Báo cáo Thực tập tại Công ty kiểm toán Việt Nam - VACO

Lời mở đầu Kiểm toán là một lĩnh vực còn khá mới mẻ ở Việt Nam, tìm hiểu nghiên cứu về kiểm toán là một yêu cầu và thách thức đặt ra đối với mỗi sinh viên chuyên ngành kiểm toán. Tuy nhiên, nghiên cứu trên lý thuyết và thực hành trên thực tế là hai vấn đề khác nhau, chúng cần phải đi song song với nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau. Trên cơ sở nghiên cứu về hoạt động kiểm toán trong thực tế hoạt động của Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO), trong giai đoạn thực tập tổng hợp, em đã tìm hiểu về cơ cấu

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Thực tập tại Công ty kiểm toán Việt Nam - VACO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tổ chức và hoạt động chung cũng như đi sâu vào một trong những khía cạnh về kiểm toán đang diễn ra thực tế tại Công ty, đó là Báo cáo kiểm toán và việc trình bày Báo cáo kiểm toán tại Công ty. Với mục đích kết hợp lý luận và thực tiễn, củng cố và vận dụng kiến thức đã học, đưa ra những nhận xét cụ thể, bài viết của em, ngoài Lời mở đầu và Kết luận, gồm 3 phần chính: I/ Quá trình hình thành và phát triển của Công ty kiểm toán Việt Nam (VACO). II/ Báo cáo kiểm toán. III/ Các mẫu báo cáo kiểm toán áp dụng tại VACO. Với yêu cầu nghiên cứu thực tế về lĩnh vực kiểm toán, em đã sử dụng kết hợp các phương pháp chung: phương pháp nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa kiểm toán việc tổ chức cơ cấu quản lý, giữa Báo cáo kiểm toán và các yếu tố khác của kiểm toán với nhau...và các một số phương pháp riêng như: mô tả và phân tích, sơ đồ và bảng biểu...để minh họa và hoàn thiện Báo cáo thực tập tổng hợp của mình. Do giới hạn về thời gian và phạm vi nghiên cứu, cũng như giới hạn về mặt kiến thức, báo cáo của em chỉ là một sự nghiên cứu sơ lược, rất mong thầy chỉ dẫn để em có thể hoàn thiện bài viết của mình. Em xin chân thành cảm ơn. Nội dung I/ Quá trình hình thành và phát triển của Công ty kiểm toán Việt Nam (VACO): Công ty kiểm toán Việt Nam (VACO) là công ty kiểm toán đầu tiên và lớn nhất tại Việt Nam cung cấp dịch vụ chuyên ngành cho một lượng khách hàng lớn nhất trong các công ty kiểm toán đang hoạt động tại Việt Nam với một chất lượng cao. Quá trình hình thành và phát triển của VACO gắn liền với những thành tựu đổi mới của ngành Tài chính nói riêng và của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam nói chung. Công ty kiểm toán Việt Nam đã ra đời trong bối cảnh của thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày 13/5/1991, theo giấy phép số 957/PPLT của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã ký quyết định số 165_TC/QĐ/TCCB thành lập Công ty kiểm toán Việt Nam. Sự ra đời của Công ty kiểm toán Việt Nam không chỉ đánh dấu cho sự ra đời của kiểm toán độc lập ở Việt Nam mà còn tạo tiền đề cho sự hội nhập của kiểm toán Việt Nam với kiểm toán quốc tế. Là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính hoạt động kinh doanh dịch vụ trong lĩnh vực kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán, Công ty kiểm toán Việt Nam có tên gọi giao dịch quốc tế là VIETNAM AUDITING COMPANY (gọi tắt là VACO). Trụ sở chính của Công ty đặt tại số 8 đường Phạm Ngọc Thạch, quận Đống Đa, Hà Nội. Hai chi nhánh của VACO được đặt tại thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hải Phòng. Sự có mặt của VACO ở các thành phố lớn trong cả nước là một lợi thế rất lớn cho chính Công ty trong việc hoàn thành chức năng và nhiệm vụ của mình. Chức năng và nhiệm vụ của VACO gắn liền với mục tiêu hoạt động của mình: “Mục tiêu hoạt động của Công ty là kiểm tra, đưa ra ý kiến xác nhận tính khách quan, đúng đắn trung thực và hợp lý của số liệu, tài liệu kế toán và báo cáo quyết toán của đơn vị được kiểm toán; tư vấn và hướng dẫn cho khách hàng thực hiện các quy định của Nhà nước về tài chính , kế toán, thuế, .... để quý đơn vị được kiểm toán và tư vấn điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật và đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước, của các tổ chức, các cá nhân có quan hệ và quan tâm đến hoạt động của đơn vị”. Điều này được quy định tại điều 2 quyết định 555/1998/QĐ_BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành về điều lệ và tổ chức hoạt động của Công ty kiểm toán Việt Nam. Đồng thời, Công ty chịu sự quản lý của Bộ Tài chính, chịu sự kiểm tra và thanh tra của các cơ quan chức năng khác, của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố nơi Công ty có trụ sở và chi nhánh. Công ty cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực của những nhận xét và các số liệu, tài liệu do Công ty cung cấp hoặc kiểm tra xác nhận. ý thức được chức năng, nhiệm vụ của mình, Công ty kiểm toán Việt Nam đã đang từng bước khẳng định vị trí của mình trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới. Có thể nói, sự ra đời của Công ty kiểm toán Việt Nam chính là sự mở đường cho một loạt các công ty kiểm toán khác ở Việt Nam ra đời. Điều đó không chỉ đáp ứng lòng mong mỏi của những người quan tâm mà còn tăng thêm niềm tin cho bên thứ ba đối với tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính được lập ra. Để đạt tới điều này, tập thể cán bộ nhân viên VACO đã phải trải qua rất nhiều gian truân, vất vả đưa VACO đi những bước vững chắc trên hành trình phát triển của mình. Đề cập đến kết quả kinh doanh, chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận là 2 chỉ tiêu quan trọng hàng đầu phản ánh sự tăng trưởng của Công ty (Biểu đồ 1). Qua biểu đồ 1, có thể nhận thấy tốc độ tăng trưởng về doanh thu và lợi nhuận đã tăng lên rõ rệt. Nếu như năm 1991, năm mới bắt đầu thành lập, với số lượng vẻn vẹn chỉ có 6 hợp đồng doanh thu của VACO đạt 0,46 tỷ đồng và lợi nhuận khoảng 0,212 tỷ đồng thì đến năm 1995-sau khi thành lập liên doanh, doanh thu của Công ty đã tăng đến 4,43 tỷ, tức tăng gấp 9,6 lần, tương ứng mức lợi nhuận là 2,04 tỷ đồng và số lượng hợp đồng rất cao (235 hợp đồng). Cứ thế, năm 1998, với 400 hợp đồng được ký kết, doanh thu là 18,34 tỷ đồng; lợi nhuận là 6,312 tỷ đồng. Năm 2000 vừa qua, doanh thu của Công ty là 24,75 tỷ đồng, tăng gần 20% so với năm 1999 với gần 500 hợp đồng dịch vụ. Sự tăng mạnh về doanh thu và lợi nhuận đã khiến năm 2000 được đánh giá là năm thành công nhất trong gần 10 năm hoạt động của VACO trên mọi phương diện. Năm 2001 cũng là năm công ty hy vọng một sự tăng trưởng đáng kể với mức doanh thu dự kiến là trên 30 tỷ đồng, số lượng hợp đồng là trên 540, đạt lợi nhuận đặt ra là 7,44 tỷ đồng. Để đạt được mức doanh thu tăng trưởng hàng năm, công ty luôn duy trì tổng vốn kinh doanh bình quân hàng năm là 7,9 tỷ đồng trong đó vốn ngân sách Nhà nước cấp là 3,6 tỷ, còn lại là vốn tự có và vốn khác. Với những con số cụ thể nêu trên, VACO ngày càng lớn mạnh và khẳng định vị trí của mình trong hoạt động dịch vụ kế toán, kiểm toán ở Việt Nam, không chỉ chủ động trong hoạt động kinh doanh mà còn độc lập tự chủ về tài chính. Có thể nói, sự thông hiểu môi trường kinh doanh và pháp luật tại Việt Nam kết hợp với kỹ thuật tiên tiến của hãng Kiểm toán hàng đầu thế giới đã giúp VACO không chỉ đạt chỉ tiêu về lợi nhuận và doanh thu mà còn đẩy mạnh các loại hình dịch vụ và chất lượng các loại hình dịch vụ đó. Hiện nay, cùng với sự lớn mạnh của mình, VACO đang tiếp tục phát triển và mở rộng 5 loại hình dịch vụ cơ bản. Đó là : dịch vụ kiểm toán ; dịch vụ kế toán; dịch vụ tư vấn thuế; dịch vụ tư vấn kinh doanh; tư vấn đầu tư và dịch vụ đào tạo. Trong dịch vụ kiểm toán, VACO cung cấp dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm. Bên cạnh đó, cung cấp dịch vụ soát xét khả nắng sáp nhập và mua bán doanh nghiệp, hay cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực cho vay hoặc tài trợ vốn quốc tế. Đặc biệt, VACO cũng tiến hành hợp nhất báo cáo tài chính trong các tập đoàn quốc tế. Các dịch vụ kế toán bao gồm việc ghi chép, giữ sổ, lập báo cáo thuế, lập báo cáo tài chính cho đơn vị có nhu cầu được thực hiện bởi những chuyên gia giỏi, có nhiều năm kinh nghiệm của Công ty. Ngoài ra, công ty cũng trợ giúp các doanh nghiệp Nhà nước chuyển đổi báo cáo tài chính được lập theo chế độ kế toán Việt Nam sang phù hợp với các nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung theo yêu cầu cụ thể của tập đoàn. Chuyên gia tư vấn thuế của VACO trợ giúp khách hàng lập kế hoạch và tính toán các sắc thuế; giảm thiểu ảnh hưởng của thuế trong giao dịch kinh doanh và trợ giúp khách hàng khiếu nại thuế lên cơ quan cấp cao. Đây là một loại dịch vụ luôn mang lại hiệu quả cao cho khách hàng. Bên cạnh tư vấn về thuế, Công ty cũng không ngừng đẩy mạnh cung cấp các thông tin và tư vấn về việc thiết lập- thuê văn phòng làm việc... nhất là đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Với mục tiêu “luôn sẵn sàng trợ giúp khách hàng đạt được mục tiêu của mình”, dịch vụ đào tạo của Công ty về kế toán và kiểm toán và quản trị kinh doanh đã đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều thông tin hữu ích. Sự đa dạng hoá về các loại hình dịch vụ của công ty là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những thành công to lớn trên con đường 10 năm phát triển. Sự lớn mạnh đó được chứng thực qua cơ cấu doanh thu theo loại hình dịch vụ năm 2000 (Biểu đồ 2). Nhìn chung, dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính đóng vai trò chủ đạo, tạo ra phần lớn doanh thu cho công ty (72%). Đặc biệt, các dịch vụ tư vấn về thuế, tài chính ngày càng được chú trọng (19,5%). Các loại hình tư vấn do VACO cung cấp ngày càng được khách hàng đánh giá cao thông qua chất lượng dịch vụ. Chất lượng dịch vụ được nâng cao còn được phản ánh qua số lượng khách hàng ngày càng nhiều. Ngoài các doanh nghiệp Nhà nước với những khách hàng thường niên như Tổng Công ty Hàng không Dân dụng Việt Nam, Tổng Công ty Điện lực Việt Nam; Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam,...., Công ty VACO còn mở rộng dịch vụ với các hợp đồng hợp tác kinh doanh như MCC, PPCC,....; các dự án quốc tế như UNDP, IMF,... Hiện nay, nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành khách hàng chủ yếu của VACO. Trong đó có khách sạn Thống nhất SEM Metropole; khách sạn Hà Nội,.... Cuối cùng, sự thành công của VACO trong những năm qua là dựa một phần rất lớn vào chiến lược phát triển con người trong công ty. Trong những năm này, số lượng lao động cũng như chất lượng đào tạo đều tăng lên đáng kể. So với năm 91, số người năm 95 đã tăng lên 4 lần. Sau khi trở thành thành viên chính thức hãng DTT, số lượng cán bộ nhân viên trong công ty tăng lên 136 người, tức tăng 4,3 lần so với năm 1995. Năm 2001, VACO đã có hơn 300 nhân viên. Điều này cho thấy điều kiện của công ty đã trở nên hạn chế so với tốc độ phát triển của Công ty. Vì vậy, điều kiện làm việc, chính sách đào tạo cũng như phong cách ứng xử của kiểm toán viên và nhân viên công ty VACO thường xuyên được chú trọng. Trong những năm gần đây, VACO đã triển khai nhiều chương trình đào tạo nhân viên đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Năm 2000 vừa qua là năm thứ ba VACO thực hiện chương trình “Quốc tế hoá đội ngũ nhân viên”. Công ty đã huy động tối đa nguồn lực cho đào tạo. Chi phí đào tạo của công ty năm 2000 lên tới hơn 4 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 1999. Tính đến năm 2000, VACO đã cử hơn 30 nhân viên tham gia theo học chương trình kiểm toán viên công chứng Anh (ACCA). Cũng trong năm, gần 50 lượt nhân viên đã được cử đi học tập và đào tạo tại nước ngoài với thời gian từ 1 tuần đến 1 năm. Và trong năm 2000 này, Công ty đã đón nhận 2 nhân viên được đào tạo dài hạn (2 năm, 4 năm) theo chương trình DTT tại Mỹ trở về. Như vậy, những chính sách đào tạo thiết thực không chỉ đem lại những kiến thức bổ ích nâng cao trình độ nghiệp vụ cho nhân viên mà còn củng cố niềm tin, khuyến khích lòng say mê nghề nghiệp và gắn bó lâu dài với Công ty. Kết quả thực tế đã cho thấy, theo số liệu tháng 3/2000, Ban Giám đốc và chuyên gia DTT của Công ty gồm 9 người, Manager 29 người (chiếm 14% tổng số nhân viên) ; kiểm toán viên quốc gia 58 người ( 30%) ; kiểm toán viên là 52 người (26%); trợ lý kiểm toán viên là 53 người (26%). Trên cơ sở duy trì tốt phương châm hoạt động ngay từ khi thành lập, Công ty đã hình thành tương đối đồng đều về mặt bằng trình độ nhân viên. 95% số nhân viên Công ty có trình độ Đại học trở lên và sử dụng thành thạo máy vi tính; 60% số nhân viên sử dụng thành thạo ngoại ngữ; 17% có 2 bằng đại học trở lên. Đặc biệt, 34% nhân viên có trên 5 năm kinh nghiệm. Và đến đây, VACO đã kết thúc chặng đường 10 năm phát triển đầy khó khăn mà rất đỗi tự hào về sự thành công của Công ty, về vị thế số 1 trong các Công ty kiểm toán Việt Nam. Tóm lại, bước sang thế kỷ 21, kỷ nguyên của công nghệ và trí thức, Công ty Kiểm toán Việt Nam mang trong mình một khí thế mới, một quyết tâm mới, phát huy 10 năm VACO vươn tới mục tiêu chiến lược “VACO thành viên Hãng DTT sẽ trở thành Hãng Kiểm toán số 1 hàng đầu tại Việt Nam về doanh thu, khả năng tăng trưởng, khẳng định và đề cao uy tín của mình bằng chất lượng dịch vụ cung cấp cho mọi loại hình khách hàng”. Trong tương lai, Công ty cũng định hướng “phấn đấu trở thành Công ty hàng đầu trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán và tư vấn kinh doanh ở Việt Nam, luôn cung cấp mọi dịch vụ đã có với chất lượng cao, vượt trên sự mong đợi của khách hàng và nhân viên”. Cụ thể : Công ty tiếp tục không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, địa bàn hoạt động phục vụ khách hàng nhằm duy trì và mở rộng thị phần trong nước. Hướng tới hình ảnh VACO thành viên DTT hãng kiểm toán quốc tế số 1 tại Việt Nam bằng chất lượng dịch vụ quốc tế. Phát triển gấp 3 vào năm 2005 với doanh thu khoảng 85 tỷ đồng. Đẩy mạnh công tác đào tạo về chất lượng và số lượng. Tăng cường mối quan hệ và vai trò tham mưu của Công ty với Bộ, ngành, cơ quan liên quan. Mười năm ra đời và phát triển là mười năm khó khăn vất vả nhưng cũng nhiều thành tựu vẻ vang. Và đó cũng có nghĩa là còn có nhiều khó khăn trước mắt, đòi hỏi tập thể cán bộ nhân viên Công ty Kiểm toán Việt Nam đồng tâm hiệp lực để đạt tới những thành tựu vẻ vang lớn góp phần phát triển sự nghiệp kiểm toán nước nhà và trên thế giới. II/ Báo cáo kiểm toán: Định nghĩa về kiểm toán bao gồm cả quá trình báo cáo những phát hiện của kiểm toán viên cho người sử dụng. Quá trình báo cáo là cần thiết đối với quá trình kiểm toán vì nó giải thích những gì kiểm toán viên đã làm và các kết luận đã đạt được. Thường thì đây là phần duy nhất mà những người sử dụng kết quả kiểm toán muốn xem. Do đó, trên góc độ của người sử dụng, báo cáo là sản phẩm của kiểm toán viên. Báo cáo kiểm toán là bước cuối cùng của toàn bộ quá trình kiểm toán. Nghề nghiệp kiểm toán yêu cầu một sự thống nhất trong quá trình báo cáo như là một phương tiện để tránh nhầm lẫn. Người sử dụng sẽ gặp khó khăn khi thuyết minh ý nghĩa của báo cáo kiểm toán nếu như không có sự thống nhất đó. Do đó, các chuẩn mực kiểm toán đã định nghĩa và liệt kê các hình thức báo cáo phải đi liền với các báo cáo tài chính. Các báo cáo kiểm toán đều phải đạt được những yêu cầu chung, nhưng với mỗi tình huống khác nhau, sẽ có những hình thức báo cáo phù hợp. 1, Những vấn đề chung về báo cáo kiểm toán: a) Mẫu báo cáo kiểm toán: Báo cáo chuẩn mực {SAS 600(140)] đưa ra mẫu báo cáo và các phần cần được nêu trong báo cáo của kiểm toán viên như sau: Tên người nhận báo cáo. Phần giới thiệu về các báo cáo tài chính được kiểm toán. Từng phần riêng biệt có tiêu đề phù hợp gồm các nội dung sau: + Trách nhiệm của ban giám đốc (hoặc những người có chức vụ tương đương) và trách nhiệm của kiểm toán viên. + Cơ sở ý kiến của kiểm toán viên. + ý kiến của kiểm toán viên trên báo cáo tài chính. Chữ ký tay hoặc chữ ký in của kiểm toán viên. Ngày ký báo cáo kiểm toán. Báo cáo chuẩn mực không chỉ bao gồm một trong các yếu tố nêu trên mà phải bao gồm đầy đủ. Các kiểm toán viên cần làm theo trình tự để tạo ra một mẫu báo cáo chuẩn mực rõ ràng giúp cho người đọc hiểu được nội dung báo cáo và các vấn đề khác có liên quan. b) Xác định nội dung của báo cáo tài chính: Các chuẩn mực báo cáo đối với báo cáo kiểm toán thường bao gồm đoạn giới thiệu nội dung của các báo cáo tài chính đã được kiểm toán [SAS 600(4b)], thông thường báo cáo tài chính đi kèm với các thông tin tài chính bổ trợ như Báo cáo của Ban giám đốc, Báo cáo của Chủ tịch Hội đồng quản trị và các thông tin tổng hợp khác. Nếu thông tin của Báo cáo của Ban giám đốc không phù hợp với các báo tài chính thì kiểm toán viên không phải chịu trách nhiệm với các thông tin này mà chỉ chịu trách nhiệm đối với các trang báo cáo do họ đã kiểm toán trong Báo cáo tài chính. Ngoài báo cáo gửi cho Công ty, báo cáo phải được gửi cho các cá nhân và cơ quan có thẩm quyền như đã nêu trong các điều khoản của hợp đồng. Báo cáo không thể gửi cho ai khác trừ kiểm toán viên trực tiếp thực hiện kiểm toán. Thông thường trong các trường hợp như vậy, kiểm toán viên sẽ báo cáo với Ban giám đốc doanh nghiệp hoặc Công ty của mình. c) Trách nhiệm của Ban giám đốc và trách nhiệm của kiểm toán viên: Các chuẩn mực về báo cáo [SAS 600(20)] yêu cầu báo cáo kiểm toán phải bao gồm một phần riêng ghi rõ trách nhiệm của Ban giám đốc (hoặc những người có chức vụ tương đương) và của kiểm toán viên. Phần này bao gồm: Kiểm toán viên cần phân biệt được trách nhiệm của Ban giám đốc và trách nhiệm của họ bằng cách nêu trong báo cáo những nội dung sau: + Việc lập báo cáo tài chính là trách nhiệm của Ban giám đốc Công ty. + Phân định trách nhiệm trong báo cáo tài chính hoặc bằng các thông tin kèm theo. + Trách nhiệm của kiểm toán viên là đưa ra ý kiến về các báo cáo tài chính của Công ty. Nếu các báo cáo tài chính hoặc các thông tin đi kèm (ví dụ như báo cáo của Ban giám đốc) không nêu đầy đủ trách nhiệm của Ban giám đốc thì báo cáo kiểm toán viên cần phải nêu ra các trách nhiệm này. Ban giám đốc cần mô tả chi tiết chứ không phải vắn tắt trách nhiệm của mình và theo đó sẽ có một phần trong báo cáo của Ban giám đốc được ghi với tiêu đề “Trách nhiệm của Ban giám đốc”. Trong các trường hợp như vậy, đoạn này nên đặt trong phần cuối của báo cáo Ban giám đốc và tiếp theo là báo cáo của kiểm toán viên. Bất cứ sự thay đổi nào của Ban giám đốc cần phải được cân nhắc xem có làm mất tính đầy đủ phần trách nhiệm của Ban giám đốc hay không. Trong những hoàn cảnh đặc biệt, công ty được kiểm toán có thể bị yêu cầu áp dụng những chính sách hoặc cơ sở kế toán không cho phép phản ánh trung thực và hợp lý. Trong những trường hợp như vậy, kiểm toán viên phải đề cập đến các yêu cầu đó khi viết phần trách nhiệm của Ban giám đốc và kiểm toán viên (trừ khi các yêu cầu đó được nêu trong một báo cáo riêng biệt do Ban giám đốc cung cấp) và phải nhấn mạnh vấn đề này trong đoạn cơ sở đưa ý kiến. d) Cơ sở đưa ý kiến kiểm toán: Chuẩn mực báo cáo [SAS 600(24)] yêu cầu các kiểm toán viên phải có một phần riêng giải thích “cơ sở đưa ra ý kiến” bằng cách ghi trong báo cáo kiểm toán: Sự tuân thủ hoặc không tuân thủ chuẩn mực kiểm toán cùng với nguyên nhân cho sự không tuân thủ nếu có. Một báo cáo về quá trình kiểm toán bao gồm: + Kiểm tra các bằng chứng liên quan tới số liệu và thông tin trình bày trong báo cáo tài chính. + Đánh giá kế hoạch và quyết định trọng yếu của Ban giám đốc trong quá trình lập báo cáo tài chính. + Xem xét xem các chính sách kế toán có phù hợp với hoàn cảnh của Công ty, có được áp dụng nhất quán và công bố đầy đủ hay không. Kiểm toán viên đã lập kế hoạch và thực hiện cuộc kiêm toán nhằm thu được các bằng chứng đảm bảo rằng các báo cáo tài chính không có sai sót trọng yếu do gian lận hoặc sai sót khác và đảm bảo họ đã đánh giá tổng quát việc trình bày các thông tin trên báo cáo tài chính. e) ý kiến của kiểm toán viên: Trong phần ghi ý kiến kiểm toán, báo cáo kiểm toán phải tuân theo Chuẩn mực báo cáo [SAS 600(30)] quy định “phải bao gồm một ý kiến rõ ràng về các Báo cáo tài chính và về các vấn đề khác theo quy định của pháp lý hoặc yêu cầu áp dụng đối với một cuộc kiểm toán cụ thể”. ý kiến đó được đưa ra “dựa trên việc xem xét và đánh giá kết luận rút ra từ các bằng chứng thu thập được trong quá trình kiểm toán”. f) Kỳ báo cáo, chữ ký và ghi ngày trên báo cáo kiểm toán: Nếu kỳ báo cáo khác một năm thì nên chỉ rõ chính xác kỳ báo cáo đó khi đưa ra ý kiến. Ví dụ “cho kỳ 6 tháng kết thúc ngày...” mà không nói chung chung là “cho kỳ kết thúc ngày...”. Chuẩn mực báo cáo yêu cầu báo cáo kiểm toán cho báo cáo tài chính của một doanh nghiệp phải ghi ngày trên báo cáo. Ngày này là “ngày mà các kiểm toán viên ký vào báo cáo của họ để đưa ra ý kiến trên các báo cáo đó” [SAS 600(7b)]. Hơn nữa, chuẩn mực báo cáo còn nói rằng “các kiểm toán viên chỉ đưa ra ý kiến đối với báo cáo tài chính sau khi các báo cáo đó và các thông tin tài chính khác trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán được giám đốc xem xét và phê duyệt và các kiểm toán viên đã xem xét tất cả các bằng chứng cần thiết”. h) Báo cáo dự thảo: Các bản dự thảo báo cáo đôi khi được gửi tới khách hàng để họ soát xét. Vì những báo cáo dự thảo chỉ là tạm thời nên nó sẽ không được sao chụp và gửi tới bất cứ ai ngoài những người đại diện của khách hàng có trách nhiệm soát xét và sau khi nội dung của nó đã được thống nhất, nó sẽ được gửi lại cho kiểm toán viên hoặc được huỷ bỏ bởi khách hàng đặc biệt nếu có bất kỳ sự sửa đổi nào trong bản báo cáo dự thảo. Dự thảo sơ bộ chỉ sử dụng cho mục đích thảo luận phải gửi lại cho DTT và không được phép sao chụp dưới bất kỳ hình thức nào nếu không được cho phép. Các bản dự thảo không được lưu giữ trong file giấy tờ làm việc hoặc trong các file của văn phòng, nó phải được huỷ khi báo cáo đã được phát hành tới khách hàng. Theo đó, các bản sao giấy tờ làm việc của báo cáo sẽ được coi là bản gốc của báo cáo đã phát hành chứ không phải là bản dự thảo. yêu cầu đối với bản báo cáo dự thảo là phải huỷ cả “bản gốc” và các file trong máy vi tính có liên quan. i) Báo cáo kiểm toán chuẩn mực: [Kính gửi: Ban giám đốc và các cổ đông của...] Tên Công ty [Thành phố, nước] Phần giới thiệu: Chúng tôi đã kiểm toán Bảng cân đối kế toán kèm theo của Công ty tại thời điểm 31/12/X và X-1 và báo cáo thu nhập, vốn cổ đông và báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho các năm kết thúc cùng ngày. Ban quản lý Công ty có trách nhiệm lập các báo cáo này. Trách nhiệm của chúng tôi là đưa ra ý kiến cho các báo cáo này dựa trên kết quả cuộc kiểm toán. Phạm vi: Chúng tôi đã tiến hành cuộc kiểm toán theo những chuẩn mực kiểm toán được thừa nhận chung. Các chuẩn mực này yêu cầu chúng tôi rằng phảu lập kế hoạch và tiến hành kiểm toán để có được sự đảm bảo hợp lý rằng báo cáo tài chính không có những sai sót trọng yếu. Cuộc kiểm toán bao gồm kiểm tra những bằng chứng có liên quan đến các số liệu trình bày trong BCTC. Chúng tôi cũng đồng thời đánh giá những nguyên tắc kế toán được sử dụng, các ước tính trọng yếu của Ban quản lý có được trình bày đầy đủ hay không. Chúng tôi tin tưởng rằng cuộc kiểm toán đã cung cấp một cơ sở hợp lý cho ý kiến của chúng tôi. ý kiến: Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính này đã phản ánh trung thực, hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của Công ty tại thời điểm 31/12/X và X-1 cũng như kết quả hoạt động và tình hình lưu chuyển tiền tệ cho năm kết thúc cùng ngày phù hợp với các chuẩn mực kế toán được thừa nhận chung. Đây là một ví dụ báo cáo áp dụng cho kiểm toán báo cáo tài chính của một doanh nghiệp khi: Có trình bày số liệu báo cáo tài chính cho hai năm tài chính để so sánh. Kiểm toán viên đã kiểm toán báo cáo tài chính cho cả hai năm đó. Không có ý kiến loại trừ hoặc hạn chế. Đoạn giải trình (ví dụ có liên quan đến việc tiếp tục hoạt động hoặc một sự không nhất quán) không được yêu cầu. k) Hoàn cảnh có thể dẫn đến thay đổi trong báo cáo kiểm toán chuẩn mực: ý kiến sửa đổi Hoàn cảnh Các sửa đổi không ảnh hưởng đến ý kiến chấp nhận toàn phần Ngoại trừ Trái ngược Từ chối đưa ý kiến Công bố không đầy đủ Thay đổi nguyên tắc kế toán Hạn chế trong phạm vi: - Không toả khắp - Toả khắp - Trọng yếu do khách hàng Không chắc chắn về khả năng tiếp tục hoạt động Sử dụng báo cáo của kiểm toán viên khác Nhấn mạnh vấn đề Thiếu tính độc lập X X X X X X X X X X X 2, Báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn bộ: Báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn bộ là loại báo cáo mà các ý kiến do kiểm toán viên đưa ra dựa trên sự nhận định rằng các báo cáo tài chính là trung thực và hợp lý và đã được lập dựa trên các nghuyên tắc kế toán và các nguyên tắc khác. Để đưa ra nhận định này, các kiểm toán viên phải thoả mãn các tiêu thức quan trọng sau đây: Chính sách kế toán phù hợp đã được áp dụng một cách thống nhất trong quá trính lập các báo cáo tài chính. Các báo cáo tài chính đã được lập theo luật định và các chuẩn mực kế toán được áp dụng (tất cả đều phải được xem xét và diễn giải đầy đủ trong báo cáo tài chính). Các thông tin cần thiết giúp người đọc để hiểu biết về báo cáo tài chính phải được trình bày đầy đủ. Nếu các yêu cầu trên chưa được thực hiện đầy đủ, kiểm toán viên không nên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ. Vì vậy, một điều quan trọng là khi đưa ra ý kiến, cách hành văn phải chính xác, cô đọng và không đề cập tới các vấn đề đã được lưu ý trong các phần khác của báo cáo kiểm toán nhằm nhấn mạnh các thông tin quan trọng trong báo cáo tài chính, vì nếu đề cập như vậy, người đọc hiểu rằng các vấn đề này cũng nằm trong phần ngoại trừ, trong khi kiểm toán viên không có ý định như vậy. * Tuân thủ các quy định kế toán liên quan: Các văn bản giải trình chỉ ra rằng luật pháp không chỉ dựa vào các chuẩn mực về kiểm toán mà còn dựa vào pháp luật để đánh giá tính trung thực và hợp lý của các báo tài chính. Vì vậy, việc tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán là cần thiết để đáp ứng yêu cầu của pháp luật quy định ban giám đốc chịu trách nhiệm lập báo cáo phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính cũng như kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chi tiết các sai sót trọng yếu trong việc tuân thủ chuẩn mực kế toán mà kiểm toán viên cho là cần thiết để phản ánh trung thực và hợp lý tình hình doanh nghiệp phải được diễn giải, kể cả các ảnh hưởng về mặt tài chính do những sai sót này gây nên nếu kiểm toán viên thấy cần thiết. * Độ chắc chắn không mặc định: Trước khi có chuẩn mực về báo cáo, những vấn đề làm tăng rủi ro mặc định chính là cơ sở đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần của kiểm toán viên. hiện nay cách thức này đã thay đổi. Yêu cầu đối với chuẩn mực báo cáo [SAS 600(54)] đặt ra như sau: Khi đưa ra ý kiến về BCTC, kiểm toán viên phải đánh giá liệu các thông tin trên báo cáo tài chính có bị ảnh hưởng bởi các rủi ro mặc định mà kiểm toán viên cho là trọng yếu hay không. Khi có rủi ro mặc định mà: + kiểm toán viên cho là trọng yếu và + được ghi nhận đầy đủ trong báo cáo tài chính. Kiểm toán viên cần dưa thêm phần trình bày về độ chắc chắn không mặc định vào mục cơ sở đưa ra ý kiến trong báo cáo kiểm toán. Khi đưa thêm phần trình bày vào báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên phải sử dụng từ ngữ chỉ rõ quan điểm của mình về cáo cáo tài chính là không ngoại trừ đối với các nội dung đã đề cập trong đó. Chuẩn mực báo cáo chỉ ra rõ ràng rằng trong trường hợp một nội dung không chắc chắn ghi chép và trình bày chi tiết trong báo cáo tài chính, ý kiến liên hệ của kiểm toán viên đến nội dung đó hoàn toàn không hàm ý ngoại trừ. Vì vậy, kiểm toán viên khi đề cập đến mức độ không chắc chắn cần sử dụng trong một đoạn văn riêng, ngoài phần ý kiến kiểm toán, để đề ra cơ sở cho ý kiến của mình và cần kết thúc phần này bằng khẳng định của kiểm toán viên không ngoại trừ các nội dung không chắc chắn này. Tài liệu giải trình Chuẩn mực báo cáo kiểm toán chỉ ra rằng nên sử dụng các đoạn văn riêng rẽ để diễn tả các vấn đề dẫn đến mức độ không chắc chắn trọng yếu và ảnh hưởng của nó tới báo cáo tài chính, chi tiết về mặt định lượng (nếu có thể), trường hợp không định lượng được, thì phải ghi chú về ảnh hưởng này. Do vậy các vấn đề nêu trong giải trình báo cáo tài chính có thể cô đọng lại theo một số hoàn cảnh cụ thể dẫn đến mức độ không chắc chắn. có nhiều trường hợp mà ban giám đốc muốn đưa toàn bộ vào bản giải trình báo cáo tài chính không chỉ hoàn cảnh chi phối mà mọi ảnh hưởng tất yếu, chi tiết về khối lượng. Khi tham chiếu tới ghi chú báo cáo tài chính nhằm hạn chế thấp nhất sự trùng lặp số liệu, ta không nên coi việc làm này có ý nghĩa thay thế cho việc miêu tả toàn bộ mức độ không chắc chắn trọng yếu giúp cho người đọc đánh giá được nội dung vấn đề và ý nghĩa của nó. Chuẩn mực báo cáo [SAS 600(12)] đánh giá mức độ không chắc chắn là cố hữu khi mọi quyết định liên quan đến nó phụ thuộc vào các sự kiện không chắc chắn trong tương lai nằm ngoài tầm kiểm soát của ban giám đốc doanh nghiệp tại ngày phê duyệt báo cáo tài chính. Mức độ không chắc chắn trở nên trọng yếu khi khi ảnh hưởng của nó lớn tới mức, nếu như không được diễn tả rõ ràng về đặc điểm và tác động của rủi ro này, thì các đánh giá về báo cáo tài chính có thể sai lệch một cách nghiêm trọng. Theo [SAS 600(13)], khi xem xét mức độ ảnh hưởng của mức độ không chắc chắn cố hữu, kiểm toán viên nên xem xét: Rủi ro đã được dự tính có thể biến đổi. Mức độ hậu quả tất yếu xảy ra. Tác động của hậu quả này tới ý kiến tất yếu xảy ra. Khi họ đưa ra ý kiến đầy đủ trong việc xử lý kế toán các mức độ không chắc chắn cố hữu, những tài liệu giải trình theo chuẩn mực báo cáo quy định rằng kiểm toán viên cần xem xét: Tính phù hợp của các chính sách kế toán giải quyết các sự kiện không chắc chắn cố hữu. Tính hợp lý của các ước tính trình bày trong báo cáo tài chính có liên quan đến sự kiện không chắc chắn cố hữu. Tính đầy đủ của các thông tin trình bày. Trong thực tế, kiểm toán viên phải xem xét những yêu cầu về kế toán các nghiệp vụ bất thường có được tuân thủ có liên quan đến các yêu cầu như: ghi nhận ngay các khoản lỗ nếu nó có dấu hiệu phát sinh trong tương lai và có thể dự tính trước với mức chính xác tương đối và các số liệu được trình bày về các khoản lỗ bất thường trọng yếu chưa được ghi nhận khi dấu hiệu phát sinh hoàn toàn không rõ ràng. Phần lớn các cuộc kiểm toán liên quan tới một số sự kiện không chắc chắn cố hữu, yêu cầu các kiểm toán viên phải đánh giá về mức độ ảnh hưởng đơn lẻ hoặc đa hợp mà kết quả cuối cùng của họ có thể gây ra làm thay đổi cách đánh giá về báo cáo tài chính. Đồng thời cũng có nhiều cuộc kiểm toán liên quan đến việc đánh giá tài sản (như khả năng thu hồi nợ và bán hàng với mức giá cao hơn giá thành) và công nợ (như dự phòng chi phí bảo hành hoặc phạt vi phạm hợp đồng). Thông thường kiểm toán viên có thể thu thập bằng chứng kiểm toán bằng cách đánh giá khả năng thu thập đủ bằng chứng để đưa ra ý kiến về tính hợp lý của các dự toán do nhà quản lý đưa ra. Trong trường hợp như vậy, không nên coi các sự kiện không chắc chắn là trọng yếu, đồng thời không nên đề cập tới các vấn đề này trong báo cáo tài chính. Kiểm toán viên chỉ có thể đánh giá được tính đầy đủ của phương pháp xử lý kế toán và trình bày số liệu dựa trên những bằng chứng thu thập được tại thời điểm đưa ra ý kiến. Trường hợp do những giới hạn trong phạm vi kiểm toán, kiểm toán viên không nhận được đầy đủ thông tin về các sự kiện không chắc chắn là trọng yếu, họ phải đưa ra ý ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29368.doc
Tài liệu liên quan