Lời nói đầu
Trong giai đoạn hiện nay khi xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá đang trở nên phổ biến thì hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đóng vai trò trong tiến trình kinh tế xã hội của một quốc gia. Với Việt Nam, một quốc gia đang trong giai đoạn đầu của một quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá "Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên, là trọng điểm kinh tế đối ngoại". Hoạt động xuất khẩu mà các ngành kinh tế tham gia đem lại cho đất nước một lượng ngoại tệ khá lớn phục vụ cho
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1682 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Thực tập tại Công ty Giầy Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quá trình xây dựng và đổi mới đất nước.
Công ty Giầy Thăng Long là một trong những con chim đầu đàn của Tổng Công ty Da - Giầy Việt Nam chuyên sản xuất giầy xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới. Với chức năng sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu giầy đang phát triển đi lên trong điều kiện khó khăn nhiều mặt, đặc biệt là sự cạnh tranh gay gắt ở cả trong và ngoài nước, thị trường truyền thống bị biến động.... Để đứng vững và phát triển, Công ty cần không ngừng hoàn thiện chiến lược phát triển lâu dài, đề ra phương hướng và biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu trong từng giai đoạn cụ thể.
Qua thời gian thực tập 6 tuần tại Công ty Giầy Thăng Long thuộc Tổng Công ty Da giầy Việt Nam em xin được báo cáo tổng hợp về tình hình hoạt động của Công ty Giầy Thăng Long.
Đây là sự tiếp xúc đầu tiên của bản thân đối với thực tế doanh nghiệp nên sự nhìn nhận còn hạn chế, em rất mong được sử chỉ bảo thêm để những lần sau viết tốt hơn.
I. Khái quát tình hình tổ chức kinh doanh của Công ty.
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
Ngày 14/04/1990, Nhà máy giầy Thăng Long được thành lập theo quyết định số 210/ CNn _ TCLĐ của Bộ Công nghiệp nhẹ, nay là Bộ Công nghiệp.
Sau đó, theo quyết định thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước trong nghị định số 386/ HĐBT (nay là Thủ tướng chính phủ) và quyết định số 397/ CNn _ TCLĐ ngày 14/04/1993 của Bộ Công nghiệp nhẹ, Nhà máy giầy Thăng Long đổi tên thành Công ty giầy Thăng Long ngày nay.
Công ty giầy Thăng Long là đơn vị thành viên trực thuộc Tổng công ty da giầy Việt Nam, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập có tài khoản tại các ngân hàng:
_ Ngân hàng Công thương khu vực II _ Hai Bà Trưng _ Hà Nội.
_ Ngân hàng cổ phần Công thương Việt Nam.
_ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Kể từ khi thành lập đến nay, Công ty đã gặp không ít khó khăn thách thức. Có thể phân chia sự phát triển của Công ty thành 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từ năm 1990- 1992
Theo luận chứng kinh tế- kỹ thuật được duyệt, Công ty giầy Thăng Long khi bắt đầu thành lập có số vốn là : 2.420.000.000 đồng, sản phẩm chính của công ty là gia công mũ giầy xuất khẩu cho Liên Xô cũ với công suất 4.000.000 đôi/năm.
Trong những năm đầu mới thành lập, công ty đã xây dựng hai xưởng sản xuất và một số công trình phục vụ sản xuất kinh doanh. Nhưng đây là giai đoạn công ty hoạt động trong quá trình chuyển đôỉ từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, lại thêm sự tan rã của Đông Âu và Liên Xô- khách hàng chính và duy nhất của công ty- đã đẩy công ty vào tình thế rất khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty không còn được đầu tư vốn, phải nghỉ chờ cấp trên giải quyết. Song để duy trì sự tồn tại của công ty ban lãnh đạo và CBCNV trong công ty đã có kế hoạch tìm kiếm thị trường mới, thay đổi sản phẩm sang sản xuất giầy vải xuất khẩu. Với chính sách mở cửa, tranh thủ các nguồn vốn vay ngân hàng, vốn ngân sách, công ty vừa đầu tư xây dựng, vừa đào tạo tổ chức lại đội ngũ công nhân từng bước thích ứng với sự phát triển của cơ chế thị trường.
Giai đoạn 2: Từ năm 1993 đến nay
Kể từ những năm 1992_1993 khi tình hình kinh tế, chính trị ở Liên xô và các nước Đông Âu có nhiều biến đổi, các đơn vị đặt hàng bị cắt đứt, hơn thế quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty lại mang tính thời vụ, thời gian ngừng sản xuất kéo dài (khoảng 3 tháng 5,6,7) đã gây ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh và trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống toàn bộ công nhân viên trong Công ty. Trước tình hình đó lãnh đạo nhà máy cùng toàn thể công nhân viên đã cùng nhau tìm hướng đi mới cho Công ty: Đó là sản xuất giầy vải hoàn chỉnh xuất phát từ nhu cầu to lớn của mặt hàng này ở trong và ngoài nước. Quá trình này gặp nhiều khó khăn do thời điểm đó nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp chưa có mô hình kiểu mẫu thực tế để áp dụng,Công ty lại không được Nhà nước tài trợ về vốn, phải đi vay ngân hàng để tự trang trải.
Từ đó đến nay, công ty không ngừng tìm tòi, nghiên cứu nhu cầu thị trường cả trong và ngoài nước, từng bước mở rộng thị trường tăng thị phần. Nhờ đó chất lượng và số lượng sản phẩm của công ty ngày một tăng và đã có vị trí trên thị trường, chiếm được sự quan tâm của khách hàng, đặc biệt là các bạn hàng nước ngoài như: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản... và một số thị trường Châu Âu, Bắc Mỹ,...
Trong quá trình hoạt động, công ty còn sáp nhập hai xí nghiệp giầy địa phường không còn khả năng hoạt động làm thành viên, đó là Nhà máy giầy Chí Linh ( tỉnh Hải Dương) và Xí nghiệp giầy Thái Bình ( tỉnh Thái Bình), vào các năm 1999 và 2000. Năm 2001 công ty đã tổ chức lại bộ phận sản xuất công ty tại Hà Nội, thành lập xí nghiệp giầy Hà Nội trực thuộc công ty.
Như vậy, đến nay công ty Giầy Thăng Long gồm có 3 xí nghiệp trực thuộc. Đó là xí nghiệp giầy Hà Nội, Xí nghiệp Giầy Thái Bình và Xí nghiệp Giầy Chí Linh. Tất cả các xí nghiệp này thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh theo kế hoạch của công ty. Mọi mặt hoạt động của các xí nghiệp đều được công ty cân đối và giao cho từng đơn vị thực hiện. Công ty chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động kinh doanh, còn các đơn vị thành viên thực chất chỉ đóng vai trò tổ chức sản xuất và hạch toán nội bộ trên cơ sở các nguồn lực được giao để thực hiện kế hoạch về sản phẩm.
Với sự phấn đấu không mệt mỏi của toàn Công ty, cho đến nay sau hơn 10 năm hoạt động sản xuất kinh doanh, Công ty đã dần đi vào nề nếp, công tác an toàn phục vụ sản xuất được đảm bảo, trình độ quản lý của cán bộ, trình độ tay nghề của công nhân không ngừng được nâng cao. Công ty đã tạo được uy tín về mặt chất lượng mặt hàng và khả năng đáp ứng các hợp đồng sản xuất cho khách hàng. Các hoạt động,các giá trị tạo ra của Công ty tăng không ngừng. Kể từ năm 1996 Công ty đã bắt đầu làm ăn có lãi, Công ty luôn hoàn thành kế hoạch, chỉ tiêu của Tổng Công ty và thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước. Điều đó thể hiện qua bảng 1.
Khái quát quá trình ra đời và phát triển của công ty giầy Thăng Long cho thấy đây là một công ty còn non trẻ, ra đời và phát triển trong giai đoạn môi trường kinh doanh có những thay đổi rất lớn và sâu sắc, song vẫn tạo được những bước tiến nhất định, khẳng định được vị trí của mình trên thương trường.
Bảng 1: Một số chỉ tiêu cơ bản từ 2000 - 6/2003
TT
Chỉ tiêu
Đơn vị
2000
2001
2002
1-6/2003
Tốc độ phát triển (%)
01/00
02/01
02/00
1
Tổng sản phẩm sản xuất
Đôi
3708052
4609243
4346350
2694864
124,3
94,3
117,21
Trong đó:
- Giầy xuất khẩu
Đôi
1950948
1560412
1454576
1832667
79,98
93,21
74,56
- Giầy nội địa
Đôi
1757104
2748831
2891774
862197
156,4
105,2
164,6
2
Giá trị sản xuất công nghiệp
Tr.đ
76550
90007,6
92751,8
63789
117,58
103,04
121,17
3
Doanh thu
Tr.đ
103582
127883
107694
67057
123,46
84,21
103,96
Trong đó:
- Doanh thu nội địa
Tr.đ
3268,5
35005,4
47123,8
5364,4
1070,9
134,6
144,7
- Doanh thu xuất khẩu
Tr.đ
86731,5
85944,6
60367,2
61692,6
99,09
70,23
69,6
4
Nộp ngân sách
Tr.đ
2633,52
2380,2
1597
1452,7
90,38
67,095
60,64
5
Lợi nhuận
Tr.đ
902
1309,6
1438
60239,9
145,18
109,8
159,12
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty.
Công ty giầy Thăng Long được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến chức năng. Đây là một cơ cấu quản lý mà toàn bộ công việc quản lý được giải quyết theomotj kênh liên hệ đường thẳng giữa cấp trên và cấp dưới trực thuộc. Chỉ có lãnh đạo quản lý ở từng cấp mới có nhiệm vụ và quyền hạn ra mệnh lệnh chỉ thị cho cấp dưới(Tức là mỗi phòng, ban xí nghiệp của Công ty chỉ nhận quyết định từ một thủ trưởng cấp trên theo nguyên tắc trực tuyến). Giám đốc của Công ty là người ra quyết định cuối cùng nhưng để hỗ trợ cho quá trình ra quyết định của Giám đốc thì cần phải có các bộ phận chức năng. Các bộ phận chức năng này không ra lệnh một cách trực tiếp cho các đơn vị cấp dưới mà chỉ nghiên cứu, chuẩn bị các quyết định cho lãnh đạo, quản lý và thực hiện việc hường dẫn lập kế hoạch, tổ chức thực thi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các mục tiêu trong chức năng chuyên môn của mình.
* Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Công ty giầy Thăng Long.
Ban giám đốc
Phòng Bảo vệ
Phòng Tài vụ
Phòng
Kỹ thuật c.nghệ KCS
P. Thị trường
g. dịch
nước ngoài
Phòng
Kế hoạch vật tư.
Phòng
Tổ chức hành chính
Phân xưởng cơ điện
Xí nghiệp đế cao su
Xí nghiệp giầy Thái Bình
Xí nghiệp giầy Chí Linh
Xí nghiệp giầy Hà Nội
: Quan hệ trực tuyến
: Quan hệ chức năng
* Chức năng của các phòng ban:
- Ban giám đốc: Giám đốc là người đưng đầu Công ty, chịu trách nhiệm chung trước Tổng công ty trong công tác điều hành sản xuất kinh doanh của Công ty.
Một Phó giám đốc chịu trách nhiệm trước Giám đốc về tình hình nội chính của Công ty.
Một Phó giám đốc chịu trách nhiêm trước Giám đốc về kỹ thuật công nghệ KCS. Xây dựng chương trình kế hoạch với Giám đốc để chỉ đạo thực hiện, phụ trách công tác sản xuất kế hoạch vật tư, an toàn lao động.
- Phòng tổ chức hành chính:
Thực hiện chức năng làm tốt công tác nhân sự, thực hiện chế độ thanh toán tiền lương... cho cán bộ công nhân viên, làm tốt công tác hành chính phục vụ cho khách hàng trong và ngoài Công ty, đồng thời làm các công tác khác như văn thư, bảo mật, tiếp cận, y tế, vệ sinh,...
- Phòng kinh doanh: Gồm 2 phòng
+ Phòng thị trường và giao dịch nước ngoài:
Chức năng của phòng là tham mưu giúp cho Giám đốc thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty theo giấy phép đăng ký kinh doanh và triển khai thực hiện các hoạt động về thị trường, tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
+ Phòng kỹ thuật công nghệ:
Với chức năng là quản lý toàn bộ công tác kỹ thuật sản xuất của toàn Công ty như ban hành các định mức vật tư nguyên liệu, lập các quy trình công nghệ trong sản xuất thử các loại hàng mẫu chào hàng, quản lý công tác an toàn thiết bị kỹ thuật trong sản xuất.
- Phòng tài vụ:
Với chức năng chính là quản lý mọi hoạt đông tài chính của Công ty đồng thời quản lý dòng tài chính ra vào nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
- Phòng bảo vệ quân sự:
Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ mọi mặt trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và làm công tác bảo vệ quân sự theo quy định.
- Phân xưởng cơ điện:
Chức năng của phân xưởng cơ điện là theo dõi sửa chữa toàn bộ hệ thống thiết bị của Công ty đồng thời chế tạo một số công cụ cũng như máy móc đơn giản cho sản xuất.
- Xí nghiệp sản xuất giầy Hà Nội: bao gồm 3 phân xưởng:
+ Phân xưởng chuẩn bị sản xuất: Thực hiện chức năng pha cắt và chuẩn bị mọi thứ cho phân xưởng may.
+ Phân xưởng may: Với nhiệm vụ tiếp nhận toàn bộ bán sản phẩm từ phân xưởng chuẩn bị sản xuất để may thành đôi mũ giầy.
+ Phân xưởng gò ráp: Thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận mũ giầy từ phân xưởng may và các phụ liệu từ phân xưởng chuẩn bị cùng với đế từ phân xưởng đế cao su gò ráp thành đôi giầy hoần chỉnh.
- Xí nghiệp sản xuất giầy Chí Linh: Chức năng và nhiệm vụ giống như của xí nghiệp giầy vải Hà Nội.
- Xí nghiệp sản xuất giầy Thái Bình: Chức năng và nhiệm vụ giống như xí nghiệp giầy vải Hà Nội.
- Xí nghiệp đế cao su: Bao gồm hai phân xưởng cán luyện cao su và phân xưởng ép đế. Nhiệm vụ của xí nghiệp này là tiếp nhận cao su nguyên liệu và các hoá chất theo kế hoạch để chế biến thành các loại đế giầy.
II- Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong giai đoạn 2000-2003.
1. Nhận xét chung.
Thời gian gần đây Công ty thường xuyên tổ chức công tác chế thử và cải thiện mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu của khách hàng, chú trọng việc nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh. Không ngừng tìm tòi nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, từng bước mở rộng thị trường, tăng thị phần. Luôn đi tìm kiếm thị trường mới,.... Nhờ đó mà Công ty đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
- Chất lượng và số lượng sản phẩm của Công ty ngày một tăng và có vị trí trên thị trường.
- Thị trường của Công ty ngày càng mở rộng ra nhiều nước và nhiều khu vực trên thế giới.
- Lợi nhuận tăng lên theo hướng ổn định.
- Số lượng lao động tăng lên qua các năm, giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động.
- Thu nhập của người lao động trong Công ty cũng tăng lên, đời sống được cải thiện.
Bên cạnh đó, Công ty còn nhiều hạn chế:
- Thị trường xuất khẩu chủ yếu là một số nước châu á, châu Âu và Bắc Mỹ....thị trường trong nước nhiều tiềm năng thì chưa được khai thác triệt để.
- Nguyên phụ liệu của Công ty thì hầu hết phải nhập ở nước ngoài.
- Mẫu mã sản phẩm chưa phong phú.
- Sản xuất theo mùa nên tháng 5, 6, 7 Công ty rất ít việc làm, một số bộ phận sản xuất phải nghỉ việc.
- Thu nhập người lao động chưa cao....
2. Các đánh gia cụ thể kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty giầy Thăng Long.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty giầy Thăng Long thời kỳ 2000- 6/2003 được thể hiện qua bảng dưới đây:
Bảng 2: Kết quả kinh doanh của Công ty Giầy Thăng Long
Thời kỳ 2000 - 6/2003
TT
Chỉ tiêu
Đơn vị
2000
2001
2002
1-6/2003
Tốc độ phát triển (%)
01/00
02/01
02/00
1
Tổng sản phẩm sản xuất
Đôi
3708052
4609243
4346350
2694864
124,3
94,3
117,21
Trong đó:
- Giầy xuất khẩu
Đôi
1950948
1560412
1454576
1832667
79,98
93,21
74,56
- Giầy nội địa
Đôi
1757104
2748831
2891774
862197
156,4
105,2
164,6
2
Giá trị sản xuất công nghiệp
Tr.đ
76550
90007,6
92751,8
63789
117,58
103,04
121,17
3
Doanh thu
Tr.đ
103582
127883
107694
67057
123,46
84,21
103,96
Trong đó:
- Doanh thu nội địa
Tr.đ
3268,5
35005,4
47123,8
5364,4
1070,9
134,6
144,7
- Doanh thu xuất khẩu
Tr.đ
86731,5
85944,6
60367,2
61692,6
99,09
70,23
69,6
4
Nộp ngân sách
Tr.đ
2633,52
2380,2
1597
1452,7
90,38
67,095
60,64
5
Lợi nhuận
Tr.đ
902
1309,6
1438
60239,9
145,18
109,8
159,12
Qua bảng trên ta thấy được tổng sản phẩm sản xuất của Công ty có xu hướng giảm. Mặc dù sản lượng sản xuất các năm 2001, 2002 đều tăng hơn nhiều so với năm 2000, năm 2001 so với năm 2000 đạt 124,3%, năm 2002 so với năm 2001 thì sản lượng giầy sản xuất ra năm sau đã giảm đi 202.893 đôi, chỉ đạt mức 94,3%. Điều này được lý giải bởi việc các đơn đặt bị cắt giảm do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng trong khu vực, các bạn hàng Đài Loan, Hàn Quốc lâm vào tình trạng khó khăn. Thị trường giầy xuất khẩu có xu hướng giảm mạnh, cụ thể số lượng giầy xuất khẩu năm 2002 chỉ đạt 1.454.576 đôi, giảm 6,79% so với năm 2001 và giảm tới 25,44% so với năm 2000 do đó tỷ trọng doanh thu từ xuất khẩu trong tổng doanh thu của Công ty cũng ít đi và ảnh hưởng đến tổng doanh thu của Công ty. Năm 2002 doanh thu của toàn Công ty chỉ bằng 84,21% so với năm 2001, giảm 15,79%. Tuy nhiên Công ty đã biết khắc phục tình trạng thiếu thị trường bằng cách tung sản phẩm ra bán tại thị trường nội địa. Sản lượng giầy tiêu thụ trong nước năm 2000 chỉ có 1.757.104 đôi thì năm 2002 đã tiêu thụ được đến 2.891.774 đôi, tăng trên 1 triệu đôi. Doanh thu tiêu thụ nội địa tăng mạnhqua các năm, phần nào bù đắp sự suy giảm của doanh thu từ hoạt động xuất khẩu. Doanh thu nội địa năm 2002 đạt 47.123,8 triệu VNĐ, tăng 34% so với năm 2001 và bằng 141,7% so với nă 2000.
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng nhưng không đều qua các năm. Năm 2001 tăng lên 17,58% so với năm 2000 nhưng năm 2002, giá trị sản xuất công nghiệp chỉ tăng 3,04% so với năm 2001.
Doanh thu của Công ty cũng có sự biến động lớn. Từ năm 2000 đến năm 2001 có tăng lên với mức tăng 24,301 triệu VNĐ. Doanh thu sang đến năm 2002 có xu hướng giảm đi, chỉ đạt 107.694 triệu VNĐ. Doanh thu giảm dẫn đến nộp ngân sách Nhà nước cũng giảm. Cụ thể, số giao nộp ngân sách năm 2001 là 2.380,2 triệu VNĐ, bằng 90,38% so với năm 2000 và năm 2002 còn tiếp tục giảm mạnh, nộp ngân sách chỉ còn 1.597 triệu VNĐ, bằng 67,079% so với mức năm 1999. Tuy vậy nhờ tiết kiệm được chi phí đầu vào, chi phí lưu thông... nên lợi nhuận của Công ty vẫn dảm bảo tăng đều. Năm 2001 đạt 1.309,6 triệu VNĐ, tăng 49,18% so với năm 2000, năm 2002 đạt 1.438 triệu VNĐ tăng 9,8% so với năm 2001 và tăng 59.12% so với năm 2000.
Mặc dù giá trị sản xuất công nghiệp tăng chậm và xuất khẩu giảm đi nhưng lợi nhuận của Công ty dần đi vào ổn định. Đây là một trong những thành công của Công ty do đã biết kết hợp khai thác cả thị trường Thế giới và nhu cầu tiêu dùng nội địa, chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao. Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu ngày càng tăng.
3. Phân tích và đánh giá khả năng của Công ty giầy Thăng Long.
3.1. Những mặt mạnh của Công ty giầy Thăng Long.
+ Công ty có quy mô sản xuất lớn, chủng loại sản phẩm đa dạng có thể đáp ứng mọi đpn đặt hàng của khách hàng.
Mẫu mã sản phẩm do phòng kỹ thuật của Công ty thiết kế đa dạng về kiểu dáng, chất liệu. Những mẫu do khách hàng mang đến luôn được đáp ứng theo đúng yêu cầu kỹ thuật.
+ Có chi phí nhân công rẻ, sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Việt Nam là nước có nguồn lao động dồi dào, đây là mmột điều kiện quan trọng để các công ty giản được chi phí kinh doanh, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
+ Có bộ máy quản lý tương đối hoàn chỉnh và hoạt động hiệu quả. Các phòng ban và xí nghiệp sản xuất phối hợp với nhau một cách tương đối nhịp nhàng.
3.2. Những mặt yếu của Công ty giầy Thăng Long.
+ Trình độ Marketing còn yếu, công nghệ thiếu đồng bộ, lạc hậu so với Thế giới.
Tuy đã có nhiều cố gắng cho lĩnh vực Marketing và đầu tư cho công nghệ nhưng vẫn còn nhiều hạn chế làm cản trở khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường quốc tế. Do thiếu vốn mà vấn đề đầu tư cho quảng cáo, giới thiệu sản phẩm còn yếu, nghiên cứu thiết kế mẫu sơ sài, chủ yếu là do khách hàng tìm đến Công ty và mẫu mã là do khách hàng yêu cầu. Còn máy móc thiết bị của Công ty hầu hết là lạc hậu, được nhập từ những năm 90, chủ yếu để bổ sung thay thế những máy móc đã cũ.
+ Thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh.
+ Trình độ kinh doanh quốc tế còn hạn chế.
Mặc dù Công ty đã có nhiều cố gắng trong việc tuyển chọn, đào tạo phát triển, sa thải và các biện pháp tạo động lực, song so với các đối tác nước ngoài Công ty vẫn còn thua kém họ rất nhiều
+ Yếu về chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật, xuất sứ hàng hoá và khả năng thay đổi mẫu mốt.
Nhìn chung, chất lượng sản phẩm của Công ty ở mức trung bình, các quy định quản lý về tiêu chuẩn kỹ thuật xuất sứ hàng hoá thiếu chặt chẽ, khả năng của Công ty trong việc nghiên cứu, thay đổi mẫu mốt còn yếu.
3.3. Những cơ hội của Công ty giầy Thăng Long.
+ Trong xu thế hội nhập của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên Thế giới, các công ty kinh doanh có nhiều cơ hội để thâm nhập và triển khai thị trường nước ngoài. Công ty giầy Thăng Long có thể nắm bắt cơ hội này.
+ Công ty giầy Thăng Long được sự hỗ trợ từ phía Chính phủ và Tổng công ty da giầy Việt Nam.
Công ty giầy Thăng Long là một doanh nghiệp Nhà nước là thành viên của Tổng công ty da giầy Việt Nam, cho nên Công ty được sự hỗ trợ rất lớn về vốn, vay vốn ngân hàng được thuận lợi, nhận được nhiều đơn đặt hàng, được sự hỗ trợ về triển lãm,... Ngoài ra, Chính phủ rất chú trọng đến chính sách hỗ trợ xuất khẩu.
3.4. Những thách thức đối với Công ty giầy Thăng Long.
+ Đối thủ cạnh tranh mạnh và sự gia tăng nhanh chóng các đối thủ cạnh tranh mới.
Công ty có rất nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu vốn là thế mạnh của Công ty như Công ty giầy vải Thượng Đình, Công ty giầy Thuỵ Khuê,... nhưng hiện nay đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Công ty là các sản phẩm giầy của Trung Quốc vì giá bán rất rẻ, mẫu mã phong phú đa dạng.
+ Nguyên phụ liệu của Công ty hầu hết phải nhập từ nước ngoài.
Do chất lượng và giá cả của nguyên phụ liệu trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu của Công ty, dẫn đến chi phí sản xuất tăng cao làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm.
+ Nhu cầu về chất lượng và mẫu mã sản phẩm của khách hàng rất cao buộc Công ty phải lựa chọn biện pháp phù hợp.
+ Do các cuộc xung đột trên thế giới xảy ra liên tiếp đã ảnh hưởng đến thị trường tài chính tiền tệ thế giới, điều này cũng gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu của công ty.
III. Đánh giá hoạt động quản trị của Công ty trong giai đoạn qua.
1. Đánh giá hoạt động định hướng chiến lược.
1.1 Định hướng chiến lược thị trường xuất khẩu
Trong định hướng phát triển, công ty đã đặt thị trường xuất khẩu lên hàng đầu. Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hoá. ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó có thị trường.
Thị trường xuất khẩu hàng hoá của công ty là một vấn đề phức tạp và quan trọng trong quá trình quyết định chiến lược của công ty. Việc lựa chọn thị trường là một quá trình đánh giá các cơ hội thị trường và xác định hướng thị trường xuất khẩu. Trên cơ sở năng lực sản xuất tiềm năng sẵn có và những thuận lợi mà công ty đang có cùng cơ hội từ thị trường thế giới, công ty đã đưa ra định hướng lựa chọn thị trường xuất khẩu như sau:
- Thứ nhất: Tập trung chủ yếu vào thị trường EU. Công ty dự kiến tỷ trọng tiêu thụ giầy dép của EU so với các loại thị trường chiến lược của công ty năm 2004: 70%.
- Thứ hai: Thu hút khách hàng tiềm năng và mở rộng thị trường sang Mỹ, Bắc Mỹ và Nhật... Công ty đã đưa ra chiến lược kinh doanh dự kiến tỷ trọng tiêu thụ giầy dép ở thị trường Mỹ, Bắc Mỹ, thị trường Nhật năm 2004 tương ứng là 21,1% và 10,9%.
- Thứ ba: Tìm và nối lại quan hệ với các bạn hàng truyền thống như Nga và các nước Đông Âu. Dự kiến tỷ trọng tiêu thụ giầy dép ở thị trường Nga và Đông Âu so với các thị trường chiến lược khác năm 2004 là 7%.
Tuy nhiên trước mắt công ty nên tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU, thị trường mà nhu cầu các mặt hàng giầy dép rất lớn, hơn thế nữa lại có mối quan hệ làm ăn trong mấy năm qua. Còn đối với thị trường Mỹ, Nhật cần phải có thời gian khi quan hệ kinh tế, ngoại giao giữa Nhà nước ta và Nhà nước họ được mở rộng.
Đây là định hướng có tính quyết định đến việc xây dựng thị trường tối ưu cho Công ty.
1.2. Một số mục tiêu chiến lược cơ bản đến năm 2010 của Công ty.
Căn cứ vào mục tiêu chiến lược của toàn ngành và Tổng công ty da giầy Việt Nam, căn cứ vào sản xuất kinh doanh(nhất là kinh doanh xuất khẩu) của Công ty trong những năm gần đây cũng như căn cứ vào những kết quả bước đầu khi nghiên cứu thị trường, Công ty giầy Thăng Long đã xác định các định hướng chiến lược thông qua xây dựng một số chỉ tiêu cơ bản đến năm 2010:
Thứ nhất, Công ty chủ động phấn đấu tăng trưởng với nhịp độ nhanh và hiệu quả, duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 150%. Dự kiến đầu năm 2004, giá trị tổng sản lượng tăng 1,73 lần so với năm 2003, sản xuất khoảng 5 triệu đôi giầy dép, đưa giá trị xuất khẩu lên khoảng 15 triệu USD.
Bảng 3 : Một số mục tiêu cơ bản đến năm 2010 của Công ty giầy Thăng Long.
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Kế hoạch
2003
Dự kiến
2004
Dự kiến
2005
Dự kiến
2010
1
Tổng doanh thu
Tr.iệu VNĐ
120.700
204.800
727.000
1.140.000
2
Doanh thu từ
Xuất khẩu
Triệu VNĐ
97.500
190.000
700.000
1.050.000
3
Sản lượng giầy vải XK
Triệu đôi
2,3
4
15
33
4
Tích luỹ nộp NS
Triệu VNĐ
672
1.300
5.600
13.000
(Nguồn: Kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh
Công ty giầy Thăng Long giai đoạn 2000-2010)
Thứ hai, các sản phẩm về giầy được sản xuất ra phải lựa chọn trên cơ sở có xu thế phát triển mạnh trên thị trường trong và ngoài nước, có khả năng khai thác tối đa công suất, tồn ít vốn và có tiềm lực nguyên liệu nội địa. Công nghệ ngày càng xích lại gần với thời trang trên một cơ cấu sản xuất mềm dẻo, uyển chuyển linh hoạt, nhạy cảm với thị trường và thị hiếu tiêu dùng.
Thứ ba, Công ty phải từng bước khắc phục những yếu kém về vốn, kỹ thuật, thị trường, quản lý sản xuất kinh doanh, nguyên vật liệu, máy móc... đồng thời khai thác tốt lợi thế nguồn lực lao động để nâng cao khả năng cạnh tranh, hợp tác quốc tế.
Thứ tư, sông song với việc đổi mới về cơ sở vật chất, công ty giầy Thăng Long cần quan tâm đến công tác xây dựng lực lượng sản xuất với cơ cấu sản xuất hiện đại, thích nghi với máy móc và công nghệ tiên tiến, chú trọng cải thiện đời sống vật chất tinh thần của người lao động để họ tự hào và gắn bó với doanh nghiệp của mình.
Thứ năm, Công ty phải lập ra được kế hoạch chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu. Công ty đã chủ động đầu tư trang bị máy móc và công nghệ hiện đại nhằm tăng năng xuất lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh bằng chính chất lượng, mẫu mã sản phẩm. Công ty đã từng bước xâm nhập vào những thị trường nhất định.
2. Đánh giá công tác tổ chức quản trị lao động
2.1. Các hoạt động của quản trị lao động
- Kế hoạch nhân sự trong công ty do phó giám đốc nhân sự cùng phòng Tổ chức hành chính chịu trách nhiệm xây dựng, căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh từng thời kì. Công tác tham mưu cho giám đốc trong việc cơ cấu, tổ chức lại bộ máy quản lý công ty cũng đang được tiến hành tại đây.
- Công tác tuyển dụng bố trí sử dụng, đánh giá đề bạt thăng tiến, đào tạo trong công ty chủ yếu sử dụng nguồn nội bộ công ty với mục đích tạo động lực phấn đấu cho CBCNV.
- Tiền lương thưởng và các hình thức phân phối .Hiện nay công ty đang tiến hành chế độ lương theo sản phẩm, chế độ thưởng của công ty áp dụng thưởng theo 3 tiêu thức là chất lượng, số lượng và thời gian hoàn thành công việc.
2.2. Tình hình sử dụng lao động của công ty
Bảng 4: Cơ cấu lao động theo giới của Công ty
Năm
Lao động nữ
Lao động nam
Tổng
(người)
Số LĐ
(người)
(%)
Số LĐ
(người)
(%)
1999
1.010
63,60
578
36,40
1.588
2000
1.235
65,00
665
35,00
1.900
2001
2.134
67,28
1.038
32,72
3.172
2002
2.387
68,70
1.085
31,30
3.472
2003
2.422
68,49
1.123
31,31
3.555
- Về tổng số lao động của công ty tính đến năm 1999 là 1588 người. Nhưng đến năm 2000 thì tổng số đã là 1900 người tăng thêm 312 người so với cùng kì báo cáo của năm trước và chiếm tỉ lệ tăng là 19,65%.Và đến năm 2001 thì con số này đã là 3172 người lao động, tăng 1272 người so với năm trước, với tỷ lệ tăng 66,95%. Năm 2002 số lao động của Công ty là 3.472 người, tăng 300 người so với năm 2001. Năm 2003 là 3.555 người tăng 83 người so với năm 2002. Như vậy nhìn vào chỉ tiêu tổng số lao đông của công ty giầy Thăng Long chúng ta nhận thâý trong thời gian gần đây công ty đã thực hiện được mục tiêu kinh doanh của mình mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh và mục tiêu xã hội là đáp ứng, lo cho hơn 3000 lao động có công ăn việc làm.
Tổng số lao động của công ty luôn tăng lên trong những năm gần đây. Trong đó:
- Xét về hình thức tác động vào đối tượng lao động ta thấy:
+Lao động trực tiếp của công ty chiếm tỷ trọng lớn gần 90% trong tổng số lao động và tăng dần trong 3 năm qua. Năm 1999 tổng số lao động là 1382 người, năm 2000 con số này đã là 1653 người và đến năm 2001 là 2760 người .Như vậy đến năm 2000 số lao động trực tiếp đã tăng 217 người tương ứng với mức tăng 19,61% so với năm 1999 .Bước sang năm 2001 có nhiều biến động đối với công ty. Số người lao động trực tiếp đã tăng lên 1107 người tương ứng với tăng 66,97%. Đến năm 2002 và 2003 số lao động trực tiếp của Công ty tiếp tục tăng nhưng ổn định, cụ thể là năm 2002 tăng 276 người, năm 2003 tăng 71 người so với năm 2002. Quả là một con số đáng nể. Nguyên nhân tăng chủ yếu do công ty đã phấn đấu hoàn thành nhu cầu đặt ra là mở rộng sản xuất kinh doanh, và đến năm 2001 công ty đã sáp nhập thêm chi nhánh giầy Thái Bình.Và một điều quan trọng là do đặc điểm ngành hàng của công ty yêu cầu đòi hỏi lao động trực tiếp là chủ yếu.
+ Lao động gián tiếp của công ty chiếm tỷ trọng không nhỏ song đã tăng trong 3 năm qua. Cụ thể năm 1999 có 206 lao động gián tiếp đến năm 2000 đã có 247 người .Như vậy tăng 41 người tương ứng với tỷ lệ tăng 19,90% so với năm 1999, đến năm 2001 thì đã tăng lên 412 người tương ứng với tăng 66,80% so với năm 2000. Năm 2002 và 2003 số lao động gián tiếp là 463 và 448 đềutăng lên và ổn định. Sở dĩ có sự tăng đột biến năm 2001 là do trong năm đó Công ty đã sát nhập thêm chi nhánh giầy Thái Bình.
Vậy theo hình thức tác động vào đối tượng lao động của công ty ta có nhận xét đều tăng trong 3 năm qua .Điều này chứng tỏ 1 quy mô sản xuất kinh doanh ngày càng được mở rộng .Hơn nữa do nhu cầu ,đặc tính của mặt hàng giầy vải và giầy thể thao đòi hỏi một đọi ngũ lao động trực tiếp tương đối lớn. Và điều quan trọng là công ty đã sắp xếp bố trí cho mấy nghìn lao động có công ăn việc làm.
- Xét theo giới tính ta thấy :
+ Lao động nữ: Qua bảng số liệu ta cũng thấy hợp lý tỷ trọng lao động nữ nhiều hơn tỷ trọng lao động nam .Điều này cũng dễ hiểu bởi vì công việc của công ty đòi hỏi sự khéo léo vá nhanh nhẹn của phụ nữ nhiều hơn: ví dụ như công việc may giầy chẳng hạn đa số lao động nữ đảm nhiệm công việc này ,chỉ có 1 số công việc đòi hỏi lao đọng nam như phân xưởng cơ điện , đế cao su. Cụ thể lao động nữ năm 1999 là 1010 người chiếm tỷ trọng 63,60%.Song năm 2000 số lao động nữ là 1235 người chiếm 65% .So với năm 1999 số lao động nữ đã tăng 225 người tương ứng 22,28%.Năm 2001 thì con số này đã là 2134 người chiếm tỷ trọng 67,28% tổng số lao động của năm 2001 và tăng 899 người tương ứng tăng 72,79%. Năm 2002 số lao động nữ là 2.387, chiếm 68,70% tổng số lao động, năm 2003 số này là 2.442, chiếm 68,69%. Số lao động nữ tăng đều qua các năm và với tỷ trọng cũng tăng, như vậy, công ty rất quan tâm đến khâu tuyển dụng lao động cho phù hợp với công việc.
+ Lao động nam : Trong các năm qua, số lao động nam chiếm tỉ trọng nhỏ, chỉ bằng một nửa số lao động nữ. Cụ thể, năm 1999 số lao động nam là 578 người, chiếm tỉ trọng 36,4% so với tổng số lao động của năm 1999. Đến năm 2000, con số này đã là 665 người tăng 87 người so với năm 1999 tương ứng với tỉ lệ tăng 15,05% làm cho tỉ trọng lại giảm đi 1,4%. Nguyên nhân chủ yếu do năm 2000, mức tăng lên của lao động nữ lớn hơn mức tăng lên của lao động nam. Sang năm 2001, tổng số lao động nam đã tăng 373 người tương ứng với tăng 56,09% so với năm 2000. Năm 2002 số lao động nam là 1.085 người, chiếm 31,30%, năm 2003 số này là 1.113 người, chiếm 31,31%
Xét về trình độ lao động của công ty trong giai đoạn 1999-2002.
Nhìn chung trình độ lao động của công ty ngày càng được nâng cao điều này phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng,nắm bắt kịp thời sự đổi mới và phát triển của đất nước.Điều này được thể hiện rõ trong biểu sau.Qua bảng số liệu ở ta có nhận xét như sau:
+ Số lao động có trình độ đại học và cao ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC033.doc