Tổng giám đốc Tổng công ty đã trình bày báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch công tác kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2008 và triển khai phương hướng sản xuất kinh doanh năm 2009. Trong đó nêu rõ: Năm 2008 là năm đặc biệt khó khăn đối với các doanh nghiệp nói chung và với Habeco nói riêng. Tình hình kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp. Giá dầu thô, lương thực và nhiều loại nguyên vật liệu, vật tư liên tục thay đổi ở mức cao gây áp lực cho sản xuất, làm tăng giá thành sản xuất cũng như giá cả nhiều loại hàng hoá tiêu dùng. Tổng Công ty đã phải chịu ảnh hưởng từ áp lực của việc chi phí đầu vào, giá cả các loại hàng hoá, vật tư nguyên liệu phục vụ cho sản xuất tăng rất cao, tăng trung bình từ 30 – 50% thậm chí có mặt hàng tăng gấp 5 lần so với cùng kỳ (đặc biệt là trong 3 quý đầu của năm), làm tăng giá thành sản xuất, giảm đáng kể lợi nhuận của Tổng Công ty. Bên cạnh đó, rất nhiều các yếu tố khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoạt động của Tổng Công ty như tỷ giá USD, EUR lên xuống thất thường, lãi suất cho vay ngân hàng tăng cao ở mức kỷ lục, thời tiết trong năm diễn biến phức tạp, rét đậm rét hại kéo dài, mưa lũ thất thường… dẫn đến sức mua trên thị trường giảm rõ rệt. Ngoài ra, tình trạng sản xuất hàng nhái, hàng giả, hàng nhập lậu trốn thuế vẫn được tiêu thụ tràn lan trên thị trường làm ảnh hưởng đến uy tín và thương hiệu của Tổng Công ty. Tình hình cạnh tranh trên thị trường đồ uống Việt nam đang ngày càng khốc liệt sau khi Việt nam chính thức gia nhập WTO. Tất cả những điều đó là những yếu tố gây ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo kịp thời và đồng bộ của Chính phủ, Bộ Công Thương và các Bộ ngành liên quan, Tổng Công ty đã đưa ra nhiều giải pháp như : - Thực hiện tốt công tác tiết kiệm, chống lãng phí. - Nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng phát triển thêm thị trường mới. - Đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án để đưa vào khai thác có hiệu quả. Chính vì vậy hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm 2008 của toàn Tổng Công ty đạt được kết quả tương đối khả quan, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt so với kế hoạch và đạt mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước. Bia chai và bia lon tăng trưởng mạnh so cùng kỳ ( bia chai đạt 195.8 triệu lít tăng 31.76% so với cùng kỳ, bia lon đạt 25.9 triệu lít, tăng 28.45% so với cùng kỳ). Bia hơi chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ thời tiết nên gặp nhiều khó khăn, sản lượng bia hơi toàn Tổng Công ty chỉ đạt 81,4% kế hoạch năm và 81,8% so với cùng kỳ. Với những nỗ lực, cố gắng vượt bậc của toàn thể cán bộ CNV trong tổ hợp Công ty mẹ – Công ty con, toàn Tổng Công ty đã hoàn thành kế hoạch năm 2008 đã đề ra với một số chỉ tiêu chủ yếu sau : + Giá trị SXCN : 2.799,3 tỷ đồng, tăng 11,8% so với cùng kỳ; Trong đó : Công ty mẹ : 1.091,1 tỷ đồng, tăng 8,7% so với cùng kỳ. + Doanh thu CN : 4.162,2 tỷ đồng, tăng 28,4% so với cùng kỳ; Trong đó : Công ty mẹ : 1.822,7 tỷ đồng, và tăng 23,3% so với cùng kỳ. + Sản xuất bia các loại : 370,6 triệu lít, 99,2% so với cùng kỳ ; Trong đó : Công ty mẹ : 139,2 triệu lít, tăng 3,2% so với cùng kỳ. + Sản xuất rượu các loại : 19 triệu lít, đạt 120,2% kế hoạch và tăng 30,1% so với cùng kỳ ; + Tổng lợi nhuận trước thuế : 578,7 tỷ đồng, đạt 121,9% kế hoạch và 97,3% so với cùng kỳ ; Trong đó : Công ty mẹ : 320 tỷ đồng, đạt 120,7% kế hoạch và 93,8% cùng kỳ. + Nộp ngân sách : 2.041,7 tỷ đồng, đạt 112,8% kế hoạch và tăng 35,3% cùng kỳ. Trong đó : Công ty mẹ : 1.150 tỷ đồng, đạt 117,5% kế hoạch và tăng 38,8% cùng kỳ. Các sản phẩm mới của Tổng Công ty như: Hà Nội Beer Premium 330 ml; bia chai Hà Nội xanh cũng đã được người tiêu dùng biết đến và ưa chuộng. Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất tại Công ty mẹ, thì công tác sản xuất bia Hà Nội tại các Công ty con cũng rất được chú trọng. Năm 2008 sản lượng bia Hà Nội sản xuất tại các Công ty tăng đáng kể so với cùng kỳ ; Bia lon đạt xấp xỉ 4 triệu lít, tăng gần gấp 6 lần so với cùng kỳ, bia chai đạt 101,6 triệu lít tăng 61,5% so với cùng kỳ. Tổng Công ty luôn có kế hoạch chỉ đạo, giám sát chặt chẽ các Công ty con trong quá trình sản xuất nhằm đảm bảo các thông số kỹ thuật và đạt chất lượng tốt nhất. Thành lập tổ giám sát, quản lý chất lượng trong sản xuất và trong lưu thông nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những hiện tượng phát sinh. Bên cạnh việc phát triển thị trường tiêu thụ trong nước, Tổng Công ty chú trọng, tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu như Đài Loan, Hàn Quốc, Hà Lan, Anh, Nhật Bản, Thái Lan... với tổng giá trị xuất khẩu trong năm 2008 đạt xấp xỉ 100 nghìn đô la Mỹ, tăng 30% so với cùng kỳ năm trước. Công tác sản xuất và tiêu thụ rượu trong năm 2008 cũng rất tốt, vượt kế hoạch và tăng cao so với cùng kỳ, đặc biệt là nhãn hiệu rượu Vodka. Công tác sản xuất và tiêu thụ rượu trong năm 2008 khá tốt, đạt 19 triệu lít, đạt 120,2% kế hoạch và tăng 30,1% so với cùng kỳ. Năm 2008 là năm đánh dấu một mốc mới của Tổng Công ty cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội trên chặng đường phát triển, đó là việc chuyển đổi tổ chức hoạt động của Tổng Công ty theo mô hình Tổng Công ty cổ phần. Với những thời cơ và thuận lợi mới do những thành tựu đã đạt được trong những năm qua, toàn thể cán bộ công nhân viên trong Tổng Công ty đã và đang tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được trong năm 2008, phấn đấu hoàn thành vượt mức, toàn diện các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh trong năm 2009 đặt ra đó là: + Giá trị SXCN : 3.370,9 tỷ đồng, tăng 20,4% so với CK. + Doanh thu CN: 5.261,8 tỷ đồng, tăng 26,4% so với CK + Sản phẩm chủ yếu: * Bia các loại: 433,9 triệu lít, tăng 17% so với CK * Rượu các loại: 18 triệu lít, bằng 100% so với CK * Cồn toàn bộ: 6,5 triệu lít, bằng 100% so với CK + Tổng lợi nhuận TT: 585,3 tỷ đồng, tăng 1,15% so với CK +Nộp ngân sách : 2.352,2 tỷ đồng, tăng 15,2% so với CK 4.2. Định hướng hoạt động của Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội năm 2010. Lãnh đạo tổng công ty luôn xác định: Thị trường Việt Nam ( trong đó có Hà Nội ) sản xuất bia vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong đồ uống có cồn ( khoảng 89% giá trị và 97% sản lượng ) Dự kiến năm 2010 sẽ là 2,5 tỉ lít. Với 400 cơ sở sản xuất bia trong cả nước thì chỉ có 5 nhà máy có công suất trên 100 triệu lít/ năm, trong đó có bia Hà Nội là đơn vị sản xuất hàng đầu tại Hà Nội và các tỉnh phía Bắc. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2010, toàn Tổng công ty đạt tốc độ tăng trưởng 18%/năm; Sản lượng bia 900 triệu lít bia/năm, trong đó Công ty mẹ là 300 triệu lít/năm (hiện nay mới 100 triệu lít/năm); Giá trị SXCN khoảng 1.900 tỷ đồng; Doanh thu 3.900 tỷ đồng; Nộp ngân sách 1.500 tỷ đồng; Thu nhập bình quân đầu người đạt 7,5 triệu đồng/\người/tháng. Vì vậy, lãnh đạo HABECO cùng tập thể 800 CBCNVC toàn Tổng công ty quyết tâm phấn đấu đạt được mục tiêu đã đề ra. Trước mắt, HABECO đã đầu tư xây dựng Nhà máy Bia Vĩnh Phúc công suất 200 triệu lít/năm, tổng mức đầu tư 2.100 tỷ đồng, đã hoàn thành giai đoạn 1, dự kiến đầu năm 2009 sẽ hoàn thành giai đoạn 2 để đi vào sản xuất. Với phương châm lấy Bia Hà Nội làm chủ lực và với uy tín thương hiệu đã có bề dày 50 năm, HABECO chủ trương phát triển sản phẩm bia theo hình thức đầu tư vào các công ty con như: Công ty Bia Hà Nội – Quảng Bình công suất 25 triệu lít/năm; Công ty Bia Hà Nội – Hải Dương công suất 50 triệu lít/năm. Ngoài ra, HABECO mạnh dạn đầu tư vào các công ty sản xuất bia ở các tỉnh với hình thức liên kết nhằm đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng thị trường như: Dự án Bia Hà Nội – Vũng Tầu (50 triệu lít); Dự án Bia Hà Nội – Quảng Trị (50 triệu lít); Dự  án Bia Hà Nội – Hải Phòng (50 triệu lít); Dự án Bia Hà Nội – Hồng Hà (30 triệu lít)... 5. Đánh giá chung những cơ hội và thách thức đối với ngành đồ uống Việt Nam nói chung và Tổng công ty HABECO nói riêng trong thời kì hội nhập Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Đây là một thắng lợi hết sức của cả dân tộc. Điều đó có nghĩa nền kinh tế Việt Nam đã chính thức bước vào sân chơi chung với các nước. Cũng như tất cả các doanh nghiệp, các công ty khác, Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội cũng đã bắt đầu những bước hội nhạp đầu tiên với nhiều cơ hội hấp dẫn nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn để tiếp tục tồn tại và phát triển. 5.1. Cơ hội Cánh cửa WTO rộng mở mang lại cho chúng ta một thị trường tiêu thụ sản phẩm đồ uống khổng lồ với dân số của 150 quốc gia trên thế giới. Không còn bị trói chặt bởi các “quota” như trước đây, các sản phẩm của chúng ta có thể dễ dàng có “visa” để có thể thâm nhập vào thị trường của mọi châu lục. Đồng thời đây cũng là sân chơi để công ty có thể sản xuất, gia công các sản phẩm đồ uống như bia, rượu, nước giải khát, nước tinh lọc…. với chất lượng ổn định và giá cả cạnh tranh, nếu như biết ứng dụng lợi thế nguồn nhân công và nguyên liệu trong nước cũng như ứng dụng các tiến bộ của khoa học kĩ thuật. Như trên đã nói, tốc độ tăng trưởng bình quân của toàn công ty đã có những bước phát triển rõ rệt, vì vậy có thể nói hội nhập là động lực tiếp tục thúc đẩy tốc độ phát triển này nên một tầm cao mới. Nhờ công tác qui hoạch phát triển ngành được thực hiện tốt, nên Việt Nam đã hạn chế được tình trạng đầu tư tràn lan, kém hiệu quả đối với lĩnh vực sản xuất bia. Đẻ chuẩn bị cho hội nhập, các doanh nghiệp nhà nước sản xuất bia đã tích cực triển khai công tác sắp xếp đổi mới, thực hiện cổ phần hóa, nâng cao công suất và đầu tư cơ sở sản xuất mới. Hiện nay các nhà máy bia có công suất trên 100 triệu lít/ năm đã và đang được đầu tư mới hoặc đổi mới các công nghệ tiên tiến đi kèm với thiết bị hệ thống hiện đại có mức độ tự động hóa cao, được nhập khẩu từ những hang chế tạo có uy tín của CHLB Đức, Mỹ, Ý, Đan Mạch…. Tổng công ty HABECO là một doanh nghiệp sản xuất bia qui mô lớn và là doanh nghiệp đi tiên phong trong các hoạt động đổi mới và phát triển này. Sản phẩm của công ty đã đáp ứng được nhu cầu của đa số các tầng lớp tiêu dùng trong nước và bước đầu thâm nhập được một số thị trường khó tính nước ngoài. Có thể khẳng định thị phần này của công ty sẽ không bị tác động nhiều khi hội nhập mà thậm chí có cơ hội mở rộng khi khách nước ngoài vào Việt Nam tăng lên. Malt để lên men sản xuất bia của công ty được nhập khẩu chủ yếu từ Pháp và Úc, gia nhập WTO đồng thời cũng mang lại một mức thuế nhập khẩu nguyên liệu dễ chịu hơn cho các nhà sản xuất trong nước nói chung và cho tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội nói riêng, đặc biệt là đối với thuế nhập khẩu malt, vốn phải nhập khẩu đến 75% để sản xuất phục vụ nhu cầu trong nước. Đây là điều kiện giúp hạ giá thành sản xuất đồ uống sử dụng nguyên liệu ngoại nhập. Ngoài ra hội nhập cũng sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận trực tiếp với các nhà cung ứng nguyên liệu phong phú hơn, có chất lượng đảm bảo, có nguồn gốc rõ ràng hơn để góp phần đa dạng hóa sản phẩm, ổn định sản xuất cho doanh nghiệp. Hội nhập kinh tế quốc tế cùng với việc gia tăng lượng khách du lịch vào Việt Nam cũng ít nhiều sẽ mang theo luồng gió mới về hội nhập văn hóa thế giới, góp phần đẩy mạnh nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm đồ uống ngày càng tăng cao và thay đổi thị hiếu tiêu dùng đồ uống của người dân Việt Nam, giúp ngành đồ uống nói chung và Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội nói chung có cơ hội phát triển thêm nhiều sản phẩm phục vụ trong nước, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. 5.2. Thách thức Song hành cùng những cơ hội phát triển là con đường đầy chông gai với nhiều thách thức lớn cho ngành đồ uống còn non trẻ của Việt Nam nói chung và của Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước Giải Khát nói riêng, từ sông hội nhập ra biển lớn. Thách thức thứ nhất là sự cạnh tranh gay gắt ngay trên sân nhà của đồ uống sản xuất trong nước với hàng ngoại có giá rẻ hơn khi thuế nhập khẩu đồ uống các loại giảm mạnh ( đặc biệt là bia ), sản phẩm đồ uống nhập ngoại ngày càng phong phú đến từ các quốc gia có truyền thống sản xuất đồ uống trên thế giới với nhiều năm kinh nghiệm cùng trình độ công nghệ cao, thiết bị hiện đại. Thách thức thứ 2 là đòi hỏi về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm và sự đa dạng của các chủng loại đối với sản phẩm đồ uống cũng ngày càng tăng cao. Nguyên nhân do sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam với GDP trên 8% năm và sự nở rộ của các kênh cung cấp thông tin, đã góp phần nâng cao trình độ dân trí và mức sống của người dân. Bên cạnh đó, các sản phảm xuất khẩu cũng gặp những khó khăn như phải thỏa mãn các yêu cầu nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm và hàng rào kĩ thuật trong thương mại của các quốc gia nhập khẩu. Thách thức thứ ba là tiêu hao năng lượng, nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm còn cao do trình độ quản lí và công nghệ, thiết bị có nhiều bất cập, trong khi giá năng lượng nguyên vật liệu đầu vào ngày càng có xu hướng tăng cùng với những yêu cầu khắt khe về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường đối với các ngành công nghiệp nói chung và các doanh nghiệp đồ uống nói riêng. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp chế biến đồ uống phải đổi mới cách thức quản lí và công nghệ nhằm tiết kiệm năng lượng, nguyên vật liệu đầu vào, đầu tư cho xử lí chất tải cũng như sản xuất sạch hơn với mục tiêu giảm thấp nhất giá thành sản phẩm. Mặc dù đã có những bước chuẩn bị tích cực, song để đối phó với những thách thức nêu trên Tổng công ty Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội cũng còn nhiều bất cập. Đối với việc sản xuất và tiêu thụ Bia: Mặc dù đã có một chỗ đứng nhất định trên thị trường nội địa, nhưng trình độ Marketing còn chưa cao, mới chỉ xuất khẩu cho một vài nước như CHLB Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản với sản lượng thấp. Bên cạnh đó là trình độ quản lí chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm còn thiếu, công nghệ còn chưa cao. Đối với việc sản xuất và tiêu thụ Rượu: Nhìn chung ngành công nghiệp Rượu của Việt Nam hiện nay vẫn chưa phát triển mạnh.Công ty cổ phần cồn rượu – Công ty con và là đơn vị sản xuất rượu chính cho Tổng công ty cổ phần Rượu Bia Nước Giải Khát Hà Nội, là một trong những công ty có mức tăng trưởng tốt và chiếm thị phần lớn trong nước, tuy nhiên, mẫu mã và chủng loại sản phẩm còn nghèo nàn, chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước. Ngoài Vodka Hà Nội có chất lượng tốt, nhờ được sản xuất theo công nghệ hiện đại, còn lại đa số các sản phẩm rượu khác mới chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng rượu có chất lượng trung bình. Các loại rượu vang cao cấp tiêu thụ trong nước chủ yếu được nhập ngoại ( chiếm đến ¾ thị phần ). Các sản phẩm rượu vang quả nội địa có chất lượng phổ biến từ trung bình trở xuống, chủ yếu phục vụ nhu cầu bình dân và rất khó cạnh tranh được với các loại vang ngoại nhập từ các quốc gia có thế mạnh về sản xuất rượu vang như: Úc, Pháp, Chi lê, Ý…Hiện tại, Việt Nam còn chưa có chính sách phát triển các vùng nguyên liệu cho sản xuất vang có chất lượng cao, chất lượng và sản lượng một số loại quả như dâu, nho,…dùng làm rượu còn thấp, là những yếu tố không nhỏ cho việc sản xuất dòng rượu vang chất lượng cao. Vì vậy, khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế, các sản phẩm rượu ngoại có điều kiện tràn vào chiếm lĩnh thị trường nội địa sẽ gây cho chúng ta rất nhiều khó khăn để có thế tồn tại và phát triển. 5.3. Kiến nghị một số giải pháp Khi hội nhập khu vực và quốc tế, trước mắt là các doanh nghiệp buộc phải bước vào một cuộc cạnh tranh gay gắt ngay trên thị trường nội địa với làn sóng các sản phẩm đồ uống nhập ngoại có thương hiệu mạnh, nhưng thuế nhập khẩu lại giảm mạnh ( ví dụ như mặt hàng bia giảm 20% thuế nhập khẩu ngay từ 01/01/2007 ) Để hạn chế tình trạng thua lỗ cũng như để giữ vững và củng cố vị thế của mình trên thị trường, không những chỉ Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội mà tất cả các doanh nghiệp sản xuất đồ uống của Việt Nam cần phải xây dựng chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh cho riêng mình trong cả giai đoạn ngắn hạn và dài hạn. Mặc dù đã là một công ty lớn, sản phẩm đã có thương hiệu và có chỗ đứng tốt trên thị trường nhưng Tổng công ty cổ phần Bia Rượu Nước Giải Khát Hà Nội cũng cần phải có những chiến lược tập trung vào giải quyết nhanh chóng việc nâng cao tính cạnh tranh của mình có như vậy mới có thể bảo vệ được thị phần hiện đang nắm giữ. Một số giải pháp như: - Đổi mới phương thức quản lí, áp dụng các biện pháp quản lí tiên tiến của thế giới về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm như ISO, HACCP,…đẩy nhanh quảng bá thương hiệu để có thể cạnh tranh được với các đối thủ lớn. - Đổi mới công nghệ và thiết bị theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu, tiết kiệm năng lượng và bảo về môi trường. - Phát triển các vùng nguyên liệu sạch trong nước cho sản xuất. Ngành chế biến nước giải khát và rượu vang sẽ tồn tại và lớn mạnh nếu giải quyết được vấn đề vùng nguyên liệu cung cấp cho sản xuất quy mô công nghiệp đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. - Đầu tư hơn nữa cho công tác đào tạo nguồn nhân lực ( bao gồm cả lực lượng quản lí cũng như đội ngũ công nhân viên lành nghề ), công tác nghiên cứu và làm chủ công nghệ mới hiện đại. Nhìn lại tròn nửa thế kỷ qua, HABECO đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, thuận lợi cũng nhiều và khó khăn cũng không ít. Nhờ có sự chỉ đạo thường xuyên của Bộ Công nghiệp, sự giúp đỡ của các ban ngành và địa phương, sự nhạy bén nắm bắt kịp thời của lãnh đạo HABECO các thời kỳ cộng với sự đoàn kết cao của tập thể CBCNVC là những yếu tố cơ bản HABECO phát triển vượt bậc và bền vững như ngày hôm nay. Một ghi nhận đáng trân trọng từ người tiêu dùng là HABECO liên tục được bình chọn vào “Top 100” doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam. Những thành tựu đạt được và những kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn sẽ giúp HABECO vững bước đi lên trong những năm tới, góp phần phát triển ngành công nghiệp đồ uống Việt Nam, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22916.doc
Tài liệu liên quan