NGÂN HÀNG TMCP XĂNG DẦU PETROLIMEX CHI NHÁNH HÀ NỘI PHÒNG GIAO DỊCH PHỐ HUẾ
I.Khái quát về ngân hàng TMCP GP Bank chi nhánh Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế
1. Lịch sử hình thành
Ngày 10/01/2009, GP.Bank chính thức khai trương Chi nhánh GP.Bank Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế.Chi nhánh đầu tiên tại Hà Nội, đồng thời là Chi nhánh thứ 8 của GP.Bank trên toàn quốc.Sự ra đời của chi nhánh đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế, ổn định tiền tệ,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước.
N
21 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1925 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Thực tập tại Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex (GPbank) chi nhánh Hà Nội phòng giao dịch phố Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gân hàng TMCP GP Bank Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế là một chi nhánh của ngân hàng TMCP GP Bank đóng vai trò tạo lập nguồn vốn, cung cấp các hình thức dịch vụ ngân hàng, đáp ứng nhu cầu tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn, góp phần thực hiện các mục tiêu,chương trình, giải pháp của Thông đốc ngân hàng nhà nước đề ra,định hướng phát triển kinh doanh của ngân hàng TMCP GP Bank và công cuộc công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước.
Ngân hàng TMCP GP Bank chi nhánh Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế có các chức năng chính sau đây:
Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kì hạn,có kì hạn,tiền gửi thanh toán của tất cả các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ.
- Tiếp nhận vốn tài trợ, tín thác,ủy thác đầu tư từ chính phủ,Ngân hàng nhà nước và các tổ chức quốc tế,quốc gia,các cá nhân trong và ngoài nước
Cho vay ngắn hạn,trung hạn và dài hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế,các cá nhân,hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế.
Chiết khấu các loại giấy tờ có giá bằng tiền
Thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính
Thực hiện nghiệp vụ thanh toán L/C cho khách hàng, bảo lãnh, tái bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh đấu thầu cho các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước hoạt động tại Việt Nam.
Kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng đối ngoại. Thực hiện nghiệp vụ cầm cố bất động sản
2.Giới thiệu về chi nhánh Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế
2.1. Cơ cấu tổ chức
GIÁM ĐỐC
Bộ phận hành chính TH
Bộ phận quản lý tín dụng
Phòng quan hệ khách hàng
. Bộ phận KHDN
. Bộ phận KHCN
. Bộ phận hỗ trợ
Phòng kế toán và DVKD
. Kế toán
. Teller
. Qũy
Phòng giao dịch
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức của GP Bank phòng giao dịch Phố Huế
2.2. Tình hình hoạt động của chi nhánh trong những năm gần đây:
- Tình hình huy động vốn.
Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại GP Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế
( Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế)
Năm
Huy động vốn
Đơn vị
2009
305,158
Tỷ VNĐ
Chuẩn năm gôc
98%
Năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính từ Mỹ bùng nổ và lan rộng ra phạm vi toàn cầu khiến cho tình hình hoạt động của các ngân hàng tại Việt Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tuy nhiên, trước tình hình thế giới đang rơi vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng như vậy thì GP Bank Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế vẫn ra đời. Tháng 01/2009, GP Bank Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế chính thức đi vào hoạt động. GP Bank Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế là chi nhánh đầu tiên của ngân hàng GP Bank tại Hà Nội. Mặc dù còn nhiều khó khăn, tuy nhiên với đội ngũ tín dụng hoạt động hiệu quả làm uy tín của chi nhánh tăng lên cao nên nguồn vốn huy động vẫn ở mức cao. Đặc biệt, thu nhập chủ yếu của Chi nhánh là từ các khoản tiền gửi của khách hàng, chiếm tới 98% thu nhập của chi nhánh. Có thể thấy, trong thời kì nền kinh tế đang suy thoái, người dân rất cẩn trọng khi đầu tư vào bất cứ cái gì, vậy mà Chi nhánh vẫn thu hút được khá đông lượng tiền gửi nhàn rỗi từ dân cư chứng tỏ uy tín của Chi nhánh rất tốt. Đây là một dấu hiệu rất tốt cho sự phát triển của Chi nhánh. Cụ thể nguồn vốn huy động của Chi nhánh được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Tình hình huy động vốn cụ thể của GP Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế (tỷ đồng)
(Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh GP Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế)
Năm
2009
Số tiền
Tỷ trọng(%)
Tiền gửi không kì hạn
37,667
12,343
Tiền gửi không kì hạn cá nhân
12,452
33,058
Tiền gửi không kì hạn TCKT
25,215
66,942
Tiền gửi kí quỹ TCKT
12,325
4,04
Tiền gửi tiết kiệm
255,166
83,62
Kỳ hạn dưới 12 tháng
195,178
76,5
Kỳ hạn trên 12 tháng
59,988
23,5
Nhìn vào bảng trên ta thấy, trong năm 2009, tổng lượng vốn mà Ngân hàng huy động được là 305,158 tỷ đồng, một con số rất ấn tượng. Năm 2009, năm mà toàn thế giới đang phải đối mặt với tình hình suy thoái toàn cầu thì Ngân hàng vẫn thu được một lượng tiền gửi tương đối lớn. Cụ thể tiền gửi không kì hạn là 37,667 tỷ đồng, chiếm 12,343% trong tổng lượng tiền mà chi nhánh huy động được, trong đó lượng tiền gửi không kì hạn của các TCKT chiếm tới 66,942%. Có thể thấy, các TCKT rất tin tưởng vào uy tín của chi nhánh. Họ quyết định đầu tư bằng cách gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi hơn là đầu tư vào các loại hình đầu tư mạo hiểm khác.
Tiền gửi kí quỹ của các TCKT tại Chi nhánh trong năm 2009 là 12,325 tỷ đồng, chiếm 4,04 %. Năm 2009, có một lượng tương đối lớn khách hàng gửi tiền kí quỹ vào ngân hàng để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho ngân hàng. Việc tiếp nhận lượng tiền gửi này giúp Ngân hàng thu được một khoản lợi tương đối lớn do số lượng tiền kí quỹ này chỉ được hưởng với lãi suất của tiền gửi không kì hạn mà thôi.
Lượng tiền gửi tiết kiệm của dân cư gửi vào ngân hàng trong năm vừa qua là rất lớn: 255,166 tỷ đồng, chiếm 83,62%. Trong thời kì nền kinh tế đang suy thoái, người dân luôn cẩn trọng với các loại hình đầu tư mạo hiểm mà hướng tới các loại hình đầu tư có mức độ an toàn cao hơn. Việc lượng tiền gửi tiết kiệm mà ngân hàng thu hút được từ dân cư càng một lần nữa chứng tỏ ngân hàng đã tạo dựng được một uy tín rất tốt trong dân cư. Trong đó ngân hàng chủ yếu là vay ngắn hạn( chiếm 76,5%), điều này giúp cho ngân hàng tránh được những rủi ro lãi suất có thể xảy ra.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ: Đây là hoạt động phụ của chi nhánh. Trong năm 2009, ngân hàng quyết định đa dạng hóa các loại hình đầu tư bằng cách tham gia hoạt động kinh doanh ngoại tệ. tuy nhiên, hoạt động này đã khiến cho ngân hàng bị lỗ 85 tỷ đồng (23,56%).
Hoạt động dịch vụ: Trong thời gian, hoạt động dịch vụ của chi nhánh cũng tương đối phát triển. Thu nhập từ hoạt động dịch vụ chiếm tới 201.31% trong tổng thu nhập lãi thuần của ngân hàng. Lãi thuần từ hoạt động dịch vụ là 4.37%.
Dịch vụ phát hành thẻ và thanh toán thẻ: Hiện nay dịch vụ thẻ của chi nhánh cũng vẫn chỉ có một sản phẩm thẻ duy nhất đó là ATM.Có thể nói, hoạt động này của chi nhánh vẫn chưa thực sự phát triển.
Hoạt động ngân quỹ: hoạt động ngân quỹ của chi nhánh luôn tuân thủ mọi quy trình nghiệp vụ. Cho đến thời điểm hiện nay công tác ngân quỹ của chi nhánh vẫn chưa xẩy ra sai phạm nào. Với 4 cửa thu chi tại chi nhánh và 4 cửa khác tại phòng giao dịch của chi nhánh, đã đáp ứng được nhu cầu giao dịch của khách hàng tại chi nhánh.
Một số hoạt động khác:
Marketing ngân hàng: Hiện nay hoạt động của chi nhánh vẫn chưa thực sự phát triển. Tuy nhiên, với mục tiêu sắp tới của ngân hàng là đạt được tốc độ tăng trưởng đã đặt ra thì các hoạt động của chi nhánh sẽ tiếp tục được mở rộng. Chi nhánh đã bắt đầu quan tâm tới công tác khuêch chương, quảng bá các sản phẩm, dịch vụ của mình. Đồng thời, chi nhánh cũng thực hiện các chính sách ưu đãi đối với các khách hàng của mình.
_ Công tác tuyển dụng: Đây là một công tác rất được chú trọng tại chi nhánh, vì vậy chi nhánh đang lên kế hoạch chuẩn bị tuyển dụng nhân sư trong thời gian tới để đáp ứng cho nhu cầu nhân sự của mình.
_ Công tác đào tạo cán bộ: hiện tại chi nhánh đang lên kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn cũng như kỹ năng chăm sóc cho khách hàng. Nhiều lớp học sẽ được mở trong thời gian tới nhằm mục tiêu này. Và đặc biệt là việc nâng cao trình độ cho lớp cán bộ mà chi nhánh sẽ tuyển dụng trong thời gian tới.
Kết quả và hiệu quả kinh doanh của chi nhánh:
Bảng 3: Bảng báo cáo kết quả hoạt động của GP
(Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh GP Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế)
Năm
2009
Đơn vị
Lợi nhuận sau thuế
1518
Triệu đồng
Có thể thấy, trong giai đoạn này, tình hình hoạt động kinh doanh của GP Bank Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế là khá tốt. Năm 2009, khi nền kinh tế thế giới đang rơi vào tình trạng suy thoái, và hơn thế nữa, trước đó năm 2008 là thời kì khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động của các ngân hàng Việt Nam nói chung và ngân hàng GP Bank Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế nói riêng. Tuy nhiên, với đội ngũ nhân viên hoạt động có hiệu quả cùng với sự chỉ đạo tài năng của giám đốc chi nhánh, nên ngân hàng đã đạt được mức lợi nhuận rất ấn tượng: 1,518 tỷ đồng. Một tốc độ tăng ấn tượng trong thời kì nền kinh tế đang suy giảm.
II. Thực trạng về tình hình quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP GP Bank Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế:
1. Thực trạng hoạt động tín dụng tại NHTMCP GP Bank chi nhánh Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế
1.1. Tình hình dư nợ tín dụng
Biểu dồ 1: Dư nợ tín dụng của GP Bank Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế
(Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế)
1.2. Phân loại tín dụng theo thành phần kinh tế( tỷ đồng)
Bảng 4: Bảng phân loại tín dụng theo thành phần kinh tế
(tỷ đồng)
(Nguồn: Phòng Quan hệ khách hàng)
Năm
2009
Cho vay doanh nghiệp
257,356
%
78%
Cho vay cá nhân
72,592
%
22%
Tổng
329,948
Qua bảng trên ta thấy, trong năm 2009 vừa qua, GP Bank Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế vẫn tập trung nhiều vào cho vay khách hàng là doanh nghiệp( chiếm 78% tổng doanh số cho vay của Chi nhánh). Đây vẫn là khoản thu nhập chính của chi nhánh. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể thấy, tỷ trọng của cho vay khách hàng là cá nhân cũng khá cao( 22%). Điều đó cho thấy chi nhánh đang bắt đầu quan tâm hơn đến các khoản cho vay nhỏ của các cá nhân. Đối với một chi nhánh mới thành lập như GP Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế, các khoản vay nhỏ này đóng một vai trò quan trọng trong quá trình mở rộng tín dụng của chi nhánh. Đánh giá được vai trò của các khoản vay cá nhân này, chi nhánh GP Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế đã có những chính khuyến khích phát triển thị trường bán lẻ này, như lãi suất hấp dẫn, hay như đối với các khoản vay tiêu dùng với những tài sản lớn như mua nhà, ô tô khách hàng có thể dùng chính tài sản đó làm tài sản thế chấp...Chính vì vậy, Chi nhánh đã cho vay được một số lượng tương đối lớn cho những khách hàng cá nhân.
1.3. Phân loại tín dụng theo kì hạn
Bảng 5: Bảng phân loại tín dụng theo kỳ hạn (tỷ đồng)
(Nguồn: Phòng quan hệ khách hàng)
Năm
2009
Cho vay ngắn hạn
122,629
%
36,82%
Cho vay trung hạn
41,712
%
12,53%
Cho vay dài hạn
168,672
%
50,65%
Tổng
333,013
Nhìn vào bảng trên ta thấy, trong năm 2009 vừa qua, Chi nhánh cho vay dài hạn với tỷ trọng khá lớn( 50,65%). Có được điều này là do, đầu năm 2009, Chính phủ thực hiện gói kích cầu: hỗ trợ 4% lãi vay một năm, và cạnh đó là việc nhận định nền kinh tế đã bắt đầu có dấu hiệu sẽ phục hồi trong thời gian tới nên lãnh đạo Chi nhánh Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế đã mạnh dạn đầu tư vào các khoản vay dài hạn. Bên cạnh đó, tỷ trọng của cho vay ngắn hạn cũng ở mức tương đối( 36,82%), điều này cho thấy Chi nhánh đã cân đối thời hạn cũng như trọng lượng của các khoản cho vay ngắn hạn và dài hạn để hạn chế rủi ro cho Ngân hàng.
1.4. Phân loại tín dụng theo chất lượng
Bảng 6: Bảng phân loại tín dụng theo chất lượng (tỷ đồng)
(Nguồn: Phòng quản lý tín dụng)
Năm
2009
Nợ đạt tiêu chuẩn
196,323
%
95,57%
Nợ không đạt tiêu chuẩn
9,092
%
4,43%
Tổng
205,415
Qua bảng trên ta nhận thấy, tỷ lệ nợ đạt tiêu chuẩn của chi nhánh ở mức rất cao ( đạt 95,57%) trong khi tỷ lệ nợ không đạt tiêu chuẩn chỉ là 4,43%. Điều này cho thấy chất lượng các khoản vay của Chi nhánh đạt mức ổn định và có độ an toàn cao. Chi nhánh đã thực hiện tốt công tác thẩm định chất lượng khoản vay: về mục đích sử dụng, thời hạn vay, số lượng cho vay……..chính vì vậy Chi nhánh hầu như không có nợ xấu, các khoản nợ đều đạt tiêu chuẩn. Đây là một dấu hiệu rất tốt cho các hoạt động của chi nhánh.
2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại NHTMCP GP Bank Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế
2.1. Thực trạng rủi ro tín dụng tại NHTMCP GP Bank Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế
Tình hình rủi ro tín dụng của Chi nhánh được thể hiện rõ nét qua bảng sau:
Bảng 7: Bảng phân loại dư nợ cho vay theo mức độ rủi ro tại GP Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế (tỷ đồng)
(Nguồn: Phòng quản lý tín dụng)
Năm
2009
Nợ đủ tiêu chuẩn
196,323
%
95,57%
Nợ cần chú ý
3,257
%
1,586%
Nợ dưới tiêu chuẩn
0,212
%
0,1%
Nợ nghi ngờ
0.188
%
0,09%
Nợ có khả năng mất vốn
5,417
%
2,654%
Tổng
205,415
Nhìn vào bảng trên ta thấy, cơ cấu nợ trong năm 2009 vừa qua của chi nhánh còn tương đối nhiều bất ổn. Cụ thể, tỷ trọng của khoản nợ có khả năng mất vốn còn khá cao ( chiếm 2,654%) trên tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh. Mặc dù tỷ trọng của các khoản nợ đủ tiêu chuẩn rất cao( chiếm 95,57%) tuy nhiên đây cũng là một vấn đề mà ngân hàng cần quan tâm để có những chính sách cho vay hợp lý nhằm làm giảm tỷ trọng của các khoản nợ có khả năng mất vốn. Ngoài ra, tỷ trọng của các khoản nợ khác trong cơ cấu khoản nợ của Chi nhánh đã ở mức hợp lý, Chi nhánh nên phát huy để giữ ổn định tỷ lệ.
Để tìm hiểu rõ hơn tình hình rủi ro tín dụng tại chi nhánh chúng ta sẽ xem xét tới bảng phân loại nợ không đủ tiêu chuẩn theo thời hạn.
Bảng 8: Bảng phân loại nợ không đủ tiêu chuẩn theo thời hạn của GP Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế (Tỷ đồng)
(Nguồn: Phòng quản lý tín dụng)
Năm
2009
Ngắn hạn
5,024
Nợ cần chú ý
0,276
Nợ có khả năng mất vốn
4,748
Trung hạn
2,036
Nợ cần chú ý
1,636
Nợ dưới tiêu chuẩn
0,212
Nợ nghi ngờ
0,188
Dài hạn
2,032
Nợ cần chú ý
2,032
Nhìn vào bảng trên ta thấy, phần lớn các khoản nợ xấu của Chi nhánh đều tập trung vào các khoản nợ ngắn hạn mà trong đó lại chủ yếu là các khoản nợ có khả năng mất vốn. Đây là một điều đáng báo động cho Chi nhánh về công tác tín dụng và công tác quản trị rủi ro. Ngân hàng cần chú trọng hơn tới các khoản vay ngắn hạn để nâng cao chất lượng các khoản vay. Các khoản nợ trung hạn và dài hạn, thì khoản nợ không đạt tiêu chuẩn chủ yếu tập trung vào nợ cần chú ý. Điều này cho thấy, mức nợ không đạt chuẩn của chi nhánh tuy cao nhưng cũng chưa thực sự nguy hiểm đối với hoạt động của chi nhánh.
Phân loại nợ không đạt chuẩn theo đối tượng vay:
Bảng 9: Bảng phân loại nợ không đạt chuẩn theo đối tượng vay (tỷ đồng)
(Nguồn: Phòng quản lý tín dụng)
Năm
2009
Dư nợ không đạt chuẩn của cá nhân
2,539
Dư nợ không đạt chuẩn của KHDN
6,553
Tổng
9,092
Qua bảng trên ta thấy, dư nợ không đạt chuẩn của Chi nhánh trong thời gian qua tập trung chủ yếu là từ các khách hàng doanh nghiệp. Vì vậy, Chi nhánh cần chú trọng hơn tới các khoản vay khách hàng doanh nghiệp để tránh những rủi ro có thể xảy ra.
2.2. Nguyên nhân của các rủi ro tín dụng mà chi nhánh mắc phải
Sau khi nghiên cứu tình hình rủi ro tín dụng của chi nhánh GP Bank Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế, tôi đã rút ra được một số nguyên nhân dẫn tới các rủi ro tín dụng mà chi nhánh Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế đã mắc phải trong thời gian qua. Trước hết là một số nguyên nhân từ phía khách hàng:
Đầu tiên, là do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích. Khi vay vốn ngân hàng đa số các doanh nghiệp đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại thường hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của chi nhánh. Tại GP Bank Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế, tuy các rủi ro từ nguyên nhân này chưa để lại hậu quả lớn, nhưng cũng đã gây ra một số khoản nợ quá hạn. Rủi ro xuất phát từ nguyên nhân này của chi nhánh thường xuất hiện đối với các khoản vay:
- Với các khoản cho vay hạn mức nhưng không kiểm soát được việc sử dụng vốn vay của khách hàng. Khách hàng lợi dụng hạn mức được vay để tiến hành vay vốn sử dụng vào những mục đích rủi ro,
- Khách hàng cùng lúc triển khai nhiều dự án, phương án, dùng nguồn nguồn vốn vay được của chi nhánh cho dự án này sang sử dụng ở dự án khác.
- Số tiền vay quá lớn so với nhu cầu vốn thực sự của khách hàng.
- Cho vay đầu tư dự án với thời hạn không phù hợp với khả năng khấu hao, hoàn vốn của khách hàng dẫn đến khách hàng bị buộc phải dùng nguồn ngắn hạn lưu động để đầu tư sử dụng cho các tài sản dài hạn.
- Khách hàng cùng lúc vay nhiều TCTD, dẫn đến không kiểm soát được dòng tiền của đơn vị.
- Thời hạn cho vay (nhất là vay vốn lưu động) dài hơn mức cần thiết so với chu kỳ dòng tiền, dẫn đến khách hàng sử dụng tạm thời nguồn tiền khi chưa đến hạn trả nợ cho ngân hàng.
Hai là, khách hàng bị chiếm dụng vốn, có hiện tượng thanh toán chậm hoặc không thanh toán giữa khách hàng và đối tác dẫn tới mất cân đối tiền vay và tài sản hình thành từ vốn vay. Từ đó dẫn tới ảnh hưởng đến kế hoạch trả nợ của khách hàng đối với chi nhánh.
Ba là, báo cáo tài chính của khách hàng không minh bạch. Những báo cáo tài chính có độ chính xác thấp, thiếu minh bạch sẽ gây khó khăn cho cán bộ tín dụng, có thể dẫn đến những nhận định sai lầm và đưa ra quyết định tín dụng không hợp lý. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực.
Bốn là, khách hàng không có đủ hoặc không thu xếp được nguồn vốn như kế hoạch, chính vì vậy dẫn tới không trả được nợ đúng hạn gây ra các khoản nợ quá hạn tại chi nhánh.
Năm là, không đánh giá đúng tình trạng tổng thể của khách hàng do: Khách hàng có nhiều đơn vị hạch toán phụ thuộc nằm ở nhiều địa bàn (nhất là thuộc lĩnh vực thu mua xuất khẩu, giải ngân tiền mặt) bị chậm trễ khi quyết toán tài chính. Các phương án từng lần trong cho vay theo hạn mức tín dụng đều có lãi, nhưng tổng hợp cả năm thì lỗ.
Sáu là, khách hàng chủ đích lừa đảo thường xảy ra đối với các doanh nghiệp thành lập nhiều công ty trong cùng một nhóm để vay vốn; hoặc đối với các chủ doanh nghiệp là người nước ngoài, việt kiều đầu tư nhập khẩu máy móc thiết bị… Trong trường hợp này nếu rủi ro xảy chi nhánh sẽ khó đòi được khoản tiền đã cho vay.
Nhóm nguyên nhân thuộc về Ngân hàng
Chưa thực sự chú trọng đến chất lượng tín dụng. Chúng ta có thể thấy, sau 1 năm được thành lập, nguồn vốn mà chi nhánh huy động được chiếm tới 98% trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng. Trong khi đó, dư nợ tín dụng của Ngân hàng chiếm tới 100.34% tổng tài sản của Ngân hàng. Như vậy, có thể thấy, mức dư nợ tín dụng của Ngân hàng đã vượt số lượng vốn mà Ngân hàng huy động được. Bên cạnh đó, dư nợ tín dụng của chi nhánh cũng gần bằng với tổng số vốn huy động được trong nền kinh tế của chi nhánh, điều đó cho thấy chi nhánh đang có hiện tượng đầu tư tín dụng ồ ạt, chạy theo phong trào, theo những đòi hỏi khách hàng mà thiếu có sự thận trọng cần thiết. Tập trung quá cao cho một mục tiêu tăng trưởng tín dụng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt tất yếu dẫn đến việc giảm thấp điều kiện cung cấp tín dụng và nới lỏng kiểm soát cho vay.
Đội ngũ cán bộ tín dụng của chi nhánh đều còn rất trẻ, kinh nghiệm và năng lực thẩm định của cán bộ còn nhiều hạn chế, một số dự án đầu tư không được thẩm định chính xác về năng lực vốn, nguồn lao động tại khu vực triển khai dự án, năng lực của chủ doanh nghiệp nên khi dự án đi vào hoạt động chất lượng không cao gây khó khăn cho việc thu hồi vốn của ngân hàng. Vẫn còn hiện tượng thẩm định cho vay (nhất là đầu tư dự án) nhưng không thực sự hiểu các nội dung cơ bản về mặt kỹ thuật, công nghệ của sản phẩm, chu trình sản xuất, đặc điểm kinh doanh mặt hàng dẫn tới những nhận định sai và đưa ra những quyết định không hợp lý. Ngoài ra, các cán bộ tín dụng của chi nhánh vấn còn kém về khả năng tư vấn khách hàng giúp khách hàng vượt qua những khó khăn tạm thời, có thể nói đây không chỉ là yếu kém của chi nhánh mà còn là mặt yếu chung của hệ thống ngân hàng nước ta hiện nay.
Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. Hiện tại, ở chi nhánh chưa phát sinh một rủi ro nào liên quan đến đạo đức của cán bộ tín dụng, tuy nhiên đây cũng là một vấn đề đáng quan tâm, vì một khi rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng mà xẩy ra thì sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng cho chi nhánh.
Quá trình kiểm tra, giám sát sau khi cho vay của chi nhánh còn nhiều sơ hở, sai sót nên không thể giám sát được việc sử dụng vốn vay của khách hàng cũng như không kịp thời thu hồi được tiền hàng để thu nợ.
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay tồn tại một thực tế là sự trao đổi hợp tác giữa các ngân hàng vẫn còn hạn chế, cạnh tranh nhiều hơn là hợp tác. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào. Qua quá trình thực tập tại chi nhánh, tôi nhận thấy rằng sự hợp tác giữa chi nhánh và các ngân hàng khác trong lĩnh vực này là chưa cao.
Bên cạnh đó là tình hình trang thiết bị thông tin của chi nhánh còn chưa đầy đủ, khả năng thu thập thông tin khách hàng còn hạn chế.
Chi nhánh cũng còn gặp khó khăn trong việc xác định giá trị tài sản đảm bảo. Thực tế các tài sản đảm bảo mà khách hàng sử dụng để thế chấp đều là nhà cửa, đất đai, các loại máy móc thiết bị. Mức giá của các loại tài sản này thường biến động liên tục gây khó khăn cho việc định giá. Đối với các loại máy móc thiết bị, chi nhánh yêu cầu phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu, nhưng các loại tài sản này thường được mua đi bán lại nên các loại giấy tờ này thường không đầy đủ.
Nguyên nhân khác:
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của chi nhánh phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút. Cũng như đối với các TCTD khác đây cũng là một vấn đề mà chi nhánh đang phải đối mặt.
Bên cạnh đó là tình hình khó khăn chung của nền tài chính thế giới trong giai đoạn vừa qua cũng ảnh hưởng không nhỏ tới Việt Nam.
Nhưng khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng cho vay giữa các ngân hàng. Ngoài ra đầu tư trực tiếp (FDI) của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng vì FDI vào Việt Nam phần lớn là vốn vay chứ không phải vốn tự có, nên nếu các nhà đầu tư không dàn xếp được khoản vay sẽ khó giải ngân được. Trước những ảnh hưởng đó của cuộc khủng hoảng, tình trạng các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ hoặc rơi vào tình trạng giật gấu và vai. Đó cũng lầ một nguyên nhân dẫn tới các khoản nợ quá hạn của chi nhánh.
Bên cạnh đó chúng ta cũng không thể nhắc đến một nguyên nhân quan trọng khác có thể dẫn tới rủi ro tín dụng của chi nhánh đó chính là sự biến động của lãi suất trong thời gian qua. Trong năm 2007, chúng ta đã chứng kiến một cuộc cạnh tranh khốc liệt của các ngân hàng, cuộc đua tăng lãi suất huy động. Trong thời gian đó, có những lúc lãi suất huy động của ngân hàng có lúc lên tới 20%/năm. Nhưng ngay sau đó dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, như đã phân tích ở trên đã tác động không nhỏ đến lãi suất. Nó đã làm cho lãi suất cho vay của các ngân hàng xuống mức rất thấp. Và chi nhánh cũng không nằm ngoài ảnh hưởng của sự biến đổi lãi suất này.
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ.
Rủi ro chính sách cũng là một rủi ro mà các ngân hàng nói chung cũng như chi nhánh GP Bank Hà nội Phòng giao dịch Phố Huế nói riêng phải đối mặt. Có thể thấy rủi ro tín dụng ở nước ta chịu ảnh hưởng rất nhiều của yếu tố chính sách. Sự không ổn định trong chính sách đã khiến cho các doanh nghiệp khó có thể chủ động trong lĩnh vực kinh doanh của mình, qua đó sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính của người vay, dẫn tới việc không có khả năng trả nợ gây ra rủi ro tín dụng đối với chi nhánh. Rủi ro do nguyên nhân này thường xảy ra ở các khoản vay: Kinh doanh thương mại nhập hàng về bán trong nước (ô tô, xe máy, gỗ tròn…), Đầu tư, kinh doanh bất động sản. Bên cạnh đó sự thay đổi chính sách cũng tác động trực tiếp tới rủi ro tín dụng của ngân hàng. Thí dụ như trong thời gian mấy tháng đầu năm 2009, gói kích cầu hỗ trợ lãi suất 4%/năm của chính phủ đã tạo ra một nhu cầu vay vốn lớn tại chi nhánh trng thời gian vừa qua. Lượng khách hàng vay tăng lên cao trong khi số lượng cán bộ tín dụng có hạn đã khiến cho các cán bộ của chi nhánh phải tiếp nhận một khối lượng công việc lớn, do đó sơ suất xẩy ra là một điều khó tránh khỏi.
Hiện nay ở VN chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN đã hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật và ngoài ra việc kết nối thông tin với trang Web – CIC của Chi cục tin học ngân hàng còn nhiều trục trặc, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin tại Hà Nội. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng.
LỜI KẾT
Trong thời gian thực tập tại công ty và nghiên cứu chuẩn bị viết đề tài tốt nghiệp, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân và những kinh nghiệm có được qua những năm tháng học tập và làm việc, tôi đã được sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong khoa và các anh chị em làm việc tại ngân hàng và các bạn trong lớp. Nhân đây, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự giúp đỡ quý báu đó. Đặc biệt là đối với Cô giáo TS. Trần Thị Thanh Tú đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành báo cáo này.
Tôi xin chân thành cảm ơn:
Vì điều kiện thời gian, kiến thức và năng lực bản thân còn nhiều hạn chế nên trong bản báo cáo này không sao tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy, cô.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 23 tháng 08 năm 2010
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26979.doc