Báo cáo Thực tập tại Công ty Cổ phần Thăng Long

Phần I: Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần Thăng Long I.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần Thăng Long I.1.1 Giới thiệu chung về công ty cổ phần Thăng Long Tên doanh nghiệp: Công ty cổ phần Thăng Long Tên quan hệ quốc tế: Thang Long Joint – Stock Company Tên cơ quan chủ quản: Tổng công ty thương mại Hà Nội Trụ sở giao dịch: 191 Lạc Long Quân- Cầu Giấy- Hà Nội Điện thoại: 04.7525299 Fax: 04.8361898 Địa chỉ Email: Vangthanglong@hn.vnn.vn Địa

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2875 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Thực tập tại Công ty Cổ phần Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chỉ trang Web: WWW.vangthanglong.com Đăng ký kinh doanh số: 0103001012 Ngày 05/09/2002 Mã số thuế:0101275603 I.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần Thăng Long Công ty cổ phần Thăng Long là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Sản phẩm chính mà công ty trực tiếp sản xuất kinh doanh hiện nay là các loại rượu vang. Đây là một công ty hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về mặt tài chính và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng công ty thương mại Hà Nội. Quá trình hình thành và phát triển của công ty qua từng giai đoạn có thể được tóm tắt như sau: =Giai đoạn 1989-1993:Sản xuất thủ công Trong giai đoạn này, công ty có tên là xí nghiệp Rượu- Nước giải khát Thăng Long. Xí nghiệp được thành lập theo quyết định số 6415/QĐUB Ngày 24/03/1989 của UBND Thành phố Hà Nội. Nguồn gốc ra đời của xí nghiệp là Xưởng sản xuất rượu và nước giải khát lên men trực thuộc công ty Rượu Hà Nội. Sản phẩm truyền thống của Xưởng là rượu pha chế các loại. Đến những năm đầu của thập kỷ 80, Xưởng mới được đầu tư trang thiết bị và công nghệ sản xuất rượu vang. Thời gian đầu khi mới thành lập, Xí nghiệp mới chỉ là một đơn vị sản xuất nhỏ với khoảng 50 công nhân, sản xuất hoàn toàn là thủ công, cơ sở vật chất nghèo nàn và lạc hậu với đại bộ phận nhà xưởng là nhà cấp bốn. Mặc dù có nhiều khó khăn như vậy nhưng xí nghiệp đã cố gắng vượt qua tất cả để đạt đến các mức sản lượng sản xuất không ngừng tăng lên qua các năm. Với mức sản lượng 106.000 lít /năm (1989), 530.000 lít/năm (1992) và năm 1993 đã tăng lên tới 905.000 lít/năm. Như vậy có thể thấy rằng trong giai đoạn đầu từ năm 1989 đến năm 1993, tuy sản xuất của xí nghiệp hoàn toàn là thủ công nhưng xí nghiệp đã là một đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Mức nộp ngân sách tăng gần 6 lần từ 337 triệu đồng (1991) đến 1976 triệu đồng (1993). Diện tích nhà xưởng, kho bãi đã được nâng cấp và mở rộng. Đời sống của cán bộ công nhân viên không ngừng được cải thiện. Sản phẩm mang nhãn hiệu Vang Thăng Long đã dần tìm được chỗ đứng trên thị trường. =Giai đoạn 1994- 2001: Bán cơ giới hoá và cơ giới hoá Đây là giai đoạn phát triển vượt bậc về năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm và thị trường tiêu thụ của công ty. Lúc này, Xí nghiệp Rượu- Nước giải khát Thăng Long đổi tên thành công ty Rượu- Nước giải khát Thăng Long. Công ty chính thức được thành lập theo quyết định số 301/QĐUB của UBND Thành phố Hà Nội Ngày 16/08/1993. Ngay sau khi được thành lập, công ty đã tích cực đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, triển khai áp dụng thành công mã số, mã vạch cùng hệ thống quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9002 và hệ thống phân tích xác định và kiểm soát các điểm nguy hại trọng yếu trong quá trình sản xuất (HACCP). Công ty đã đầu tư 11 tỷ đồng cho các thiết bị, nhà xưởng, môi trường, văn phòng và các công trình phúc lợi… Đặc biệt trong giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2001, công ty đã tập trung rất nhiều vào việc đầu tư cơ sở vật chất tương xứng với những kết quả nghiên cứu cải tiến quy trình công nghệ mới để tiếp tục không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn này, mức tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 65 %. Sản lượng rượu Vang đã tăng gấp 3 lần từ 1,6 triệu lít (1994) lên 4,8 triệu lít (1997) và đến năm 2002 con số đạt được là 5,3 triệu lít. Sản phẩm Vang Thăng Long có chất lượng cao đã được người tiêu dùng trong cả nước ưa chuộng và mến mộ. Liên tục trong 3 năm liền 1999, 2000 và năm 2001, Vang Thăng Long đã giành được “Giải thưởng hàng Việt Nam chất lượng cao” do người tiêu dùng bình chọn. =Giai đoạn từ 2002 đến nay Đây là giai đoạn công ty Cổ phần Thăng Long chính thức đi vào hoạt động từ ngày 03/05/2002 sau khoảng thời gian gần một năm kể từ ngày công ty Rượu- Nước giải khát Thăng Long có quyết định cổ phần hoá (tháng 4/2001). Giai đoạn này đánh dấu một trang sử mới trong lịch sử phát triển của công ty với 300 lao động, 400 cổ đông cùng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, dây truyền công nghệ sản xuất được cơ giới hoá, quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001:2000, HACCP, TQM và ISO 14000 Kể từ đây, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đã, đang và sẽ ngày một phát triển hơn nữa. Doanh thu của công ty năm 1999 đạt 59 tỷ đồng với sản lượng bán ra là 4,8 triệu lít. Tháng 4/2001, công ty đã hoàn thành việc cổ phần hoá, trong đó cổ phần Nhà nước chiếm 40%. Vốn điều lệ khi thành lập công ty Cổ phần Thăng Long là 11,6 tỷ đồng trong đó vốn của Nhà nước 4,64 tỷ đồng (chiếm 40%). Vốn của các cổ đông là cán bộ công nhân viên và các cổ đông khác là 6,96 tỷ đồng (chiếm 60%). Trong năm 2002, các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đều vượt năm trước: Doanh thu đạt 65 tỷ đồng vượt 3,6% so với năm 2001; nộp ngân sách 10,756 tỷ đồng vượt 18,6% so với năm 2001. Với những thành tựu đã đạt được, Công ty Cổ phần Thăng Long đã được Đảng và Nhà nước ta trao tặng nhiều huân, huy chương các loại, tiêu biểu trong số đó là: 01 Danh hiệu anh hùng lao động thời kỳ đổi mới 05 Huân chương lao động hạng nhì và hạng ba Giải thưởng “Bông sen vàng”, 01 Cúp sen vàng, 28 Huy chương vàng trong các lần tham gia hội chợ trong và ngoài nước. I.2 Hệ thống cơ cấu tổ chức của công ty Cơ cấu tổ chức của công ty theo mô hình trực tuyến chức năng Sơ đồ: Bộ máy tổ chức của công ty cổ phần Thăng Long I.3 Chức năng, nhiệm vụ của các phòng, ban trong công ty cổ phần Thăng Long. - Đại hội đồng cổ đông: Là cơ quan quyền lực cao nhất trong công ty, quyết định những vấn đề quan trọng nhất của công ty như: Điều lệ công ty, bầu các thành viên HĐQT, quyết định phương hướng phát triển công ty. - HĐQT: Là cơ quan quản lí công ty, toàn quyền nhân danh công ty quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty như chiến lược kinh doanh; phương án đầu tư,bổ nhiệm, bãi nhiệm, cách chức giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng. - Chủ tịch HĐQT: Là người lập chương trình, kế hoạch hoạt động của HĐQT, theo dõi quá trình tổ chức thực hiện các quyết định của HĐQT - Giám đốc điều hành: Là người có nhiệm vụ trực tiếp điều hành toàn bộ hoạt động của công ty. - Phó giám đốc điều hành: Là người giúp giám đốc quản lí các nhiệm vụ sản xuất, chịu trách nhiệm trước giám đốc về các nhiệm vụ được giao. - Phòng tổ chức: Thực hiện chức năng tham mưu, giúp việc cho giám đốc công ty về công tác tổ chức nhân sự, tuyển dụng và đào tạo lao động, lập kế hoạch tiền lương cho cán bộ công nhân viên. - Phòng kế toán: Tham mưu, giúp việc cho giám đốc công ty về công tác kế toán tài chính của công ty. Vì vậy nhịêm vụ chính của phòng kế toán là tổ chức hạch toán kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh; ghi chép, tổng hợp kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, lập các báo cáo kế toán. - Phòng hành chính: Thực hiện quản lí hành chính; quản lí hồ sơ, văn thư lưu trữ và các thiết bị văn phòng, nhà khách và tổ chức thi đua tuyên truyền. - Phòng cung tiêu: Làm nhiệm vụ nghiên cứu, tiếp cận và phân tích các nguồn nguyên liệu đầu vào, đảm bảo cung cấp kịp thời, đầy đủ cả về số lượng và chất lượng cho quá trình sản xuất đồng thời tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm. -Phòng nghiên cứu đầu tư- phát triển: Hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất đồng thời nghiên cứu phát triển sản phẩm mới - Phòng quản lý chất lượng: Giám sát chất lượng sản phẩm sản xuất ra đảm bảo sản phẩm bán ra đạt tiêu chuẩn chất lượng, nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm - Phòng công nghệ và xây dựng cơ bản: Thực hiện công tác quản lí kỹ thuật các loại máy móc thiết bị, nhà xưởng, kho tàng và quỹ đất của công ty - Ban bảo vệ: Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tài sản của công ty, phòng chống bão lụt, trộm cắp và thực hiện kiểm tra hành chính - Các tổ sản xuất: Trực tiếp thực hiện nhiệm vu sản xuất ra sản phẩm cho công ty - Các cửa hàng: Thực hiện nhiệm vụ bán hàng, giới thiệu sản phẩm và thu thập thông tin phản hồi từ khách hàng - Phòng thị trường: * Chức năng + Nghiên cứu, tìm hiểu thị trường + Phát triển hệ thống đại lý tiêu thụ sản phẩm cho công ty + Tiến hành các công tác hỗ trợ: Nghiên cứu, đề xuất và thực hiện các công tác hỗ trợ bán hàng và sau bán hàng như tham gia Hội chợ, Quảng cáo, đề xuất các chương trình khuyến mại quảng bá sản phẩm *Nhiệm vụ + Tiếp nhận đơn hàng, soạn thảo bảng giá, các hợp đồng và các văn bản có liên quan trong quá trình thực hiện hợp đồng theo biểu mẫu có sẵn của công ty + Quản lí và bảo mật hồ sơ về giá của công ty Tiến hành thương lượng các bước giao dịch, báo cáo cho giám đốc để đi đến kết luận hợp đồng theo quy định của công ty + Lập kế hoạch mở rộng thị trường mới, thực hiện các chuyến công tác xa khi được chỉ đạo và duyệt của giám đốc + Báo cáo định kỳ về tình hình kinh doanh, báo cáo thường xuyên và cập nhật về đối thủ cạnh tranh + Báo cáo và hỗ trợ phòng kế toán thu nợ khách hàng theo đúng tiến độ + Tham dự các khoá đào tạo nâng cao kiến thức kỹ thuật, chuyên môn do công ty tổ chức hoặc đăng ký tham dự Phần II: Thực trạng về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty II.1 Khái quát về ngành nghề sản xuất kinh doanh Công ty cổ phần Thăng Long là một doanh nghiệp vừa sản xuất, vừa kinh doanh. Vì vậy ngành nghề sản xuất kinh doanh của công ty có những đặc điểm sau: Chủ yếu sản xuất các loại đồ uống có cồn và không có cồn Sản xuất các loại bao bì Trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng trên Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của khách hàng, công ty đã tích cực nghiên cứu thị trường, nghiên cứu và thiết kế sản phẩm mới, đa dạng về chủng loại, kiểu dáng, cải tiến mẫu mã sản phẩm… Công ty có các loại sản phẩm cụ thể như sau: + Vang Thăng Long Nhãn vàng (Vang truyền thống) Là loại Vang tổng hợp với hương vị đặc trưng của các loại trái cây Việt Nam như dứa, vải, nho, mơ, mận, dâu và sơn tra; là loại Vang có độ rượu nhẹ do lên men, có tác dụng bồi bổ sức khoẻ theo truyền thống phương Đông với màu nâu ánh đỏ tươi; có vị chua chát, êm dịu + Vang Thăng Long 2 năm, Vang Thăng Long 5 năm Cũng như Vang Nhãn vàng, đây là loại Vang có hương vị đặc trưng của nhiều loại trái cây, với độ rượu nhẹ tạo cảm giác êm dịu nhưng có đặc điểm khác là có thời gian cất trữ lâu trong khoảng thời gian tương ứng là 2 năm và 5 năm + Vang Sơn Tra Thăng Long Là sản phẩm được lên men từ quả Sơn Tra- một vị thuốc dân gian truyền thống của Việt Nam, loại quả này được lấy từ Yên Bái. Với độ rượu nhẹ do lên men, Vang Sơn Tra có tác dụng bồi bổ sức khoẻ theo truyền thống phương Đông; hương thơm đặc trưng, có vị chua chát, tạo cảm giác hưng phấn êm dịu + Vang Nho ngọt Thăng Long Được làm từ quả nho tím giống ngoại nhập từ Phan Rang; có vị chua chát, ngọt hài hoà, giàu vitamin và có độ rượu nhẹ do lên men + Vang Dứa Thăng Long Là sản phẩm được lên men từ nước Dứa thuần khiết, với độ rượu nhẹ, hương thơm, vị ngọt, chua hài hoà tạo cảm giác hưng phấn êm dịu + Vang Nho chát Thăng Long (Vang xuất khẩu) Được làm từ quả nho tím giống nhập ngoại từ Phan Rang; bằng phương pháp chế biến và lên men hiện đại có vị chua chát hài hoà theo thói quen tiêu dùng quốc tế + Vang Vải Thăng Long Được làm từ quả Vải thiều Thanh Hà- Hải Dương độc đáo. Bằng phương pháp chế biến, lên men hiện đại, Vang Vải có hương vị đặc trưng thuộc dòng vang trắng theo thói quen tiêu dùng quốc tế + Vang Nổ Thăng Long Là sản phẩm được lên men từ hoa quả với độ rượu nhẹ, bọt ga trắng mịn, tạo cảm giác hưng phấn êm dịu vui tươi + Rượu Volka Là sản phẩm được sản xuất theo công nghệ hiện đại của nước ngoài. Đây là loại sản phẩm mới mà công ty cổ phần Thăng Long đưa ra thị trường lần đầu tiên tại Hội chợ Xuân 2005 Ngoài ra công ty còn sản xuất một sản phẩm bổ sung là vỏ hộp Vang các loại nhằm tăng thêm sự trang trọng cho sản phẩm trước con mắt khách hàng đặc biệt là đối với những khách hàng mua với mục đích làm quà biếu. Công ty còn đang có các dự án cải tiến về bao bì như làm chai bằng men sứ, chế tạo những vỏ đựng Vang làm quà biếu hấp dẫn người mua II.2 Đặc điểm về thị trường của công ty II.2.1 Đặc điểm về thị trường theo khách hàng Chúng ta đều thấy rằng, bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào đều phục vụ một nhóm khách hàng nhất định. Khách hàng của công ty cổ phần Thăng Long chính là các nhà đầu tư, các đại lý và các cơ sở nhỏ lẻ khác. Ngoài việc trực tiếp bán hàng cho người tiêu dùng từ cửa hàng giới thiệu sản phẩm của công ty, công ty còn thông qua một số trung gian để phân phối sản phẩm. Khách hàng lớn cuả công ty chủ yếu là các công ty thương mại. Các khách hàng của công ty có thể được mô tả theo sơ đồ hệ thống kênh phân phối như sau: Phòng thị trường Phòng cung tiêu Đại lý Bán lẻ Cửa hàng giới thiệu sản phẩm Nhà đầu tư Đại lý Bán lẻ Người tiêu dùng cuối cùng (Nguồn: Phòng thị trường Công ty cổ phần Thăng Long ) Như vậy, thị trường theo khách hàng của công ty bao gồm những đối tượng bán buôn và bán lẻ nhằm đảm bảo phủ kín thị trương, mở rộng thị trường tiêu thụ, giữ được khách hàng truyền thống và lôi kéo khách hàng tiềm năng. Trong số các khách hàng của công ty, nhà đầu tư có vai trò quan trọng, nhà đầu tư là khách hàng tiêu thụ sản phẩm lớn nhất của công ty (thường chiếm 60%-70% doanh thu). Nhà đầu tư cung cấp tín dụng thương mại cho công ty tức là nhà đầu tư ứng trước tiền hàng bù lại họ sẽ được ưu đãi về giá. Hàng năm công ty có khoảng 10 nhà đầu tư chủ yếu vào các tháng mùa vụ, cung cấp khoảng 40 tỷ tiền hàng để trang trải và làm vốn lưu động cho công ty trong thời gian ngắn. Các nhà đầu tư thường lấy hàng vào mùa tiêu thụ (từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau) hoặc vào những tháng trái vụ lượng hàng tiêu thụ của công ty chủ yếu được thực hiện thông qua mạng lưới các đại lý. Các đại lý của công ty chủ yếu là các công ty thương mại, lực lượng này có ảnh hưởng đáng kể đến chính sách định giá, các đại lý thường đòi hỏi giá thấp để chia sẻ lợi nhuận của công ty. Hiện nay công ty có hàng trăm đại lý trải khắp các tỉnh thành trong cả nước. So với những năm trước thì số lượng các đại lý ngày càng gia tăng nhưng nếu so với quy mô lớn như công ty cổ phần Thăng Long thì số lượng đại lý như hiện nay vẫn còn là khiêm tốn. Một lượng khách hàng khác của công ty là các cơ sở bán lẻ. Đây là lượng khách hàng tiêu thụ khối lượng sản phẩm của công ty chỉ sau các nhà đầu tư. Công ty còn trực tiếp bán hàng cho người tiêu dùng cuối cùng qua cửa hàng giới thiệu sản phẩm của mình. II.2.2 Đặc điểm thị trường theo khu vực Có thể chia thị trường theo khu vực của công ty cổ phần Thăng Long làm 3 khu vực lớn là thị trường miền Bắc, thị trường miền Trung và thị trường miền Nam. Trong mỗi miền, thực tế công ty chỉ tập trung tại một số tỉnh nhất định nhưng công coi thị trường miền Bắc là thị trường trọng điểm trong việc phát triển sản phẩm Vang Thăng Long. Có thể thấy rõ điều này qua bảng số liệu sau: Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Số lượng (chai) Tỷ trọng (%) Số lượng (chai) Tỷ trọng (%) Miền Bắc 6.698.126 92,0 6.787.246 91,0 Hà Nội 4.617.339 63,42 4.604.885 61,74 Hà Tây 1.151.058 15,81 1.241.826 16,69 Các tỉnh khác 929.729 12,77 937.535 12,57 Miền Trung 502.359 6,9 581.764 7,8 Miền Nam 80.087 1,1 89.502 1,2 Tổng 7.280.572 100 7.458.512 100 (Nguồn: Phòng thị trường Công ty cổ phần Thăng Long) Khu vực tiêu thụ rượu Vang lớn nhất là thị trường miền Bắc chiếm hơn 90% sản lượng bán ra của toàn công ty. Tiếp theo là thị trường miền Trung, sản lượng tiêu thụ chênh lệch khá lớn so với thị trường miền Bắc (chiếm khoảng 7%). Cuối cùng là thị trường miền Nam, đây được coi là thị trường tiềm năng của công ty. Thị trường này mới được công ty quan tâm phát triển nên sản lượng tiêu thụ còn khá ít (khoảng 1%) Thị trường miền Bắc là thị trường truyền thống của công ty với trung tâm là thủ đô Hà Nội. Khối lượng tiêu thụ ở Hà Nội chiếm trên 60%. Bên cạnh đó là thị trường Hà Tây cũng đóng góp không nhỏ vào sản lượng tiêu thụ tại thị trường miền Bắc với hơn một triệu chai trên một năm. Sản phẩm Vang Thăng Long có mặt tại hầu hết các tỉnh thị trường miền Bắc nhưng có thể coi Hà Nội và Hà Tây là hai thịi trường trọng điểm ở miền Bắc. Sản lượng tiêu thụ của công ty ở thị trường miền Trung còn khá khiêm tốn (khoảng 7%) tập trung chủ yếu ở Đà Nẵng. Công ty mới chỉ có 6 đại lý ở thị trường này. Có một đặc điểm của thị trường này là mức sống của người dân ở đây còn thấp nên sản phẩm chỉ được tiêu thụ ở thành phố lớn. Đối với thị trường miền Nam, công ty coi đây là thị trường mục tiêu trong thời gian tới. Thị trường quốc tế cũng là định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng công ty đã chuẩn bị cho việc thâm nhập bằng cách tham gia một số Hội chợ ở các nước để giới thiệu sản phẩm Vang Thăng Long. Hiện nay công ty đã có một số sản phẩm Vang xuất khẩu ra nước ngoài như Vang Nho chát xuất khẩu, Vang vải xuất khẩu. II.2.3 Đặc điểm thị trường theo mùa vụ Do nhu cầu tiêu dùng rượu Vang hiện nay biến động theo mùa vụ nên thị trường tiêu thụ Vang Thăng Long được tiêu thụ tập trung chủ yếu từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau, tức tà tập trung vào những tháng trước Tết Nguyên đán. Trong dịp này, nhiều khách hàng mua với mục đích để biếu, tặng và để thờ cúng. Vì vậy lượng tiêu thụ thường chiếm trên 80% tổng sản lượng tiêu thụ cả năm. Trong những tháng mùa hè, do thời tiết nóng nên việc uống rượu Vang không được ưa chuộng dẫn đến sản lượng tiêu thụ chậm. Sở dĩ có sự chênh lệch theo mùa vụ là do hiện nay nhu cầu về rượu Vang là loại nhu cầu không thường xuyên. Cầu về rượu Vạng tăng mạnh trong những tháng trước tết còn vào những tháng khác trong năm, nhu cầu này lại thấp. Nắm bắt kịp thời nhu cầu rượu Vang hiện nay, công ty đã tập trung chủ yếu vào các biện pháp thúc đẩy tiêu thụ vào những tháng mùa vụ nhằm thu được hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, công tycòn chú ý đến những tháng trái vụ nhằm mở rộng nhu cầu sử dụng rượu Vang hàng ngày của người tiêu dùng. II.3 Đặc điểm về cạnh tranh Thị trường rượu Vang ngày càng phong phú và đa dạng. Hiện nay, trên thị trường đã xuất hiện nhiều sản phẩm cùng loại đang cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm rượu Vang của công ty cổ phần Thăng Long như Vang Gia Lâm, Vang Đà Lạt, Vang Đồng Xuân, Vang Tháp Chàm, Vang Hữu Nghị … Các sản phẩm nước ngoài như Vang Pháp, Vang ý… Tất cả đã, đang và sẽ tạo nên thị trường Vang đầy hấp dẫn và do đó cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt. Trong những năm tới đối thủ cạnh tranh chính của công ty cổ phần Thăng Long tập trung chủ yếu vào các công ty có sản lượng khá lớn, có doanh thu cao. Đó là những công ty đang dần khẳng định vị thế của mình tại thị trường miền Bắc- thị trường trọng điểm của công ty cổ phần Thăng Long. II.4 Đặc điểm về lao động Khi mới thành lập công ty chỉ có 50 lao động hạn chế về trình độ tay nghề, trong đó lại chủ yếu là lao động phổ thông. Hiện nay, tổng số lao động của công ty đã lên đến 315 người, tức là gấp 6,3 lần so với khi bắt đầu. Cụ thể qua số liệu năm 2004 của phòng tổ chức công ty cổ phần Thăng Long như sau: *CBCNV công ty: 241 người (Nam:136, Nữ: 105) - CBCNV văn phòng: 90 người (Nam: 53, Nữ: 37) - Công nhân lao động trực tiếp: 151 người (Nam:83, Nữ: 68) - Trụ sở của Công ty ở Nghĩa Đô gồm: + 08 phòng, 01 ban: Phòng hành chính: 05 người Phòng tổ chức: 03 người Phòng kế toán: 04 người Phòng cung tiêu: 04 người Phòng nghiên cứu- đầu tư- phát triển: 07 người Phòng thị trường : 21 người Phòng QC : 01 người Phòng công nghệ- quản lí sản xuất : 11 người Ban bảo vệ : 11 người + 04 Phân xưởng, 14 tổ: Phân xưởng máy rửa chai, đóng vang: 34 người Tổ máy rửa chai Tổ đóng vang 1 Tổ đóng vang 2 Phân xưởng lên men: 15 người Tổ lên men chính Tổ lên men phụ Phân xưởng lọc vang: 12 người Tổ lọc vang 1 Tổ lọc vang 2 Phân xưởng thành phẩm: 18 người Tổ đóng thùng Tổ máy dán nhãn Tổ kho vận: 08 người Tổ bốc xếp: 08 người Tổ xử lí nước thải: 04 người Tổ sửa chữa: 05 người Tổ bếp: 10 người Xưởng Vĩnh Tuy Tổ quản lí: 04 người Tổ lên men lọc vang: 08 người Tổ đóng vang, dán nhãn: 20 người Tổ kho vận, sửa chữa: 05 người Tổ bảo vệ: 05 người * Chi nhánh 74 người - Chi nhánh Cửa hàng kinh doanh tổng hợp 07 người (Nữ) - Chi nhánh cửa hàng Đông Đô 19 người (Nam:05, Nữ:14) - Chi nhánh xí nghiệp sản xuất hàng nhựa 45 người (Nam:14, Nữ: 31) - Chi nhánh Thành phố HCM 02 người (Nam) - Chi nhánh Ninh Thuận 01 (Nam) * Tuổi bình quân 36.3 tuổi - Nam giới 36,5 tuổi - Nữ giới 36.0 tuổi * Trình độ học vấn - Thạc sĩ 01 người - Đại học 79 người + Kỹ sư hoá máy 05 người + Kỹ sư công nghệ thực phẩm sinh học 25 người + Cử nhân kinh tế- luật 35 người + Các ngành khác 06 người - Cao đẳng 12 người - Trung cấp 31 người - PTTH 245 người -Cấp 2 65 người * Đảng viên 47 người + Lí luận chính trị - Trung cấp 07 người - Sơ cấp 40 người II.5 Đặc điểm về công nghệ sản xuất rượu Vang Nhận thức được tầm quan trọng của đổi mới công nghệ, ban lãnh đạo công ty đã quyết tâm đưa khoa học công nghệ tiến bộ vào sản xuất. Từ năm 1994, công ty xác định mục tiêu của đổi mới công nghệ là: nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sản lượng sản xuấtvà đa dạng hoá sản phẩm nhằm thích ứng với tình hình sản xuất kinh doanh và thoả mãn nhu cầu phong phú của người tiêu dùng. Sau quá trình đổi mới công nghệ, chất lượng và sản lượng rượu Vang đã tăng lên rõ rệt, công xuất đạt 5 triệu lít/năm. Sau đây là sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất rượu Vang: Nguyên liệu quả Chọn, rửa, sơ chế Men giống ép, trộn đường Ngâm đường Lên men chính Rút cốt quả Bã Lên men phụ Lọc Chai Rửa Chiết chai Nút Rửa Đóng nút Dán nhãn Đóng thùng Nhập kho Sau khi quả nguyên liệu được thu mua và vận chuyển về nhà máy, công nhân sẽ kiểm tra chất lượng và loại bỏ những quả không đạt yêu cầu. Khi đã có những quả đạt yêu cầu, người ta sẽ thực hiện quá trình rửa và sơ chế. Sau đó thực hiện quá trình ngâm trích ly trực tiếp bằng đường theo tỷ lệ 1:1 (một lớp quả, một lớp đường). Sau một thời gian ngâm trích ly trực tiếp bằng đường (tuỳ thuộc vào loại quả mà thời gian ngâm khác nhau) sẽ thực hiện quá trình rút cốt quả và bắt đầu chuyển sang quá trình lên men chính. Trước đó người ta phải pha chế dịch lên men (bổ sung thêm cồn thực phẩm và các phụ gia khác) rồi thực hiện quá trình lên men chính trong các Tank 5m3 và 10m3. Thời gian lên men chính vào khoảng 90-120h (tuỳ thuộc vào nguyên liệu là loại Siro quả nào mà thời gian lên men khác nhau). Kết thúc quá trình lên men chính thì chuyển sang quá trình lên men phụ. Mỗi chủng loại sản phẩm có thời gian lên men phụ và tàng trữ khác nhau. Chẳng hạn như thời gian lên men tối thiểu đối với Vang Thăng Long truyền thống (Vang Nhãn vàng) là 3 tháng. Khi kết thúc việc lên men phụ, vang đã trong hơn rất nhiều nhưng để đạt được yêu cầu chất lượng thì phải thực hiện quá trình lọc. Vì vậy, Vang được bơm ra Tank riêng để lọc. Quá trình lọc được thực hiện qua hai giai đoạn: Lọc thô và lọc tinh. Hoàn thành việc lọc tinh là lúc ta đã có Vang thành phẩm đạt yêu cầu kỹ thuật và khi đó ta chuyển sang quá trình chiết chai. Sau khi chiết chai, chai chạy theo băng truyền được công nhân đóng nút nhựa và chuyển sang quá trình dán nhãn, đóng thùng. Cuối cùng, những chai Vang sẽ được chuyển vào kho. II.6 Tình hình tài chính công ty Công ty cổ phần Thăng Long có một quy mô vốn kinh doanh khá lớn so với các đơn vị trong cùng ngành. Kể từ khi thành lập đến nay, do làm ăn tương đối ổn định nên tiềm lực tài chính của công ty không ngừng tăng. Nếu như ngày đầu thành lập vốn của công ty chỉ có 861.182.000 đồng thì đến cuối năm 2002 tổng số vốn sản xuất kinh doanh đã lên đến 44.776.229.000 đồng. Nếu phân chia theo kết cấu tài sản, vốn kinh doanh của công ty cổ phần Thăng Long gồm hai bộ phận chính là vốn cố định và vốn lưu động. Để thấy rõ hơn thay đổi trong cơ cấu tài chính của công ty theo cách phân loại này trong những năm gần đây, chúng ta xem xét bảng số liệu sau: (Đơn vị :Ngàn đồng) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số tiền % Số tiền % Số tiền % VLĐ 16.696.663 52,98 23.336.571 59,13 24.046.294 53,7 VCĐ 14.817.691 47,02 16.127.251 40,87 20.729.935 46,3 Tổng NV 31.514.354 100 39.463.822 100 44.776.229 100 (Nguồn: Phòng kế toán Công ty cổ phần Thăng Long) Từ số liệu trên cho thấy từ năm 2000 đến 2002 tổng vốn kinh doanh liên tục tăng, trong đó thể hiện rõ ở vốn cố định cho thấy sự đầu tư mạnh mẽ cho tài sản cố định của công ty. Cơ cấu vốn cũng được điều chỉnh hợp lí hơn cho phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.Trước kia trong thời kỳ bao cấp, vốn kinh doanh của công ty cổ phần Thăng Long 100% do ngân sách Nhà nước cấp, hoạt động theo cơ chế hạch toán kinh tế (lỗ Nhà nước chịu, lãi Nhà nước thu). Tuy nhiên từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường, công ty đã phải huy động vốn từ rất nhiều nguồn khác nhau. Do hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, uy tín của công ty trên thị trường không ngừng tăng lên nên dễ dàng huy động được vốn cho sản xuất kinh doanh. Hiện nay, số vốn vay chiếm hơn 2/3 tổng số vốn hoạt động trong đó vay lưu động là chủ yếu để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh thường xuyên của công ty. Hàng năm, các nhà đầu tư cung cấp nguồn vốn chiếm tới 75% tổng doanh thu. Bên cạnh đó, công ty còn huy động một lượng vốn không nhỏ từ người lao động trong công ty, từ các cổ đông và các tổ chức tín dụng. Hiện nay khi nền kinh tế đang ngày một phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá, sự ra đời của thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã mở ra một cơ hội mới cho các doanh nghiệp tìm kiếm được nguồn vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Công ty cổ phần Thăng Long luôn tin tưởng vào khả năng phát triển của mình. Phương hướng của công ty trong thời gian tới là mở rộng sản xuất đồng thời tiếp tục đầu tư theo chiều sâu bằng nguồn vốn huy động từ bên ngoài như vay ngân hàng, vốn ứng trước của nhà đầu tư, công ty có thể huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu- hình thức có chi phí và mức độ rủi ro thấp hơn so với các hình thức khác nhằm nâng cao khả năng tự chủ về vốn sản xuất kinh doanh. Để huy động thêm vốn, công ty cổ phần Thăng Long có định hướng liên doanh với các công ty trong và ngoài nước để kinh doanh các loại Vang, Rượu Brandy, rượu đặc chủng, rượu thuốc có lượng quốc tế… đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng II.7 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty II.7.1 Phân tích kết quả sản xuất kinh doanh chung trong những năm gần đây Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 So sánh 2002/2001 So sánh 2003/2002 Chênh lệch Tỷ lệ (%) Chênh lệch Tỷ lệ (%) Sản lượng (1000 lít) 4.816 4.920 5.500 104 2,15 580 11,78 Tổng doanh thu(trđ) 58.399 59.235 65.000 836 1,41 5.765 9,69 Tổng chi phí (trđ) 54.009 54.485 60.200 776 1,42 5.715 9,49 Lợi nhuận trước thuế (trđ) 4.390 4.750 4.800 360 8,20 50 1,05 Nộp ngân sách (trđ) 10.000 10.178 10.657 178 1,78 479 4,71 Tổng quỹ lương (trđ) 2.710 2.924 3.242 214 7,9 318 10,88 Tổng số lao động (người) 292 295 290 3 1.03 -5 -1,69 Thu nhập bình quân (1000đ/th) 1.200 1.400 1.600 200 16,67 200 14,29 NSLĐbq/người 214,21 213,56 225,17 -0,65 -0,30 11,61 5,44 (Nguồn: Phòng kế toán Công ty cổ phần Thăng Long) Bảng phân tích kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm cho thấy xu hướng biến động về doanh thu và các chỉ tiêu khác là tương đối tốt. Doanh thu và lợi nhuận của công ty trong 3 năm qua liên tục tăng, điều đó cho thấy mặc dù thị trường có nhiều biến động và cạnh tranh gay gắt nhưng công ty vẫn không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm mục tiêu hàng đầu. Do liên tục đổi mới máy móc thiết bị sản xuất, tăng cường tiến bộ khoa học công nghệ, năng lực sản xuất của công ty ngày càng được mở rộng. Sản lượng công ty liên tục tăng qua các năm so với tốc độ trung bình trên 2%. Năm 2003, sản lượng đạt 5,5 triệu lít, tăng 580.000 lít so với năm 2002, chiếm 11,78% tỷ lệ. Tổng doanh thu năm sau cao hơn năm trước. Năm 2002 so với năm 2001 tăng 914 triệu đồng, chiếm 0,72%, tỷ lệ lợi nhuận trước thuế cũng tăng dần theo các năm, năm 2002 so với năm 2001 tăng 360 triệu đồng tương ứng với 8,2% tỷ lệ, năm 2003 so với năm 2002 tăng 50 triệu đồng tương ứng 1,05% tỷ lệ. Do sản lượng doanh thu tăng lên theo các năm cao hơn tổng chi phí do đó lợi nhuận của công ty tăng lên và nộp ngân sách cũng được cao hơn, thu nhập bình quân của người lao động cũng tăng dần theo các năm. Năm 2001, thu nhập bình quân người lao động trên tháng là 1.200.000 đồng. Năm 2002 là 1.400.000 đồng và năm 2003 là 1.600.000 đồng tăng 200.000 đồng mỗi người trên tháng năm 2002 so với năm 2001 chiếm 16,67% tỷ lệ năm 2003 so với năm 2002 tăng 200.000 đồng tương ứng với 14,29%. Năng suất lao động bình quân giảm tương ứng với số lượng lao động. Năm 2003 so với năm 2002 tăng 11,61 triệu đồng tương ứng 5,44% tỷ lệ. Công ty luôn có chế độ ưu đãi và đặc biệt quan tâm đến đời sống người lao động bằng các biện pháp khuyến khích, giúp đỡ, thúc đẩy nâng cao năng suất lao động nhằm ổn định thu nhập đời sống cán bộ công nhân viên. Điều này được thể hiện qua tổng quỹ lương và mức lương bình quân của người lao động không ngừng tăng qua các năm. Khi đó người lao động sẽ gắn bó với công ty và hiệu suất lao động sẽ tăng cao. Như vậy, tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, cấc chỉ tiêu đều tăng đặc biệt là lợi nhuận, doanh thu, tổng quỹ lương, mức lương bình quân. Tuy nhiên công ty phải không ngừng cải tiến và nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên đồng thời phát huy tốt công tác quản trị để sao cho có thể giảm thiểu chi phí sản xuất kinh doanh tăng doanh thu và tối đa hoá lợi nhuận. II.7.2 Phân tích kết quả tiêu thụ sản phẩm II.7.2.1 Theo kết cấu mặt hàng kinh doanh Đơn vị tính: 1000lít Tên sản phẩm Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 So sánh 2002/2001 So sánh 2003/2002 Chênh lệch Tỷ lệ (%) Chênh lệch Tỷ lệ (%) Vang Thăng Long 2.634 2.700 3.200 66 2.50 500 18.51 Vang Sơn Tra 568 580 600 12 2.11 20 3.44 Vang Nho 320 340 340 20 6.25 20 5.88 Vang Dứa 456 466 480 10 2.19 16 3.43 Vang 2 năm 400 410 430 10 2.5 20 4.87 Vang 5 năm 420 424 430 4 0.95 6 1.41 Tổng 4.816 4.920 5.500 104 2.15 580 11.78 (Nguồn: Phòng thị trường Công ty cổ phần Thăng Long) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC058.doc