PHẦN I:GIỚI THIỆU VỀ SỞ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ TỈNH HÀ TĨNH
1. GIỚI THIỆU SƠ BỘ VỀ TỈNH HÀ TĨNH
Hà Tĩnh là tỉnh nằm ở vùng Bắc Trung Bộ, mảnh đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống cách mạng và văn hóa, với diện tích 6.019 Km2, dân số gần 1,3 triệu người. Phía Bắc giáp tỉnh Nghệ An; phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình; phía Đông giáp biển Đông với 137 km bờ biển, 18.000 km2 mặt biển và nhiều bãi biển đẹp như Thiên Cầm, Xuân Thành. Phía Tây giáp nước CHDCND Lào với 145km đường biên giới.
Hà Tĩnh c
50 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Thực tập tại Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó đường Quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh và đường sắt Bắc Nam chạy qua; Có đường Quốc lộ 8A, đường 12A theo trục hành lang Đông Tây kết nối cảng Vũng Áng với nước Lào và vùng Đông Bắc Thái Lan, MiAnMa qua cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo và Cha Lo. Hà Tĩnh có đồng bằng, có rừng, biển với nhiều nông, lâm, hải sản và động vật quý hiếm. Đặc biệt có nhiều khoáng sản quý, nhất là quặng Sắt (544 triệu tấn), Titan.... Hà Tĩnh là vùng đất học, đất thơ; là quê hương của Đ/c Trần Phú, Đ/c Hà Huy Tập - Tổng bí thư của Đảng, quê hương của cụ Nguyễn Du danh nhân văn hóa thế giới... Con người Hà Tĩnh giàu nhân ái, sống thủy chung, nghĩa tình.
Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh đang tập trung khai thác tiềm năng, lợi thế của đất và người Hà Tĩnh để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu đến năm 2015 trở thành tỉnh có công nghiệp, dịch vụ phát triển, là trung tâm công nghiệp lớn của vùng bắc Trung bộ và của cả nước.
Hà Tĩnh có 3 vùng kinh tế trọng điểm gồm:
- Vùng kinh tế phía Nam với trọng tâm là Khu kinh tế Vũng Áng thuộc huyện Kỳ Anh - Khu kinh tế tổng hợp, đa ngành, đa lĩnh vực, tập trung là Công nghiệp luyện kim, khai thác cảng biển, nhiệt điện...
- Vùng kinh tế phía Tây - Bắc có Khu kinh tế cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo thuộc huyện Hương Sơn là khu kinh tế mở với trọng tâm là thương mại, dịch vụ; gắn với vùng kinh tế đường Hồ Chí Minh, đường 8A và KCN Gia Lách (Nghi Xuân).
- Vùng trung tâm Tỉnh là Khu công nghiệp mỏ sắt Thạch Khê gắn với thành phố Hà Tĩnh.
Hiện nay Tỉnh đang tập trung triển khai những dự án lớn như: xây dựng Trung tâm nhiệt điện Vũng Áng với công suất 4.800MW, Khai thác mỏ sắt Thạch Khê gắn với xây dựng Khu liên hiệp luyện kim Vũng Áng 15 triệu tấn/năm, Dự án xây dựng cảng nươc sâu chuyên dụng Sơn Dương; công trình thủy lợi đa mục tiêu Ngàn Trươi - Cẩm Trang với hồ chứa hơn 800 triệu m3 nước; Xây dựng đô thị thành phố Hà Tĩnh, Đại học Hà Tĩnh và các trường cao đẳng dạy nghề... Hà Tĩnh đang chuyển mình với khí thế và niềm tin mới, mở ra nhiều cơ hội thuận lợi để thu hút các nguồn lực đầu tư.
Trong tiến trình phát triển đi lên của Tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư đã nổ lực, chủ động nắm bắt các thông tin, cơ hội và thách thức để tham mưu cho Tỉnh ủy, HĐND, UBND Tỉnh đề ra các chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp, cơ chế chính sách kịp thời và đúng đắn trong quản lý điều hành kinh tế - xã hội. Sở đã cải tiến lề lối làm việc, áp dụng cơ chế công khai minh bạch, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình với thủ tục hành chính gọn nhẹ, hiệu quả. Tháng 11/2007 Sở đã phối hợp với Cục thuế, Công an Tỉnh xây dựng Đề án “một cửa liên thông” và được UBND Tỉnh quyết định triển khai. Từ khi Đề án đi vào hoạt động đã phát huy hiệu quả, tạo thuận lợi cho nhân dân trong việc cấp Giấy CNĐKKD, cấp mã số thuế và con dấu.
2. CHỨC NĂNG - NHIỆM VỤ CỦA SỞ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
2.1. Chức năng:
Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tĩnh là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kế hoạch và đầu tư bao gồm các lĩnh vực: Tổng hợp về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn tỉnh; đầu tư trong nước, nước ngoài ở địa phương; quản lý nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, đấu thầu, đăng ký kinh doanh trong phạm vi địa phương về các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Sở theo quy định của pháp luật. Thực hiện một số nhiệm vụ, quyền han theo uỷ quyền của UBND tỉnh.
Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tĩnh chịu sự quản lý và điều hành trực tiếp của UBND tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo hướng dẫn và kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn:
2.2.1- Trình UBND tỉnh ban hành các quyết định, chỉ thị về quản lý các lĩnh vực quy hoạch, kế hoạch và đầu tư thuộc phạm vi quản lý của Sở theo quy định của pháp luật, phân cấp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và chịu trách nhiệm về nội dung các văn bản đã trình.
2.2.2- Trình UBND tỉnh quyết định việc phân công, phân cấp quản lý về các lĩnh vực kế hoạch và đầu tư cho UBND cấp huyện và các Sở, Ban, Ngành của tỉnh theo quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các quy định của phân cấp đó.
2.2.3- Tổ chức, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về kế hoạch và đầu tư ở địa phương; trong đó có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của cả nước trên địa bàn tỉnh và những vấn đề có liên quan đến việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng các nguồn lực để phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh.
2.2.4- Về quy hoạch và kế hoạch:
2.2.4.1. Chủ trì tổng hợp và trình UBND tỉnh quy hoạch tổng thể, kế hoạch dài hạn, kế hoạch 5 năm và hàng năm, bố trí kế hoạch vốn đầu tư thuộc ngân sách địa phương; các cân đối chủ yếu về kinh tế- xã hội của tỉnh trong đó có cân đối tích luỹ và tiêu dùng, cân đối vốn đầu tư phát triển, cân đối tài chính.Công bố và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh sau khi đã được phê duyệt.
2.2.4.2. Trình UBND tỉnh chương trình hoạt động thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội theo Nghị quyết HĐND tỉnh và chịu trách nhiệm theo dõi, tổng hợp tình hình thực hiện kế hoạch, tháng, quý, năm để báo cáo UBND tỉnh điều hoà, phối hợp thực hiện các cân đối chủ yếu về kinh tế- xã hội của tỉnh.
2.2.4.3. Chịu trách nhiệm quản lý điều một số lĩnh vực về thực hiện kế hoạch được UBND tỉnh giao.
2.2.4.4. Hướng dẫn các Sở, Ban, Nghành, UBND các huyện, thị xã xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội chung của tỉnh đã được phê duyệt.
2.2.4.5. Thẩm định các quy hoạch, kế hoạch của các Sở, Ban, Ngành và UBND huyện, thị đảm bảo phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh để trình Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt.
2.2.4.6. Phối hợp với Sở Tài chính lập dự toán ngân sách tỉnh và phân bổ ngân sách cho các đơn vị trong tỉnh để trình UBND tỉnh quyết định.
2.3. - Về đầu tư trong nước và nước ngoài:
2.3.1. Trình và chịu trách nhiệm về nội dung các văn bản đã trình trước UBND tỉnh về danh mục các dự án đầu tư trong nước, các dự án thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho từng kỳ kế hoạch và điều chỉnh trong trường hợp cần thiết.
2.3.2. Trình và chịu trách nhiệm về nội dung các văn bản đã trình trước UBND tỉnh về tổng mức vốn đầu tư của tỉnh; về bố trí cơ cấu vốn đầu tư cho từng dự án thuộc ngân sách nhà nước do địa phương quản lý; tổng mức hỗ trợ tín dụng nhà nước hàng năm, vốn góp cổ phần và liên doanh của nhà nước.
2.3.3. Thường trực Ban chỉ đạo các chương trình dự án quốc gia và các chương trình mục tiêu khác. Tổng hợp phương án phân bổ vốn đầu tư và vốn sự nghiệp của các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình mục tiêu khác.
2.3.4. Chủ trì phối hợp với Sở Tài chính và các Sở, Ban, Ngành có liên quan giám sát, kiểm tra, đánh giá hiệu quả đầu tư của các dự án xây dựng cơ bản, các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình dự án khác do tỉnh quan lý.
2.3.5. Thẩm định các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định của UBND tỉnh, cấp giấy phép ưu đãi đầu tư cho các dự án đầu tư vào địa bàn tỉnh theo phân cấp.
2.3.6. Làm đầu mối giúp UBND tỉnh quản lý hoạt động đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật; tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư và cấp phép đầu tư thuộc thẩm quyền.
2.4. - Về quản lý vốn ODA và các nguồn viện trợ phi chính phủ:
2.4.1. Là cơ quan đầu mối vận động thu hút, điều phối quản lý vốn ODA và các nguồn viện trợ phi chính phủ của tỉnh; hướng dẫn các Sở, Ban, Ngành xây dựng danh mục và nội dung các chương trình sử dụng vốn ODA và các nguồn viện trợ phi chính phủ. Tổng hợp các danh mục, các chương trình dự án sử dụng vốn ODA và các nguồn việ trợ phi chính phủ trình UBND tỉnh phê duyệt và báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2.4.2. Chủ trì, theo dõi và đánh giá thực hiện các chương trình dự án ODA và các nguồn viện trợ phi chính phủ; làm đầu mối xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh xử lý những vấn đề vướng mắc giữa Sở Tài chính với Sở Kế hoạch và Đầu tư trong việc bố trí vốn đối ứng; giải ngân thực hiện các dự án ODA và các nguồn viện trợ phi chính phủ có liên quan đến nhiều Sở, Ban, Ngành, cấp huyện và thị xã; định kỳ tổng hợp báo cáo về tình hình và hiệu quả sử dụng vốn ODA và các nguồn viện trợ phi chính phủ.
2.5.- Về quản lý đấu thầu:
2.5.1. Chủ trì, thẩm định và chịu trách nhiệm về nội dung các văn bản trình UBND tỉnh về kế hoạch đấu thầu, kết quả xét thầu các dự án hoặc gói thầu thuộc thẩm quyền quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh. Thành viên xét duyệt các định mức kinh tế, kỹ thuật, quyết toán vốn đầu tư xây dựng.
2.5.2. Hướng dẫn, theo dõi, giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về đấu thầu và tổng hợp tình hình thực hiện các dự án đã được phê duyệt và tình hình thực hiện đấu thầu.
2.6. - Về quản lý các khu công nghiệp, khu kinh tế:
2.6.1. Chủ trì phối hợp với các Sở, Ban, Ngành có liên quan thẩm định và trình UBND tỉnh quy hoạch tổng thể các khu công nghiệp, khu kinh tế trên địa bàn để UBND tỉnh trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
2.6.2. Trình UBND tỉnh quy hoạch phát triển các cụm công nghiệp, cụm kinh tế và các cơ chế quản lý đối với các cụm công nghiệp, cụm kinh tế phù hợp với tình hình phát triển thực tế của địa phương.
2.7. - Về doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh và kinh tế hợp tác xã
2.7.1. Phối hợp với các Sở, Ban, Ngành liên quan về xây dựng, triển khai chương trình, kế hoạch sắp xếp, đổi mới phát triển doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý.
Chủ trì phối hợp với các Sở, Ban, Ngành liên quan trình UBND tỉnh chương trình kế hoạch phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh.
2.7.2. Tham gia thẩm định các đề án thành lập, sắp xếp, tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước; tổng hợp tình hình sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước và tình hình phát triển các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
2.7.3. Tổ chức thực hiện đăng ký kinh doanh cho các đối tượng trên địa bàn tỉnh; hướng dẫn nghiệp vụ đăng ký kinh doanh cho các cơ quan chuyên môn quản lý về kế hoạch đầu tư cấp huyện; phối hợp với các ngành kiểm tra, theo dõi, tổng hợp tình hình và xử lý theo thẩm quyền các vi phạm sau khi đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp tại địa phương; thu thập, lưu trữ và quản lý thông tin về đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
2.7.4. Phối hợp với các Sở, Ban, Ngành tổng hợp các mô hình và cơ chế, chính sách phát triển kinh tế hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình; hướng dẫn theo dõi, tổng hợp và báo cáo UBND tỉnh và Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình phát triển kinh tế hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình trên địa bàn tỉnh.
2.8. - Tổ chức bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác kế hoạch và đầu tư trong tỉnh. Chỉ đạo, hướng đẫn về chuyên môn, nghiệp vụ cho cơ quan chuyên môn của UBND các huyện, các Sở, Ban, Ngành cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về kế hoạch và đầu tư trên địa bàn, theo dõi, kiểm tra việc tổ chức thực hiện.
2.9. - Tổ chức và chỉ đạo công tác nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư theo quy định của pháp luật; tổ chức quản lý và chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công thuộc Sở quản lý.
2.10. - Thanh tra, kiểm tra và xử lý theo thẩm quyền các vi phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luât về lĩnh vực kế hoạch và đầu tư thuộc phạm vi quản lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật.
2.11. - Tổng hợp báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy định đối với UBND tỉnh và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2.12. - Trình UBND tỉnh chương trình, biện pháp cải cách hành chính của đơn vị theo yêu cầu nhiệm vụ được giao.
2.13. - Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật và phân cấp của UBND tỉnh; tổ chức đào tạo và bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức, nhà nước thuộc thẩm quyền quản lý và phát triển nguồn nhân lực ngành kế hoạch và đầu tư ở địa phương.
2.14. - Quản lý tài chính, tài sản được giao và thực hiện ngân sách được phân bổ theo quy định của pháp luật và phân cấp của UBND tỉnh.
2.15. - Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Chủ tịch UBND tỉnh giao.
3. LỊCH SỬ VÀ TRUYỀN THỐNG PHÁT TRIỂN SỞ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ HÀ TĨNH
Công tác kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội được Đảng và Chính phủ quan tâm từ những ngày đầu Cách mạng thành công. Trong không khí hào hùng sôi sục khí thế Cách mạng, ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh độc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước Công - Nông đầu tiên ở Đông Nam á. Ngày 31/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ký sắc lệnh số 78/ SL thành lập Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết quốc gia về các ngành kinh tế, tài chính, xã hội và văn hoá. Uỷ ban gồm các uỷ viên và tất cả các Bộ trưởng, Thứ trưởng và các Tiểu ban chuyên môn đặt dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Chính phủ.
Ngày 14/5/1950 Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ký sắc lệnh số 68/SL thành lập Ban kinh tế Chính phủ (thay cho Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết). Ban kinh tế Chính phủ có nhiệm vụ nghiên cứu soạn thảo và trình Chính phủ những đề án về chính sách, chương trình, kế hoạch kinh tế và những vấn đề quan trọng khác.
Cuộc kháng chiến chống thực dân pháp thắng lợi bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ năm 1954 Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Miền Nam tạm thời bị chia cắt nằm dưới sự kiểm soát của Mỹ Nguỵ. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước vào một thời kỳ mới là xây dựng cơ sở vật chất của Chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và tiếp tục đấu tranh giải phóng Miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Để đáp ứng nhiệm vụ chiến lược kinh tế lâu dài, ngày 8/10/1955 Hội đồng chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà họp quyết định thành lập Uỷ ban Kế hoạch quốc gia thay cho Ban Kinh tế Chính phủ). Ngày 14/10/1955 Thủ tướng Chính phủ ra Thông tư số 603/TTg quyết định thành lập Uỷ ban kế hoạch quốc gia.
Thông tư nêu rõ “Trong chế độ kinh tế dân chủ nhân dân của chúng ta ở Miền Bắc việc khôi phục và phát triển kinh tế - văn hoá phải được dần dần kế hoạch hoá. Uỷ ban kế hoạch Quốc gia sẽ thực hiện từng bước công việc kế hoạch hoá đó”.
Từ đó hệ thống kế hoạch từ Trung ương đến địa phương được thành lập bao gồm Uỷ ban kế hoạch Quốc gia, các bộ phận kế hoạch của các bộ và cơ quan ngang bộ ở Trung ương và Ban kế hoạch khu, tỉnh, huyện và tương đương nằm trong Uỷ ban hành chính địa phương các cấp là xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế văn hoá, đồng thời tiến hành công tác thống kê, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch hàng năm.
Ban kế hoạch tỉnh Hà Tĩnh lúc này, bộ máy được biên chế 07 cán bộ nhân viên lập thành một bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ nằm trong Uỷ ban hành chính tỉnh do đồng chí Chủ tịch tỉnh trực tiếp phụ trách. Nhiệm vụ của Ban kinh tế kế hoạch tỉnh lúc bấy giờ chủ yếu cùng với các ban, ngành và các huyện, thị xã tổng hợp kế hoạch hàng năm, chuẩn bị tài liệu, số liệu kinh tế, xã hội cho các kỳ họp Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh và HĐND tỉnh. Đồng thời giúp Uỷ ban hành chính tỉnh giải quyết những công việc hàng này như chỉ đạo thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội.
Ngày 09/10/1961, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 159/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy Uỷ ban kế hoạch Nhà nước. Đây là Nghị định mang tính pháp quy của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà quy định rõ nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan Kế hoạch Trung ương cho đến địa phương.
Nghị định nêu rõ “Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước là cơ quan của Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm xây dựng kế hoạch hàng năm, 5 năm và kế hoạch dài hạn về phát triển kinh tế, văn hoá quốc dân theo đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ. Uỷ ban kế hoạch Nhà nước có trách nhiệm quản lý công tác xây dựng cơ bản đúng theo đường lối chính sách của Đảng. Nhằm rút ngắn thời gian xây dựng đảm bảo chất lượng công trình và giá thành hợp lý”. Cùng với thời gian qua các thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Chính phủ đã có hàng loạt các Nghị định quy định, bổ sung chức năng, nhiệm vụ cho Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước như số 47/CP; số 209/CP...
Nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước từ Trung ương đến địa phương lúc đó là:
1. Xây dựng kế hoạch hàng năm và dài hạn về phát triển nền kinh tế quốc dân.
2. Kiểm tra việc chấp hành thực hiện kế hoạch của các cơ quan Nhà nước, rút ra những nhận xét, kiến nghị lên cấp trên.
3. Ban hành phương pháp xây dựng kế hoạch, trình tự lập kế hoạch, hệ thống biểu mẫu và chỉ tiêu kế hoạch hàng năm, phê chuẩn ban hành những thể lệ quy tắc có liên quan đến công tác kế hoạch và công tác xây dựng cơ bản.
4. Các vấn đề hợp tác kinh tế với các nước XHCN anh em, hợp tác kinh tế với các nước khác.
5. Lập kế hoạch động viên trong trường hợp cần thiết của thời chiến.
6. Quản lý công tác XDCB của Nhà nước.
7. Chỉ đạo nghiệp vụ đối với các tổ chức làm công tác kế hoạch, công tác xây dựng cơ bản.
8. Tổng hợp báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch tháng, quý và hàng năm lên cấp trên.
9. Bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác kế hoạch và quản lý XDCB; quản lý tổ chức cán bộ, biên chế lao động tiền lương, tài sản vật tư, tài vụ của Uỷ ban kế hoạch Nhà nước theo chế độ đã được quy định và trong quá trình thực hiện Chính phủ đã có những quyết định bổ sung, sửa đổi bộ máy Kế hoạch Nhà nước để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.Lúc này đội ngũ cán bộ Uỷ ban Kế hoạch tỉnh Hà Tĩnh củng được tăng cường nhiều hơn và tách ra khỏi Uỷ ban hành chính tỉnh, có trụ sở làm việc riêng. Bộ máy thành lập gồm các phòng chuyên môn nghiệp vụ do đồng chí Chủ tịch tỉnh phụ trách và cơ cấu một đồng chí Tỉnh uỷ, uỷ viên Uỷ ban hành chính tỉnh làm Phó chủ nhiệm thường trực.
Bước sang những năm của thập kỷ 70, cơ cấu tổ chức bộ máy có sửa đổi do sự phát triển và trưởng thành của công tác kế hoạch nói chung và kế hoạch tỉnh nói riêng. Tầm quan trọng đó như Bác Hồ thường nói: “ Công tác kế hoạch là cương lĩnh thứ 02 của Đảng”. Trong bộ máy lãnh đạo của Tỉnh cơ cấu 01 đồng chí Phó Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh phụ trách kinh tế trực tiếp làm chủ nghiệm Uỷ ban kế hoạch.
Tuy số lượng cán bộ còn ít, trình độ chuyên môn đào tạo còn hạn chế. Năm 1965 chỉ có 05 đồng chí cán bộ có trình độ Đại học mới ra trường đến năm 1971 tăng 03 đồng chí. Trong điều kiện khó khăn, vất vả của hoàn cảnh thời chiến song các đồng chí đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong những năm chiến tranh ác liệt Uỷ ban kế hoạch tỉnh đã thực sự tham mưu cho Tỉnh uỷ và Uỷ ban hành chính tỉnh xây dựng kế hoạch kinh tế thời chiến phục vụ tốt các kỳ Đại hội Đảng gắn việc phát triển kinh tế - xã hội với công tác an ninh quốc phòng góp phần tích cực vào việc thực hiện 02 nhiệm vụ chiến lược. Ngày 30/4/1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất, non sông thu về một mối. Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế, lúc này nhiệm vụ cấp bách là tổ chức lại nền sản xuất, phân bố lại lao động trong cả nước. Trong điều kiện thực trạng nền kinh tế sản xuất nhỏ, phân tán, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá. Để đạt được mục tiêu trên, Chính phủ chủ trương sáp nhập một số tỉnh có truyền thống về mọi phương diện. Từ đó, tỉnh Nghệ Tĩnh được thành lập trên cơ sở 02 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hợp nhất lại.
Uỷ ban Kế hoạch tỉnh Nghệ Tĩnh ra đời trong điều kiện của một tỉnh đất rộng, người đông, tiềm năng dồi dào nhưng chưa có điều kiện khai thác, xuất phát điểm rất thấp. Với thực trạng trên tập thể cán bộ công nhân viên đã cùng nhau khắc phục những khó khăn, thiếu thốn để hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, đáp ứng yêu cầu của lãnh đạo Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh. Đã từng bước điều chỉnh và sửa đổi cơ chế hành chính bao cấp sang hạch toán kinh doanh. Phát huy dân chủ trong công tác kế hoạch, lấy yêu cầu của cơ sở để xây dựng kế hoạch. Sửa đổi một số khâu trong quản lý kế hoạch, sản xuất công nghiệp, khoán quản mới trong nông nghiệp và kế hoạch hợp đồng hai chiều trong lưu thông, phân phối...Quản lý vật tư, từng bước cải tiến cơ chế tổ chức như thành lập Công ty cấp 3 ở các huyện, thị xã để phát huy quyền tự chủ của cơ sở.
Nhiệm vụ kế hoạch của những năm 80 là tập trung chỉ đạo vào những mũi then chốt như lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Từ kế hoạch sản xuất lưu thông đến kế hoạch của các yếu tố đảm bảo... Sau Đại hội 05 của BCH Trung ương Đảng, vận dụng Nghị quyết Đại hội vào xây dựng các phương án phát triển kinh tế 1981-1985, trong đó có những phương án sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, phương án quy hoạch tổng thể cấp huyện và tỉnh...
Đến năm 1987 là thời kỳ chuyển tiếp từng bước thay thế hệ thống cơ chế quản lý cũ bằng cơ chế quản lý mới. Dần dần xoá bỏ thể chế kế hoạch hoá tập trung hình thành nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng Pháp luật, bằng kế hoạch và bằng các chính sách khác. Tuy rằng mô hình kế hoạch hoá mới “ Kế hoạch hoá hướng dẫn gắn với vận dụng nguyên tắc thị trường” còn chưa được hoàn thiện nhưng đã bắt đầu phát huy được tính đúng đắn trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
Tháng 9 năm 1991, tỉnh Hà Tĩnh được tái thiết lập Uỷ ban Kế hoạch Hà Tĩnh thực hiện nhiệm vụ chính trị trong điều kiện của một tỉnh mới chia tách. Nền kinh tế mất cân đối lớn lại phải đương đầu với nhiều khó khăn, thiếu thốn. Đời sống cán bộ công nhân viên gặp nhiều khó khăn về nơi ăn, chốn ở và làm việc. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh, cùng với sự chỉ đạo của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước. Cơ quan Uỷ ban Kế hoạch tỉnh đã sớm khắc phục khó khăn thiếu thốn, ổn định công tác để tham mưu cho Tỉnh uỷ, HĐND, UBND rà soát lại kế hoạch quý IV của năm 1991, chuẩn bị khẩn trương kế hoạch năm 1992 và nội dung cho Đại hội Tỉnh Đảng bộ khoá 13. Công tác kế hoạch lúc này chủ yếu là dự báo, định hướng và hoạch định các chương trình phát triển kinh tế - xã hội để làm cơ sở xây dựng hệ thống dự án chuẩn bị đầu tư và tham gia xây dựng các chính sách kinh tế - xã hội. Uỷ ban Kế hoạch tỉnh phối hợp với các ngành, các huyện, thị xã tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương xây dựng tốt kế hoạch hàng năm và làm tròn trách nhiệm vai trò Thường trực của Ban chỉ đạo thực hiện Nghị định 388/CP. Ban đổi mới doanh nghiệp, Ban thực hiện chương trình 327, 773 của Chính phủ, thành viên Hội đồng thẩm định dự án chuẩn bị đầu tư, cung cấp số liệu, tài liệư và báo cáo kịp thời các kỳ họp Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh. Phối hợp với Viện chiến lược của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các ngành, huyện, thị xã trong tỉnh khảo sát, đánh giá, hoàn thành báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2000 đến 2010. Tham mưu giúp UBND tỉnh chỉ đạo một số công việc như: Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, tham gia nghiên cứu, rà soát sắp xếp lại hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước trong tỉnh. Phương hướng chủ yếu của Kế hoạch 5 năm 1991-1995 là đổi mới toàn diện hệ thống quản lý, kế hoạch 5 năm 1995- 2000, trọng tâm giải phóng sức dân, mở rộng khoán quản hộ gia đình trong nông nghiệp, sắp xếp nâng cao hiệu quả kinh tế quốc doanh. Khuyến khích phát triển kinh tế Hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân, tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, đô thị, phúc lợi công cộng. Thực tế đã chứng minh đúng đắn công tác kế hoạch hoá trong công cuộc đổi mới và phát triển nền kinh tế nước nhà.
Tháng 11 năm 1994, được Uỷ ban nhân dân tỉnh giao thêm nhiệm vụ Đăng ký kinh doanh và quản lý doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh thuộc Trọng tài kinh tế chuyển sang. Tháng 6 năm 1996 được UBND tỉnh giao thêm nhiệm vụ Kinh tế đối ngoại từ Ban kinh tế đối ngoại tỉnh chuyển về và đổi tên Uỷ ban Kế hoạch tỉnh thành Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh.
Tháng 3 năm 1998, được UBND tỉnh giao thêm nhiệm vụ xây dựng và phát triển thực hiện dự án Phát triển nông thôn tỉnh (IFAD). Tháng 8 năm 2001, được UBND tỉnh giao thêm nhiệm vụ xây dựng và triển khai dự án “ Hạ tầng cơ sở nông thôn dựa vào cộng đồng Hà Tĩnh” (CBRIP), “ Dự án quy hoạch phát triển vùng Hà Tĩnh” (GTZ).
Tháng 8 năm 2003, được UBND tỉnh giao thêm nhiệm vụ xây dựng và triển khai thực hiện dự án “ Xoá đói, giảm nghèo đa mục tiêu huyện Vũ Quang và vùng phụ cận” (MPRP).
Tháng 6 năm 2007, được UBND tỉnh chuyển giao Trung tâm xúc tiến đầu tư tỉnh về trực thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư.
Tháng 11 năm 2007, được UBND tỉnh chuyển giao Ban đổi mới doanh nghiệp trực thuộc Sở Nội vụ về trực thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư. Tóm lại: Quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị từ ngày thành lập cho đến nay, ngành Kế hoạch từ Trung ương đến địa phương được thể hiện qua các thời kỳ như sau:
1. Thời kỳ 1955-1960: Là thời kỳ xây dựng kế hoạch khôi phục kinh tế sau chiến tranh (1955-1957) và kế hoạch cải tạo và phát triển kinh tế Miền Bắc (1958 - 1960).
2. Thời kỳ 1961-1965: Là thời kỳ thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất, nội dung cơ bản là thực hiện công nghiệp hoá ở Miền Bắc, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, xây dựng một số khu công nghiệp nhà máy quy mô lớn, lấy cơ chế quản lý tập trung, bằng những chỉ tiêu pháp lệnh làm công cụ điều hành nền kinh tế.
3. Thời kỳ 1966-1975: Là thời kỳ Kế hoạch thời chiến tuyển quân, hậu cần cung ứng nhân tài, vật lực cho tiền tuyến Miền Nam. Khẩu hiệu “ Miền Nam gọi Miền Bắc sẳn sàng”, lập kế hoạch phục vụ chiến đấu như cầu đường, hầm hố, kho tàng, kế hoạch sơ tán, phân tán các cơ sở kinh tế, trường học, bệnh viện, thiết bị máy móc, khoa học kỷ thuật về nơi an toàn. Trong kế hoạch chú trọng phát triển công nghiệp, địa phương sản xuất hàng tiêu dùng.v.v...Hình thức chủ yếu là kế hoạch ngắn hạn năm, quý và vào những lúc cao điểm của chiến tranh lại phải thực hiện kế hoạch tháng để điều hành sự hoạt động kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông vận tải tuyển quân, hậu cần lương thực, súng đạn,v.v. và kế hoạch tranh thủ viện trợ giúp đỡ của các nước bạn trong phe XHCN lúc bấy giờ, nhằm nghiên cứu, chuẩn bị những dự án khả thi để chiến tranh kết thúc có thể triển khai đầu tư xây dựng.
4. Thời kỳ 1976-1980: Là thời kỳ thực hiện kế hoạch 05 năm lần thứ hai, đó là kế hoạch tái thiết kinh tế sau chiến tranh. Dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, các cơ quan kế hoạch từ Trung ương đến địa phương khẩn trương đánh giá, khảo sát tình hình kinh tế - xã hội đất nước để chuẩn bị những dự án đầu tư phát triển với hai mục tiêu cơ bản là: “Xây dựng đất nước về cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành”, “Cơ cấu kinh tế mới trong cả nước”, “ Cơ cấu công - nông nghiệp” và cải thiện một bước về đời sống vật chất, văn hoá nhân dân.
5. Thời kỳ 1981-1985: Là thời kỳ thực hiện kế hoạch 05 năm lần thứ ba, đó là kế hoạch đáp ứng nhu cầu thiết yếu nhất nhằm ổn định đời sống cho nhân dân. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất ở Miền Bắc; đáp ứng các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội.
6. Thời kỳ 1986-1990: Là thời kỳ thực hiện kế hoạch 05 năm lần thứ tư, nhằm ổn định và cải thiện một bước đời sống của nhân dân, đồng bộ hoá sản xuất và tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng, củng cố quan hệ sản xuất mới XHCN; Sử dụng tốt các thành phần kinh tế, hình thành cơ chế quản lý mới đảm bảo yêu cầu củng cố quốc phòng an ninh chính trị trong tình hình mới, chuyển đổi từ nền kinh tế đơn sang nền kinh tế nhiều thành phần. Chuyển từ nền kinh tế nặng tự cung tự cấp sang nền kinh tế mở cửa với các nước bên ngoài.
7. Thời kỳ 1991-1995: Là thời kỳ là thời kỳ thực hiện kế hoạch 05 năm lần thứ năm, với mục tiêu đề ra là ổn định tình hình kinh tế xã hội, chính trị, sớm thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng và lạm phát. Nhiệm vụ cụ thể là làm ổn định nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhất định. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư chiều sâu hiện đại hoá các cơ sở kinh tế, nhất là sản xuất hàng xuất khẩu. Tiếp tục đổi mới đồng bộ cơ chế quản lý Nhà nước và cơ chế sản xuất kinh doanh, chuyển hoàn toàn sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
8. Thời kỳ 1996-2000: Là thời kỳ thực hiện kế hoạch 05 năm lần thứ sáu, mục tiêu tổng quát của kế hoạch 05 năm lần thứ 6 là khai thác, sử dụng tốt các nguồn lực để đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn; kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết những vấn đề bức xúc về mặt xã hội, chuẩn bị giai đoạn phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ 21.
9. Thời kỳ 2001- 2005: Là thời kỳ thực hiện kế hoạch 05 năm lần thứ bảy, mục tiêu là đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.v.v..
Cùng với sự trưởng thành của ngành Kế hoạch trong toàn quốc, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh Uỷ, HĐND, UBND tỉnh và sự chỉ đạo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghành Kế hoạch Hà Tĩnh đã và đang vươn lên để tham mưu cho tỉnh nhà trên tất cả các lĩnh vực, tạo ra những độ phá mới trong huy động các nguồn lực... nhằm không ngừng phục vụ xuất sắc nhiệm vụ chính trị do Tỉnh uỷ đề ra, phấn đấu đưa tỉnh nhà nỗi bật lên như Bác Hồ đã hằng căn dặn. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tĩnh đã vinh dự được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động hạng nhì cho tập thể và Huân chương lao động hạng ba cho 01 đồng chí. Năm 2006 - 2007: Hai đồng chí của Sở được Thủ Tướng Chính phủ tặng bằng khen; Hai đồng chí được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động hạng ba.
Đảng bộ năm nào cũng đạt Đảng bộ trong sạch vững mạnh, tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên đạt vững mạnh. Phòng kế hoạch các ngành và các huyện, thị xã, thành phố đều đạt cá nhân lao động tiên tiến và tập thể lao động giỏi.
Giờ đây chúng ta có quyền tự hào rằng qua các thời kỳ đội ngũ làm kế hoạch đã phát triển, đã trưởng thành về chất lượng và số lượng, đảm đương tốt nhiệm vụ được giao, hàng trăm cán bộ từ các phòng kế hoạch ở cấp huyện, thị xã, thành phố, của các ngành đã trở thành những cán bộ lãnh đạo chủ trì ở các huyện, thị xã, thành phố và các Sở, Ngành. Có hàng chục cán bộ ở cơ quan kế hoạch cấp tỉnh qua các thời kỳ đã trở thành những đồng chí cán bộ cao cấp giữ những cương vị trọng trách của bộ máy Đảng và chính ._.quyền tỉnh như các đồng chí: Nguyễn Tiến Chương, Trần Quang Đạt, Nguyễn Kỳ Cẩm, Trần Quốc Thại, Lê Thể...Chúng ta xin trân trọng cảm ơn các lớp cán bộ kế hoạch lão thành đã nêu những tấm gương sáng cho các lớp cán bộ kế tiếp học tập nhằm phát huy hơn nữa truyền thống của ngành và làm tròn chức trách nhiệm vụ Đảng và Nhà nước giao phó.
Nhìn lại chặng đường đã qua và nghĩ đến chặng đường sắp tới chúng ta càng thấy trách nhiệm thật nặng nề trong việc tham mưu cho Đảng, chính quyền cấp tỉnh hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Ngành Kế hoạch của chúng ta đang đứng trước những thử thách lớn lao mà chúng ta cần phải phấn đấu để vượt qua, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
4. CƠ CẤU TỔ CHỨC
Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh tham mưu giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực Kế hoạch và Đầu tư bao gồm: Tổng hợp về quy hoạch, kế hoạch phát triển Kinh tế - xã hội, xúc tiến kêu gọi Đầu tư trong và ngoài nước, quản lý nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, tổ chức thẩm định dự án, thẩm định đấu thầu, Đăng ký kinh doanh trên phạm vi toàn tỉnh.
Theo dõi tổng hợp nguồn vốn thuộc các chương trình mục tiêu Quốc gia, đồng thời tổ chức triển khai các dự án được phân công có hiệu quả, tổ chức thanh tra, kiểm tra và các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Sở theo quy định của Pháp luật. Thực hiện một số nhiệm vụ khác do UBND tỉnh giao. Sở Kế hoạch và Đầu tư chịu sự quản lý và điều hành trực tiếp của UBND tỉnh; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản tại kho bạc Nhà nước tỉnh.
4.1. Cơ cấu tổ chức:
Bộ máy của Sở Kế hoạch và Đầu tư gồm Giám đốc và các phó Giám đốc, cơ cấu 8 phòng chuyên môn, nghiệp vụ:
- Văn phòng
- Thanh tra
- Phòng Tổng hợp - Quy hoạch
- Phòng Kế hoạch phát triển Kinh tế ngành
- Phòng Kế hoạch Lao động - Văn xã
- Phòng Quản lý dự án và Đầu tư Xây dựng cơ bản
- Phòng Kinh tế - Đối ngoại
- Phòng Đăng ký Kinh doanh.
Các tổ chức đoàn thể quần chúng: Công đoàn, Đoàn thanh niên, phụ nữ, Hội cựu chiến binh có mối liên hệ chặt chẽ đặt dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của BCH Đảng uỷ. Sự phối hợp giữa BCH Đảng uỷ, Ban Giám đốc là sự phối hợp chặt chẽ về lãnh đạo, chỉ đạo trong mọi hoạt động của Cơ quan.
4.2. Nhiệm vụ và quyền hạn
4.2.1. Sở Kế hoạch và Đầu tư, là cơ quan hành chính, làm việc theo chế độ thủ trưởng; Giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp trước Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh về nhiệm vụ quản lý Nhà nước trong mọi hoạt động của cơ quan, trước Bộ Kế hoạch và Đầu tư về nhiệm vụ chuyên môn trên địa bàn tỉnh.
4.2.2. Giám đốc là người đứng đầu cơ quan về mặt quản lý Nhà nước, lãnh đạo nhiệm vụ chung và trực tiếp phụ trách một số lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ cụ thể: Công tác tổ chức Cán bộ, công tác tổng hợp Kế hoạch - Quy hoạch, công tác thẩm định dự án và đầu tư XDCB, công tác thanh tra, làm chủ tài khoản cơ quan và chịu trách nhiệm triển khai thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan.
Thực hiện một số nhiệm vụ khác do UBND tỉnh giao.
4.2.3. Phó giám đốc là người giúp việc cho Giám đốc chỉ đạo điều hành một số nhiệm vụ do Giám đốc phân công và chịu trách nhiệm trước Giám đốc, trước pháp luật về những lĩnh vực công việc đã được phân công phụ trách:
Kế hoạch phát triển kinh tế ngành, Đăng ký kinh doanh, hợp tác đầu tư với nước ngoài, nguồn vốn viện trợ của các tổ chức quốc tế (ODA, FDI, NGO) kế hoạch phát triển văn hoá - xã hội, giải quyết, việc làm, đào tạo dạy nghề. Tham gia thành viên các uỷ ban không chuyên trách của tỉnh và công tác văn phòng Cơ quan.
Trưởng phòng là người giúp việc cho lãnh đạo sở, quản lý về mặt hành chính Nhà nước đối với phòng chuyên môn, nghiệp vụ đã được phân công phụ trách; chịu trách nhiệm trước lãnh đạo sở về lãnh đạo, chỉ đạo cán bộ công chức, viên chức trong phòng hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao. Lập kế hoạch công tác tháng, quý, năm của phòng và tổ chức thực hiện. Báo cáo kết quả theo định kỳ hoặc đột xuất theo yêu cầu của lãnh đạo Sở.
Phó phòng là người giúp việc cho Trưởng phòng, được Trưởng phòng phân công phụ trách một số nhiệm vụ của phòng sau khi đã được thống nhất với lãnh đạo sở và chịu trách nhiệm trước Trưởng phòng, về những việc đã được phân công phụ trách.
PHẦN II:QUÁ TRÌNH QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
I: CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ THỰC HIỆN ĐẦU TƯ
Tăng cường và thường xuyên phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch với các ngành, huyện, thị xã, với các đoàn thể trong tỉnh. Nhờ đó, Sở Kế hoạch và Đầu tư đã bảo đảm tốt hơn chức năng tổng hợp tham mưu về phát triển kinh tế - xã hội.
Thực hiện quy chế dân chủ trong quản lý điều hành công việc chuyên môn trong cơ quan. Trách nhiệm phân công chức năng nhiệm vụ của các phòng, các đồng chí cán bộ, chuyên viên rõ ràng nên đã từng bước khắc phục được những chồng chéo, giải quyết tốt mối quan hệ trong công tác giữa các phòng. Cơ quan giữ nề nếp giao ban tuần để triển khai Nghị quyết của Tỉnh uỷ và UBND tỉnh.Công tác học tập nghiên cứu đã đi vào nề nếp, các vấn đề vướng mắc về chuyên môn đã được trao đổi bàn bạc đi đến thống nhất, thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Công tác quản lý công chức viên chức thực hiện theo nguyên tắc quản lý của Nhà nước, triển khai thực hiện chế độ chính sách kịp thời, đáp ứng đầy đủ thông tin, vận dụng tốt chính sách của Đảng và Nhà nước vào công tác kế hoạch. Thực hiện tốt đề án giảm biên chế đã được UBND tỉnh duyệt và thực hiện đúng chỉ tiêu biên chế giao năm 2005. Đảm bảo quyền lợi về chế độ, về chính sách cho công chức viên chức trong các ngày lễ tết, ngày nghỉ. Thực hiện tốt quy chế làm việc và quy chế dân chủ của cơ quan.
Thực hiện tốt công tác đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ về mọi mặt cho công chức viên chức : 02 đ/c theo học cử nhân chính trị, 01 đ/c học cử nhân hành chính, 01 đ/c học cao học, 02 đ/c học trung cấp chính trị, nhiều người được tham dự các khoá tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ trong năm.
Về công tác quản lý chi tiêu tài chính: Thực hiện chi tiêu tiết kiệm đúng chế độ, đúng định mức đáp ứng điều kiện làm việc cho cơ quan. Chứng từ, sổ sách kế toán ghi chép đầy đủ, kịp thời, báo cáo đúng thời gian quy định, thực hiện quá trình hạch toán trên máy vi tính. Thực hiện công khai tài chính trong cơ quan.
1. Những tiến bộ và tồn tại của hợat động đầu tư XDCB
1.1. Những tiến bộ:
- Nhiều thủ tục trong đầu tư XDCB đã được cải tiến nhằm tăng cường sự quản lý của nhà nước trong đầu tư và xây dựng, nâng cao hiệu quả đầu tư, chống thất thoát lãng phí trong XDCB.
- Nhà nước đã kịp thời ban hành các văn bản qui phạm pháp luật phù hợp với từng thời kỳ giúp cho việc thực hiện các chính sách trong XDCB được đúng hơn, đầy đủ và triệt để hơn. Cụ thể: trong vòng 04 năm, điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng được thay đổi từ điều lệ ban hành kèm theo Nghị định đến 42/NĐ - Chính phủ ( ban hành ngày 11/7/1996) đến 92/ NĐ-CP (23 / 8/ 1997) và sau đó được chuyển thành Qui chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo nghị định 52/1999/NĐ-CP (18/7/1999) và sửa đổi, bổ sung theo 12/2000/NĐ-CP (19/5/2000).Qui chế đấu thầu được thay đổi từ Qui chế ban hành kèm theo Nghị định 43/NĐ-CP sang 88/1999/NĐ-CP và sửa đổi bổ xung theo 14/2000/NĐ-CP (19/5/2000), hiện đang có dự kiến ban hành Pháp lệnh về đấu thầu. Các bộ ngành ở trung ương cũng đã ban hành các thông tư hướng dẫn, các quyết định nhằm cụ thể hoá các quy định của Chính phủ về thủ tục đầu tư XDCB như: Bộ kế hoạch và đầu tưcó các thông tư 06/1999/TT-BKH ngày 24/11/ 1999 và Thông tư số 11/2000/TT-BKH ngày 11/9/2000 hướng dẫn về nội dung Tổng mức đầu tư; Thông tư 01/2000/TT-BKH ngày 10/1/2000 hướng dẫn về nội dung tổng mức đầu tư; Thông tư 04/2000/TT-BKH ngày 01/9/2000 về hướng dẫn thực hiện Qui chế đấu thầu. Bộ xây dựng, Bộ tài chính, bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ giao t hông vận t ải và các bộ ngành khác cũng ban hành rất nhiều các văn bản hướng dẫn, quy định một số nội dung về thủ tục trong đầu tư XDCB.
- Cải tiến một số thủ tục rườm rà phức tạp, qua nhiều cầu, nhiều cấp gây phiền hà chậm trễ nhưng không mất đi sự kiểm soát chặt chẽ đối với việc thực hiện các quy định đã ban hành, bằng cách quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các đơn vị, cá nhân tham gia quản lý đầu tư và xây dựng 9 ( như : Qui định thời gian bắt buộc cho một số các công việc, bỏ hội đồng thẩm định dự án ở địa phương, qui định rõ Sở kế hoạch và đầu tư cấp tỉnh là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm thẩm định các dự án do tỉnh quản lý, bỏ một số nội dung cần thẩm định như: Tổng mức đầu tư, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phương thức huy động vốn đầu tư... đối với các dự án do tư nhân đầu tư,cho phép UBND tỉnh được uỷ quyền quyết định đầu tư cho UBND cấp huyện, thị, Sở kế hoạch và đầu tư đối với các dự án có mức vốn thấp, không quan trọng ) Bổ xụng nội dung giám định đầu tư nhằm tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà nước đối với từng dự án trong quá trình thực hiện đầu tư, kịp thời điều chỉnh các phát sinh trong quá trình thực hiện, tạm ngưng hoặc đình chỉ các dự án đầu tư có hiệu quả thấp, các dự án có những sai phạm t rong quản lý.
- Các ngành đã tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý đầu tư và xây dựng cho các cán bộ quản lý cấp tỉnh.
- Thủ tục đầu tư XDCB ở tỉnh đã có nhiều tiến bộ. Tỉnh đã tuân thủ đúng các qui định của chính phủ và ngành ở trung ương, vân dụng một cách đúng đắn vào hoàn cảnh thực tế của địa phương.
- Đã tổ chức triển khai ngay các văn bản pháp qui mà chính phủ và các bộ, ngành ở trung ương đã ban hành. Chỉ đạo các ngành có liên quan tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ cho các cán bộ tham gia quản lý đầu tư và xây dựng, như: đã chỉ đạo sở kế hoạch và đầu tư phối hợp với sở xây dựng tổ chức lớp tập huấn về đầu tư và xây dựng, Sở xây dựng tổ chức lớp tập huấn về giám sát thi công...
- Cụ thể hoá các qui định của chính phủ và các bộ, ngành ở trung ương. Xây dựng các cơ chế, chính sách riêng phù hợp với các quy định của chính phủ và các bộ, ngành ở trung ương và phù hợp với điều kiện của tỉnh như: Đã ban hành đơn giá XDCB ( theo quyết định 952/QĐ - Uỷ ban nhân dân ), chỉ thị số : 10/CT-UB ngày 10/5/2005 nhằm tăng cường quản lý đầu tư và xây dựng, chỉ thị về ưu tiên sử dụng vật liệu địa phương,...
- Kiểm tra thực tế các địa phương có nhu cầu đầu tư, chỉ đạo các ngành có liên quan hoàn tất các thủ tục để UBND tỉnh ban hành các văn bản về chủ trương đầu tư.
- Quan tâm chỉ đạo các ngành, các huyện thị tập trung giải quyết các vướng mắc, tôn tại về thủ tục của các dự án nhất là các dự án trọng điểm. Đi sát thực tế, trực tiếp giải quyết hoặc chỉ đạo các sở, ban, ngành, huyện, thị, giải quyết kịp thời các đòi hỏi của thực tế.
- Kiểm tra thực tế, giải quyết ngay các phát sinh trong quá trình thi công như: Cho phép các chủ đầu tư lập điều chỉnh, bổ sung hoặc duyệt lại các dự án, chấp thuận các khối lượng phát sinh, thay đổi một số các thiết kế để phù hợp với thực tế...
- Đôn đốc việc hoàn tất các thủ tục thanh quyết toán đối với các dự án đã hoàn thành. Đề ra biện pháp xử lý đối với các dự án chây ì không chịu làm quyết toán.
- Một số ngành cải cách các thủ tục hành chính, công khai các thủ tục, qui đih thời gian bắt buộc đối với các công việc phải hoàn thành, như sở kế hoạch và đâu tư đã tiến hành cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian thực hiện so với qui định của nhà nước ở một số công tác: thẩm định dự án, thẩm định kế hoạch đấu thầu và kết quả đấu thầu, cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, thủ tục để cấp giấy phép đầu tư nước ngoài.
1.2. Tồn tại:
-Các văn bản qui phạm pháp luật thay đổi nhiều, thời gian áp dụng ngắn đã cho công tác quản lý đầu tư va xây dựng không ít khó khăn. Có văn bản, qui định mới ban hành chưa kịp tập huấn ở địa phương đã bị thay đổi. Sự thay đổi trên kéo theo sự thay đổi hàng loạt các văn bản của các ngành có liên quan ở trung ương ( Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ xây dựng, Bộ tài chính, Bộ giao thông vận tải, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn...) Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc phê duyệt lại các dự án đầu tư. Do các qui thay đổi nên nhiều nội dung ( trong đó đặc biệt phải kể đến nội dung tổng mức đầu tư ) của nhiều dự án đã bị thay đổi so với duyệt lần đầu. Có những dự án chưa có vốn thực hiện hoặc thực hiện kéo dài phải phê duyệt lại nhiều lần. Việc thay đổi nhanh như vậy cũng gây tâm lý kém tin tưởng vào sự phù hợp của các quy định đối với công tác quản lý XDCB.
- Có các quy định chưa thực sự phù hợp với thực tế, ví dụ như: Qui chế quản lý đầu tư vã xây dựng qui định Kế hoạch đấu thầu của dự án được thể hiện trong BCNCKT và nội dung quyết định đầu tư, để có kế hoạch đấu thầu thì phải có kế hoạch vốn, nhưng trong phần điều kiện để ghi vốn kế hoạch thì dự án muốn ghi vốn phải có quyết định đầu tư, như vậy vấn để này rơi vào vòng luẩn quẩn.
- Có các qui định của các ngành chưa thông nhất, chưa phù hợp với qui định của chính phủ hoặc của ngành được chính phủ giao, ví dụ; Trong đấu thầu một số gói thầu thuộc dự án trên địa bàn tỉnh ta do Bộ nông nghiệp và PTNT phê duyệt vẫn có giá trần và chào giá trực tiếp, như vậy khác với qui định của qui chế đấu thầu hiện hành.
- các qui định được áp dụng chung cho mọi ngành nhưng nếu ngành nào được giao soạn thảo thì chỉ thiên về ngành đó, áp dụng với các ngành khác chưa phù hợp, gây nhiều khó khăn cho việc lập và kiểm tra các tính toán kình phí. Ví dụ : Định mức dự toán ban hành theo quyết định 1242/1998/QĐ-BXD của bộ xây dựng còn thiếu nhiều định mức công việc thi công áp dụng công nghệ mới hoặc công việc của các ngành XDCB khác như: Thuỷ lợi, giao thông, điện...
- Công tác kiểm tra, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện các quy đinh trong đầu tư và xây dựng của cơ quan trung ương đối với cơ quan địa phương chưa được quan tâm nên một số qui định chưa được phù hợp vẫn không sửa đổi.
- Tỉnh chưa thực sự quan tâm đến vấn đề bồi dưỡng kiến thức về đầu tư và xây dựng cho các cán bộ quản lý, dẫn đến nhiều cán bộ quản lý chưa nắm bắt kịp các qui định mới thay đổi. Nhiều chủ đầu tư và cán bộ quản lý đầu tư và xây dựng có hiểu biết rất hạn chế về nghiệp vụ quản lý dự án, hiểu biết chưa đầy đủ về trình tự, thủ tục trong XDCB.
- Chưa triệt để tuân thủ đúng theo các quy định đã ban hành. Ví dụ : Giao nhiệm vụ thẩm định dự án cho sở khác ngoài Sở kế hoạch đầu tư, trong khi Qui chế Quản lý đầu tư vã xây dựng qui định chức năng thẩm định, trình duyệt các dự án đầu tư thuộc sở kế hoạch và đầu tư, các ngành có liên quan chỉ góp ý kiến. Một ví dụ khác: Trong chỉ thị số 10/CT-UB ngày 10/5/2005 của UBND tỉnh qui định: Các dự án do sở xây dựng chuyên ngành hoặc đơn vị trực thuộc làm chủ đầu tư thì tổng dự toán do Sở xây dựng thẩm định và trỉnh duyệt, nhưng thực tế đến nay chưa có công trình nào thực hiện như vậy.
- Nhiều qui hoạch vùng, qui hoạch ngành không có hoặc đã cũ, không đáp ứng yêu cấu phát triển nên chưa có căn cứ đúng cho việc lựa chọn địa điểm, qui mô, giải pháp kỹ thuật cho các dự án. Một số qui hoạch mới xây dựng chất lượng chưa cao, chưa phù hợp, phải thay đổi trong thời gian ngắn, như qui hoạch thoát nước thành phố Hà Tĩnh, qui hoạch giao thông thị xã Hồng Lĩnh.
- Việc quản lý giá vật liệu xây dựng chưa được thống nhất, chưa phú hợp, thay đổi chưa kịp theo biến động của thị trường, làm cho công tác dự toán, thanh quyết toán chưa sát thực, điều chỉnh nhiều lần. Cụ thể : Hiện tượng cho phép áp dụng giá riêng đối với một số loại vật liệu phổ biến ( như: Đất đắp nền, đá các loại, cát các loại, ) trên cùng một địa bàn còn xẩy ra. Giá các loại vật liệu ( cát, đá, ….) đối với các vùng xa trung tấm huyện, thị nếu tính theo hệ số quy định chưa sát với giá thị trường, nhiều khi có sự cách biệt rất lớn. Giá một số vật tư vật liệu thông báo tại thành phố Hà Tĩnh không sát với giá thị trường.
- Phân công trách nhiệm, quyền hạn trong công tác thanh, quyết toán hiện nay đang có sự trồng chéo giữa hai cơ quan : Kho bạc nhà nước và Sở tài chính Vật giá. Kho bạc Nhà nước thẩm định thanh toán, cấp phát, nhưng khi Sở tài chính quyết toán thì tiến hành thẩm định lại kết quả thẩm định cấp phát của kho bạc, gây phiền hà, mất thời gian cho công tác thanh quyết toán của các chủ đầu tư.
2. Công tác xây dựng và phân bổ kế hoạch:
2.1. Công tác xây dựng và tổng hợp kế hoạch.
Tổ chức tốt công tác xây dựng, tổng hợp kế hoạch từ các Ngành, huyện, thị xã; Cụ thể hoá các chỉ tiêu kế hoạch, trình UBND tỉnh, Thường vụ Tỉnh uỷ để giao kế hoạch năm 2008 cho các đơn vị đúng chỉ đạo về nội dung và thời gian theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Kế hoạch 2005 được tổ chức giao cho các ngành, huyện, thị sớm nhất (ngày 31/01/2005), đảm bảo chất lượng, nội dung và hình thức so với các năm trước, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành, các huyện thị triển khai thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước.
Công tác xây dựng và tổng hợp kế hoạch năm 2006 được triển khai theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đảm bảo đúng quy trình, kế hoạch được xây dựng và tổng hợp từ dưới lên. Trong quá trình xây dựng kế hoạch sở đã tổ chức làm việc, thảo luận với các huyện, ngành để nghe và tìm hiểu tình hình, phát hiện những yêu cầu và vấn đề mới theo yêu cầu và tư tưởng chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh; tích cực khai thác nội lực, phát huy tinh thần chủ động sáng tạo của cơ sở, các ngành các cấp huy động mọi nguồn lực để phát triển KT- XH, tập trung đầu tư phát triển công nghiệp, nông nghiệp và nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng, điều chỉnh cơ cấu đầu tư để thúc đẩy nhanh tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì vậy báo cáo kế hoạch 2003 đã đề cập nhiều vấn đề mới và được tính toán cân đối cùng với những giải pháp chủ yếu để báo cáo Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh, Bộ kế hoạch và đầu tư đảm bảo chất lượng và thời gian quy định.
2.2. Công tác theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch :
Thực hiện chức năng nhiệm vụ Sở kế hoạch và đầu tư đã tổng hợp xây dựng và giúp UBND tỉnh, Tỉnh uỷ chỉ đạo điều hành kế hoạch: Việc theo dõi nắm tình hình triển khai thực hiện kế hoạch đã làm thường xuyên và có chất lượng. Nắm bắt được tình hình và những khó khăn vướng mắc, những yêu cầu của các đơn vị, giúp các đơn vị giải quyết vốn đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; đề xuất được những biện pháp, kiến nghị về công tác quản lý và điều hành, tham mưu để UBND tỉnh chỉ đạo và điều hành kế hoạch. Vì vậy, việc thực hiện kế hoạch 6 tháng đầu năm đã có kết quả rõ rệt về phát triển kinh tế - xã hội, về đầu tư XDCB. Đề xuất các phương án huy động vốn cho đầu tư phát triển, tranh thủ sự giúp đỡ của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ ngành bổ sung tăng vốn đầu tư cho tỉnh cao hơn năm trước (đến tháng 11/2008 tỉnh đã được bổ sung 158 tỷ đồng).
3. Phương pháp lập dự án đầu tư
Đối với mỗi nội dung có các phương pháp cụ thể thích hợp. Ngoại trừ các nội dung có quy định pháp pháp luật, còn các nội dung khác để có những phương pháp cụ thể khi lập cũng như khi thẩm định, đánh giá dự án, trrong đó có các dạng phương pháp sau:
- Phân tích so sánh, lựa chọn các phương án tối ưu hoặc hợp lý (chọn vị trí xây dựng, chọn công nghệ, chọn thiết bị, chọn giải pháp kỹ thuật và tổ xây dựng...).
- Phân tích đánh giá độ tin cậy, mức khả thi của các giải pháp hay của dự án nói chung (các phương pháp tính toán và phân tích các chỉ tiêu kinh tế, tài chính, phân tích rủi ro...).
- Thống kê kinh nghiệm kiểm tra tính hợp lý, tính thực tế của các giải pháp lựa chọn (mức chi phí đầu tư, cơ cấu chi phí đầu tư, các chỉ tiêu tiêu hao nguyên, nhiên liệu hay chi phí sản xuất nói chung)
4. Vốn và nguồn vốn
Đối với 3 chỉ tiêu Nhà nước giao, tỉnh đã hoàn thành vượt mức như: Sản lượng lương thực có hạt 50 vạn tấn, thực hiện 53,4 vạn tấn; vốn đầu tư giao tổng số 135,7 tỷ đồng, thực hiện vượt kế hoạch từ 220 -230 tỷ đồng; chỉ tiêu thu và chi ngân sách vượt kế hoạch.
Vốn:
Năm 2006, các nguồn vốn đầu tư XDCB được huy động khá hơn năm trước, nhất là vốn từ các chương trình Chính phủ (Phân lũ chậm lũ, du lịch, thể thao, thuỷ sản), vốn bổ sung từ Ngân sách trung ương; tiếp tục triển khai nhiều công trình lớn, trong điều hành có sự tập trung chỉ đạo và xử lý kịp thời những khó khăn vướng mắc xảy ra, do đó đã khắc phục được yếu kém trong quá trình đầu tư và xây dựng.
Tổng vốn đầu tư XDCB trên địa bàn ước đạt 2000 tỷ đồng, vốn đầu tư do địa phương thực hiện đạt trên 1100 tỷ đồng, tăng gấp 2,8 lần so với năm trước, trong đó: vốn ngân sách nhà nước đạt trên 450 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần; vốn tín dụng ưu đãi đạt 410 tỷ đồng, tăng gấp trên 5 lần; vốn huy động của nhân dân đạt trên 60 tỷ đồng, tăng 4,2% so với năm trước.
Đối với nguồn vốn ngân sách do địa phương quản lý dự kiến các công trình XDCB đến hết năm 2011:
- Kế hoạch 2007 đến nay đã triển khai xây dựng 86 công trình, trong đó đầu năm bố trí 73 công trình (44 công trình chuyển tiếp và 29 công trình khởi công mới), trong năm bổ sung 13 công trình. Các công trình chuyển tiếp, công trình trọng điểm được triển khai đảm bảo tiến độ thi công, như công trình cơ sở hạ tầng khu Vũng Áng, Thạch Khê, đường vành đai chống lũ thượng nguồn sông Ngàn Phố, kênh tưới 12B, sân vận động,, đường 10, vùng phân lũ chậm lũ, các công trình tu bổ đê điều...
- Dự kiến đến cuối năm 2008 sẽ có 43 công trình hoàn thành đưa vào sử dụng, trong đó: 20 công trình hoàn thành cả vốn và khối lượng, 23 công trình hoàn thành khối lượng đưa vào sử dụng và năng lực mới tăng thêm gồm: tưới 4.000 ha, tiêu 710 ha, hoàn thành 15.500 m kênh tưới; 19,2 Km đường; 3 cầu; 26 cống; đưa vào sử dụng 17.248 m2 sàn công trình dân dụng, nâng cấp 50 ha trại giống lúa...
Tồn tại chủ yếu của đầu tư XDCB năm 2008 là:
+ Vốn vay phải trả đến hạn mỗi năm trên 10 tỷ đồng;
+ Vốn yêu cầu đối ứng cho các dự án do các Bộ duyệt, UBND tỉnh thoả thuận tương đối lớn trên 180 tỷ đồng (trong đó: thuỷ lợi 31,9 tỷ, cấp nước 46,9 tỷ, giao thông 56,7 tỷ, y tế 44 tỷ);
+ Công trình đến năm 2009 phải hoàn thành theo dự án được duyệt là trên 511 tỷ đồng (trong đó công trình hoàn thành thanh toán khối lượng trên 85 tỷ đồng).
+ Số lượng công trình đầu tư xây dựng nhiều, khối lượng làm vượt so với nguồn vốn quá lớn trong khi khả năng để thanh toán có hạn, chất lượng 1 số công trình chưa cao, còn thiếu sự phối hợp chỉ đạo giữa các ngành, các cấp.
Thật vậy, Trong XDCB vẫn còn những tồn tại, công tác quản lý đầu tư còn nhiều bất cập, các dự án được phê duyệt quá lớn không tương xứng với khả năng về nguồn vốn, tình trạng các dự án xin duyệt để đi chạy vốn còn nhiều, nhiều công trình còn dở dang với khối lượng thực hiện khá lớn (vượt kế hoạch về vốn) nhưng chưa có vốn thanh toán và thiếu khả năng cân đối trong năm 2008, phải chuyển sang năm 2009.
5. Thẩm định dự án đầu tư
5.1. Đặc điểm của các dự án được thẩm định dự án đầu tư tại Sở kế hoạch & đầu tư Hà Tĩnh.
Những dự án đầu tư được gửi đến Sở kế hoạch & đầu tư Hà Tĩnh để thẩm định là những dự án thuộc cấp tỉnh quản lý, việc quyết định và phê duyệt dự án là thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh. Trong quá trình thẩm định dự án đầu tư, Sở kế hoạch & đầu tư Hà Tĩnh có nhiệm vụ lấy ý kiến của các cơ quan có liên quan để phục vụ cho việc thẩm định dự án trình UBND tỉnh trong việc ra quyết định phê duyệt dự án.
Có hai mảng dự án lớn được gửi đến Sở kế hoạch & đầu tư Hà Tĩnh thẩm định là:
Thứ nhất: những dự án được cấp từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Nói chung đây là những dự án nằm trong kế hoạch của tỉnh. Vốn được tài trợ cho những dự án này chủ yếu là: vốn ngân sách trung ương cấp cho tỉnh và vốn ngân sách địa phương để lại. UBND tỉnh dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của từng năm và vốn ngân sách có trong năm để đưa ra danh mục các dự án sử dụng vốn kế hoạch cho đầu tư xây dựng. Bởi vậy đây là những dự án được UBND tỉnh xem xét, phân tích và chọn lọc kỹ càng. Việc phân tích hiệu quả của dự án là khâu quan trọng bởi những dự án đi vào hoạt động sẽ ảnh hưởng đến tình hình phát triển kinh tế- xã hội chung của tỉnh.
Nhìn chung, những dự án được tài trợ bởi vốn ngân sách nhà nước là những dự án đầu tư công cộng. Sản phẩm của những dự án là hàng hoá công cộng và mục tiêu chính là nhằm phục vụ lợi ích chung cuả công cộng, của toàn xã hội. Các dự án này không phải hoàn trả vốn cho nhà nước. Trong quá trình thẩm định dự án đầu tư, việc xem xét hiệu quả về mặt xã hội được coi trọng.
Thứ hai: Những dự án sử dụng vốn tín dụng ưu đãi.
Chủ yếu những dự án này sử dụng vốn vay của Nhà Nước là những dự án đầu tư cho sản xuất, đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Các nguồn vốn của nhà nước được dùng để cho vay những dự án này là: vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, ngoài ra một số dự án còn sử dụng vốn FDI. Khi sử dụng các khoản vốn này, doanh nghiệp phải trả lãi theo quy định của nhà nước nhưng nói chung, lãi suất được sử dụng là lãi suất ưu đãi do nhà nước đưa ra với tính chất hỗ trợ thêm cho các doanh nghiệp nhà nước để phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.
Mặc dù đây là những dự án vay vốn nhưng những dự án này cũng phải nằm trong kế hoạch cho vay của nhà nước, nằm trong quy hoạch tổng thể của ngành, lãnh thổ. Bên cạnh việc đạt được hiệu quả về kinh tế, các dự án còn phải đạt hiệu quả về mặt xã hội.
Quy trình thẩm định hai loại dự án này là hoàn toàn như nhau.
* Việc thẩm định dự án đầu tư tại Sở kế hoạch & đầu tư Hà Tĩnh khác so với ngân hàng thương mại:
Đối với ngân hàng thương mại: những dự án được thẩm định là những dự án vay vốn của ngân hàng. Điều mà ngân hàng quan tâm nhất là làm sao bảo toàn và phát triển vốn của mình, do đó khi dự án sử dụng vốn vay của ngân hàng, ngân hàng luôn quan tâm đến việc trả gốc và lãi cho mình. Phương thức trả gốc và lãi do ngân hàng quy định. Lãi suất các doanh nghiệp phải trả có thể là lãi suất trên thị trường hay lãi suất ưu đãi do nhà nước chỉ định. Việc thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng thiên về việc thẩm định hiệu quả tài chính hơn.
Đối với Sở kế hoạch & đầu tư Hà Tĩnh: Những dự án được thẩm định là những dự án nằm trong kế hoạch, quy hoạch phát triển ngành. Những dự án này khi đi vào hoạt động, nó không những ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp mà điều quan trọng hơn là nó ảnh hưởng đến cơ cấu ngành, tình hình kinh tế- xã hội của cả tỉnh. Việc thẩm định dự án đầu tư không thể chỉ coi trọng về hiệu quả kinh tế mà coi nhẹ các mặt khác được. Đôi khi, đối với một số dự án, việc xem xét hiệu quả về mặt xã hội được đưa lên hàng đầu.
Do có sự khác nhau như vậy nên việc thẩm định dự án đầu tư giữa Sở kế hoạch & đầu tư Hà Tĩnh và ngân hàng có một số điểm không giống nhau.***
Sau khi xem xét vốn ngân sách trung ương cấp phát cho tỉnh, ngân sách địa phương để lại UBND Tỉnh lên cân đối cơ cấu vốn cho các ngành kinh tế trong tỉnh. Đầu năm, UBND Tỉnh gửi kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản vốn ngân sách kèm danh mục công trình được đầu tư trong năm cho Sở Kế hoạch và Đầu tư..
Nhìn chung có chín ngành kinh tế được đầu tư bởi vốn ngân sách. Vốn ngân sách chủ yếu là hai nguồn chính: nguồn ngân sách trung ương, nguồn ngân sách địa phương, bên cạnh đó còn có một số nguồn khác như: các nguồn thu để lại, vốn viện trợ...
Tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản của 3 năm: 2006: 612.4 tỷ tăng 69.2% so với năm 2005,năm 2007 là :1013.5 và năm 2008 là: 2113 tỷ. Điều đó đã chứng tỏ rằng: khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì việc đầu tư cho các ngành kinh tế có xu hướng tăng lên.
Vốn ngân sách ở các năm được phân bố cho các ngành kinh tế nhưng nhìn chung ở cả ba năm vốn tập trung nhiều hơn cho các ngành: Nông, lâm, thuỷ lợi, giao thông và, giáo dục đào tạo. Trong đó ngành nông- lâm - thuỷ lợi vẫn được nhà nước chú trọng hơn bởi vì tỉnh Hà Tĩnh xuất phát là tỉnh nông nghiệp. Do đó việc chú trọng đầu tư cho ngành nông- lâm- thuỷ lợi là cần thiết.Năm 2006: tổng vốn giành cho ngành là: 193.72 tỷ chiếm 21% trong tổng số vốn. Năm 2007: 260.51 tỷ chiếm 26% trong tổng số vốn. Trong khi đó năm 2008: 336 tỷ chiếm 21% trong tổng số vốn. Do định hướng của nhà nước đề ra: giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ: theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nhà nước giảm dần tỷ trọng phân bổ vốn cho ngành nông- lâm - thuỷ lợi để tăng tỷ trọng cho các ngành khác.
Ngành giao thông, xu hướng đầu tư tăng dần. Cụ thể là năm 2006: tổng mức vốn cấp cho ngành là: 98.86 tỷ chiếm 15% trong tổng mức vốn; năm 2007: 162.3 tỷ chiếm 16% trong tổng mức vốn ; năm 2008: 400,6 tỷ chiếm 19%. Trong một số năm gần đây, giao thông cũng là một ngành được chú trọng. Bởi muốn cho nền kinh tế của tỉnh phát triển thì cần thiết phải cải tạo hệ thống, mạng lưới giao thông. Khi giao thông thuận tiện, việc đi lại được dễ dàng, tạo điều kiện cho việc vận chuyển hàng hoá, giao lưu với các tỉnh bạn.
Trong năm 2008 có 14 dự án được đầu tư trong ngành giao thông, trong đó có 5 công trình mới, 9 công trình chuyển tiếp.
Về giáo dục đào tạo, với mục tiêu của tỉnh là trong năm 2006 xoá nạn mù chữ. Bởi vậy việc đầu tư cho ngành giáo dục và đào tạo năm 2006, 2007,2008 có một bước phát triển đáng kể. Năm 2008: số vốn giành cho các dự án là: 368 tỷ đồng, chiếm 23% trong tổng vốn đầu tư. Trong năm này, vốn được cấp cho giáo dục đào tạo chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư. Điều đó đã chứng tỏ, giáo dục đào tạo ngày càng được chú trọng. Trong khi đó năm 2007: tổng vốn đầu tư:123 tỷ với 11 dự án: 4 dự án mới, 7 dự án chuyển tiếp. Năm 2006 chỉ có: 81.24 tỷ với:8 dự án. Với những con số trên chứng tỏ tầm quan trọng của ngành giáo dục và đào tạo, đó chính là bước đệm đáng mừng để phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh.
Bên cạnh đó, một số ngành khác: cấp nước, công trình công cộng, y tế, văn hoá thông tin, thể dục thể thao, trụ sở cơ quan quản lý... vốn đầu tư không biến động nhiều giữa các năm.
Trong năm 2008: vốn còn được phân bổ cho việc xây dựng đài phát thanh- truyền hình, lao động - thương binh xã hội và an ninh quốc phòng.
Tóm lại: thông qua danh mục các dự án đầu tư sử dụng vốn kế hoạch cho đầu tư xây dựng cơ bản, chúng ta cũng thấy được một phần nào tình hình kinh tế- xã hội của tỉnh trong một số năm gần đây. Bên cạnh đó, danh mục dự án vốn kế hoạch đầu tư xây dựng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21956.doc