Báo cáo Thực tập tại Sở giao dịch - Ngân hàng Công thương Việt Nam

một số vấn đề về hoạt động dịch vụ ngân hàng tại sở giao dịch nhct Việt Nam I-/ Vài nét về hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch NHCTVN 1-/ Khái quát về Ngân hàng Công thương Việt Nam Sự nghiệp đổi mới nền kinh tế do Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (12 - 1986) khởi xướng, trong đó có chủ trương xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thích ứng với cơ chế kinh tế mới trong lĩnh vực tiền tệ, lưu thông tiền tệ, tín d

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Thực tập tại Sở giao dịch - Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụng và Ngân hàng, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ rõ "Bên cạnh nhiệm vụ quản lý lưu thông tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, cần xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế..." Thực hiện chủ trương trên, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 về tổ chức bộ máy ngân hàng Nhà nước Việt Nam phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của các doanh nghiệp ngân hàng. Vì vậy từ 1/7/1988 NHCTVN ra đời và đi vào hoạt động đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cùng với quá trình đổi mới của đất nước, của toàn ngành ngân hàng, hơn 10 năm xây dựng và trưởng thành, NHCTVN đã khẳng định được vai trò, vị trí là một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu ở Việt Nam, không ngừng đổi mới bộ máy tổ chức và mạng lưới kinh doanh, góp phần đắc lực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, thực thi chính sách tiền tệ, kiềm chế đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Tính đến 31/12/1998 NHCTVN có đội ngũ cán bộ nhân viên trên 11000 người có mạng lưới bao gồm: Trụ sở chính và hai Sở giao dịch, 65 chi nhánh phụ thuộc, 25 chi nhánh trực thuộc, 433 phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, 86 cửa hàng vàng bạc đặt tại trung tâm kinh tế và các khu vực công thương nghiệp phát triển trong cả nước. NHCTVN có quan hệ đại lý với 435 ngân hàng và tổ chức tiền tệ của 40 nước và khu vực trên thế giới. Ngoài ra NHCT còn có các đơn vị thành viên. Trung tâm đào tạo nghiệp vụ, trung tâm công nghệ thông tin, công ty cho thuê tài chính, tham gia hai liên doanh với nước ngoài là IWDOVINA BANK và công ty cho thuê tài chính quốc tế (VILC) 2-/ Những hoạt động cở bản của Sở giao dịch 2.1 Giới thiệu chung. Sở giao dịch NHCTVN là một chi nhánh ngân hàng thương mại lớn. Trong những năm từ 1988 đến tháng 7 năm 1993 Sở giao dịch có tên là "Trung tâm giao dịch NHCT thành phố, từ 1/7/93 trung tâm giao dịch NHCT thành phố giải thể và đổi thành Sở giao dịch NHCTVN. Sở giao dịch một mặt có chức năng như một chi nhánh của NHCT thực hiện đầy đủ các mặt hoạt động như một ngân hàng thương mại, mặt khác có vai trò quan trọng hơn các chi nhánh khác. Đây là nơi đầu tiên nhận các quyết định chỉ thị, thực hiện thí điểm các chủ trương chính sách của NHCTVN, đồng thời được NHCTVN uỷ quyền làm đầu mối cho các chi nhánh phía Bắc trong việc thu chi ngoại tệ mặt, séc du lịch, visacard, mastercard. Sở giao dịch là đơn vị hạch toán phụ thuộc vào NHCTVN, có quyền tự chủ trong kinh doanh, có con dấu riêng và mở tài khoản tại ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng khác. Trong những năm qua Sở giao dịch đã thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình với tinh thần trách nhiệm cao, năng động, sáng tạo và theo đúng luật ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, Nghị định của Chính phủ, các chủ trương chính sách của ngành ngân hàng và của NHCTVN. Sở giao dịch thường xuyên quan tâm tới việc nâng cao chất lượng kinh doanh và dịch vụ ngân hàng, đổi mới phong cách làm việc nâng cao chất lượng phục vụ, xây dựng chính sách khách hàng với phương châm "vì sự thành đạt của mọi người, mọi nhà và mọi doanh nghiệp ". Mô hình tổ chức của Sở giao dịch như sau: Với hơn 200 cán bộ trong đó 40,8% có trình độ Đại học và trên Đại học, còn lại đều qua đào tạo hệ Cao đẳng, trung học chuyên ngành ngân hàng. Sở giao dịch có 9 phòng chức năng dưới sự chỉ đạo điều hành của Ban Giám đốc gồm: Một phó giám đốc và hai phó giám đốc. - Phòng kinh doanh: Trực tiếp cho khách hàng vay vốn, giám sát và quản lý việc sử dụng vốn vay. - Phòng nguồn vốn: Làm nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cân đối tổng hợp về nguồn vốn và sử dụng vốn. Huy động vốn tiết kiệm cũng như các nguồn vốn nhàn rỗi khác. Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo tổng hợp, phân tích việc thực hiện kế hoạch tài chính của Sở giao dịch. - Phòng kế toán: Có chức năng hạch toán tất cả các nghiệp vụ thanh toán bằng VND, lên cân đối tổng hợp của Sở giao dịch. - Phòng hành chính quản trị: Làm các công việc về hành chính, quản trị như các doanh nghiệp khác. - Phòng tổ chức cán bộ: Quản lý cán bộ và tiền lương, tham mưu cho ban lãnh đạo về xét tuyển, đề bạt cán bộ. - Phòng ngân quỹ: Thực hiện thu chi tiền mặt đối với khách hàng và bản thân ngân hàng. - Phòng kiểm soát: Thực hiện kiểm soát nội bộ các nghiệp vụ của Sở giao dịch. - Phòng điện toán: Quản lý dữ liệu, thông tin quản lý, in kết quả kinh doanh, các mẫu biểu báo cáo của Sở giao dịch. - Phòng kinh doanh đối ngoại: Thực hiện các nghiệp vụ về thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ và hạch toán kế toán các nghiệp vụ bằng ngoại tệ. Làm đầu mối thanh toán séc du lịch visacard, và tiền mặt ngoại tệ cho các chi nhánh NHCT ở phía Bắc, thực hiện giải ngân một số dự án ODA mà ngân hàng Công thương được chỉ định thực hiện. Tất cả các phòng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của một ngân hàng thương mại. Cơ cấu tổ chức được đổi mới theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả, tránh cồng kềnh và chồng chéo. Và Sở giao dịch đang tiến tới xây dựng một mô hình ngân hàng thương mại đa năng, hiện đại, hướng tới sản phẩm mới, thị trường mới, tăng cường sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Từ khi thành lập đến nay Sở giao dịch luôn luôn là một trong những chi nhánh đứng đầu trong hệ thống các chi nhánh của NHCTVN. Do Sở giao dịch vừa là chi nhánh trực tiếp kinh doanh vừa làm đầu mối một số công việc cho các chi nhánh ngân hàng Công thương phía Bắc. Với các ưu thế về địa lý, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như bề dày hoạt động mà Sở Giao dịch luôn nổi trội hơn các chi nhánh khác và chiếm vị trí chủ lực trong hệ thống NHCTVN. Trong các năm gần đây Sở giao dịch luôn đứng đầu về nguồn vốn huy động cũng như lợi nhuận hạch toán trong hệ thống NHCTVN. Tại Sở có các hoạt động cơ bản sau đây: a, Huy động vốn: Hướng theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế và nhăm nâng vốn tự có lên 1500 tỷ vào cuối năm 2000 đồng thời đảm bảo tốc độ phát triển nguồn vốn huy động bình quân 25% do NHCT đề ra. Sở giao dịch đã chủ động tập trung khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế bằng việc trực tiếp đưa ra các hình thức huy động vốn năng động có tính cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng, khơi tăng nguồn vốn huy động đặc biệt là nguồn vốn có thời hạn phục vụ cho đầu tư phát triển, tại Sở giao dịch có 6 quỹ tiết kiệm nằm trong quận Hoàn Kiếm đây là khu vực trung tâm thương mại của Hà Nội, tập trung đông dân cư cũng như nhiều tổ chức kinh tế. Nguồn vốn huy động bình quân tăng hàng năm từ 25 à 27%. Mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc tài chính tiền tệ khu vực Châu á nguồn vốn huy động năm 1998 của Sở giao dịch vẫn tiếp tục tăng 40,4% so với năm 1997, nguồn vốn huy động bình quân của Sở giao dịch hiện nay xấp xỉ 5572 tỷ. Trong tổng nguồn vốn huy động thì tiền gửi doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn 75% năm 1996, 72% năm 1997 và 60% năm 1998. Tuy nhiên cơ cấu nguồn vốn có sự biến động qua các năm thể hiện tiền gửi tiết kiệm với lãi suất cao hơn lại có xu hướng tăng dần trong tỷ trọng. Đặc biệt nguồn vốn ngoại tệ có xu hướng tăng nhanh trong tổng nguồn vốn huy động năm 1996 chiếm 6%, năm 1997 tăng lên 16%, năm 1998 chiếm 29%. Nguồn vốn ngoại tệ tăng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại đặc biệt là công tác cho vay và kinh doanh ngoại tệ. Nguồn vốn dồi dào giúp Sở chủ động trong kinh doanh và ít bị lệ thuộc vào NHCTVN. Tuy nhiên tiền gửi doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhưng trong đó đó tiền gửi không kỳ hạn cũng tăng tương ứng qua các năm (chiếm từ 65 - 70% tổng nguồn). Đây cũng là điểm bất lợi của Sở vì doanh nghiệp có thể rút vốn bất kỳ lúc nào gây bị động về vốn. Các nguồn vốn trung dài hạn hiện nay ở Sở giao dịch chủ yếu là nguồn vốn tài trợ uỷ thác đầu tư hoặc dưới dạng phát hành kỳ phiếu. Qua số liệu trên ta cũng thấy được Sở giao dịch luôn coi trọng công tác cải tiến hình thức, liên tục đa dạng hoá cũng như tạo ra các tiện ích cho người gửi tiền với lãi suất luôn linh hoạt và phù hợp với thị trường. Đồng thời áp dụng các hình thức ưu đãi lãi suất cho khách hàng thường xuyên có số dư tiền gửi cao. Nhờ nâng cao chất lượng phục vụ và biết khai thác yếu tố tâm lý của người gửi tiền mà nguồn vốn huy động của Sở giao dịch ngày càng tăng trưởng nhanh và ổn định cả về đồng nội tệ và ngoại tệ. Tóm lại, nguồn vốn huy động lớn, dồi dào, tăng trưởng ổn định là điều kiện cơ bản để Sở giao dịch có thể chủ động trong kinh doanh và tạo điều kiện để phát triển các nghiệp vụ và các dịch vụ của ngân hàng. Đồng thời giúp NHCTVN trong việc điều hoà vốn toàn hệ thống ngân hàng Công thương. Biểu 1 - Tình hình huy động vốn của Sở giao dịch Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng - Tổng nguồn vốn huy động 3.176 100 4.042 100 5.572 100 I. Phân theo vốn huy động + Tiền gửi doanh nghiệp 2.390 75 2.909 72 3.362 60 + Tiền gửi dân cư 786 25 1.133 28 2.210 40 II. Phân theo thời hạn + Tiền gửi không kỳ hạn 2.237 70 2.835 70 3.481 62 + Tiền gửi có kỳ hạn 939 30 1.207 30 2.091 38 III. Phân theo đơn vị tiền tệ - Tiền gửi bằng VNĐ 2.987 94 3.392 84 3.967 71 - Tiền gửi bằng ngoại tệ 189 6 650 16 1.605 29 Nguồn báo cáo của Sở giao dịch NHCTVN năm 1996, 1997, 1998. b. Sử dụng vốn Trong 10 năm qua, hoạt động đầu tư và cho vay không ngừng được mở rộng góp phần thúc đẩy tăng trưởng, phát triển và đổi mới kinh tế của đất nước. Tính đến 31/12/1998 dư nợ cho vay đạt 875 tỷ tăng 19,5% so với cùng kỳ năm 1997. Cơ cấu tín dụng được đổi mới và chuyển dịch theo hướng mở rộng cho vay tất cả các thành phần kinh tế và dân cư, mọi ngành nghề kinh doanh được Nhà nước cho phép đồng thời chú ý tới việc tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn và thực hiện tăng trưởng tín dụng đối với các thành viên là các tổng công ty 90, 91. Mở rộng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, tín dụng bảo lãnh, các chương trình tín dụng bằng các nguồn vốn của các tổ chức quốc tế đầu tư trên thị trường liên ngân hàng, đầu tư trái phiếu... Trong khi nguồn vốn tăng nhanh trung bình từ 25 đến 27%/năm thì dư nợ hàng tăng chỉ tăng trung bình khoảng 8% - 20% không tương xứng với tốc độ tăng trưởng nguồn vốn. Mặt khác chất lượng tín dụng nói chung giảm sút thể hiện tỷ trọng nợ quá hạn năm 1996 chiếm 7% trong tổng dư nợ, sang năm 1997 giảm xuống còn 6% nhưng đến năm 1998 là tăng lên đến 12% và hiện nay Sở đã cố gắng để giảm thấp nợ quá hạn bằng nhiều biện pháp nhưng vẫn ở mức cao là 8% và nợ khó đòi vẫn có chiều hướng gia tăng. Biểu 2 - Tình hình sử dụng vốn Đơn vị: Tỷ đồng. Chỉ tiêu 31.12.1996 31.12.1997 31.12.1998 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng % so 96 Số tiền Tỷ trọng % so 97 - Tổng dư nợ 678 100 732 100 107,9 875 100 119,5 I. Phân theo thời hạn 1. Ngắn hạn 540 79,5 585 78 108,3 380 43,4 64,9 2. Dài hạn 138 20,4 147 22 106,5 495 56,6 336,7 II. Theo thành phần KT 1. Quốc doanh 586 86,7 539 73,6 92 793 90,6 147 2. Ngoài quốc doanh 92 13,6 193 26,4 209,7 82 9,4 42,4 III. Theo đơn vị T.tệ 1. VNĐ 399 58,8 467 63,8 117 632 72,2 135 2. Ngoại tệ quy đổi 279 41,2 265 36,2 95 243 27,8 91,6 IV. Phân theo ngành 1. Công nghiệp 201,8 29,7 195 26,6 96,6 106 12 54,3 2. Xây dựng 7,6 1,1 10 1,3 131,5 7 10,8 0,7 3. G.thông, bưu điện 130,8 19,3 131,7 18 100,6 483 55,2 366,7 4. Thương nghiệp 279,9 41,3 264 36 94,3 262 29,9 99,2 5. Khác 58 8,6 133,9 18,1 230,8 10,4 2,1 7,7 V. Phân theo chất lượng - Trung hạn 630 93 706 96 112 774 88 109,6 - Quá hạn 47,9 7 26,5 6 55,3 95 12 358,4 + Quá hạn dưới 6 tháng 27 20 73 + Quá hạn từ 6-12 tháng 11 3,5 2,7 + Quá hạn trên 12 tháng 9,7 3 19,3 Nguồn báo cáo của Sở giao dịch NHCTVN 1996, 1997, 1998. c. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ : (Xem biểu 3 trang 32) . Nhờ kinh doanh ngoại tệ mà Sở giao dịch đa dạng hoá các nghiệp vụ của Ngân hàng giúp cho thuận lợi, nhanh chóng thực hiện các nhu cầu của khách hàng không chỉ bằng nội tệ mà cả ngoại tệ. Khách hàng có thể chỉ cần quan hệ với một ngân hàng là đã có thể thoả mãn được nhu cầu ngày càng đa dạng của mình. Điều đó đã có thể thoả mãn mọi nhu cầu ngày càng đa dạng của mình. Điều đó giúp Sở giao dịch giữ được các khách hàng có quan hệ truyền thống với mình và còn mở rộng thêm quan hệ với các khách hàng tiềm năng. Sở giao dịch đã từng bước đa dạng hoá các hình thức mua bán ngoại tệ như kỳ hạn hoán đổi. Ngoài ra giao dịch các loại ngoại tệ này ngày càng gia tăng từ 4,6% năm 1996 lên 9,7% năm 1997 và 7,2% năm 1998. Trong đó hầu hết các loại ngoại tệ mạnh được thực hiện mua bán như DEM, JPY, FRF, CHF, SGD, EUR, AUD, GBP, SEK... Đây là những loại ngoại tệ tự do chuyển đổi, có xu hướng tỷ giá ổn định, điều này cho thấy Sở giao dịch rất coi trọng việc phòng ngừa rủi ro về tỷ giá và cố gắng doanh thu lợi nhuận cao nhất. Mục đích mua bán các loại ngoại tệ khác cũng nhằm giảm bớt sức ép về USD của khách hàng, đồng thời giúp khách hàng thuận lợi trong thanh toán quốc tế bằng các loại ngoại tệ khác và đem lại lợi nhuận bổ sung cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hiện nay Sở giao dịch tích cực phát triển các dịch vụ này để tránh tình trạng khách hàng phải đổi tiền thông qua USD, chênh lệch giá mua, giá bán của các loại ngoại tệ này cao do vậy thu lợi nhuận lớn. Trong quan hệ với các ngân hàng đại lý, ngoài những quan hệ như thanh toán chuyển tiền, tài trợ, giúp đỡ đào tạo, cho vay vốn... còn một quan hệ không thể thiếu là các quan hệ giao dịch về mua bán ngoại tệ. Tuy việc mua bán ngoại tệ với ngân hàng nước ngoài không thực hiện tại Sở giao dịch mà thực hiện tại phòng Dealing room của Hội sở chính nhưng có rất nhiều giao dịch được phát sinh tại các chi nhánh trong đó Sở giao dịch là một chi nhánh lớn đã yêu cầu Hội sở chính thực hiện hộ. Điều đó làm tăng thêm mối quan hệ với các ngân hàng đại lý, tăng thêm thu nhập cho NHCTVN và bản thân Sở giao dịch. Doanh số mua bán ngoại tệ của Sở giao dịch luôn chiếm khoảng 10% doanh số mua bán của toàn hệ thống NHCT. Để hoạt động kinh doanh ngoại tệ ngày càng có hiệu quả, sớm làm quen và hoà nhập với các ngân hàng khu vực và trên thế giới về kinh doanh ngoại tệ, từ năm 1995 NHCT đã nối mạng với hãng Reuters, telerate để thường xuyên theo dõi sự biến động của tỷ giá các loại ngoại tệ trên thị trường quốc tế. Đã sử dụng Dealing Services để giao dịch trực tiếp với các ngân hàng nước ngoài. Đối với hoạt động tín dụng ngoại tệ của Sở giao dịch, kinh doanh ngoại tệ góp phần thực hiện việc vay, trả của các doanh nghiệp vay vốn của sở được thực hiện nhanh chóng thuận lợi. Nếu một ngân hàng chỉ có huy động, cho vay, thanh toán và làm các dịch vụ có liên quan đến ngoại tệ mà không có bộ phận kinh doanh ngoại tệ thì mọi hoạt động này khó có thể tiến hành được. Đặc biệt trong những thời kỳ khó khăn do tỷ giá thường xuyên biến đổi, để đảm bảo an toàn vốn cho vay nhằm thu nợ gốc và lãi vay ngoại tệ. Sở giao dịch đã chịu lỗ trong kinh doanh ngoại tệ, bán ứng ngoại tệ cho các doanh nghiệp để hoàn trả vốn vay cho Ngân hàng. Đây là biện pháp tình thế cấp bách nhưng rất cần thiết. Đứng trên tổng thể hoạt động của một ngân hàng thì việc lỗ ở nghiệp vụ này để lãi ở nghiệp vụ khách và kết quả cuối cùng là thu lợi nhuận cao thì điều đó thể hiện tính linh hoạt trong kinh doanh của Sở giao dịch. Qua đó Sở giao dịch vừa giữ được khách hàng truyền thống vừa đảm bảo an toàn vốn trong hoạt động tín dụng. Qua đây cũng bộc lộ sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hoạt động kinh doanh ngoại tệ và hoạt động tín dụng. Tín dụng ngoại tệ phát triển thì kinh doanh ngoại tệ phát triển, kinh doanh ngoại tệ phát triển giúp hoạt động tín dụng ngày càng có hiệu quả hơn. Đây cũng chính là lợi thế của Sở giao dịch trong cạnh tranh với các ngân hàng khác. Tuy lỗ trong kinh doanh ngoại tệ nhưng Sở giao dịch vẫn có lợi nhuận lớn nhất trong hệ thống các chi nhánh NHCT. Biểu 3 - Tình hình kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I - NHCTVN Đơn vị: 1000 USD. Chỉ tiêu 1996 1997 1998 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng % so 96 Số tiền Tỷ trọng % so 97 I. Doanh số mua 149,059 100 110,171 100 73,9 87,860 100 79,7 1. Phân theo ngoại tệ - USD 142,152 95,4 99,461 90,3 81,534 92.8 - Các loại Ntệ khác quy đổi USD 6,907 4,6 10,711 9,7 6,326 7,2 2. Phân theo đối tượng mua - Từ các NH khác 95,016 63,7 72,017 63,4 16,126 18,3 - Từ NHCTVN 28,600 19,2 14,896 13,5 30,291 34,5 - Từ các dnghiệp có tkntệ 25,443 131 23,259 21,1 41,443 47,2 - Tại SGD I II. Doanh số bán 149,059 100 111,279 100 74,6 88,516 100 79,5 1. Phân theo ngoại tệ - USD 141,010 94,6 100,481 90,3 82,192 92,8 - Các loại Ntệ khác quy đổi USD 8,049 5,4 10,798 9,7 6,324 7,2 2. Phân theo đối tượng bán - Bán cho khách hàng 132,162 88,7 95,189 85,5 - Bán cho các ngân hàng khác 14,897 10 16,090 14,5 - Bán cho NHCTVN 2,000 1,3 III. Lỗ lãi KDNT (Đơn vị: triệu VNĐ) 2,453 449 18,3 - 4,063 Nguồn Báo cáo của Sở giao dịch NHCTVN năm 1996, 1997, 1998. 2.2 Kết quả kinh doanh (Xem biểu 4 trang 33) Trong những năm qua Sở giao dịch luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch của NHCT giao, nộp đủ cho ngân sách Nhà nước, và có lợi nhuận đứng đầu trong các chi nhánh của hệ thống ngân hàng Công thương. Lợi nhuận 1997 bằng 154% năm 1996 và năm 1998 bằng 122,18% so với 1997. Và tổng thu nhập của năm 1998 tăng do những nguyên nhân sau: - Thu lãi cho vay tăng do dư nợ tăng trong khi đó lãi suất bình quân năm 1998 vẫn bằng năm trước là 0,87%. - Thu phí dịch vụ tăng. - Đặc biệt thu lãi điều hoà tăng 27% so với năm 1997. Qua phân tích khái quát hoạt động kinh doanh ta thấy Sở giao dịch đã chú trọng khơi tăng nguồn vốn. Dư nợ có tăng nhưng chậm và chưa tương xứng với tốc độ tăng của nguồn vốn và không ổn định. Đồng thời dư nợ hầu hết tập trung vào số tổng công ty lớn như Tổng công ty Bưu chính viễn thông, Tổng công ty điện lực, xí nghiệp Liên hiệp đường sắt: Biểu hiện lượng khách hàng mỏng. Nguồn vốn ngoại tệ tăng nhưng dư nợ ngoại tệ lại có xu hướng giảm thu dịch vụ có tăng nhưng rất chậm và chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ xấp xỉ 2% - 3% trong tổng thu nhập không tương xứng với một ngân hàng lớn như Sở giao dịch. Mặc dù thu nhập tăng nhưng chủ yếu là thu lãi điều hoà (Năm 1998: chiếm 69% trong tổng thu nhập). Vấn đề quan trọng hiện nay là tăng dư nợ lành mạnh để thu lãi, đồng thời phát triển các dịch vụ mới để tăng thu dịch vụ. Biểu 4 - Báo cáo thu nhập, chi phí của Sở giao dịch NHCTVN Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 1996 1997 1998 Số tiền % so với 96 Số tiền % so với 97 Tổng thu nhập 283.833 305.434 107,6 371.927 121,7 - Thu lãi 102.928 76.614 74,4 85.426 111,5 - Tiền gửi TCTD 29.447 13.996 47,5 18.730 133,8 - Dịch vụ 8.331 7.247 87 7.667 105,7 - Thu khác 731 1.976 270 427 21,6 - Lãi điều hoà 142.396 202.603 142.28 257.241 127% Tổng chi phí 240.348 238.300 99 289.942 121,6 - Trả lãi 222.931 224.300 100,6 269.768 120,2 - Chi phí nhân viên 5.903 7.672 130 7.443 97 - Chi phí khác 11.514 9.215 80 12.732 138 Lợi nhuận 43.485 67.099 154.3 81.985 122.18 Nguồn báo cáo của Sở giao dịch NHCTVN năm 1996, 1997, 1998. II-/ Các dịch vụ ngân hàng tại Sở giao dịch. 1-/ Dịch vụ nhận tiền gửi: Nhận thức rõ sự gia tăng của nguồn vốn là yếu tố quyết định sự tồn tại của ngân hàng. Vì vậy Sở giao dịch là luôn coi trọng công tác huy động vốn và coi nguồn vốn là yếu tố đầu tiên của quá trình kinh doanh khi nguồn vốn huy động được có cơ cấu hợp lý, chi phí huy động vốn thấp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Để đảm bảo nguồn vốn huy động tăng hàng năm 25% mà NHCTVN đã đề ra. Sở giao dịch đã phấn đấu để chủ động về nguồn vốn và cân đối ngay tại Sở giao dịch, chủ động khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế bằng nhiều hình thức. Trong đó có hình thức thu hút khách hàng đến mở tài khoản và giao dịch với thủ tục đơn giản và thuận tiện. Tính đến tháng 6 năm 1999 đã có 4.093 tài khoản được mở trong đó có 1.972 tài khoản doanh nghiệp và 2.121 tài khoản cá nhân. Với bề dày hoạt động, hơn 10 năm qua Sở giao dịch đã tạo được niềm tin với khách hàng vì vậy số khách hàng đến với ngân hàng ngày càng tăng. Trong đó có mối quan hệ truyền thống với một số doanh nghiệp lớn như Tổng công ty Bưu chính viễn thông, Tổng công ty điện lực, xí nghiệp liên hợp đường sắt, tính đến tháng 6/1999: tổng nguồn vốn huy động xấp xỉ 6.358 tỷ tăng 14,10% so với 31/12/1998 và tăng 50,95% so với cùng kỳ năm trước. Với kết quả này Sở giao dịch luôn là đơn vị đi đầu về công tác huy động vốn trong toàn hệ thống và là đơn vị có nguồn vốn huy động lớn nhất trên địa bàn thành phố Hà Nội (chiếm tỷ trọng 14%) Về cơ cấu nguồn vốn huy động thì tiền gửi doanh nghiệp là 3.385 tỷ chiếm tỷ trọng 61,2% trong tổng nguồn vốn so với đầu năm tăng 14% so với cùng kỳ năm trước tăng 46,6%. Tiền gửi tiết kiệm là 2.473 tỷ chiếm tỷ trọng 38,8% trong tổng nguồn vốn. So với đầu năm tăng 20,4% so với cùng kỳ năm trước tăng 46% nguồn vốn tăng trưởng nhanh, ổn định và vững chắc. Số dư bình quân hàng năm tăng 20-27%. Việc huy động tiền gửi dân cư được thực hiện tại 6 quỹ tiết kiệm với nhiều hình thức phong phú như phát hành kỳ phiếu nội tệ, ngoại tệ, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn trả lãi định kỳ, trả lãi trước, trả lãi sau với lãi suất linh hoạt mềm dẻo, tạo điều kiện thu hút khách hàng đến với ngân hàng. 2-/ Dịch vụ thanh toán. 2.1 Dịch vụ thanh toán chuyển tiền trong nước. Mối quan hệ giữa nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay với thanh toán rất chặt chẽ và khăng khít, nếu không có nghiệp vụ thanh toán chuyển tiền chi trả thì các nghiệp vụ nhận tiền gửi, cho vay, và các nghiệp vụ khác không thể thực hiện được. Do nhận thức được tầm quan trọng của công tác thanh toán có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế đất nước cũng như sự tồn tại và phát triển của NHCT. Trong nhiều năm qua Sở giao dịch luôn là chi nhánh đi đầu trong việc thực hiện và phát triển các hình thức thanh toán phù hợp với tiến trình đổi mới của NHCT, đồng thời luôn đi đầu trong công tác cải tiến quy trình, kỹ thuật thanh toán góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập của Sở giao dịch I nói riêng và của NHCT nói chung vào hệ thống thanh toán toàn cầu. Trước đây mọi hoạt động thanh toán ra ngoài hệ thống cũng như thanh toán trong cùng hệ thống đều phải thông qua ngân hàng Nhà nước theo các quy trình và cơ chế thanh toán đã được ban hành chung. Đến ngày 01/10/1991 căn cứ quyết định số 101/NH-QĐ ngày 30/7/1991 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước về thể lệ thanh toán qua ngân hàng, Tổng giám đốc NHCT đã ban hành quyết định 248/NHCT - QĐ "NHCTVN tổ chức thanh toán liên hàng nội bộ" và công văn hướng dẫn số 20/NHCT ngày 25/12/1991 về việc thực hiện thanh toán qua NHCTVN. Từ đó đánh dấu một bước ngoặt đầu tiên cho sự phát triển hệ thống thanh toán độc lập tự chủ của NHCT. Do chủ động trong thanh toán, tốc độ thanh toán qua ngân hàng Công thương được thực hiện nhanh hơn, kịp thời hơn ít sai sót hơn, khách hàng chuyển tiền qua NHCT thấy yên tâm hơn, không còn phải chạy qua, chạy lại 2 - 3 ngân hàng mới làm song thủ tục chuyển tiền. Nền kinh tế càng phát triển nhu cầu thanh toán ngày càng cao đòi hỏi tốc độ thanh toán phải đáp ứng nhanh chóng kịp thời. Công tác thanh toán của NHCT lại phát triển thêm một bước mới đó là thanh toán liên hàng bằng máy vi tính truyền qua MODEM thoại thay cho việc chuyển giấy báo liên hàng qua bưu điện. Kết quả đó không những thu hút khách hàng đến với NHCT ngày càng nhiều mà còn nâng cao uy tín của NHCT tạo tiền đề cho những bước phát triển cao hơn nữa của NHCTVN vào những năm sau này. Để mở rộng và cải tiến thanh toán không dùng tiền mặt đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền. Chính phủ đã ra Nghị định 91/CP ngày 25/11/1993 về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt và thống đốc ngân hàng Nhà nước ra quyết định số 22/QĐ - NH ngày 21/2/1994 ban hành thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt đã làm thay đổi cơ bản về phạm vi cũng như phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Tạo điều kiện cho các TCTD trong nước mở rộng đổi mới phương thức thanh toán nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Không thoả mãn và dừng lại ở đó trong khi nền kinh tế thị trường ngày càng mở rộng, công nghệ thông tin bùng nổ, nhu cầu về thanh toán và quản lý vốn tập trung đặt ra cấp thiết nhằm tăng nhanh vòng quay của đồng vốn đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn của các tài chính kinh tế nói chung và đối với NHCTVN đó là mục tiêu cấp bách đã được Hội đồng quản trị điều hành thống nhất phương hướng chỉ đạo nghiên cứu soạn thảo quy trình nghiệp vụ thanh toán điện tử trong hệ thống NHCT và Sở giao dịch đã được NHCT chọn làm thí điểm. Sau thời gian thử nghiệm ngày 1/7/1996 thanh toán điện tử đã chính thức được áp dụng trong nội bộ NHCT. Việc triển khai nhanh chóng thanh toán điện tử trong hệ thống NHCT không chỉ nâng cao uy tín với khách hàng mà còn nâng cao vị trí của NHCTVN lên hàng đầu hệ thống ngân hàng Việt Nam trong lĩnh vực hiện đại hoá hệ thống thanh toán là tiền đề cho việc mở rộng phạm vi thanh toán ra ngoài hệ thống dẫn đường cho các NHTM, ngân hàng cổ phần để mở tài khoản tiền gửi và ký kết văn bản thực hiện thanh toán thu chi hộ giữa hai ngân hàng. Đến tháng 11/1996 NHCT nối mạng thanh toán với Sở giao dịch ngân hàng Nhà nước thực hiện việc điều vốn từ NHCTVN đến các chi nhánh trực thuộc và ngược lại, từ tháng 12/1997 NHCTVN và ngân hàng đầu tư và phát triển nông thôn đã chính thức thực hiện quy trình thanh toán thu chi hộ giữa hai ngân hàng. Hiệu quả cao nhất ở đây là NHCTVN đã tận dụng được nguồn vốn trong thanh toán để giảm bớt căng thẳng về vốn trong những tháng cuối năm. Đến quy 2/1998 quy trình thanh toán với ngân hàng cổ phần Hàng hải, Citibank, NHPTNN Việt Nam đã đi vào hoạt động chính thức, đẩy nhanh tốc độ thanh toán qua ngân hàng gấp nhiều lần so với trước đây. Mọi quy trình thanh toán mới ra đều được thực hiện thí điểm tại Sở giao dịch, sau đó triển khai toàn hệ thống ngân hàng Công thương. Sở giao dịch là CN đứng đầu trong hệ thống NHCT và có doanh số thanh toán thường chiếm từ 16,5 - 24% trong tổng số thanh toán toàn hệ thống và là một trong 64 thành viên thanh toán bù trừ có doanh số thanh toán lớn nhất bình quân 180 - 250 món/ngày, thanh toán liên hàng điện tử bình quân thanh toán 150 - 180 món/ngày thanh toán liên hàng và bù trừ của Sở thường chiếm từ 80 - 85% trong tổng các phương tiện thanh toán. Khối lượng công việc nhiều song Sở đã hạn chế các sai sót xảy ra. Biểu 5 - Tình hình thanh toán chuyển tiền trong nước Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 S.Món T.số tiền Tỷ trọng S.Món T.số tiền Tỷ trọng % so 96 S.Món T.số tiền Tỷ trọng % so 97 I. Phân loại theo c.cụ t.toán A. Thanh toán bằng T.mặt 67129 8508.563 4,8 70610 9066394 5,7 84337 12182067 7,4 - Tiền mặt 42523 5337.431 49270 6747026 60437 9577078 - N.phiếu thanh toán 24606 3171.132 21340 2319368 23900 2604989 B.Thanh toán không dùng TM 289078 168763.631 95,2 265443 150718038 94,3 261579 153491713 92,6 1. Séc chuyển khoản 28606 1029.097 27514 3007689 24902 791303 2. Séc bảo chi 18333 1330.350 19572 1718321 11897 834707 3. Séc chuyển tiền 321 71.162 352 72384 232 48296 4. Séc cá nhân 41 97 10 113 - - 5. Uỷ nhiệm thu 40421 1261.526 39320 210229 44665 224105 6. Uỷ nhiệm chi 56282 36062.201 81306 77937610 91555 42421922 7. Thư tín dụng 8. Loại khác 145074 129009.198 97369 67771692 88328 109171380 Tổng cộng 356207 177272.194 336053 159784432 345916 165673780 Nhìn biểu 5 trang 37 ta thấy doanh số thanh toán ổn định qua các năm mà chưa có sự tăng trưởng, trong đó các hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm chi và uỷ nhiệm thu ngày càng được sử dụng rộng rãi và chiếm phần lớn trong tổng doanh số thanh toán. Việc thanh toán bằng séc có xu hướng giảm dần qua các năm thể hiện: Năm 1996 Doanh số thanh toán séc là 2359 tỷ. Năm 1997 Doanh số thanh toán séc là 4725 tỷ tăng 2366 tỷ so 1996. Năm 1998 Doanh số thanh toán séc chỉ còn 1636 giảm 3089 tỷ so 1997. Qua biểu thống kê ở trên ta cũng thấy rằng thanh toán bằng tiền mặt và ngân phiếu chỉ chiếm từ 4,8% đến 7,4% trong tổng doanh số thanh toán qua Sở giao dịch nhưng thực tế theo số liệu thống kê của ngân hàng Nhà nước thì tỷ lệ thanh toán tiền mặt trong dân cư hiện nay vẫn chiếm tới 30 - 35% trong tổng doanh số thanh toán của nền kinh tế. Mặc dù việc triển khai thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư từ lâu là mối quan tâm của cả hệ thống ngân hàng thể hiện: Ngày 19/8/1993 Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định 160/QĐ - NH 2 và thể lệ mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp tư nhân và cá nhân trong đó đã hướng dẫn cụ thể và tạo điều kiện thuận lợi để cho các doanh nghiệp và cá nhân mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. Từ đó đến nay ngân hàng Nhà nước cùng với các ngân hàng thương mại thực hiện chủ trương mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư bằng nhiều biện pháp khuyến khích như miễn phí mở tài khoản, phát hành và sử dụng séc cá nhân, ngân hàng cũng không thu phí. Tại Sở giao dịch tính đến tháng 6/1999 đã có 2121 tài khoản cá nhân được mở nhưng chỉ có 1.011 tài khoản hoạt động và số tài khoản hoạt động thường xuyên chỉ chiếm 30 - 50% tổng số tài khoản cá nhân, số dư tiền gửi bình quân chỉ chiếm từ 0,2 - 0,35% tổng số dư tiền gửi thanh toán và séc cá nhân được sử dụng trong thanh toán cũng rất hạn chế chỉ chiếm từ 0,4 - 0,6% so với tổng doanh số thanh toán qua tài khoản cá nhân (Xem biểu 6 trang 40). Nghị định số 30 CP ngày 9/5/96 ban hành quy chế phát hành và sử dụng séc đã tạo những thuận lợi cho người dùng séc song cũng nảy sinh những phức tạp. Tại chương III điều 12 Nghị định 30/CP ghi "chủ tài khoản được phép uỷ quyền cho người khác ký phát hành séc thay mình và người phát hành séc có quyền hạn và nghĩa vụ như chủ tài khoản trong phạm vi được uỷ quyền" như vậy Nghị định khẳng định quyền của chủ tài khoản (bao gồm chủ tài khoản tiền gửi cá nhân, chủ tài khoản tiền gửi các doanh nghiệp) đều được phép uỷ quyền ký phát h._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC861.doc
Tài liệu liên quan