Tài liệu Báo cáo Thực tập tại Công ty bánh kẹo Hải Hà: ... Ebook Báo cáo Thực tập tại Công ty bánh kẹo Hải Hà
40 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1718 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Thực tập tại Công ty bánh kẹo Hải Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động trong cơ chế thị trường mỗi doanh nghiệp luôn tự mình làm tất cả mọi việc, từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển được. Cũng như một nhà đầu tư, anh ta muốn đầu tư một khoản tiền vào một Công ty nào đó thì anh ta phải biết rõ tình hình hoạt động của Công ty đó trong thời gian gần đây và xu hướng hoạt động của nó trong tương lai như thế nào.
Công ty bánh kẹo Hải Hà là một Công ty có bề dày kinh nghiệm hơn 40 năm hoạt động, đã tồn tại và phát triển được cả trong hoàn cảnh khó khăn nhất và cho đến nay Công ty luôn làm ăn có lãi, góp phần tích cực trong quá trình CNH – HĐH đất nước.
Báo cáo này với hy vọng sẽ có một cái nhìn tổng quát về Công ty bánh kẹo Hải Hà ở mọi góc độ, từ những mặt đã đạt được đến những mặt chưa đạt được, từ những điểm mạnh đến cả những điểm yếu của Công ty nhằm rút ra được một kết luận tổng quát nhất. Hy vọng nó có thể giúp ích cho những ai quan tâm đến Công ty và qua đợt thực tập viết Báo cáo này nó cũng giúp cho em có một cái nhìn thực tế hơn trong hoạt động của các doanh nghiệp và có điều kiện áp dụng những kiến thức lí thuyết đã học để có thể đánh giá hoạt động của công ty bánh kẹo Hải Hà một cách đúng đắn nhất.
1. Tổng quan về doanh nghiệp
1.1.Quá trình hình thành và phát triển
Công ty bánh kẹo Hải Hà là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ công nghiệp chuyên sản xuất và kinh doanh các mặt hàng bánh kẹo phục vụ nhu cầu trong nước và một phần cho thị trường xuất khẩu.
Địa điểm công ty: số 25 đường Trương Định – Q.Hai Bà Trưng – Hà Nội
Tên giao dịch: Hai Ha Confectionery Company.
Tên viết tắt: HAIHACO.
Được thành lập theo quyết định số 216 /23-3-1993/QĐ-BCNN.
Căn cứ theo nghị định số 388/02-11-1991/NĐ-HĐBT .
Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh số 106286 ngày 07/04/1993 do trọng tài kinh tế Hà Nội cấp.
Đăng kí nhãn hiệu hàng hoá số 5864 theo quyết định số 2348/21.5.1992/QĐ – cục Sở hữu công nghiệp.
Đăng kí kiểu dáng công nghiệp số 5256 kẹo cứng nhân theo quyết định số 577/7.9.98/QĐ – cục Sở hữu CN.
Ra đời trong hoàn cảnh cơ chế tập trung bao cấp, vì vậy khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường công ty đã gặp không ít khó khăn và thách thức. Với sự lãnh đạo sáng suốt của ban lãnh đạo và sự hăng say lao động của công nhân viên công ty, đến nay Hải Hà đã và đang có một chỗ đứng vững chắc trong tâm trí của người tiêu dùng với hàng trăm loại sản phẩm bánh kẹo khác nhau.
Các giai đoạn hình thành và phát triển của công ty:
Được thành lập từ năm 1960, đến nay công ty đã trải qua 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1959-1969:
Tháng 11 năm 1959 Tổng công ty nông lâm thuỷ sản miền Bắc đã xây dựng một cơ sở thực nghiệm nghiên cứu hạt trân châu với 9 cán bộ công nhân viên(CNV) của Tổng công ty gửi sang. Đến đầu năm 1960 thực hiện chủ trương của công ty, cơ sở đã đi sâu nghiên cứu, sản xuất các mặt hàng miến. Trên cơ sở đó, 25.12.1960 xưởng miến Hoàng Mai ra đời, 25.5.1961, xưởng đã tập trung nhân lực và thiết bị để mở rộng sản xuất và liên tục hoàn thành kế hoạch. Ngoài sản phẩm chính là miến, xí nghiệp còn sản xuất nước chấm và tinh bột ngô.
Năm 1962, xí nghiệp miến Hoàng Mai thuộc Bộ công nghiệp nhẹ quản lí. Thời kì này, xí nghiệp đã thử nghiệm thành công và đưa vào sản xuất các mặt hàng như tinh dầu bột ngô cung cấp cho nhà máy pin Văn Điển.
Năm 1966, Viện thực vật đã lấy nơi đây là cơ sở sản xuất thử nghiệm các đề tài thực phẩm để từ đó phổ biến cho các địa phương sản xuất, với mục đích giải quyết hậu cần tại chỗ, tránh sự ảnh hưởng của chiến tranh gây ra. Từ đó nhà máy đổi tên thành nhà máy thực nghiệm thực phẩm Hải Hà. Ngoài sản xuất tinh bột ngô, nhà máy còn sản xuất viên đạm, trao tương, nước chấm lên men, nước hoa quả, dầu đạm tương, bánh mì, bột dinh dưỡng trẻ em…
Năm 1968 nhà máy thuộc Bộ lương thực – thực phẩm quản lí.
Giai đoạn 1970 – 1986:
Tháng 6/1970. Thực hiện chỉ thị của Bộ lương thực – thực phẩm, nhà máy đã tiếp nhận phân xưởng kẹo của Hải Châu bàn giao với công suất 900 tấn/ năm, nhà máy mang tên mới là Nhà máy thực phẩm Hải Hà với số cán bộ CNV là 555 người và nhiệm vụ chính là sản xuất kẹo nha, giấy tinh bột.
Đến tháng 12/1976, nhà nước được chính phủ phê duyệt dự án cho phép mở rộng nhà máy, nâng mức công suất từ 900 tấn/năm lên 6000 tấn/năm, số cán bộ CNV là 900 người. Đến năm 1980, nhà máy chính thức có 2 tầng với tổng diện tích là 2500 m2222222222222jf2 . Nhà máy từng bước mở rộng qui mô sản xuất, trang bị thêm nhiều dây chuyền sản xuất mới, đổi mới kĩ thuật và nâng cao công nghệ từng bước đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
Giai đoạn 1987- 1991:
Từ 1987, nhà máy một lần nữa được đổi tên thành nhà máy kẹo xuất khẩu Hải Hà thuộc Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm quản lí. Sản phẩm của nhà máy được tiêu thụ rộng rãi trong và ngoài nước, chủ yếu là thị trường Đông Âu. Tốc độ tăng sản lượng hằng năm của nhà máy đạt từ 1% đến 5%, sản xuất từ chỗ thủ công đã dần được cơ giới hoá. Thời kì này nhà máy mở rộng và phát triển thêm nhiều dây chuyền sản xuất mới. Đến năm 1990 nhà máy có 4 phân xưởng kẹo.
Giai đoạn 1992 đến nay:
Tháng 1/1992, nhà máy thuộc Bộ Công Nghiệp Nhẹ quản lí.
Tháng 7/1992, nhà máy kẹo xuất khẩu Hải Hà được quyết định đổi tên thành Công ty Bánh kẹo Hải Hà với tên giao dịch HAIHACO thuộc Bộ Công Nghiệp quản lí. Mặt hàng sản xuất chính là các loại kẹo bao gồm kẹo sữa dừa, kẹo hoa quả, kẹo cà phê, kẹo cốm và bánh biscuit, bánh kem.
Công ty có 5 xí nghiệp trực thuộc: xí nghiệp kẹo, xí nghiệp bánh, xí nghiệp phụ trợ, nhà máy thực phẩm Việt Trì, nhà máy bột dinh dưỡng trẻ em
Tháng 5/1992, Công ty liên doanh với Nhật Bản thành lập Công ty liên doanh HAIHA-COTOBUKI.
Năm 1995 liên doanh với Công ty Miwon của Hàn Quốc để sản xuất mì chính tại Việt Trì.
Năm 1996, thành lập công ty liên doanh thứ 3 là công ty Haiha-Kameda với đối tác Hàn Quốc, nhưng do hoạt động kém hiệu quả nên công ty liên doanh đã giải thể vào tháng 11/1998.
1.2. Vai trò, vị trí của doanh nghiệp:
Là một trong những doanh nghiệp lớn trong ngành sản xuất bánh kẹo nên Hải Hà có vị trí rất quan trọng, một vài năm gần đây công ty cung cấp ra thị trường hơn 10.000 tấn sản phẩm đạt doanh thu hơn 200 tỉ đồng, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Hằng năm công ty nộp cho ngân sách nhà nước 17-18 tỉ đồng , giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm người lao động,
1.3. Chức năng, nhiệm vụ của công ty:
Mỗi thời kì cụ thể, các công ty nói chung và Hải Hà nói riêng đều được đặt ra các chức năng nhiệm vụ cụ thể. Thực hiện Nghị quyết 7 của BCHTW Đảng CNH-HĐH Hải Hà xác định nhiệm vụ cụ thể là:
Tăng đầu tư chiều sâu với mục đích không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, đa dạng hoá chủng loại sản phẩm nhằm mở rộng thị trường từ nông thôn đến thành thị, từ trong nước đến ngoài nước, đủ sức cạnh tranh với đối thủ trong và ngoài nước. Phát triển các mặt hàng mới nhưng cần chú trọng đến các loại bánh kẹo truyền thống.
Đi sâu nghiên cứu thị trường, ổn định và không ngừng nâng cao hiệu quả thị trường cũ (đáp ứng, thoã mãn nhu cầu của khách hàng) , mở rộng thị trường mới, nhất là thị trường miền Nam và thị trường xuất khẩu.
Ngoài việc sản xuất bánh kẹo là chính, công ty sẽ kinh doanh các mặt hàng khác để nâng cao đời sống và thúc đẩy sự phát triển ngày một mạnh của công ty.
Ngoài ra công ty còn có các nhiệm vụ sau:
Bảo toàn và phát triển vốn được giao.
Thực hiện các nhiệm vụ và nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Thực hiện phân phối theo lao động, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ nhân viên và nâng cao trình độ chuyên môn…
Nền kinh tế thị trường có sự cạnhtranh gay gắt, các doanh nghiệp phải sản xuất và bán cái thị trường cần chứ không phải cái họ có. Vậy chỉ có nghiên cứu thị trường cả chiều rộng và chiều sâu, công ty mới có khả năng tồn tại và phát triển.
1.4. Môi trường kinh doanh của công ty:
Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
Các yếu tố về kinh tế: Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đang phục hồi nhanh chóng, sự phân hoá thu nhập ngày càng cao. Khi mức sống của người dân tăng lên thì nhu cầu của thị trường về bánh kẹo sẽ cao hơn về số lượng, chất lượng, hình thức, mẫu mã… Trong những năm qua, tỉ giá ngoại tệ biến động ổn định với mức tăng trên thị trường liên ngân hàng trong năm 2001 bình quân 3,2% so với tỉ giá cuối năm 2000. Sự thuận lợi trên thị trường tài chính tiền tệ sẽ tạo điều kiện cho Công ty đầu tư phát triển.
Các yếu tố về chính trị, luật pháp: Đối với mặt hàng bánh kẹo Chính phủ đã có Pháp lệnh về vệ sinh an toàn thực phẩm; Luật bản quyền sở hữu công nghiệp: quy định ghi nhãn mác, bao bì nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và của các công ty sản xuất chân chính. Nhưng việc quản lí và thi hành của các cơ quan có chức năng không triệt để nên trên thị trường vẫn còn lưu thông một lượng không nhỏ hàng giả, hàng nhái, hàng không rõ nhãn mác, hàng kém phẩm chất, quá hạn sử dụng…
Các yếu tố quốc tế: Trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, sự hình thành khối mậu dịch tự do ASEAN (APTA) và việc kí hiệp định ưu đãi thuế quan (CEPT) đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử phát triển kinh tế của ASEAN, vào năm 2006 mức thuế xuất nhập khẩu sẽ là 0% (trừ các hàng hoá không được phép xuất nhập khẩu). Đây sẽ là một thách thức đối với công ty, không những công ty gặp khó khăn trong việc xuất khẩu mà còn phải cạnh tranh quyết liệt trên thị trường trong nước với các sản phẩm của nước ngoài đặc biệt mặt hàng bánh kẹo từ trước tới nay vẫn được duy trì bảo hộ với mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu cao (50%-100%). Nếu công ty không theo kịp thì có thể sẽ gặp những bất lợi không nhỏ.
Nhu cầu tiêu dùng bánh kẹo tại Việt Nam
Các chỉ tiêu
Đơn vị
2000
2001
2002
2003
2004
2005
1. Dân số Việt Nam
Triệu người
78,68
78,6
79,0
81,89
82,89
84,08
2. Tổng sản lượng bánh kẹo tiêu thụ
- Sản xuất trong nước
-Nhập ngoại
Nghìn tấn
-
-
93,0
69,9
23,1
99,5
77,6
21,9
106
83,7
22,3
116
87
29
125
100
25
136
110
26
3. Mức tiêu dùng bình quân
Kg/người
1,18
1,25
1,31
1,421
1,51
1,62
Các yếu tố thuộc môi trường vi mô:
Khách hàng: là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của bất kì doanh nghiệp nào. Có thể phân chia khách hàng của Công ty thành 2 loại: khách hàng trung gian (đại lí) và người tiêu dùng cuối cùng.
Đại lí: mục đích của họ là lợi nhuận và động lực thúc đẩy họ tiêu thụ sản phẩm cho công ty là hoa hồng, chiết khấu bán hàng, thưởng và phương thức thanh toán. Hiện nay công ty có hơn 230 đại lí, hệ thống phân phối được coi là mạnh nhất trong ngành sản xuất bánh kẹo. Các đại lí chủ yếu tập trung ở các tỉnh phía Bắc sẽ tạo điều kiện cho Công ty thâm nhập vào thị trường sản phẩm cao cấp. Nhưng hệ thống kênh phân phối còn nhiều hạn chế trong quá trình mở rộng vào các tỉnh miền Nam và các tỉnh miền núi phía Bắc.
Mức trợ giá cho các đại lí của công ty bánh kẹo Hải Hà
STT
Khu vực
Mức hỗ trợ(đồng/tấn)
1
Trương Định
10.000
2
Nội thành Hà Nội
15.000
3
Ngoại thành Hà Nội, Hà Đông
20.000
4
Vĩnh Phú, Ninh Bình, Hải Phòng
50.000
5
Hải Dương, Hà Tây, Hà Bắc
70.000
6
Quãng Ninh, Tuyên Quang, Yên Bái
90.000
7
Nghệ An, Hà Tĩnh, Lai Châu
110.000
8
Quãng Bình, Quãng Trị, Huế
200.000
9
Quãng Nam, Đà Nẵng, Quãng Ngãi
300.000
10
Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc
450.000
11
TP. Hồ Chí Minh
500.000
Người tiêu dùng cuối cùng: quyết định trực tiếp sự thành công của doanh nghiệp. Mỗi miền có đặc tính tiêu dùng sản phẩm khác nhau nên Công ty cần phải xác định được điều này để có cách thâm nhập có hiệu quả nhất. Khách hàng chủ yếu của doanh nghiệp là khách hàng miền Bắc và miền Trung, một phần rất ít ở miền Nam do Công ty chưa nắm rõ được nhu cầu tiêu dùng của đối tượng khách hàng này.
- Đối thủ cạnh tranh: Thị trường Bánh kẹo nước ta hiện nay diễn ra cạnh tranh khá quyết liệt. Cả nước có hơn 30 nhà máy sản xuất quy mô vừa và lớn và hàng trăm cơ sở sản xuất nhỏ thuộc đủ mọi thành phần kinh tế, bên cạnh đó một phần không nhỏ lượng bánh kẹo các loại của nước ngoài tràn vào Việt Nam qua đường nhập tiểu ngạch và trốn thuế chủ yếu từ Thái Lan, Malaixia, Inđonexia, Trung Quốc… Có thể kể đến các đối thủ lớn trong nước như: công ty bánh kẹo Hải Châu, công ty đường Biên Hoà, công ty đường Quãng Ngãi, Liên doanh Hải Hà Kotobuki, công ty bánh kẹo Kinh Đô…
So sánh các đối thủ cạnh tranh chủ yếu
Công ty
Thị trường chủ yếu
Sản phẩm cạnh tranh
Thị phần
Điểm mạnh
Điểm yếu
Hải Hà
Miền Bắc
Kẹo các loại
7,5%
Uy tín, hệ thống phân phối rộng, quy mô lớn, giá hạ
Chưa có sản phẩm cao cấp, hoạt động quảng cáo kém
Hải Châu
Miền Bắc
Kẹo hoa quả, Sôcôla, bánh kem xốp
5,5%
Uy tín, hệ thống phân phối rộng, giá hạ
Chất lượng chưa cao, mẫu mã chưa dẹp
Kinh Đô
Cả nước
Snack, bánh tươi, biscuit, Sôcôla, bánh mặn
5%
Chất lượng tốt, bao bì đẹp, quảng cáo và hỗ trợ bán tốt, kênh phân phối rộng
Giá còn cao
Biên Hoà
MiềnTrung, Miền Nam
Biscuit, kẹo cứng, kẹo mềm, Snack, Sôcôla
8%
Mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, hệ thống phân phối rộng
Hoạt động xúc tiến hỗn hợp kém, giá bán còn cao
Tràng An
Miền Bắc, Miền Trung
Kẹo hương cốm
3%
Giá rẻ, chủng loại kẹo hương cốm phong phú
Chủng loại bánh, kẹo còn ít, quảng cáo kém
Quãng Ngãi
MiềnTrung, Miền Nam
Kẹo cứng, Snack, Biscuit
5%
Giá rẻ, hệ thống phân phối rộng, chủng loại phong phú
Bao bì kém hấp dẫn, hoạt động quảng cáo kém
Lubico
Miền Nam
Kẹo cứng, Biscuit các loại
3,5%
Giá rẻ, chất lượng khá, hệ thống phân phối rộng
Chủng loại còn hạn chế, mẫu mã chưa đẹp
Hữu Nghị
Miền Bắc
Bánh hộp, Cookies, kẹo cứng
2,5%
Hình thức phong phú, giá bán trung bình, chất lượng bánh trung bình
Chất lượng bánh, chủng loại còn hạn chế, uy tín chưa cao
Haiha-kotobuki
Miền Bắc
Bánh tươi, Snack Cookies, Bimbim
3%
Chất lượng cao, mẫu mã đẹp, hệ thống phân phối rộng
Giá cao, hoạt động xúc tiến bán kém
Nhập ngoại
Cả nước
Snack, kẹo cao su, bánh kem xốp, Cookies
25%
Mẫu mã đẹp, chất lượng cao
Giá cao, hệ thống phân phối kém, nhiều sản phẩm có nguồn gốc không rõ ràng
Các công ty còn lại
Cả nước
Các loại
30%
Giá rẻ, hình thức đa dạng
Mẫu mã chưa đẹp, chất lượng và độ an toàn thực phẩm chưa cao
- Nguồn cung cấp nguyên vật liệu: Các loại nguyên liệu chính dùng trong sản xuất của công ty: Đường, sữa, café, gluco, nước hoa quả, bột ngô, bột gạo… được mua chủ yếu từ các nhà sản xuất trong nước (Công ty sử dụng sữa đặc của công ty sữa Việt Nam Vinamilk). Còn các loại nguyên liệu trong nước không có hoặc có nhưng chất lượng không đáp ứng được yêu cầu của sản phẩm, Công ty phải nhập ngoại như: Bột mì, bơ, ca cao, sữa bột, phẩm màu và các loại hương liệu (sữa bột và váng sữa được nhập từ Hà Lan). Để tăng tính chủ động về nguồn cung cấp nguyên vật liệu, giảm bớt sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng, công ty đã lựa chọn kí kết hợp đồng kinh tế với các nhà cung ứng truyền thống có uy tín ở trong nước và quốc tế với số lượng nhà cung ứng hợp lí sao cho có thể bảo đảm được số lượng, chất lượng nguyên vật liệu khi có sự biến động từ phía nhà cung ứng nào đó, đồng thời Công ty có được những lợi thế khi mua với số lượng lớn.
- Các đối thủ tiềm ẩn: Hiện nay ở nước ta thị trường bánh kẹo tương đối phong phú, có đầy đủ các loại từ bình dân tới trung bình và cao cấp. Công ty bánh kẹo Hải Hà hoạt động mạnh chủ yếu ở thị trường miền Bắc và miền Trung. Ở thị trường miền Nam, do sản phẩm của công ty chưa phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và phải cạnh tranh với nhiều đối thủ lớn ở thị trường đó nên sản phẩm của công ty còn tiêu thụ ở mức độ thấp. Các đối thủ lớn ở trong nước của công ty:
Đối thủ lâu năm: công ty bánh kẹo Hải Châu, công ty bánh kẹo Hữu Nghị, công ty đường Quãng Ngãi, công ty đường Biên Hoà…
Đối thủ tiềm ẩn: công ty bánh kẹo Kinh Đô, công ty liên doanh sản xuất kẹo Perfetti Việt Nam. Ngoài ra sản phẩm của công ty còn phải cạnh tranh với nhiều sản phẩm của nước ngoài như lượng bánh kẹo được nhập khẩu từ Thái Lan và Mĩ.
1.5. Những nét văn hoá công ty:
Văn hoá công ty là một vấn đề quan trọng mà bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tạo ra một môi trường làm việc hăng say hay những mối quan hệ tốt đẹp và chặt chẽ giữa các phòng ban, các nhân viên trong công ty … thì sẽ phải có một sự quan tâm đặc biệt để xây dựng thành công nó.
Trong những năm gần đây, ban lãnh đạo, công đoàn cùng các đoàn thể trong Công ty đã chú trọng rất nhiều đến văn hoá của Công ty. Bằng các hoạt động thể thao giao hữu giữa các phòng ban hay hưởng ứng nhiệt liệt các cuộc thi tìm hiểu về Đảng, về Bác Hồ hay tổ chức thi văn nghệ chào mừng những ngày lễ lớn… Đó chính là một trong những động lực nâng cao tinh thần làm việc của toàn bộ công nhân viên, nâng cao tinh thần hợp tác có hiệu quả giữa các phòng ban. Hằng năm công đoàn Công ty đều tổ chức đi nghỉ mát, đi lễ chùa cho cán bộ công nhân viên.
2. Chiến lược và kế hoạch kinh doanh của công ty bánh kẹo Hải Hà
2.1. Về chiến lược kinh doanh:
2.1.1 Các loại chiến lược công ty đang áp dụng:
Đối với bất kì Công ty nào thì vấn đề hoạch định chiến lược kinh doanh luôn là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh thường được áp dụng trong thời gian dài và thường ít thay đổi. Chính vì thế trước khi đưa ra một chiến lược nào đều phải được cân nhắc một cách cẩn thận.
Đối với công ty bánh kẹo Hải Hà nếu như trước đây chất lượng chưa phải là mối quan tâm hàng đầu thì nay đó lại là mục tiêu công ty cần đạt tới. Hiện nay trên thị trường sản phẩm bánh kẹo, các loại bánh kẹo được bầy bán với đầy đủ các kiểu dáng, chủng loại chất lượng cao, thấp đều có phù hợp với tất cả người tiêu dùng. Công ty bánh kẹo Hải Hà với phương châm giữ vững những thị trường cũ và liên tục mở rộng ra thị trường mới cả trong và ngoài nước nên công ty đang từng bước áp dụng công nghệ hiện đại để sản xuất sản phẩm có chất lượng cao sao cho tất cả các sản phẩm của Công ty đáp ứng được yêu cầu của cả người tiêu dùng cao cấp và bình dân với giá cả phải chăng, hợp lí.
Bảng về mức giá một số sản phẩm chính của Công ty
Tên sản phẩm
Kg/thùng
Giá1 thùng(ngđ)
Giá/gói(ngđ)
Kẹo Jelly pudding
7,80
240.000
20.000
Jelly 550g chip
10,00
300.000
15.000
Kẹo chuối hộp nhựa
3,20
128.000
8.000
Bánh bơ Galitte
3,00
130.000
6.500
Caramen 150g
6,30
226.800
5.400
Bánh bông lúa
5,20
96.000
4.800
Quy xốp
5,44
94.000
4.700
Kẹo waldisney cứng
7,50
125.000
2.500
Sôcôla bạc hà
5,00
110.000
2.200
Hoa quả mềm
8,75
95.000
1.900
Đây là chiến lược rất hữu hiệu đối với bất kì Công ty nào hoạt động trong cơ chế thị trường. Người tiêu dùng ngày càng trở nên “khó tính” đối với sản phẩm mà họ sử dụng. Họ có thể chấp nhận giá cả cao hơn một chút nhưng chất lượng sản phẩm phải được đảm bảo. Khách hàng của Hải Hà bao gồm nhiều đối tượng, Công ty đã biết khai thác các yếu tố nội lực của mình để sản xuất nhiều loại chủng loại sản phẩm đáp ứng được mọi đối tượng khách hàng. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp hiện nay cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm là một cuộc cạnh tranh gay gắt, công ty bánh kẹo Hải Hà đang từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm để tồn tại và ngày càng phát triển hơn.
Bên cạnh đó Công ty còn luôn phát triển sản phẩm mới: đây là một trong những vấn đề được ban lãnh đạo Công ty đặc biệt quan tâm chú ý. Có rất nhiều lí do để ban lãnh đạo công ty phải quan tâm đến vấn đề này. Vì Công ty muốn tồn tại và phát triển được phụ thuộc rất nhiều vào vhiến lược sản phẩm mới. Các sản phẩm mới có thể là mới hoàn toàn hoặc có thể do cải tiến sản phẩm cũ mà thành. Mặt hàng bánh kẹo là mặt hàng rất nhiều chủng loại sản phẩm, sự khác nhau giữa các chủng loại sản phẩm không nhiều lắm, có thể chỉ khác nhau về mùi vị nhưng cũng đáp ứng được vị khách hàng khó tính nhất, Công ty đã biết được điều này nên hàng năm Công ty phải chi ra 10-15 tỉ đồng để phục vụ cho công tác nghiên cứu sản phẩm mới. Mục tiêu của Công ty là làm cho chất lượng sản phẩm tốt hơn, phù hợp với nhu cầu luôn thay đổi và ngày càng cao của người tiêu dùng.
Với một đội ngũ kĩ sư trẻ thuộc phòng kĩ thuật luôn tích cực tìm tòi, sáng tạo, hàng năm đã cải tiến và tạo ra được nhiều loại sản phẩm mới khác nhau cho Công ty, đã đưa vào sản xuất và tung ra thị trường.
Phát triển nguồn nhân lực: Hiện nay trình độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trong Công ty còn chiếm một tỉ lệ tương đối nhỏ. Trình độ tay nghề của công nhân đang còn thấp. Hằng năm Công ty vẫn tiếp tục tuyển thêm lao động có tay nghề, luôn đào tạo cho công nhân mới vào nghề và đào tạo lại cho những công nhân cũ để nâng cao tay nghề nhằm làm cho Công ty có được một đội ngũ công nhân có tay nghề vững vàng, có thể tiếp cận được với những công nghệ mới để làm hàng chất lượng cao. Như chúng ta biết máy móc thiết bị có hiện đại đến bao nhiêu đi chăng nữa mà thiếu bàn tay con người thì chất lượng sản phẩm cũng không được hoàn hảo. Con người nhân tố quan trọng hàng đầu trong mọi ngành sản xuất, đặc biệt trong ngành sản xuất bánh kẹo cần sự tỉ mỉ, khéo léo của người lao động
Cuối năm 2002 Công ty sẽ nhập mới công nghệ sản xuất kẹo mềm có nhân. Đây là thiết bị đầu tiên có tại Việt Nam.
Tổ chức mạng lưới kênh phân phối và các hoạt động hỗ trợ tiêu thụ:
Đến cuối năm 2001, Công ty đã thiết lập dược mạng lưới kênh phân phối khá rộng, với hơn 200 đại lí tại 34 tỉnh thành phố trong cả nước, trong đó :
Các tỉnh phía Bắc: 134 đại lí
Các tỉnh miền Trung: 38 đại lí
Các tỉnh phía Nam: 13 đại lí.
So với miền Bắc và miền Trung, miền Nam - một khu vực thị trường rộng lớn – mà chỉ có 13 đại lí là còn quá ít. Do tình hình tài chính và khoảng cách về địa lí mà Công ty chưa có khả năng mở rộng thị trường ở khu vực phía Nam. Hiện nay Công ty đang áp dụng 3 loại kênh phân phối:
Kênh trực tiếp, thông qua hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm và các hội trợ triển lãm.
Kênh trực tuyến ngắn hạn: Sản phẩm của Công ty tới tay người tiêu dùng thông qua hệ thống bán lẻ ở các siêu thị và các đại lí bán lẻ có doanh số lớn.
Kênh trực tuyến dài: Đây là kênh phân phối chủ yếu của Công ty, gồm hệ thống các đại lí và các cửa hàng bán lẻ rộng khắp cả nước.
Sản phẩm của Công ty
Người tiêu dùng
Siêu thị
đại lí
Đại lí
Bán lẻ
Sơ đồ hệ thống kênh phân phối của Công ty.
Mạng lưới kênh phân phối của Công ty có thể nói là rất ổn định và hoạt động có hiệu quả. Sản phẩm đến tay người tiêu dùng thông qua nhiều hình thức. Qua hình thức đại lí-bán lẻ-người tiêu dùng mà sản phẩm của Công ty có thể đến được với tất cả người tiêu dùng ở cả vùng sâu, vùng xa.
2.1.2. Các căn cứ để xây dựng chiến lược:
- Khách hàng: Công ty thường xuyên có những có những cuộc tiếp xúc với khách hàng nhằm thu thập thông tin và lắng nghe những ý tưởng về sản phẩm mới hay nắm được các nhu cầu về sản phẩm của khách hàng.
Thị hiếu của người tiêu dùng tại 3 vùng thị trường.
Khu vực
Đặc điểm
Miền Bắc
Miền Trung
Miền Nam
Loại bánh kẹo tiêu dùng chủ yếu
Chủ yếu là bánh kẹo Hải Hà, sau đó là Tràng An, Hải Châu, Kinh Đô, Quãng Ngãi.
Chủ yếu là kẹo Huế và một phần của Hải Hà, Qũng Ngãi, Biên Hoà.
Vinabico, Biên Hoà, Kinh Đô, một phần là hàng ngoại.
Đặc điểm tiêu dùng
-Thích mua theo gói.
-Quan tâm nhiều đến mẫu mã.
- Độ ngọt vừa phải, thích vị chua ngọt.
- Thích mua theo cân và xé lẻ theo cái
- Ít quan tâm đến bao bì, mẫu mã.
- Quan tâm đến độ ngọt và hình dáng viên kẹo.
- Mua theo cân
- Ít quan tâm đến bao bì, mẫu mã
- Thích loại bánh kẹo có độ ngọt cao, thích nhiều hương vị hoa quả.
Sau khi nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu và nắm bắt được những sở thích của người tiêu dùng trên các đoạn thị trường khác nhau Công ty có các chiến lược tung sản phẩm, các mặt hàng khác nhau phù hợp với từng đoạn thị trường. Bất kì chiến lược nào khách hàng cũng luôn là mục tiêu hàng đầu. Khách hàng dùng gì? khách hàng ưa thích gì? và nhu cầu tiềm ẩn của khách hàng là gì? Doanh nghiệp phải trả lời được những câu hỏi đó thì mới có khả năng hoạt động một cách hiệu quả.
- Tình hình tài chính của công ty: Việc đầu tư các loại máy móc thiết bị hoặc tổ chức một đợt quảng cáo rầm rộ cùng với khuyến mại sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào tình hình tài chính của Công ty. Năm 2001, tổng vốn ĐTXDCB của Công ty là 6416 (trđ), vốn vay tín dụng nhà nước là 5916 (trđ), vốn tự có của doanh nghiệp là 500 (trđ). Tài chính của Công ty chưa thực sự lớn để có thể đầu tư liên tục…
- Đối thủ cạnh tranh: Trên thị trường hiện nay công ty bánh kẹo Hải Hà gặp rất nhiều các đối thủ lớn như: Hải Châu, Kinh Đô… mỗi một Công ty đều có những chiến lược cụ thể để phát triển doanh nghiệp mình. Vì vậy để đề ra được một chiến lược cơ bản Công ty phải quan tâm tới đối thủ của mình sao cho có lợi nhất. Phải tìm hiểu được điểm mạnh, điểm yếu của từng đối thủ để có thể vượt lên trên họ đấy cũng là điểm quan trọng để phát triển doanh nghiệp.
2.2. Kế hoạch kinh doanh của Công ty:
Các chỉ tiêu chủ yếu năm 2002 của công ty bánh kẹo Hải Hà
(Theo công văn số 4742/ CV-KHĐT ngày 9 tháng11 năm 2001 của Bộ CN)
STT
Các chỉ tiêu chủ yếu
Đơn vị
TH2000
TH2001
KH2002
Tỉ lệ
A
B
C
1
2
3
4=2/1
5=3/2
I
Tổng sản lượng công nghiệp
(giá cố định năm 1994)
Trđ
147.759
155.200
163.000
105%
105%
II
Tổng doanh thu
Trđ
217.894
230.700
242.000
106%
105%
Trong đó doanh thu sxcn
Trđ
164.072
173.200
182.00
106%
105%
III
Sản phẩm chủ yếu
Tấn
11.730
11.837
12.400
101%
105%
Kẹo bánh các loại
Tấn
11.730
11.837
12.400
101%
105%
IV
Giá trị xuất khẩu
1000USD
103
141
197
137%
140%
V
Sản lượng kẹo xuất khẩu
Tấn
112
153
148
137%
97%
VI
Giá trị nhập khẩu
1000USD
1.337
1.363
2.441
102%
179%
Trong đó vật tư cho SX
1.169
1.100
1.100
94%
100%
VII
Tổng vốn ĐTXDCB
Trđ
6.704
6.416
32.869
96%
512%
Trong đó xây lắp
Trđ
1.419
1.800
5.500
127%
306%
Thiết bị
Trđ
5.285
4.616
27.369
87%
593%
Vốn vay tín dụng nhà nước
Trđ
6.704
5.916
29.582
88%
500%
Vốn tự có của doanh nghiệp
Trđ
500
3.287
Nhìn vào bảng kế hoạch năm 2002 của công ty bánh kẹo Hải Hà ta thấy:
Về tổng sản lượng công nghiệp ta có biểu đồ sau:
Về tỉ lệ tăng sản lượng công nghiệp năm 2002 so với năm 2001 và năm 2001 so với năm 2000 là như nhau (105%). Hằng năm tổng sản lượng công nghiệp vẫn tăng nhưng tăng với một tỉ lệ không đổi.
Về tổng doanh thu: năm 2002 vẫn tăng(105%) nhưng tốc độ tăng thì giảm đi so với tốc độ tăng của năm 2001(106%).
Mặt hàng sản xuất chủ yếu của Công ty vẫn là bánh kẹo.
Kế hoạch năm 2002 về xuất khẩu:
Về giá trị:
Về sản lượng:
Giá trị năm 2002 so với năm 2001 là 140% tăng 40% nhưng sản lượng năm 2002 so với 2001 là 97% giảm 3% nghĩa là Công ty sẽ giảm sản lượng xuất khẩu nhưng những mặt hàng xuất khẩu sẽ có chất lượng cao hơn đồng nghĩa với việc tăng giá bán làm cho doanh thu xuất khẩu tăng lên.
Về tổng vốn ĐTXDCB:
Năm 2002 so với năm 2001 là 512% tăng 412%, có sự tăng đột ngột này là do Công ty dự định cuối năm 2002 Công ty sẽ đầu tư mới một thiết bị dùng cho sản xuất kẹo mềm có nhân đây là thiết bị đầu tiên có tại Việt Nam, việc làm này nâng cao hẳn một bước cho dây chuyền máy móc thiết bị của Công ty. Để đầu tư cho thiết bị này Công ty phải vay tín dụng nhà nước là chính, tỉ lệ vay tín dụng nhà nước năm 2002 so với năm 2001 là 500% tăng 400%. Điều này cho thấy Công ty ngày càng tích cực đầu tư phục vụ sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và liên tục đổi mới các loại sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
Kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ phù hợp trong từng thời kì Công ty thường lấy là theo năm. Để có thể lập kế hoạch sản xuất một cách chính xác thì phải dựa vào:
Nhu cầu thị trường đối với sản phẩm bánh kẹo nói chung và của Công ty nói riêng. Công ty thường xuyên cử các nhân viên Marketing đi thăm dò, khảo sát từng khu vực và nhận những thông tin phản hồi từ phía khách hàng.
Căn cứ vào tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất và sản phẩm cùng kì năm ngoái. Phòng kinh doanh có trách nhiệm theo dõi thống kê tình hình cung ứng, sản xuất và tiêu thụ từng loại sản phẩm.
Căn cứ vào nguồn lực có thể khai thác được của Công ty như: Vốn, nhân lực, MMTB…
Căn cứ vào hệ thống định mức kinh tế kĩ thuật của Công ty. Hệ thống này được xây dựng, kiểm tra ở phòng thí nghiệm và thực tế sản xuất của các phân xưởng, đồng thời có sự tham khảo so sánh với hệ thống tiêu chuẩn của ngành.
Căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã được kí kết.
Từ các căn cứ trên ban kế hoạch lập bản kế hoạch rồi trình lênTổng giám đốc xem xét, sửa đổi và phê duỵêt. Ban kế hoạch kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện kế hoạch và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc. Tất cả các căn cứ để lập kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty đều là những con số gần như cụ thể, Công ty phải chắc chắn rằng sản phẩm làm ra tiêu thụ được hết và có lãi. Không thể đưa ra 1 kế hoạch mà tình hình thị trường còn đang mơ hồ như vậy thua lỗ là điều không tránh khỏi.
3. Công tác tổ chức và quản lí chung:
Sơ đồ cấu trúc quản lí của Công ty
GĐ
XN
kẹo
TỔNG GIÁM ĐỐC
PTGĐ KỸ THUẬT
PTGĐ KINH DOANH
PTGĐ TÀI CHÍNH
P. kế toán
P. tài vụ
P. kinh doanh
P. kĩ thuật
P. KCS
Kho tàng
Bộ phận bốc vác
Bộ phận vận tải.
Nhóm điều hành sản xuất
Nhóm XDCB
Nhóm cung ứng vật tư
Nhóm marketing
Hệ thống cửa hàng
Văn phòng
Tổ chức
Hành chính
Bảo vệ
Nhà ăn
Y tế
GĐ
XN
bánh
GĐ XN
phụ trợ
GĐNM thực phẩm ViêtTrì
GĐNM BDD Nam Định
Cùng với sự chuyển đổi nhà máy sang hình thức Công ty, Công ty đã mạnh dạn đổi mới mô hình cơ cấu tổ chức quản lí theo hướng tinh giảm, gọn nhẹ và đạt hiệu quả cao. Công ty áp dụng mô hình tổ chức đa bộ phận với cơ cấu tổ chức trực tuyến - chức năng nghĩa là: Các công việc hằng ngày của các phân xưởng thuộc trách nhiệm của các cán bộ quản lí phân xưởng nhưng các kế hoạch và chính sách dài dạn phải nghiêm chỉnh tuân theo kế hoạch và hướng dẫn thực hiện của Tổng giám đốc công ty để phối hợp giữa các phân xưởng thực hiện mục tiêu chung của Công ty; Tổng giám đốc quản trị Công ty theo chế độ một thủ trưởng. Các phòng chức năng có trách nhiệm tham mưu cho toàn bộ hệ thống trực tuyến đề xuất, đưa ra những quyết định khi được Tổng giám đốc thông qua sẽ trở thành mệnh lệnh truyền đạt từ trên xuống dưới theo tuyến đã qui định.
Mô hình cơ cấu tổ chức trên đã tạo điều kiện cho Công ty thực hiện tốt các dự án liên doanh với nước ngoài. Tập trung quản lí về Công ty đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm, chủ động, sáng tạo ở các phân xưởng thành viên, tăng cường sự kiểm tra tài chính, xây dựng và thực hiện các kế hoạch, chính sách sản xuất kinh doanh thống nhất toàn Công ty. Với mô hình sản xuất này sẽ cho phép Công ty xây dựng, thực hiện tốt chiến lược sản phẩm và các chiến lược kinh doanh khác.
- Đứng đầu Công ty là Tổng Giám Đốc do cấp trên bổ nhiệm sau khi đã tham khảo ý kiến của Đảng bộ và phiếu tín nhiệm của cán bộ công nhân viên toàn C._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25162.doc