Báo cáo Thực tập tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hà Nội

MỤC LỤC 1. Quá trình hình thành và phát triển Ngày 26 tháng 3 năm 1988 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định số 53/HĐBT thành lập các Ngân hàng chuyên doanh, trong đó có Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Việt Nam (nay là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam). Ngân hàng nông nghiệp được phát triển trên một số Cục, Vụ ngân hàng nhà nước Trung ương; các chi nhánh trực thuộc được tách từ các ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố và tiếp nhận toàn bộ mạn

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2079 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Thực tập tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lưới, con người, bộ máy, cơ sở vật chất…của các chi nhánh ngân hàng nhà nước huyện, thị. Để mở rộng mạng lưới hoạt động của mình, ngân hàng phát triển Nông nghiệp Việt Nam đã thành lập các chi nhánh, các sở giao dịch, và các phòng giao dịch trên phạm vi khắp cả nước. Theo tinh thần đó, Chi nhánh Ngân Hàng Phát triển Nông Nghiệp Thành phố Hà Nội (nay là NHNo&PTNT Hà Nội) đã được thành lập theo quyết định số 51-QĐ/NH/QĐ ngày 27/6/1988 của Tổng Giám đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam (nay là Thống đốc NHNN Việt Nam) trên cơ sở 28 cán bộ cùng với 21 Công ty, xí nghiệp thuộc lĩnh vực Nông, Lâm, Ngư nghiệp được điều động từ Ngân hàng Công-Nông-Thương thành phố Hà Nội và 12 chi nhánh Ngân hàng phát triển nông nghiệp huyện được đổi tên từ các Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước đã hội tụ về trụ sở chính tại số 77 Lạc Trung, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Từ những ngày đầu thành lập, với 1.182 lao động, 18 tỷ nguồn vốn, chủ yếu là tiền gửi Ngân sách huyện và 16 tỷ dư nợ mà hầu hết là nợ cho vay các xí nghiệp Quốc doanh, các hợp tác xã đã trở thành nợ tồn đọng,trụ sở, phương tiện, kho tàng không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh. Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Hà Nội đã gặp không ít khó khăn và sớm phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh với các Ngân hàng đã có bề dày hoạt động kinh doanh và có nhiều lợi thế hơn hẳn, không những thế còn luôn trong tình trạng thiếu vốn, thiếu tiền mặt. Những năm đầu cùng với sự hỗ trợ nguồn vốn của Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Trung ương cũng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vay vốn của Liên hiệp các Công ty Lương thực Hà Nội để mua gạo cho nhân dân nội thành, một phần nhu cầu tiền mặt chi lương cho các doanh nghiệp. Nhận rõ trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, mà trọng tâm là phát triển kinh tế nông nghiệp, góp phần đổi mới Nông thôn ngoại thành Hà Nội, Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Hà Nội đã nhanh chóng khai thác nguồn vốn để đầu tư cho các Thành phần kinh tế mà trước hết là đầu tư cho Nông Nghiệp. Nhờ có những quyết sách táo bạo, đổi mới nhận thức kiên quyết khắc phục điểm yếu nhất là thiếu vốn, thiếu tiền mặt, nhờ vậy chi sau hơn hai năm hoạt động, từ năm 1990 trở đi Ngân hàng NHNo Hà Nội đã có đủ nguồn vốn và tiền mặt thỏa mãn cơ bản các nhu cầu tín dụng và tiền mặt cho khách hàng. Thực hiện chủ trương cho vay hộ sản xuất theo quyết định 499A của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam, NHNo&PTNT Hà nội đã phối hợp với Hội Nông đân, Hội liên hiệp phụ nữ thành phố đã đẩy mạnh cho vay phát triển các sản phẩm Nông Nghiệp như trồng dâu nuôi tằm, chăn nuôi bò sữa, gia súc, gia cầm, phát triển vùng chuyên canh rau, hoa cây cảnh...nhờ vậy thu nhập và đời sống nông dân ngoại thành đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ hộ khá và gia tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống đáng kể. Tháng 9 năm 1991, 7 Ngân hàng huyện thị: Mê Linh, Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Ba Vì, Phúc Thọ, thị xã Sơn Tây được bàn giao về Vĩnh Phúc và Hà Tây. Tiếp theo đó thực hiện mô hình hai cấp từ tháng 10/1995 NHNo&PTNT Hà Nội đã bàn giao 5 Ngân hàng Sóc Sơn, Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, từ tháng 11 năm 2004 đến nay tiếp tục bàn giao các chi nhánh Chương Dương và Tây hồ, Cầu Giấy, Thanh Xuân về Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, lúc này NHNo&PTNT Hà Nội lại đứng trước một thử thách mới đó là mang tên Ngân hàng nông nghiệp nhưng lại phục vụ các thành nghiệp kinh tế không mang dáng dấp cả sản xuất nông nghiệp giữa nội đô Thành phố Hà Nội. Những khó khăn tương chừng đã với dần đi, những cơ chế thị trường đã làm nhiều doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp Nhà nước làm ăm thua lỗ mất vốn, có vay mà không có trả, nhiều doanh nghiệp được khoanh, giãn nợ từ các năm 1995 đến nay không có khả năng trả nợ dồn lại, khó khăn trong những năm sau này còn nặng nề, phức tạp gấp nhiều lần khi thiếu vốn, thiếu tiền mặt của thời kỳ mới thành lập song được NHNo&PTNT Việt Nam, NHNN Việt Nam, Thành Uỷ, UBND thành phố Hà Nội và các ban ngành từ Trung ương đến địa phương giúp sức cùng với sự kiên trì, năng động, sáng tạo của Đảng Uỷ, Ban Giám Đốc, của Đảng bộ với 156 Đảng viên cùng với tập thể viên chức đã lao động cần cù miệt mài đã từng bước vượt qua những trở ngại thách thức. Từ chỗ luôn thiếu tiền mặt để chi cho các nhu cầu lĩnh tiền mặt, đến nay luôn bội thu tiền mặt, tất cả các nhu cầu nộp lĩnh tiền mặt của các đơn vị và cá nhận có quan hệ tiền mặt với NHNo&PTNT Hà Nội đều được đáp ứng kịp thời, đầy đủ, chính xác góp phần tích cực vào sự ổn định tiền tệ và giá cả trên địa bàn Hà Nội. Để đứng vững, tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường NHNo&PTNT Hà Nội đã chủ động mở rộng màng lưới để huy động vốn và đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các thành phân kinh tế trên địa bàn Hà Nội. Năm 1994 thành lập Ngân hàng khu vực chợ Hôm (nay là Hai Bà Trưng) Năm 1995 thành lập Ngân hàng khu vực Đồng Xuân (nay là Hoàn Kiếm) Năm 1996 thành lập các Ngân hàng quận Tây Hồ, Ba Đình, Thanh Xuân Năm 1997 thành lập NH quận Cầu Giấy Năm 2000 thành lập Nh quận Đống Đa và khu vực Tam Trinh Năm 2001 thành lập 10 Phòng giao dịch Năm 2002 thành lập 2 Ngân hàng Chương Dương và Tràng Tiền Plaza Năm 2003 thành lập 3 chi nhánh Chợ Hôm, chi nhánh Hàng Đào, chi nhánh Nghĩa Đô Tháng 12/2004 bàn giao chi nhánh Chương Dương về Long Biên và chi nhánh Tây Hồ về Quảng An. Năm 2005 thành lập chi nhánh Trần Duy Hưng Năm 2006 bàn giao chi nhánh NH quận Cầu Giấy về trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam. Đến nay, NHNo&PTNT Hà Nội có 25 phòng giao dịch và 11 chi nhánh trực thuộc. Ngoài những nhiệm vụ chính NHNo&PTNT Hà Nội đã quan tâm mở rộng các loại hình dịch vụ tiện ích như chuyển tiền, bảo lãnh dự thầu, bào lãnh thực hiện hợp đồng, mở LC nhập khẩu, Phonebanking, thẻ ATM, thẻ tín dụng nội địa, thẻ ghi nợ, tự vấn trong thanh toán Quốc tế, thu tiền tại nhà....mở mang nhiều tiện lợi cho khách hàng và tăng thu dịch vụ cho Ngân hàng, bình quân thu dịch vụ chiếm 12-15% trên tổng thu. Mặc dù còn nhiều khó khăn trở ngại, song NHNo&PTNT Hà Nội kiên quyết thực hiện đổi mới trong cách nghĩ, cách làm, đặc biệt trong chỉ đạo điều hành, từ chỗ quen với cơ chế bao cấp, ỷ lại và câp trên, không chú trọng đến chất lượng kinh doanh, đến nay trọng tâm hàng đầu mà mọi thành viên của NHNo&PTNT Hà Nội đều thực sự quan tâm là hiệu quả kinh doanh cuối cùng, đặc biệt là chất lượng tín dụng. Để chuẩn bị cho hội nhập trong khu vực và quốc tế NHNo&PTNT Hà Nội đã từng bước hiện đại hóa hoạt động Ngân hàng mà trọng tâm là công tác thanh toán, chuyển tiền điện tử cho khách hàng, đến nay mọi nhu cầu chuyển tiền cho khách hàng trong và ngoài hệ thống được thực hiện ngay trong ngày làm việc, thậm chí chỉ trong thời gian rất ngắn với độ an toàn và chính xác cao. Trong quá trình xây dựng và trưởng thành. NHNo&PTNT Hà Nội luôn luôn lấy đoàn kết nội bộ làm trọng tâm, phát huy sức mạnh của các tổ chức quần chúng như Công đoàn cơ sở, Đoàn Thanh niên Công sản Hồ Chí Minh, Ban nữ công...vừa mở rộng hoạt động kinh doanh, cán bộ viên chức NHNo&PTNT Hà Nội đã tích cực hưởng ứng các công tác xã hội nhu ủng hộ đồng bào bị thiên tai, bão lụt, ủng hộ người nghèo, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, tổ chức thăm hỏi và tặng quà các gia đình thương binh, liệt sỹ với trên 300 triệu, nuôi dưỡng 1 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, ủng hộ xây nhà tình nghĩa cho các gia đình chính sách với 152 triệu đồng.... Với những công hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát triên kinh tế Thủ đô cũng như với sự phát triển của ngành Ngân hàng, từ ngày thành lập đến nay Đảng Bộ NHNo&PTNT Hà Nội luôn đạt danh hiệu Đảng Bộ trong sạch vững mạnh, được Nhà nước tặng thưởng 1 Huân chương Lao động hạng Ba, 1 Huân chương Chiến công hạng Ba, 2 Bằng khen của Thủ tướng Chính phụ, 37 Bằng khen của Thống đôc s NHNN Việt Nam, 33 bằng khen của Chủ tích UBND thành phố Hà Nội, 39 Chiến sỹ thi đua, 1266 lượt lao động giỏi cấp cơ sở. Sau 20 năm phấn đấu, xây dựng và từng bước trưởng thành, NHNo&PTNT Hà Nội đã đi những bước vững chắc với sự phát triển toàn diện trên các mặt huy động nguồn vốn, tăng trưởng đầu tư và nâng cao chất lượng tín dụng, thu chi tiền mặt, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, phát triển đa dạng hoá dịch vụ đặc biệt chi trả lương ngân sách qua thẻ ATM và các hoạt động khác. Về nguồn vốn: Từ 18 tỷ khi mới thành lập đến tháng 5/2003 NHNo Hà Nội đã huy động được 7500 tỷ, tăng 30% mỗi năm. Trong đó, nguồn vốn ngoại tệ chiếm 11% đến nay có thể đáp ứng các nhu cầu tín dụng nội, ngoại tệ của các doanh nghiệp. Về Dư nợ 2300 tỷ, tăng 143 lần, trong đó Dư nợ tài trợ nhập khẩu gần 20 triệu USD, chất lượng tín dụng đặc biệt chú trọng đã nâng dần hiệu quả kinh doanh của NHNo Hà Nội. Từ 2006 thực hiện đề án cơ cấu lại ngân hàng và đề án kinh doanh trên địa bàn đô thị loại I giai đoạn 2006- 2010 hoạt động theo mô hình kinh doanh đa cấp. Hai mươi năm, một chặng đường chứa đựng những thay đổi to lớn, đánh dấu sự phát triển và trưởng thành của một ngân hàng chi nhánh. NHNo&PTNT Hà Nội luôn là lá cờ đầu vững mạnh trong hệ thống ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung. Tin rằng trước yêu cầu của nền kinh tế trong quá trình hội nhập NHNo&PTNT Hà Nội sẽ phát triển bền vững và giành được nhiều thành tích to lớn hơn nữa. 2. Hoạt động và cơ cấu tổ chức 2.1. Cơ cấu tổ chức Ngân hàng NN&PT Hà Nội là đơn vị trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam, hoạt động theo mô hình tổng công ty 90, hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng, có tư cách pháp nhân với thời gian hoạt động là 99 năm. Là đơn vị có quyền tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh. Đến nay, Ngân hàng đã có 9 phòng ban và 11 chi nhánh cấp 2 trực thuộc. Đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn: tiến sĩ, thạc sỹ 0,5%; Đại học, cao đẳng 31%, trung học 47%, chứng chỉ 8,5%, Sơ cấp 13%. Cơ cấu tổ chức bao gồm Ban giám đốc và các phòng ban nghiệp vụ vừa tiến hành kinh doanh chung đối với các chi nhánh trực thuộc vừa tham mưu giúp việc cho ban giám đốc. Ban giám đốc của Ngân hàng NN&PTNT Hà Nội bao gồm giám đốc và ba phó giám đốc. Giám đốc hiện nay là ông Nguyễn Quốc Hùng. Các phòng chức năng tại NHNo&PTNT Hà Nội: Phòng kế toán- ngân quỹ Phòng tín dụng Phòng kế hoạch tổng hợp Phòng thanh toán quốc tế Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ Phòng thẻ Phòng dịch vụ- marketing Phòng hành chính- nhân sự Phòng điện toán Phó giám đốc Phòng kế hoạch- tổng hợp Phòng thanh toán quốc tế Phòng tín dụng Phòng hành chính- nhân sự Phòng dịch vụ- marketing Phòng kiểm soát nội bộ Phòng kế toán- ngân quỹ Phòng kế toán- ngân quỹ Phòng thẻ Giám đốc Hình 1.1 Sơ đồ cơ cấu tổ chức NHNo Hà Nội 2.2. Hoạt động của NHNo&PTNT Hà Nội Nội dung hoạt động bao gồm: Vừa quản lý điều hành, chỉ đạo hoạt động kinh doanh của các chi nhánh trực thuộc vừa trực tiếp kinh doanh tại trụ sở. Huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của tất cả các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước và ngoài nước trên địa bàn bằng đồng VN và ngoại tệ dưới nhiều hình thức linh hoạt. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kì phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động khác theo quy định của Ngân hàng NN và NH NNo&PTNT Việt Nam. Được phép vay vốn của các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn. Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn ủy thác của Chính phủ, chính quyền địa phương và các tổ chức cá nhân trong nước và ngoài nước theo quyết định của ngân hàng NNo&PTNT Việt Nam. Cho vay ngắn hạn , trung và dài hạn bằng VNĐ và bằng ngoại tệ đối với tất cả các thành phần kinh tế để sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Thực hiện thu chi tiền mặt, cân đối điều hòa vốn với các chi nhánh ngân hàng NNo&PTNT trực thuộc. Thực hiện kinh doanh mua bán, thu đổi ngoại tệ, thanh toán quốc tế và các dịch vụ khác về ngoại tệ theo quy định của NHNN Việt Nam. Cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng như dịch vụ thẻ ATM, dịch vụ chuyển tiền trong và ngoài nước, bảo lãnh L/C, két sắt, môi giới, cầm cố chứng từ có giá, vàng và bất động sản, thu chi hộ, dịch vụ tư vấn, dịch vụ kiều hối, dịch vụ ngân quỹ và các dịch vụ khác. Thực hiện đầu tư dưới các hình thức hùn vốn kinh doanh và các hình thức khác với các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nền kinh tế. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra kiểm toán nội bộ và với các chi nhánh ngân hàng trưc thuộc. 3. Môi trường họat động kinh doanh: Là đơn vị trực thuộc Ngân hàng NNo&PTNT Việt Nam, lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Ngân hàng No&PTNT Hà Nội là đầu tư vốn phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng như đối với các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Hoạt động trong lĩnh vực tài chính- ngân hàng. do đó Ngân hàng No Hà Nội các hoạt động : Huy động vốn, cho vay, đầu tư, thanh toán, mua bán ngoại tệ và chứng khoán. Ngân hàng No Hà Nội cho vay các thành phần kinh tế theo lãi suất thỏa thuận với các loại hình cho vay đa dạng: ngắn hạn, trung và dài hạn bằng đồng VN và các lạo ngoại tệ mạnh khác; cho vay cá nhân, hộ gia đình có bảo đảm bằn tài sản, cho vay tiêu dùng. Ngoài ra, ngân hang còn thực hiện hoạt động đầu tư bằng cách đồng tài trợ cho các dự án, các chương trình kinh tế lớn với tư cách là ngân hàng đầu mối hoặc ngân hàng thành viên với thủ tục thuận lợi và hoàn thành nhanh nhất Để mở rộng phát triển kinh doanh, đồng thời tạo tiềm lực (nguồn vốn, lợi nhuận,..) cho đầu tư nông nghiệp nông thôn, bên cạnh việc tích cực tìm mọi giải phát để huy động vốn nhất là tiền gửi từ dân cư và đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, từ năm 1995, NHNo&PTNT Hà Nội triển khai nghiệp vụ thanh toán quốc, chỉ sau 10 năm đã có thể giao dịch với gần 800 Ngân hàng và đại lý các tổ chức tín dụng Quốc Tế với doanh số thanh toán xuất nhập khẩu hàng năm từ 150 đến 250 triệu USD, đồng thời hàng năm đã khai thác được hàng trăm triệu USD, JPY, EURO, DM và nhiều loại ngoại tệ khác để đáp ứng nhu cầu thanh toán nhập khẩu của các doanh nghiệp. Hoạt động thanh toán quốc tế đã nhanh chóng tạo được sự tín nhiệm của nhiều khách hàng trong nước và nước ngoài, đến nay NHNo&PTNT Hà Nội đã mở rộng thanh toán biên mậu với các nước láng giếng, nhất là Trung Quốc, thực hiện các dịch vụ thu đổi ngoại tệ, mua bán ngoại tệ, chi trả kiều hổi... Bên cạnh việc mở rộng và dạng hóa các hoạt động kinh doanh, ngân hàng No Hà Nội đã chú trọng vào việc nâng cấp, hiện đại hóa ngân hàng, triển khai thành công dự án hiện đại hóa ngân hàng và thanh toán kết nối toàn hệ thống. Ngân hàng đã mở rộng các loại hình dịch vụ tiện ích nhằm tăng tỷ lệ thu từ dịch vụ. Các dịch vụ ngân hàng đã triển khai như: chuyển tiền nhanh chóng trong và ngoài nước với dịch vụ chuyển tiền nhanh Weston Union, chyển tiền du học sinh; Dịch vụ ngân hàng điện tử ( dịch vụ Phone Banking, SMS Banking, dịch vụ VNTopup, Atrasfer); Dịch vụ thu đổi ngoại tệ, mua bán trao ngay và có kỳ hạn các loại ngoại tệ , thanh toán xuất nhập khẩu, thanh toán phi thương mại, chuyển tiền bằng hệ thống SWIFT với các ngân hàng lớn trên thế giới , dịch vụ ngân quỹ ( dịch vụ thu chi tiền mặt dịch vụ cho thuê két sắt), …Ngoài ra ngân hàng còn tăng cường thực hiện nhiều dịch vụ thu đổi séc du lịch, ngoại tệ; đại lý thanh toán thẻ quốc tế visa, tín dụng quốc tế, Thẻ ghi nợ quốc tế, giao dịch Thẻ ghi nợ nội địa qua thiết bị POS, kết nối khách hàng là các Tổng công ty, công ty… dịch vu rút tiền tự động ATM với mạng lưới rộng khắp cả nước,…Các dịch vụ, sản phẩm được áp dụng triển khai kịp thời, có hiệu quả, rộng rãi tới các thành phần dân cư và phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Hoạt động trong ngành ngân hàng, ngân hàng No Hà Nội không chỉ chú trọng phát triển đơn vị mà còn cùng với các ngân hàng khác trên địa bàn Hà Nội cùng toàn hệ thống Agribank tập trung thực hiện các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của ngành Ngân hàng nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững của Chính phủ. 4. Kết quả hoạt động kinh doanh 4.1. Hoạt động huy động vốn Bảng 4.1 Tình hình huy động vốn của NH No&PTNT Hà Nội (Đơn vị: Tỷ đồng) Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Số tiền 06/05 % Số tiền 07/06 % Số tiền 08/07 % Tổng nguồn vốn huy động 12.845 +10,7 15.468 +20,4 15.338 -0.84 I. Phân theo loại tiền 1. Bằng VNĐ 11.489 +9,6 14.296 +24,4 14.325 +0,2 2. Bằng ngoại tệ (quy ra VNĐ) 1.356 +21,6 1.172 -13,7 1.013 -13.5 II. Phân theo đối tượng 1. Tiền gửi dân cư 3.632 +22,9 3.541 -2,5 4.850 +36,9 2. Tiền gửi TCKT 3.854 -22,9 5.883 +52,6 4.976 -15,4 3. Tiền gửi TCTD 1.874 +365,0 1.601 -14,6 1.778 -11,1 4. Tiền gửi TCTC 3.485 +7,8 4.443 +27,5 3.734 -15.9 ( Nguồn: Báo cáo tài chính NHNN&PTNT Hà Nội) Nguồn vốn huy động được của Ngân hàng trong trong 3 năm đã có sự tăng trưởng. Đặc biêt, trong năm 2007 tăng trưởng 20,4% so với năm 2006. Năm 2008 tuy có giảm 0,84% nhưng có thể nói là mức giảm không đáng kể. Tổng nguồn vôn ngân hàng No Hà Nội huy động trong năm 2008 là trên 3.500 tỷ. Trong đó đã có sự tăng trưởng cao ở khoản mục tiền gửi dân cư. Về nguồn vốn huy động phân theo loại tiền có thể thấy nguồn vốn huy động chủ yếu của chi nhánh là nội tệ. Nguồn ngoại tệ giảm mạnh vào năm 2008, chỉ bằng 86,5% so với năm 2007. Năm 2008 là năm chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế trên phạm vi toàn thế giới. Do đó, hoạt động ngân hàng chịu ảnh hưởng của những biến động bất lợi. Trong tình trạng kinh tế hiện nay, khi nhu cầu sử dụng ngoại tệ tăng cao thì việc tăng cường nguồn vón huy động ngoại tệ càng trở nên vô cùng quan trọng. Nhìn chung, nguôn vốn huy động tăng cao trong những năm gần đây với mức tăng hàng năm khoảng 17%. Tiền gửi từ các tổ chức tín dụng trong năm 2007, 2008 đều ở mức tương đối cao và ổn định. Đây là nguồn vốn có chi phí rẻ và ít chịu tác động rút tiền trước hạn do thay đổi lãi suất. Để đạt được kết quả như trên NHNo Hà Nội đã thực hiện đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, đáp ứng nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích cho khách hàng như huy động tiết kiệm bậc thang, tiết kiêm khuyến mại bằng tiền và hiện vật đối với khách hàng có số dư tiền gửi lớn, tiết kiệm dự thưởng, tiết dự thưởng bằng vàng có khuyến mãi với nhiều hình thức trả lãi tháng, quý, năm, lãi trước, lãi sau, huy động tiền gửi bậc thang, gửi góp, tiết kiệm khuyến mại, bảo hiểm thân thể, dự thưởng,.., phát hành các loại kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi VNĐ, USD, EUR thời hạn từ 01 đến 60 tháng. Đồng thời chi nhánh đã chủ động điều chỉnh lãi suất huy động vốn một cách linh hoạt, phù hợp lãi suất của các TCTD trên địa bàn, đặc biệt là điều chỉnh lãi suất huy động vốn ngoại tệ, đã góp phần nâng cao chất lượng, số lượng huy động vốn từ dân. Xây dựng chiến lược đối với từng loại hình khách hàng đã giúp cho chi nhánh đạt kết quả đáng kể trong công tac huy động vốn. Bên cạnh thu hút từ dân cư, chi nhánh còn tìm mọi biện pháp giữ vững và tiếp cận nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các Tổ chức xã hội nhằm tiếp tục tăng trưởng nguồn vốn. 4.2. Hoạt động tín dụng Về quy mô hoạt động tín dụng Bảng 4.2 Tình hình dư nợ của NHNo&PTNT Hà Nội (Đơn vị: Tỷ đồng) Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Tổng dư nợ 2.457 -0,41 3.462 +40,9 3.467 +0,14 I. Phân theo thời gian 1. Ngắn hạn Tỷ trọng 1.336 54,38% -4,98 2.028 58,58% +51,8 2.036 58,72% +0,39 2. Trung hạn Tỷ trọng 433 17,62% +41,97 492 14,21% +13,63 441 12,72% -10,36 3. Dài hạn Tỷ trọng 688 28,00% +8,35 945 27,03% +37,35 990 28,56% +4,7% II. Phân theo thành phần kinh tế 1. Doanh nghiệp nhà nước Tỷ trọng 818 33,29% -25,93 879 25,39% +7,46 901 25,98% +2,5 2. Doanh nghiệp tư nhân Tỷ trọng 1.292 52,58% -5,90 2.276 65,74% +76,16 2187 63,08% -0,32 3. Hộ sản xuất cá nhân và tiêu dùng Tỷ trọng 347 14,12% +186,78 307 8,87% -11,53 379 10,94% +0,23 ( Nguồn: Báo cáo tài chính NHNN&PTNT Hà Nội) Trong những năm gần đây, ngân hàng No Hà Nội đã thực hiện tốt chỉ đạo của NH No&PTNT Việt Nam về hoạt động đầu tư cho vay. Năm 2007 là năm đạt được sự tăng trưởng vê hoạt động tín dụng, tổng dư nợ là 3.462 tỷ đồng, tăng 40,9% so với năm 2006. Năm 2008 tổng dư nợ của ngân hàng đạt gần 3500 tỷ đồng. Vốn được tập trung chủ yếu cho các phương án, dự án thực sự có hiệu quả mà không phân biệt thành phần kinh tế, tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời, ngân hàng đã và đang thực hiện nghiêm túc Quyết định 493 của NHNN về việc trích và xử lý rủi ro đối với nợ xấu, nợ tiềm ẩn rủi ro, từng bước nâng cao chất lượng, lành mạnh hóa đầu tư tín dụng. Do vậy, đã đạt được kết quả dư nợ như trên. Xét về thời gian, chủ yếu mà các dự án chi nhánh cho vay là các dự án ngắn hạn chiếm trên 50% trong tổng dư nợ. Việc cho vay các dự án ngắn hạn một mặt làm hạn chế rủi ro tín dụng đối với chi nhánh nhưng mặt khác lại làm doanh thu từ lai không cao. Xét trong toàn bộ nền kinh tế Việt Nam, khi mà các thị trường vốn tuy có phát triển trong những năm gần đây nhưng chưa thực sự trở thành một kênh huy động vốn tích cực thì ngân hàng nên là đối tượng cho vay dài hạn đối với doanh nghiệp. Cho vay trung hạn có mức tăng trưởng khá trong năm 2006 là 41,97% và năm 2007 là 13.36%. Tuy nhiên đến năm 2008, cho vay dài hạn giảm 10,36%, bằng 89,64% so với năm 2007. Cho vay dài hạn trong những năm gần đây luôn chiếm tỷ trọng khá ,trên 27% tổng dư nợ và luôn đạt được mức tăng trưởng mạnh. Đây là môt dấu hiệu tốt trong việc tăng thêm doanh thu từ lãi đối với chi nhánh và cũng là một yêu cầu khách quan đối với ngân hàng trong một nền kinh tế mà các kênh dẫn vốn dài hạn vẫn chưa thực sự phát triển ở Việt Nam. Xét về thành phần kinh tế, chủ yếu đối với khách hàng của chi nhánh là các doanh nghiệp tư nhân với tỷ trọng trên 60% tổng dư nợ. Dư nợ đối với các doanh nghiệp nhà nước luôn chiếm tỷ trọng khá trong tổng dư nợ nhưng không đạt được mức tăng trưởng ổn định do trong nền kinh tế hội nhập các doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự thích nghi được với nhu cầu đổi mới nên chưa thể mở rộng sản xuất và nhu cầu vay vốn cung không tăng mạnh. Cho vay hộ sản xuất cá nhân tiêu dùng dù chiếm tỷ trọng thấp nhưng lại đạt được mức tăng trưởng vượt bậc trong năm 2006 là 186,78% . Đến năm 2007, cho vay đối với hộ sản xuất , cá nhân, tiêu dùng có giảm nhẹ 11,53% do sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trên địa bàn với nguồn vốn nhỏ và chủ yếu tập trung vào cho vay tiêu dùng. Năm 2008 đạt mức tăng là 0,23%. Để đạt được kết quả trên chi nhánh đã tích cực cho vay mở rộng cho vay hộ sản xuất, vay trả góp đối với công chức, sỹ quan, công nhân các cá nhân hộ gia đình như hình thức mua nhà trả góp, mua ô tô và các phương tiện sinh hoạt khác nhằm nâng cao đời sống của cán bộ nhân dân trên địa bàn thủ đô. Những kết quả đạt được như vậy là nhờ ngân hàng đã mở rộng phương thức cho vay như cho vay đồng tài trơ với các NHTM Quốc doanh, NHTM Cổ phần trên địa bàn đối với các dự án lớn có hiệu quả. Cùng với việc đầu tư vào các dự án lớn có hiệu quả chi nhánh đã không ngừng đổi mới, nâng cao phong cách giao dịch văn minh lịch sự, đồng thời còn làm nhiệm vụ tư vấn giúp khách hàng các mặt nghiệp vụ ngân hàng. Do đó, ngày càng co nhiều khách hàng là các tổ chức kinh tê mở rộng quan hệ giao dịch thanh toán và tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội. Về chất lượng hoạt động tín dụng Bảng 4.3 Tình hình nợ xấu của NHNo&PTNT Hà Nội (Đơn vị: Tỷ đồng) Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Nợ xấu 41 -56,38 21 -48,78 35 +66,67 Tỷ lệ nợ xấu/ TổngDN 2% 0,6% 1% ( Nguồn: Báo cáo tài chính NHNN&PTNT Hà Nội) Từ năm 2006, để nâng cao chất lượng tín dụng chi nhánh đã quan tâm chỉ đạo sát sao công tác thẩm định món vay, kiểm tra trước trong và sau khi cho vay được thực hiện nghiêm túc chặt chẽ. Đến nay chất lượng tín dụng đã được nâng lên rõ rệt. Cụ thể năm 2007 số nợ xấu giảm 48,78% so với năm 2006 . Tỷ lệ nợ xấu/ Tổng dư nợ đã giảm xuông từ 2% trong năm 2006 xuống 0,6% năm 2007 và 1% năm 2008. Tỷ lệ nợ xấu/ Tổng dư nợ là chỉ tiêu thây rõ nhất chất lượng hoạt động tín dụng của chi nhánh. Chỉ tiêu nay giảm mạnh qua các năm thực sự là một tín hiệu đáng mừng chứng tỏ công tác quản lý nợ có hiệu quả và chất lượng tín dụng của ngân hàng đang được nâng cao. 4.3. Hoạt động kinh tế đối ngoại Hoạt động thanh toán của chi nhánh trong những năm qua đã có sự tăng trưởng mạnh với tốc độ tăng bình quân từ 15%- 20%. Nguồn thu chủ yếu của hoạt động thanh toán là từ thanh toán quốc tế. Cụ thể, doanh thu của hoạt động thanh toán quốc tế năm 2007 tăng 33,57% so với năm 2006, năm 2008 tăng 40,1%. Công tác xuất khẩu: Trong năm chi nhánh đã đáp ứng tốt mọi nhu cầu nhập khẩu thiết bị máy móc và hàng hóa phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh, dịch vụ của cac doanh nghiệp và các thành phần kinh tế: Doanh số thanh toán 153,7 triệu USD; Doanh số thanh toán nhờ thu trị giá 30,9 triêu USD; Chuyển tiền đến 81,5 triệu USD. Công tác xuất khẩu: Nhìn chung trong năm 2008 công tác xuất khẩu của các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế đã và đang quan hệ tại chi nhánh thuận lợi hơn so với những năm trươc: Thu tiền hàng xuất khẩu 14,3 triệu USD, chuyển tiền đến 59,5 triệu USD. 4.4. Hoạt động dịch vụ ngân hàng Đến nay Chi nhánh đã triển khai nhiều hình thức dịch vụ: Chuyển tiền nhanh, dịch vụ thanh toán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ thanh toán biên mậu, dịch vụ bảo lãnh, ATM, thẻ tín dụng nội địa thẻ ghi nợ. Thanh toán thẻ ACB, Master Card, VisaCard, American Express, thnah toán séc du lịch…thu đổi ngoại tệ, dịch vụ Fone-banking, dịch vụ thu chi tiền mặt tại DN, tại nhà đối với khách hàng có số tiền gửi lớn, dịch vụ bảo lãnh dự thầu, thu chi hộ, thanh toán hộ, thanh toán xuất nhập khẩu, thanh toán phi thương mại, dịch vụ ngân quỹ, đại lý bảo hiểm, mua bán ngoại tệ, cầm cố chiết khấu bộ chứng từ, dịch vụ thanh toán biên mậu với các nước có chung đường biên giới. Tính đến 31/12/2008 có hơn 43.000 tài khoản cá nhân có số dư trên 100 tỷ đồng, trong đó có gần 38.000 thẻ ghi nợ tăng gần 13.200 thẻ so với năm 2007 với số dư trên 67 tỷ đồng. Việc phát hành thẻ ghi nợ thực sự đem lại hiệu quả kinh doanh cho Chi nhánh. Ngoài ra đã phát hành trên 350 thẻ tín dụng nội địa. Đại lý dịch vụ thu đổi ngoại tệ với 27 đại lý thu đổi ngoại tệ mặt song kết quả thu đổi gần 20 triệu (Quy đổi các loại ngoại tệ) tương đương với trên 340 tỷ VNĐ, ngoài ra chi nhánh đang thực hiện thu đổi nhiều loại ngoại tệ khác nhau như GBP, CHF, CAD. HKD, AUD, JPY, SGD, BATH, CNY nhưng số lương chưa nhiều. Về ngân quỹ, với mạng lưới 11 chi nhánh cấp 2 hoạt động toàn diện các mặt nghiệp vụ và 25 Phòng giao dịch rải rác trong các quận nội thành, ngoại thành hưng NHNo&PTNT Hà Nội đã tổ chức tốt công tác Ngân quỹ, vừa đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời tiền mặt giao dịch với khách hàng nhất là dân cư, vừa mở rộng được diện thu tiền mặt tại chỗ cho một số doanh nghiệp, vừa cung ứng kịp thời chính xác các nhu cầu thu chi của khách hàng nhất là chi xã hội cho các doanh nghiệp, các Chi nhánh kho bạc , các trường đại học… Việc thu chi tiền mặt, quản lý thẻ phiếu trắng, ấn chỉ có giá được chấp hành nghiêm túc theo quy định của Ngân hàng NN và NH No&PTNT Việt Nam. Do vậy, chi nhánh luôn đảm bảo an toàn tuyệt đối trong quá trình thu chi tiền mặt đối với khách hàng, quản lý tài sản của ngân hàng không để xảy ra tình trạng sai sót trong quá trình giao dịch. Tổng thu dịch vụ năm 2008 là 41.850 triệu, tăng hơn 60% so với năm 2007. Thu dịch vụ cũng chiếm hơn 12% so với lợi nhuận trước thuế. Năm 2008, vệc triển khai các loại hình dịch vụ đã được quán triệt đến từng phòng ban, từng chi nhánh trực thuộc và toàn thể cán bộ nắm bắt và hiểu rõ các sản phẩm dịch vụ tiện ích. Đây là một việc làm cần thiết nhằm nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên. Để từ đó, họ có thể tư vấn cho bất cứ ai, ở bất cứ nơi đâu sử dụng dịch vụ tiện ích của ngân hàng. Việc thực hiện tốt các loại hình dịch vụ đang triển khai và các loại hình dịch vụ ngân hàng mới với chất lượng tốt nhất cũng là nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NH No&PTNT Hà Nội. 4.5. Kết quả kinh doanh Tổng thu nhập và chi phí của chi nhánh đều tăng qua các năm: năm 2006 là 2553 tỷ VNĐ, năm 2007 là 3464 tỷ VNĐ, năm 2008 là 4275 tỷ VNĐ, trung binh tăng đến 46% mỗi năm. Điều này có thể nhận thấy rõ khi mà cả nguồn vốn huy động và dư nợ tín dụng của chi nhánh đều tăng qua các năm cùng với việc tăng nguồn thu từ các dịch vụ ngân hàng. Tuy nhiên, năm 2008 là năm có biến động bất thường về lãi suất. Đó là một thời gian dài từ quý 2 đến đầu quý 3, khi mà dưới ảnh hưởng của lạm phát căng thẳng thanh khoản và lãi suất leo thang. Phần lớn các nhà băng phải gồng mình với chi phí huy động vốn cao. Từ dưới 10%/năm, lãi suất huy động VND vọt lên trên 19%/năm. Và ở đỉnh điểm, lãi suất cho vay tối đa bị chốt ở trần 21%/năm. Trừ các chi phí liên quan, chênh lệch lãi suất để tạo lợi nhuận bị bóp nghẹt. Do đó làm tăng chi phí chung của ngân hàng. Mặc dù vậy, lợi nhuận của ngân hàng vẫn tăng qua các năm với lợi nhuận trước thuế trong năm 2007 là 256 tỷ đồng, năm 2008 là 277 tỷ đồng. Việc lợi nhuận tăng đều qua các năm thể hiện hướng phát triển đúng đắn và sự điều hành đúng đắn, linh hoạt kịp thời của Ban giám đốc Ngân hàng và sự chỉ đạo sát sao của NHNN và NHNo&PTNT Việt Nam. Đánh giá chung về kết quả đạt được năm 2008, mặc dù gặp nhiều khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ thế giới kéo theo sự suy thoái của nền kinh tế trong nước, nhưng với sự cố gắng của tập thể cán bộ nhân viên, Ngân hàng No&PTNT Hà Nội đã đạt được những kết quả kinh doanh toàn diện, xứng đáng với danh hiệu lá cờ đầu của toàn hệ thống Agribank. Như vậy, trong 3 năm vưa qua, mặc dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, biến động nhưng chi nhánh NHNO&PTNT Hà Nội vẫn tiếp tục đứng vững và duy trì được hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. 5. Phương hướng hoạt động trong thời gian tới Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới Việc gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế và kí kết các hiệp định, cam kết thương mại làm cho thị trường tài chính ngày càng được mở rộng, đem lại cơ hội đầu tư cho tất cả các thành phần kinh tế đồng thời cung làm cho tính cạnh tranh gay gắt hơn. Năm 2008 là năm khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề trong quản lý kinh tế và hoạch định kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp. Với phương châm vì sự thịnh vượng và phát triển bền vữ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22804.doc
Tài liệu liên quan