TỔNG QUÁT VỀ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM (BIDV)
Lịch sử ra đời và phát triển
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (tên giao dịch quốc tế Bank for Investment and Development for Vietnam, tên gọi tắt là: BIDV) được chính thức thành lập ngày 26 tháng 4 năm 1957 theo quyết định 177/TTg của Thủ tướng Chính phủ với tên gọi Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam. Đến nay, BIDV đã có hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành đó là một chặng đường đầy gian nan thử thách nhưng cũng rất đỗi hào hùng và g
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2465 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Thực tập tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắn với từng thời kỳ lịch sử đấu tranh chống kẻ thù xâm lược và xây dựng đất nước của dân tộc Việt Nam. Hoà mình trong dòng chảy của dân tộc, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã góp phần vào việc khôi phục, phục hồi kinh tế sau chiến tranh, thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1957-1965); Thực hiên hai nhiệm cụ chiến lược xây dựng CNXH, chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở niềm Bắc; Thực hiện công cuộc đổi mới hoạt động ngân hàng phục vụ công nhiệp hoá hiện đại hoá đất nước (1990- nay). Dù ở bất cứ đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, các thế hệ cán bộ nhân viên BIDV cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình- là người lính xung kích của Đảng trên mặt trận tài chính tiền tệ, phục vụ đầu tư phát triển của đất nước.
Theo dòng thời gian ngân hàng có những tên gọi khác với các thời kỳ khác nhau:
Thời kỳ từ 1957- 1980: Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam
Ngày 26/04/1957, ngân hàng Kiến thiết Việt Nam (trực thuộc Bộ Tài chính) được thành lập theo quyết định 177/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Ra đời trong hoàn cảnh cả nước đang tích cực hoàn thành thời kỳ khôi phục và phục hồi kinh tế để chuyển sang giai đoạn phát triển kinh tế có kế hoạch, xây dựng những tiền đề ban đầu của CNXH, Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trong việc quản lý vốn kiến thiết cơ bản, hạ thấp giá thành công trình, thực hiện tiết kiệm, tích luỹ vốn cho nhà nước… Nhiều công trình lớn, có ý nghĩa đặc biêt đối với đời sống sản xuất của nhân dân miên Bắc khi đó đã được xây dựng nên từ vốn cấp phát của Ngân hàng Kiến Thiết như: Hệ thống đại Thuỷ Nông Bắc Hưng Hải; Nhà máy Xi măng Hải Phòng; Xây dựng các trường Đại học: Bách Khoa, Kinh tế- Kế hoạch, Thuỷ lợi… Bên cạnh đó Ngân hàng đã cung ứng vốn cấp phát để kiến thiết những cơ sở công, những công trình xây dựng cơ bản phục vụ dân sinh và góp phần thay đổi diện mạo nền kinh tế miền Bắc. Hàng trăm công trình đã được xây dựng và sử dụng như khu công nghiệp Cao- Xà- Lá, khu công nghiệp Việt Trì, khu gang thép Thái Nguyên,…
Thời kỳ từ 1981- 1990: Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam
Ngày 24/06/1981, Ngân hàng Kiến Thiết Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Quyết địn số 259-CP của Hội đồng Chính phủ.
Việc ra đời Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong việc cải tiến các phương pháp cung ứng và quản lý vốn đầu tư cơ bản nâng cao vai trò tín dụng phù hợp với khối lượng vốn đầu tư cơ bản tăng lên và nhu cầu xây dựng phát triển rộng rãi. Chỉ sau một thời gian ngắn, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng đã nhanh chóng ổn định công tác tổ chức từ trung ương đến cơ sở, đảm bảo các hoạt động cấp phát và tín dụng đầu tư cơ bản không bị ách tắc. Bên cạnh đó ngân hàng cũng đảm bảo cung ứng vốn lưu động cho các tổ chức xây lắp, khuyến khích các đơn vịi xây lắp nhanh tiến độ xây dựng, cải tiến kỹ thuật, mở rộng năng lực sản xuất.
Thời kỳ này, nhờ có vốn cấp của Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng mà hàng loạt những công trình to lớn có “ý nghĩa thế kỷ” của đất nước, cả trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong lĩnh vực sự nghiệp và phúc lợi như: Công trình thuỷ điện Sông Đà; Cầu Chương Dương; Nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch;…
Thời kỳ từ 1990- nay: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Ngày 14/11/1990, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam theo Quyết định số 401- CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Đây là thời kỳ thực hiện đường lối mới của Đảng và Nhà nước, chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Do vậy, nhiệm vụ của BIDV được thay đổi cơ bản: Tiếp tục nhận vốn ngân sách để cho vay các dự án thuộc chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước; Huy động các nguồn vốn trung dài hạn để cho vay đầu tư phát triển; Kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp phục vụ đầu tư phát triển.
Ngày 01/01/1995 đây là mốc đánh dấu sự chuyển đổi cơ bản của BIDV khi được phép kinh doanh đa năng tổng hợp như một ngân hàng thương mại, phục vụ chủ yếu cho đầu tư phát triển đất nước. Nhờ đó kết quả hoạt động trong giai đoạn đổi mới của BIDV rất khả quan được thể hiện ở mặt sau:
Tự lo vốn để phục vụ đẩu tư phát triển: BIDV đã chủ động sáng tạo, đi đầu trong việc áp dụng các hình thức huy động nguồn vố bằng VNĐ và ngoại tệ. Ngoài các hình thức huy động vốn trong nước, BIDV còn huy động vốn nước ngoài, tranh thủ tối đa nguồn vốn nước ngoài thông qua nhiều hình thức vay vốn khác nhau.
Phục vụ đầu tư phát triển theo đường lối Công nghiệp hoá- hiện đại hoá: Với nguồn vốn huy động được thông qua nhiều hình thức, BIDV đã tập trung cho những chương trình lớn, những dự án trọng điểm, các ngành then chốt của nền kinh tế như: Ngành điện lực, Các khu công nghiệp,… với doanh số cho vay đạt 35.000 tỷ
Hoàn thành các nhiệm đặc biệt: Thực hiên chủ trương của Chính phủ về đẩy mạnh và phát triển mạnh mẽ hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện về kinh tế, thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Lào, BIDV đã nỗ lực phối hợp với Ngân hàng Ngoại thưong Lào nhanh chóng thành lập Ngân hàng liên doanh Lào- Việt với mục tiêu “góp phần phát triển nền kinh tế của Lào, góp phần phát triển hệ thống tài chính và ngân hàng của Lào, hỗ trợ quan hệ thương mại cho doanh nghiệp hai nước qua đó thúc đẩy hợp tác quan hệ kinh tế toàn diện giữa hai nước”. BIDV cũng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được Chính phủ giao về khắc phục lũ lụt, cho vay thu mua tạm trữ lương thực, hỗ trợ cà phê,…
Kinh doanh đa năng, tổng hợp theo chức năng của Ngân hàng thương mại: Bên cạnh việc phát triển mạnh mẽ các dịch vụ như: thanh toán quốc tế, thanh toán trong nước, bảo lãnh, chuyển tiền kiều hối, xây dựng và hình thành các sản phẩm- dịch vụ mới… BIDV còn là ngân hàng đi đầu trong việc thành lập ngân hàng liên doanh với nước ngoài đề phục vụ phát triển kinh tế đất nước (thành lập ngân hàng liên doanh VID PUBLIC tháng 05/1992)
Hình thành và nâng cao một bước năng lực quản trị điều hành hệ thống: vai trò lãnh đạo của Đảng được phát huy mạnh mẽ tại Hôi sở chính và các đơn vị thành viên. Công tác quản trị điều hành, tuyển dụng và đào tạo cán bộ phát triển công nghệ và hoàn thiện các sản phẩm hiện có, tiếp nhận chuyển giao công nghệ để đưa vào sử dụng những sản phẩm- dịch vụ mới và triển khai đều có kết quả theo tiến độ dự án hiên đại hoá công nghệ ngân hàng tiếp tục được thực hiện có hiệu quả.
Xây dựng ngành vững mạnh: từ chỗ chỉ có 8 chi nhánh và 200 cán bộ khi mới thành lập, trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Đến nay BIDV đã có một bước tiến dài với mạng lưới hoạt động đã phát triển mạnh mẽ phù hợp với mô hình tổng công ty nhà nước.
Quy mô tăng trưởng và năng lực tài chính được nâng cao: đến 30/06/2007, BIDV đã đạt quy mô hoạt động vào loại khá, với tổng tài sản đạt hơn 202.000 tỷ đồng, quy mô hoạt động tăng gấp 10 lần so với năm 1995. BIDV đã và đang ngày càng nâng cao được uy tín về cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đồng bộ cho lực lượng chủ công của nền kinh tế đồng thời cũng khẳng định giá trị của thưong hiệu BIDV trong lĩnh vực phục vụ các dự án, chương trình lớn của đất nước.
Cơ cấu lại hoạt động theo hướng hợp lý hơn: BIDV đã tích cực chuyển dịch cơ cấu khách hàng để giảm tỷ trọng nợ tín dụng trong khách hàng doanh nghiệp Nhà nước và hướng tới đối tượng khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Lành mạnh hoá tài chính và năng lực tài chính tăng lên rõ rệt: BIDV đã chủ động thực hiện minh bạch và công khai các hoạt động kinh doanh, là ngân hàng tiên phong trong việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế. Trong năm 2006, BIDV là ngân hàng đầu tiên thuê Tổ chức định hạng hàng đầu thế giới Moody’s thựuc hiện định hạng tín nhiệm cho BIDV và đạt mức trần quốc gia. Cùng với sự tư vấn của Earns&Young, BIDV đã triển khai thực hiện xếp hàng tín dụng nội bộ với chuẩn mực quốc tế.
Hoàn thành tái cấu trúc mô hình tổ chức- quản lý, hoạt động, điều hành theo tiêu thức Ngân hàng hiên đại: một trong những thành công có tính quyết định đến hoạt động hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển trong giai đoạn này là: củng cố và phát triển mô hình tổ chức của hệ thống, hình thành và phân định rõ theo 4 khối chức năng: khối ngân hàng, khối công ty trực thuộc, khối đơn vị sự nghiệp, khối liên doanh, làm tiền đề quan trọng cho việc xây dựng đề án cổ phần hoá.
Đầu tư, tạo dựng tiềm lực cơ sở vật chất và mở rộng kênh phân phối sảc phẩm: Xác định tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở vật chất hhiện đại tương xứng vói tầm vóc , quy mô và vị thế hoạt động của ngân hàng, tong năm 2004-2005, BIDV đã thực hiện triển khai một cách bài bản quy hoạch và có ké hoạnh đầu tư hệ thống tháp văn phòng BIDV với tổng diện tích sàn trên 600.000m2, vận hành dự án BIDV Tower tại 194 Trần Quang Khải, Hà Nội, đồng thời với mục tiêu phát triển mạng lưới, kênh phân phối để tăng trưởng các hoạt động kinh doanh, cung cấp sản phẩm, dịch vụ đồng thời nâng cao hiệu quả quảng bá va khẳng định thương hiệu của ngân hàng BIDV.
Không ngừng đầu tư cho chiến lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: BIDV đã liên tục tuyển dụng nguồn nhân lực trẻ có tri thức và kỹ năng đáp ứng các yêu cầu của hội nhập. Toàn hệ thống đã thực chi một chính sách sử dụng lao động tương đối đồng bộ, trả công xứng đáng với năng lực và kết quả làm viếc của mỗi cá nhân đồng thời tạo ra môi trường làm việc cạch tranh có văn hoá, khuyến khích đươc sức sáng tạo của các thành viên…
Chuẩn bị tốt các tiền đề cho Cổ phần hoá BIDV: BIDV đã chủ động xây dựng đề án cổ phần hoá BIDV, trình và được chính phủ chấp thuận. Nỗ lực nâng cao năng lực tài chính bằng việc phát hành 3.200 tỷ đồnh trái phiếu tăng vốn cấp 2; minh bạch hoá hoạt động kinh doanh với việc thực hiện và công bố kết quả kiểm toán quốc tế, Thực hiện định hành tín nhiệm và đạt mức trần quốc gia do Moody’s đánh giá…
Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phát triển theo mô hình Tập đoàn: Được sự chấp thuận của chính phủ, BIDV đang xây dưng đề án hình thành Tập đoàn Tài chính với 4 tru cột là Ngân hàng-Bảo hiểm- Chứng khoán-Đầu tư Tài chính trình thủ tướng xem xét và quyết định.
Loại hình doanh nghiệp và lĩnh vực kinh doanh
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Ngoài việc hoạt động đầy đủ các chức năng của một ngân hàng thương mại, BIDV còn được phép kinh doanh đa năng tổng hợp về tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng, làm ngân hàng đại lý, phục vụ các dự án từ các nguồn vốn, các tổ chức kinh tế, tài chính, tiền tệ trong và ngoài nước. Bao gồm các hoạt động chính trong kinh doanh ngân hàng như:
Hoạt động tín dụng: BIDV cung cấp vốn đáp ứng nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Hoạt động đầu tư: được đẩy manh làm đa dạng hoá các kênh cung cấp vốn cho nền kinh tế với tổng vốn đầu tư gần 2.000 tỷ VNĐ trong năm 2007. Đăc biệt là với những dự án lớn, trọng điểm quốc gia: Công ty Cổ phần cho thuê máy bay Việt Nam (VALC), dự án BIDV International HongKong,…
Ngoài ra, BIDV đã triển khai mạnh mẽ các hoạt động dịch vụ và phát triển sản phẩm như: trong năm 2007 BIDV đã đưa ra 27 sản phẩm với các tiện ích đa dạng phù hợp theo từng nhóm khách hàng: sản phẩm về thẻ, dịch vụ thanh toán hoá đơn, dịch vụ chuyển tiền kiều hối Western Union, dịch vụ BSMS,… Bên cạnh đó BIDV đang tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kinh doan đối ngoại, thực hiện ký kết hợp tác chiến lược với các tập đoàn lớn trên thế giới: AIG, City, IBM, Boeing,…
Đặc biệt trong năm 2007, với sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về đề án hình thành tập đoàn tài chính ngân hàng với hai trụ cột chính là ngân hàng và bảo hiểm sau khi đã cổ phần hoá. Như vậy, theo xu thế của sự phát triển, định hướng kinh doanh của BIDV từ năm 2008- 2010 sẽ mở rộng các lĩnh vực kinh doanh tài chính bao gồm: kinh doanh ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán, kinh doanh đầu tư tài chính và cho thuê tài chính.
Cơ cấu tổ chức doanh nghiệp
Được tổ chức và hoạt động theo mô hình Tổng công ty nhà nước. Hiện nay, cơ cấu tổ chức của BIDV đang có sự thay đổi và hoàn chỉnh theo chương trình liên kết kỹ thuật nhằm hỗ trợ tái cơ cấu BIDV (gọi tắt là dự án TA) do quỹ ASEM tài trợ dưới sự quản lý của Ngân hàng thế giới, được thực hiện bởi các chuyên gia tư vấn nước ngoài đén từ những tập đoàn ngân hàng tài chính có uy tín và thành công trên thế giới. Theo đó, quá trình tái cơ cấu chuyển đổi BIDV từ một ngân hàng truyền thống thành một ngân hàng hợp nhất theo hướng ngân hàng đa năng, hiện đại. Chuyển đổi từ một hệ thống mang tính phân tán sang mô hình hệ thống theo hướng tập trung hoá.
Việc chuyển đổi mô hình hoạt động đối với BIDV nhằm mục tiêu tạo dựng một mô hình tổ chức phù hợp với luật pháp, tập quán kinh doanh Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu quản lý Ngân hàng thương mại theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Đồng thời làm tăng vị thế, uy tín và giá trị của BIDV, BIDV sẽ trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Ngoài ra, việc chuyển đổi mô hình hoạt động giúp cho BIDV có thể chủ động tiếp nhận vốn, công nghệ, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý phục vụ hiệu quả cho chiến lược cạnh tranh và phát triển sản phẩm.
Giữ vai trò chủ chốt trong các hoạt động tư vấn của dự án TA, tư vấn cấu phần chuyển đổi hoạt động quản trị điều hành và cơ cấu tổ chức có nhiệm vụ thiêt yếu là trợ giúp BIDV tái cấu trúc bộ máy tổ chức và quản trị ngân hàng. Về cơ bản, mô hình tổ chức của BIDV được chuyển đổi theo hướng sau:
Hội sở chính (HSC) sẽ kiểm soát các sản phẩm tài chính cho từng nhóm khách hàng mục tiêu thông qua các kênh phân phối, trực tiếp kinh doanh một số hoạt động chiến lược như: kinh doanh tiền tệ, tính dụng món lớn,tín dụng, tài trợ thương mại,…
Các chi nhánh được coi như một kênh phân phối và bán hàng cho HSC.
Đảm bảo phân tách trách nhiệm rõ rệt. các khối kinh doanh (front office) hoạt động trên nguyên tắc cơ bản là giao dịch, thương lượng với khách hàng.
Tập trung hoá một số chức năng về HSC như: tổ chức cán bộ, kinh doanh tiền tệ, công nghệ thông tin, kiểm tra nội bộ,...
Như vậy, mô hình tổ chức hội sở chính được thể hiện qua sơ đồ sau:
Với sơ đồ trên, hội sở chính sau khi đổi mới mô hình hoạt động sẽ gồm 7 khối. Đó là:
Khối Ngân hàng Bán buôn
Khối Bán lẻ và mạng lưới
Khối vốn và Kinh doanh vốn
Khối Quản lý rủi ro
Khối Tác nghiệp
Khối Tài chính- kế toán
Khối Hỗ trợ
Trong đó, khối Ngân hàng Bán bụôn, khối Bán lẻ và mạng lưới, khối Vốn và kinh doan vốn là những khối kinh doanh của ngân hàng. Các khối Quản lý rủi ro, khối Tác nghiệp, khối Tài chính- kế toán, khối Hỗ trợ là những khối thuộc khối bổ trợ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Cơ sở vật chất
Mạng lưới hoạt động rộng lớn khắp 64 tỉnh/ thành phố với 103 chi nhánh và sở giao dịch, 228 phòng giao dịch, 162 điểm giao dịch/ quỹ tiết kiệm.
Toàn hệ thống đạt được 1000 máy ATM đặt ở các trung tâm thương mại, tài chính ngân hàng đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời và hiệu quả các sản phẩm.
Mạng lưới chấp nhận thẻ POS phát triển được 425 điểm tại 24 tỉnh/thành phố.
Tham gia vào hệ thống Banknet.
Mục tiêu là xây dựng mạng lưới hoạt động năng động, độ phủ lớn phù hợp với việc xây dựng và phát triển một tập đoàn tài chính. Trong đó chú trọng xây dựng mạng lưới cung cấp dịch vụ tài chính ngân hàng bán buôn bán lẻ toàn diện, trọn gói. Vẫn tập trung tại các thành phố lớn, các trung tâm kinh tế của cả nước. Điều đó nhằm phù hợp với tình hình và xu hường phát triển kinh tế giữa các vùng miền của Việt nam. Đảm bảo sao cho xây dựng phát triển phải tính đến sự hiệu quả và giảm rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
Phát triển và mở rộng hệ thống mạng lưới quốc tế tại các thị trường khác nhau trên thế giới: Nga, Châu Âu, Mỹ, Nhật,… Đồng thời phát triển mạng lưới phi ngân hàng thông qua liên doanh đầu tư góp vốn: Vietnam- Russia Bank,…
Nguồn lao động
Phát triển nguồn nhân lực, kiện toàn nhân sự lãnh đạo chủ chốt. Trong năm 2007, toàn hệ thống có 11.585 người trong đó Hội sở chính 726 người, tuổi đời bình quân là 33 (năm 2006 là 34), có trên 56% cán bộ dưới 30 tuổi, cán bộ có trình độ Đại học và trên Đại học đạt trên 78,5%, có bằng B tiếng Anh trở lên chiếm 71%, 246 cán bộ được đào tạo chính trị cao cấp và cử nhân.
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH KINH DOANH CỦA BIDV
Quy mô và năng lực tài chính
Chất lượng tài sản:
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng thương mại lớn thứ nhì Việt Nam (sau Agribank) tính theo tổng số lượng tài sản, ngân hàng số một Việt Nam về doanh thu và là doanh nghiệp lớn thứ tư Việt Nam theo báo cáo của UNDP năm 2007.
Tính đến ngày 31/12/2007 tổng tài sản của BIDV theo chuẩn mực kế toán quốc tế đạt 201.382 tỷ VNĐ (12,5 tỷ USD), tăng 27% so với năm 2006. Theo báo cáo tài chính của các ngân hàng thì tăng trưởng tổng tài sản của BIDV đứng thứ 3 trong hệ thống ngân hàng. Chất lượng tài sản của ngân hàng được nâng cao một cách bền vững trong vòng 5 năm qua, thể hiện cơ cấu tài sản ngày càng chuyển biến hợp lý và hiệu quả hơn. Cụ thể:
Tài sản có tính thanh khoản cao bao gồm tiền mặt và tiền gửi thanh toán tại 31/12/2007 là 12.716 tỷ VNĐ, giảm 11.690 tỷ so với năm 2006. Tỷ trọng tài sản thanh khoản trong tổng tài sản cuối kỳ năm 2007 cũng đã giảm hơn so với năm trước là 9,1%.
Tiền gửi có kỳ hạn và cho vay các tổ chức tín dụng khác đạt 24.004 tỷ VNĐ, chiếm 11,9% tổng tài sản, tăng 6.577 tỷ VNĐ so với năm 2006.
Đầu tư chứng khoán đạt 30.312 tỷ VNĐ chiếm 15,05% tăng 14.298 tỷ VNĐ so với năm trước và tập trung chủ yếu vào đầu tư trái phiếu Chính phủ và tín phiếu kho bạc Nhà nước, công trái,…
Tổng dư nợ cho vay và ứng trước khách hàng sau khi trừ dự phòng rủi ro tín dụng chiếm 62% trong tổng tài sản. Trong đó, ngân hang đã giảm mức cho vay doanh nghiệp nhà nước xuống 34.258 tỷ VNĐ, làm tỷ trọng cho vay doanh nghiệp nhà nước trong tổng dư nợ giảm tử 35% xuống 26%.
Bên cạnh đó, cơ cấu khách hàng đã được chuyển dịch phù hợp với xu hướng phát triển hiện nay, đó là ưu tiên phát triển tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tăng tỷ trọng cho vay ngắn hạn, giảm tỷ trọng cho vay trung và dài hạn. Cho vay theo ngành nghề cũng dần đẩy mạnh sang các lĩnh vực sinh lời cao, hạn chế cho vay rủi ro. Trong những năm tiếp theo, ngân hàng tiếp tục triển khai và hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, kiểm soát chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu như: đánh giá khách hàng và phân nợ chính xác theo thông lệ quốc tế, kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng với từng đối tượng khách hàng…
Từ năm 2007, ngân hàng đã thực hiện thành công việc kiểm soát chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu như: đánh giá khách hàng và phân loại nợ chính xác theo thông lệ quốc tế, kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng tới từng khoản vay, từng khách hàng… Nhờ vậy, tính đến thời điểm 31/12/2007 tỷ lệ nợ xấu theo báo cáo kiểm toán là 3,98%. So sánh tỷ lệ nợ xấu của 2007 với tỷ lệ nợ xấu của 2006 (9,6%) có thể thấy nỗ lực cũng như hiệu quả trong việc kiểm soát chất lượng tín dụng, xử lý nợ xấu.
Tuy nhiên, một điều cần chú ý là mức dư nợ cần chú ý đặc biệt dù đã giảm mạnh 14% so với năm 2006 nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao (23,4%). Dẫu vậy, với nỗ lực tăng cường kiểm soát tín dụng mạnh mẽ của toàn hệ thống, kết quả về nợ xấu giảm đáng kể trong năm qua thể hiện phần nào hướng đi đúng đắn của ngân hàng trong quản lý rủi ro, nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Bảng 1: Hoạt động cho vay của BIDV 2006-2007
Phân loại dư nợ
2006 (triệu đồng)
2007 (triệu đồng)
Nợ đủ tiêu chuẩn
49.138
86.797
Nợ cần chú ý
32.753
28.004
Nợ dưới chuẩn
6.231
3.426
Nợ nghi ngờ
333
212
Nợ không thu hồi được
2.125
1.117
Nợ xấu (nhóm 3+4+5)
8.689
4.756
Tổng
90.581
119.559
(Theo báo cáo thường niên của BIDV năm 2007)
Nguồn vốn:
Vốn cấp I năm 2007 đạt 10.276 tỷ VNĐ, tâng 3.628 tỷ so với năm 2006. Ngân hàng Nhà nước đã chấp thuận phát hành trái phiếu tăng vốn cấp II với khối lượng: 3.250 tỷ VNĐ. Với mức vốn cấp II này, ngân hàng vừa đảm bảo mức an toàn vốn vừa theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước. Tổng vốn cấp I và vốn cấp II đều tăng đảm bảo tăng hệ số an toàn vốn (CAR) của ngân hàng.
Bảng 2: Vốn tự có
đơn vị: tỷ VNĐ
2006
2007
Vốn cấp I
6.648
10.276
Vốn cấp II
3.341
3.223
Khoản loại trừ
-3.644
-2.856
Tổng vốn tự có tính CAR
6.345
10.643
Hệ số an toàn vốn- CAR
5,5%
6,7%
(Theo báo cáo thường niên của BIDV năm 2007)
Hệ số CAR- một thước đo chính khả năng của ngân hàng chống đỡ rủi ro không được dự tính mà không làm ảnh hưởng tới nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Đến năm 2007 tỷ lệ này của BIDV là 6.7%- Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng phải duy trì hệ số CAR ở mức tối thiểu là 8% và có thời gian 3 năm. Điều này cho thấy đến năm 2007 khả năng của BIDV trong việc thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành có được tăng lên qua các năm cùng với số vốn tăng lên, song khả năng này chưa cao.
Trong những năm gần đây sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ngày càng gay gắt. Tuy nhiên có thể thấy tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của toàn bộ hệ thống BIDV đều tăng lên sau mỗi năm, năm sau tăng nhanh hơn năm trước. Tổng tài sản của toàn hệ thống năm 2007 là 201.382 tỷ VNĐ và vốn chủ sở hữu là 8.405 tỷ VNĐ. Tốc độ phát triển trung bình tổng tài sản trong giai đoạn từ năm 2002 – 2007 là khoảng 123%/năm và tốc độ phát tiển trung bình của vốn chủ sở hữu trong giai đoạn này là 138%/năm. Trong đó đối với vốn chủ sở hữu có 2 năm tăng đột biến là năm 2003 khi tốc độ phát triển là 186% và năm 2007 khi tốc độ phát triển lên đên 189%. Điều đó cho thấy sự chuyển mình khi vốn chủ sở hữu bắt đầu tăng từ năm 2002 và có bước đột phá và năm 2007.
Khả năng thanh khoản:
Mặc dù ngân hàng có một số hạn chế trong vấn đề thanh khoản do đặc thù là ngân hàng đầu tư nên thường xuyên có khoản đâu tư dự án dài hạn với số vốn rất lớn, tuy nhiên khả năng thanh khoản của BIDV đã được cải thiện từ năm 2003 tới nay tỷ lệ dư nợ/ tiền gửi giảm dần từ 106,4% (2003) còn 97,5 %, (2007) nhờ tăng mức huy động vốn tiền gửi của khách hàng. Điều này phù hợp hơn với chiến lược phát triển nguồn vốn cơ bản của ngân hàng.
Bên cạnh đó, công tác quản lý thanh khoản của ngân hàng đang được cải thiện, đặc trưng là việc thiết lập cơ chế kiểm soát và theo dõi hợp lý tình trạng thanh khoản hàng ngày và dài hạn. Theo đó, tỷ lệ khe hở thanh toán lũy kế ( tài sản có đến hạn – tài sản nợ đến hạn/ tổng tài sản) luôn trong biên độ cho phép theo quy định của ALCO là +/-3%
Bảng 3:Khả năng thanh khoản của BIDV
Các chỉ số thanh khoản (%)
2006
2007
Dư nợ/ Tiền gửi
92,6
97,5
Tài sản thanh khoản/ Tổng nợ phải trả
15,9
6,6
Tiền gửi khách hàng/ Tổng nợ phải trả
69,3
70,3
Tăng trưởng tiền gửi
24,2
27,1
(Theo báo cáo thường niên của BIDV năm 2007)
Rủi ro thanh khoản của ngân hàng ở mức được kiểm soát do tăng trưởng tỉền gửi (nguồn vốn cơ bản) khá ổn định. Các tài sản không thanh khoản của ngân hàng được hỗ trợ bởi các nguồn ổn định từ bên ngoài khách hàng và các quỹ tiền gủi của các cơ quan chính phủ, nhiều hơn là các nguồn nhạy cảm và không ổn định như nguồn từ thị trường vốn ngắn hạn và vay liên ngân hàng.
Khả năng sinh lời:
Khả năng sinh lời được thể hiện qua 2 hệ chỉ số: ROaA và ROaE. Hệ số thể hiện khả năng sinh lời của tài sản (ROaA) có sự tăng đều qua các năm từ 2002 – 2007 và đạt 0.89% năm 2007. Hệ số sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROeE) cũng tăng qua các năm đặc biệt tăng nhanh trong năm 2006 (14,23%) năm 2007(25.01%). Trong khi hệ số này trung bình của toàn hệ thống các ngân hàng thương mại cổ phần là ROaA là 1,51% và ROeE là 16,25%
Bảng 4: Khả năng sinh lời BIDV
Các chỉ số sinh lời (%)
2006
2007
ROaA
0,39
0,89
ROaE
14,23
25,01
Lợi nhuận ròng (triệu VNĐ)
538.996
1.604.745
Tăng trưởng thu nhập lãi ròng
-5,45
44,78
Thu nhập lãi ròng/ tổng thu nhập hoạt động
80,42
81,23
Lãi cận biên ròng
2,73
3,07
Thu nhập ngoài lãi/ Tổng tài sản
0,52
0,56
(Theo báo cáo thường niên của BIDV năm 2007)
Dù chịu sự cạnh tranh gay gắt trong những năm qua, khả năng sinh lời của ngân hàng vẫn tăng trưởng khá tốt. Lợi nhuận ròng của BIDV trong năm 2007 là 1.605 tỷ VNĐ. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân ROaA của ngân hàng có xu hướng tăng đều qua các năm, năm 2007 tỷ lệ này là 0,89% đạt mức cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây, tuy nhiên vẫn thấp hơn so với thông lệ quốc tế.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân RoaE cũng có sự cải thiện rõ rệt qua các năm. Các chỉ số này là rất tích cực khi tính đến nhiều yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh lời của ngân hàng
Thu nhập từ các hoạt động phi lãi suất của ngân hàng tăng 37,4% so với năm 2006 cho thấy ngân hàng đang cố gắng đa dạng nguồn thu nhập. Tuy nhiên, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi/ Tổng tài sản vẫn chưa được cải thiện. Thu nhập từ lãi vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu hoạt động, trên 60%, một tỷ lệ vẫn còn khá cao so với tiêu chuẩn hoạt động ngân hàng hiện đại ngày nay.
Hiệu quả hoạt động:
Các chỉ số về chi phí hoạt động là một điểm mạnh trong hoạt động ngân hàng. Chi phí hoạt động/Tổng tài sản và chi phí hoạt động/dư nợ tương đối tốt so với tiêu chuẩn khu vực và trên thế giới, thể hiện cơ cấu chi phí trong hoạt động ngân hàng là thấp hơn so với các ngân hàng khác. Mặc dù các chỉ số này có xu hướng tăng qua các năm, song tốc độ tăng không lớn.
Khi so sánh chi phí hoạt động của BIDV với thu nhập hoạt động, tỷ số này cũng cho thấy mức độ hiệu quả hoạt động của ngân hàng vẫn ở mức tốt (mặc dù giảm dần qua các năm) và tốt hơn nhiều mức tiêu chuẩn hoạt động ngân hàng (50-60%).
Sắp tới, BIDV phải tăng chi phí để nâng cao năng lực, bảo vệ thị phần trước những ngân hàng mới thì thu nhập từ hoạt động đã hoàn toàn bù đắp được khoản chi phí tăng lên này.
Bảng 5: Hiệu quả hoạt động của BIDV
Các chỉ số hiệu quả hoạt động (%)
2006
2007
Chi phí hoạt động/Tổng tài sản
1,1
1,31
Chi phí hoạt động/Dư nợ trước DPRR
1,77
2,10
Chi phí hoạt động/Tổng thu nhập hoạt động
36,59
33,64
Đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh
Trong bối cảnh nền kình tế hiện nay, cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày một gay gắt, BIDV không ngừng hoàn thành toàn diện, đồng bộ và vượt trội kế hoạch để khẳng định vị trí và vị thế của mình. Với bề dày truyền thống, quy mô và khả năng tài chính của một ngân hàng lớn, hoạt động kinh doanh của BIDV rất đa dạng và phong phú trong lĩnh vực tài chính– ngân hàng.
2.1. Hoạt động tín dụng
Tổng dư nợ của BIDV (sau khi đã trích lập dự phong rủi ro) đến 31/12/2007 là 125.596 tỷ VNĐ, tăng 34,4% so với năm 2006, trong đó tổng dư nợ cho vay các tổ chức kinh tê và cá nhân trong nước là 113.999 tỷ VNĐ tăng 28,8%. Thu nhập từ hoạt động tín dụng đạt 11.908 tỷ VNĐ, tăng 33,07% so với năm 2006. Hoạt động tín dụng cũng đã đổi mới theo hai hướng phát triển phù hợp hơn với chiến lược phát triển nhanh một ngân hàng bán lẻ và tín dụng truyền thống với cơ cấu và chất lượng tín dụng được nâng cao hơn.
Với định hướng phát triển thành một ngân hàng bán lẻ, trong năm qua danh mục các sản phẩm tín dụng bán lẻ của BIDV liên tục được bổ sung. Tỷ trọng tín dụng bán lẻ tăng từ 10,12% năm 2006 lên mức 13,14% năm 2007 với số dư là 17.339 tỷ VNĐ. Đây là hướng đi mới góp phần giúp cho BIDV có thể chiếm được thị phần trong thị trường ngân hàng bán lẻ đang phát triển ở Việt Nam.
Một số ngành BIDV tập trung ưu tiên tập trung đầu tư như: xi măng, bất động sản, chế biến gỗ xuất khẩu, chế biến thuỷ hải sản đều tăng dư nợ về tỷ trọng và số tuyệt đối.
Song song với việc chuyển đổi tích cực các tỷ lệ trong cơ cấu tín dụng, BIDV cũng đã tập trung xây dựng, phát triển nền tảng khách hàng bền vững bao gồm các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty lớn của đất nước,… Đồng thời, BIDV đang tiến triển theo xu hướng hợp tác toàn diện quan hệ tín dụng kết hợp với hoạt động đầu tư, góp vốn, quan hệ cổ đông chiến lược… đây là xu hướng trong những năm tới nhằm gắn kết chặt chẽ giữa Ngân hàng và khách hàng.
Tăng trưởng tín dụng qua các năm (tỷ VNĐ)
Bên cạnh việc tích cực triển khai công tác tín dụng, các biện pháp quản lý chất lượng tín dụng cũng được BIDV quan tâm. BIDV đã thực hiện nhiều biện pháp để thực hiện loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, kiểm soát nợ xấu đảm bảo phân loại nợ một cách chính xác. Do đó, đã mang lại kêt quả tích cực trong việc kiểm soát chất lượng tín dụng và thu hồi nợ hạch toán ngoại bảng. Nợ nhóm 2 giảm từ mức 36,2% xuống còn 23,4%.
Trong năm 2008, BIDV triển khai thực hiện chuyển đổi mô hình hoạt động theo dự án TA2 tại Hội sở chính và chi nhánh, trong đó hoạt động tín dụng sẽ chuyển đổi theo định hướng khách hàng. Tăng trưởng dư nợ tín dụng đạt 25% và tỷ lệ dư nợ trên tổng tài sản là 60%. Đặc biệt, BIDV đã đảm bảo chất lượng tín dụng khi tỷ lệ dư nợ xấu thấp hơn 3%, tỷ lệ dư nợ nhóm 2 trên tổng dư nợ giảm xuống còn 12%, đồng thời cơ cấu tỷ trọng dư nợ bán lẻ trên tổng dư nợ đạt 18%. Tuy nhiên, sản phẩm tín dụng cá nhân còn hạn chế, dư nợ tín dụng chủ yếu vẫn thuộc về khách hàng truyền thống. Việc chuyển đổi mô hình tổ chức sẽ thúc đẩy khối tín dụng phát triển và có những sản phẩm mới phù hợp.
Hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư bao gồm các hoạt động: góp vốn, liên doanh và mua cổ phần là một trọng tâm trong hoạt động kinh doanh của BIDV. Hoạt động này thực hiện 3 nhiệm vụ lớn cho BIDV là đa dạng hóa tài sản hiện có, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, mở rộng hoạt động của ngân hàng phù hợp với mô hình tập đoàn Tài Chính – Ngân hàng.
Định hướng cho hoạt động đầu tư là tập trung vào những lĩnh vực, ngành nghề có tiểm năng và hiệu quả cao như: năng lượng, tài nguyên, khoáng sản, cơ sở hạ tầng - bất động sản, tài chính ngân hàng, viễn thông, hàng không, giáo dục và y tế….
Quy mô đầu tư luôn được đa dạng và mở rộng. Tổng giá trị danh mục đầu tư tại 40 đơn vị( không bao gồm vốn cấp cho các công ty trực thuộc) tăng 153% so với năm 2006. Hiệu quả đầu tư cũng có kết quả tăng trưởng khá. Tổng thu nhập từ hoạt động đầu tư ( không kể hoạt động của các công ty trực thuộc ) trong năm 2007 là 116,8 tỷ VNĐ, tăng 61% so với năm 2006.
Hoạt động đầu tư làm nâng cao hình ảnh, uy tín và vị thế của BIDV trước cộng đồng tài chính và giới đầu tư trong và ngoài nước.
Dịch vụ ngân hàng
Những năm gần đây, BIDV liên tụ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22630.doc