Báo cáo Thực tập tại Công ty Bánh kẹo Hải Hà

Chương I: sự hình thành và phát triển - thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty bánh kẹo Hải Hà. I. Khái quát về sự hình thành và phát triển của công ty: 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty: Công ty bánh kẹo Hải Hà gọi tắt là Haihaco, địa chỉ: số 26 đường Trương Định - Hà nội. Là công ty chuyên sản xuất và kinh doanh các loại nhu cầuàg bánh kẹo phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của mọi tần lớp nhân dân. Hiện nay Hải Hà là một những công ty đang có uy tín trên thị trường.

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Thực tập tại Công ty Bánh kẹo Hải Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để có được thành công này công ty phải trải qua những khó khăn và thử thách theo các giai đoạn sau: *Giai đoạn 1959-1961: Tháng 1-1959 Tổng công ty Nông thuỷ sản miền Bắc đã cho xây dựngmột cơ sở thực nghiệm nghiên cứuhạt chân châu. Từ giữa năm 19559 đến tháng 4-1960 thử nghiệm sản xuất mặt hàng miến gồm nguyên liệu đậu xanh. Trên cơ sở đó ngày 25-2-1960 xưởng miến Hoàng Mai ra đời đánh dấu một bước ngoặt đầu tiên cho sự phát triển của nhà máy sau này. *Giai đoạn 1962-1967: Thời kỳ này xí nghiệp đã thử nghiệm thành công và đưa vào sản xuất các mặ hàng như: xì dầu, và tinh bột ngô, cung cấp cho nhà máy bin Văn Điển. Năm 1966 xí nghiệp đổi thành nhà máy thực nghiệm thực phẩm Hải Hà. * Giai đoạn1968 -1986: Năm 1968 Nhà máy trực thuộc Bộlương thực quản lý. Đến tháng 6/1970 nhà máy tiếp nhận phân xưởng bánh kẹo Hải Châu và Nhà máy mang tên là Nhà máy thực phẩm Hải Hà. * Giai đoạn 1986 đến nay: Do chuyển đổi cơ chế thị trường nhà máy đã chuyển mình một cách mạnh mẽ. Tập trung vào tổ chức lãi, mở rộng mặt bằng, đầu tư thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất… * Năm 19988 đổi tên là Nhà máy kẹo xuất khẩu.ải Hà. Tháng 1/1992 Nhà máy chuyển về trực thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ quản lý. Ngày 15/4/1994 nhà máy đổi tên thành công ty bánh kẹo Hải Hà. Đây là một doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư vốn với tư cách là chủ sở hữu. Công ty hoạt động theo nguyên tắc hạch toán độc lập có tư cách pháp nhân. Các xí nghiệp trực thuộc công ty gồm có: xí nghiệp bẹo, xí nghiệp bánh, xí nghiệp phụ trợ, xí nghiệp thực phẩm Việt trì, nhà máy bột didnh dưỡng Nam định.Ngoài ra công ty còn liên doanh với công ty Kotobuki của Nhật bản. 2. Chức năng và nhiệum vụ của công ty: Nhiệm vụ của công ty bánh kẹo Hải Hà được quy định như sau: - Sản xuất kinh doanh các loại bánh kẹo đã cung cấp cho thị trường. - Xuất khẩu các sản phẩm của công ty và các sản phẩm của liên doanh, nhập khẩu thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất của công ty và thị trường. - Kinh doanh các mặt hàng khác đểt không ngừng nâng cao đời sống vật chất của người lao động và thúc đẩy sự phát triển ngày một lớn mạnh của công ty. Ngoài ra công ty còn các nhiệm vụ sau: + Bảo toàn và phát triển vốn được giao. + Thực hiện các nhiệm vụ các nghĩa vụ đối với nhà nước. + Thực hiện phân phối theo lao động: Chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công nghệV, nâng cao trình độ chuyên môn. 3. Bộ máy quản lý và mối liên hệ trong công ty. Qua sơ đồ ta thấy bộ máy của công ty được tổ chức theo kiểu chức năng, đứng đầu là Tổng giám đốc. Tổng giám đốc có nhiệm vụ điều hành chung hoạt động của toàn công ty. Bên cạnh đó còn có các phó giám đốc chuyên trách từng bộ phận.Cơ cấu bộ máy được chuyên môn hoá tới từng phòng ban như sau: - Phòng kỹ thuật có chức năng: theo dõi việc thực hiện các quá trình công nghệ đảm bảo chất lượng sản phẩm, nghiên cứu chế thử sản phẩm mới. - Phòng tài vụ có chức năng: huy động vốn phục vụ sản xuất, tính giá thành lỗ lãi. - Phòng kinh doanh có chức năng: lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, điều độ sản xuất và thực hiện kế hoạch, cung ứng vật tư sản xuất cânđối kế hoạch, thu mua, ký kết hợp đồng thu mua vật tư, thiết bị, ký hợp đồng tổ chức hoạt động Maketing từ quá trình sản xuất đến quá trình tiêu thụ, thăm dò thị trường, quảng cáo… lập dự án phát triển cho những năm tiếp theo. - Văn phòng: lập định mức thời gian cho các loại sản phẩm, tính lương, thưởng, tuyển dụng lao động; phụ trách bảo hiểm, an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp và phục vụ tiếp khách. - Bảo vệ, nhà ăn có chức năng: kiểm tra bảo vệ cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty; nhà ăn có nhiệm vụ nấu ăng trưa cho toàn Công ty. Ngoài ra công ty còn có hệ thống các cửa hàng có chức năng giới thiệu và bán sản phẩm của công ty. Hệ thống các nhà kho có chức nămg dự trữ bảo quản nguyên vật liệu, trang thiết bị phục vụ cho sản xuất và dự trữ bảo quản sản phẩm làm ra. II. Thực trạng kinh doanh của công ty bánh kẹo Hải Hà từ năm 1999 - 2001: 1.Thực trạng kinh doanh: 1.1.đặc điểm về mặt hàng kinh doanh của công ty: Hải Hà là một doanh nghiệp đầu ngành trong lĩnh vực bánh kẹo ở nước ta. Tính đến nay công ty đã cho ra đời gồm 33 chủng loại bánh và 64 chủng loại kẹo các loại. Bánh kẹo là các sản phẩm được chế biến từ nhiều nguyên liệu là sản phẩm của các ngành thực phẩm khác như: đường, bơ, sữa, trứng, pho mát và nhiều hương liệu phụ gia khác. Bánh kẹo chủ yếu được tiêu thụ trong những dịp lễ tết. Do vậy quá trình sản xuất mang tính chất thời vụ. Bánh kẹo được chế biến từ Nhà nướcguyên liệu là thực phẩm, dễ bị vi sinh vật phá huỷ nên thời gian bảo quản là ngắn, thông thường là 90 ngày nên yêu cầu về số lượng sản phẩm sản xuất ra phải phù hợp với khả năng tiêu thụ vì vậy mà công tác nghiên cứu thị trường phải đượctiến hành một cách khoa học. Mặt khác sản phẩm bánh kẹo là sản phẩm có thời gian hoàn thành ngắn chỉ 3 - 4 giờ nên không có sản phẩm đầu ra. Ngày nay bánh kẹo không những là một thực phẩm dinh dưỡng thông thường nó còn mang biểu tượng của lịch sự và sang trọng.. 1.2. Đặc điểm về thị trường của công ty: Công ty bánh kẹo Hải Hà ngoài việc tiêu thụ sản phẩm trong nước còn xuất khẩu một phần ra nước ngoài. * Thị trường trong nước: - Thị trường miền bắc: đây là một thị trường tiêu thụ chủ yếu của công ty. Gần đây có nhiều công ty bánh kẹo như Hải châu, Hữu nghị, Tràng an, mặc dù vậy trên thị trường này Hải Hà vẫn giữ vị trí số một. - Thị trường miền trung: đây là thị trường mà mức thu nhập của dân cư còn thấp, sản phẩm tiêu thụ được là những sản phẩm giá rẻ, mẫu mã không cần đẹp lắm. Trên thị trường này Hải Hà có những đối tượng cạnh tranh như công ty bánh kẹo huế. Đà nẵng, ngoài ra còn có Biên hoà, Quảng ngãi làm cho sự cạnh tranh thêm gay hắt. - Thị trường miền nam: đây là thị trường đông dân cư những sản phẩm tiêu thụ lại rất ít. Nguyên nhân là do sự cạnh tranh gay gắt do sự sa cách về mặt địa lý: đặc biệt tại đây có những đối thủ nước ngoài tràn vào qua nhập khẩu bằng con đường tiểu ngạch nên rất khó cạnh tranh. * Thị trường nước ngoài: Hiện nay nước ta đang trên ccon đường hội nhập và giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để tăng cường cà phát triển kinh tế tiến kịp các nước đó chúng ta phải có những bước nhẩy lớn về sự phát triển công nghiệp. Công ty bánh kẹo Hải Hà tuy mới chỉ xuất khẩu được một phầ rất nhỏ nhưngcũng là dấu hiệu đáng mừng của ngành bánh kẹo Việt Nam. Hiện nay công ty đã xuất khẩu được sang một số nước như: Trung quốc, Mông cổ, Thái lan, Lào, Campuchia. 1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty: Mặc dù gặp bao nhiêu khó khăn thử thách bởi những cơn lốc cạnh tranh, Hải Hà vẫn liên tục trưởng thành.Trong nền kinh tế thị trường Hải Hà đã phát huy mọi khả nẵng kinh doanh của mình để đứng vững trên thị trường và nâng cao uy tín của công ty. Công ty đã gắn công ty tiêu thụ với thị trường. Hienẹnya sản phẩm của công ty đã có mặt khắp nơi trong và ngoài nước. Dưới đây là kết quả sản xuất kinh doanh của công ty từ năm 1999 - 2001. Bảng 1: Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty stt Chỉ tiêu đơn vị Thực hiện So sánh 1999 2000 2001 00/99 01/00 1 2 3 4 5 6 Giá trị tổng sản lượng Doanh thu Nộp ngân sách Lợi nhuận Lao động Thu nhập bình quân Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ Người 132.357 153.384 10.030 421 1.980 650 130.167 168.821 12.129 408 1.783 670 131.180 170.154 12.763 427 1.650 700 93,35 110,06 120,93 96,91 90,05 130,08 100,78 100,97 105,23 105,39 92,54 104,4 (Số liệu: phòng kinh doanh tháng 4 - 2002) Qua các số liệu trên cho thấy: giá trị tổng sản lượng năm 2000 giảm so với năm 99 là 1, 65%, nhưng năm 2001 lại tăng 0, 78%. Mặc dù vậy những doanh thu và nộp ngân sách tăng. Điều đó chứng tỏ công ty không ngừng sử dụng biện pháp tiêu thụ kịp thời và hợp lý trong quản lý và thúc đẩy sự phát triển không ngừng của công ty. Doanh thu tăng nhưng lợi nhuận giảm cụ thể năm 2000 giảm so với năm 2001 là 4, 09% điều này là do năm 1999, 2000 công ty tách 1 dây chuyền ra để thành lập liên doanh, lại đầu tư thêm dây chuyền sản xuất kẹo Jelly và Caramel. Không những thế vốn đầu tư mua sắm dây chuyền sản xuất lại là vốn đi vay ngân hàngvới lãi suất cao. Do đó làm tổng chi phí sản xuất kinh doanh tăng đáng kể. Đồng thời năm 1999, 2000 là thời gian đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nên tỷ giá hối đoái tăng mạnh mà nguyên vật liệu và dây chuyền lại nhập khẩu. Tuy nhiên công ty không thể tăng giá bán sản phẩm vì còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Do đó lợi nhuận công ty bị giảm là điều tất nhiên xảy ra. Tuy nhiên sang năm 2001 thì lợi nhuận đã tăng rõ rệt. Mặt khác năm 2000 do việc phải nâng cao chất lượng sản phẩm cạnh tranh với các đối thủ, công ty áp dụng chế độ khuyến mại sản phẩm hạch hỗ trợ vận chuyển 100% đến tay các đại lý, trợ giá mua hàngkhi trả tiền ngay và hỗ trợ vận chuyển cho các đại lý. Tổng chi phí cho các chế độ này chiếm khoảng 2, 6% doanh thu bán hàng và giảm giá bình quân 2, 6%. Số lượng lao động qua các năm giảm dần do công ty áp dụng tién bộ khoa học kỹ thuật. Tiền lương bình quân của công nhân tăng, chứng tỏ công ty rất quan tâm đến việc cải thiện đời sống vật chất cho người lao động mặc dù công ty gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh. 1.4.1. Tình hình chung tiêu thụ sản phẩm của công ty. Cơ chế thị trường là điều kiện thuận lợi cho công ty vươn lên không ngừng tự khẳng định mình. Sản xuất liên tục phát triển thì thị trường ngày càng được mở rộng, khối lượng sản phẩm tiêu thụ ngày càng tăng và có mặt từ thành phố nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, từ Bắc vào Nam. Bảng 2: Kết quả tiêu thụ sản phẩm trong năm 1999 -2001. Tháng 1999 2000 2001 Sản xuất Tiêu thụ % Sản xuất Tiêu thụ % Sản xuất Tiêu thụ % 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1.147,5 788,7 1033,5 631,1 779 661,1 683,1 932,4 909,3 1076 789,3 1263,1 1136,025 772,93 1023,46 605,85 732,26 634,66 642,11 848,5 882,02 1022,2 766,1 1250,45 99 98 99 96 94 96 94 91 97 95 97 99 1060,3 680,63 997,6 896,9 766 645,2 494,3 1034,1 933,8 1036,4 844,87 1091,3 996,7 667,1 947,75 843,1 689 593,52 464,67 941 896,46 985 827,4 1081 94 98 95 94 90 92 94 91 96 95 98 99 1198,7 790,9 1103,5 907,1 772,3 670,2 650,8 1090,2 950,9 1078,4 850,1 1376,2 1132,5 783,2 1098,6 899,2 718,8 661,1 631,2 1015,1 930,8 1019,3 779,3 11300,1 94 99 99 99 93 98 97 93 98 95 91 94 Tổng 10694 1016,36 96,25 10481 9932,7 94,8 11439,3 10963,1 95,8 Qua bảng số liệu trên ta thấy tìnhhình tiêu thụ sản phẩm của công ty khá tốt, sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ được gần hết. Nhờ có gắn bó tốt công tác nghiên cứu thị trường sản xuất có kế hoạch và tổ chức hệ thống tiêu thụ sâu rộng sản phẩm không bị ứ đọng và hư hỏng. Chúng ta biết rằng quá I và IV tiêu thụ nhiều nhất, sản phẩm sản xuất ra baonhiêu hầu như được tiêu thụ hết bởi vì đó là vào thời kỳ mùa cưới, tết và các lễ hội khác do đó nhu cầu tăng lên so với các quý khác. riêng năm 2001 do tháng 11 xảy ra lũ lụt ở mièn Trung đã làm cho lượng tiêu thụ khoảng 12-15% tổng lượng tiêu thụ. Tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty năm 2000 đạt 94,8% giảm 1, 45% so với năm 1999. Lý do của việc giảm đó là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á làm cho mức tiêu dùng của người dân giảm xuống. Đến năm 2001 tiêu thụ đã tăng lên không nhiều (1%), có thể sẽ tăng cao hơn nếu không có tình trạng lũ lụt xảy ra ở miền Trung vào cuối năm 2001. Mặt khác có một số công ty khác ra đời sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng chiếm được thị phần lớn trên thị trường. Do vậy công ty cần đẩy mạnh công tác Marketing, nâng cao chất lượng sản phẩm, mẫu mã để đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường ngoài ra phải nghiên cứu đưa ra những sản phẩm mới phù hợp với người tiêu dùng để việc tiêu thụ sản phẩm của công ty không ngừng tăng lên. 1.4.2. Tình hình xuất khẩu của công ty: Ngành bánh kẹo của nước ta so với các nước trên thế giới còn non trẻ do vậy sản phẩm xuất khẩu không nhiều. Tuy vậy, trong những năm qua công ty đã xuất khẩu được sang một số nước như: MôngCổ,Thái Lan,Lào, Campuchia. Bảng 3 : Tình hình xuất khẩu của công ty. Nước Đơn vị 1999 2000 So sánh 2000/1999 Mức tiêu thụ Tỷ lệ (%) Trung Quốc Thái Lan Mông cổ Lào Cămpuchia Tấn Tấn Tấn Tấn Tấn 950 300 500 250 1250 400 700 400 250 300 100 200 150 250 131,6 133,3 140 160 Tổng 2000 3000 1000 565 Như vậy, mặc dù lượng bánh kẹo xuất khẩu của công ty ra nước ngoài không cao lắm nhưng sản lượng 2001 cao hơn 2000 là 56, 5% tức là 1000 tấn. Thị trường xuất khẩu chính vẫn là Trung Quốcvà Mông cổ, thị trường tiềm năng với dân số đông, mức tiêu thụ lớn đang mở ra nhiều triển vọng cho công tác xuất khẩu của công ty. Thái Lan xuất khẩu ra các loại bánh kẹo có chất lượng cao, mẫu mã đẹp. Hiện nay trên thị trường nước ta tràn ngập các loại bánh kẹo Thái Lan, thế nhưng bánh kẹo của Hải Hà vẫn được người dân Thái Lan tiêu dùng. Điều đó chứng tỏ chất lượng của Hải Hà đã được nâng cao không kém gì chất lượng hàng ngoại. Đây là một điều rất đáng mừng và là triển vọng tốt cho công ty bánh kẹo Hải Hà. * ảnh hưởng của thuế GTGT đối với công ty bánh kẹo Hải Hà: Theo như quy định của Luật thuế GTGT là tất cả các loại hàng hoá, nguyên vật liệu tồn kho đến trước ngày 1-1-1999 đều không được khấu trừ vào thuế. Là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tực tiếp tiêu thụ sản phẩm trên thị trường do đó hàng hoá tồn kho tính đến 1-1-1999 là điều không thể tránh khỏi. Đối với lượng hàng hoá tồn kho này khin bán ra thị trường sẽ phải chịu theo luật thuế GTGT (10% giá bán) song lại không được khấu trừ thuế ở nguyên vật liệu đầu vào. Do đó công ty phải chịu thiệt thòi với lượng hàng hoá này. Tuy nhiên do nghiên cứu khá kỹ biểu thuế GTGT và thấy để giảm những bất lợi cho hàng hoá tồn kho của mình. Công ty bánh kẹo Hải Hà đã chủ động đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm từ trong năm, thực hiện việc điều tiết giữa tình hình sản xuất và tiêu thụ cho nên đến khi triển khai áp dụng luật thuế GTGT lượng hàng tồn kho của công ty đã giảm nhiều so với trước, vì vậy tuy có hcịu thiệt thòi một phần hàng hoá tồn kho này xong có thể nói rằng đây chinhs là nỗ lực lớn của công ty trong việc khắc phục vấn đề nay. 1.5. Bánh kẹo ngoại nhập trên thị trường Việt Nam: Chính sách mở cửa nền kinh tế của nước ta đã tạo điều kiện thuận lợi cho bánh kẹo ngoại xâm nhập vào nước ta, chất lượng cao, mẫu mã đẹp, rất phù hợp cho những nhóm người tiêu dùng có mức thu nhập cao họ mua bán ít quan tâm đến giá cả. Vì vậy ở những thành phố lớn như Hà nội thì lượng bánh kẹo ngoại tiêu thụ không phải là ít, nhất là bánh kẹo của Đức và Thái Lan có chất lượng cao. Mặc dù chất lượng bánh kẹo của ta thua kém không nhiều so với bánh kẹo của những nước này. Hơn nữa người Việt Nam có tiền thích "chơi sang", "sànhđiệu" dùng toàn hàng "xịn". Thị trường Hà Nội người dân có mức thu nhập cao hơn nhiều so với các tỉnh lẻ. Những năm gần đây đời sống của nhân dân ta được cải thiện và nâng cao song nhìn chung phần lớn vẫn đứng ơ rmức sống thấp hơn so với thế giới. Nên vấn đề giá cả vẫn được người tiêu dùng quan tâm nhiều, nhất là thị trường nông thôn. Nắm bắt được thị trường này, bánh kẹo Trung Quốc tràn sang nước ta và chiếm tỷ trọng lớn, giá rẻ, chất lượng phải chăng, bao bì đẹp hơn của nước ta nên tiêu thụ mạnh vào thời gian đầu. Gần đây bánh kẹo Trung Quốcxuống cấp một cách trầm trọng, dễ ẩm mốc nên uy tín của bánh kẹo Trung Quốcbị giảm. ở trung tâm Hà Nội thì bánh kẹo Trung Quốc xuất hiện, nhưng ở các vùng nông thôn và biên giới chiếm tỷ trọng khá lơn. Biểu 4: Tỷ trọng của bánh kẹo Trung Quốc trên thị trường nước ta, Thị trường cũ Thị trường hiện tại Khu vực tiêu thụ Tỷ trọng (%) Khu vực tiêu thụ Tỷ trọng (%) Hà nội Nông thôn Vùng giáp biên giới Trung Quốc 25 40 60 Hà nội Nông thôn Vùng giáp biên giới Trung Quốc 7 37 55 2.Thực trạng công tác nghiên cứu thị trường sản phẩm của công ty. Hiện nay thị trường bánh kẹo ngày càng đựoc mở rộng bởi các nhà cung cấp trong và ngoài nứoc. Vì vậy, bản thân các công ty không những phải cạnh tranh với các công ty trong nước mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Các tập đoàn sản xuất bánh kẹo ở nước ngoài đang xâm nhập vào Việt Nam qua con đường liên doanh nên kinh doanh càng trở nên gay gắt hơn. Để đạt được kết quả tốt trong kinh doanh đòi hỏi công ty bánh kẹo Hải Hà phải tiến hành công tác nghiên cứu thị trường. Trong những năm gần đây công tác nghiên cứu thị trường của Hải Hà đã được triển khai mạnh mẽ theo các tiêu thức khác nhau thông qua các đại lý lớn, phỏng vấn trực tiếp người tiêu dùng, qua các số liệu thống kê. 2.1. Nghiên cứu quy mô của thị trường: Công ty bánh kẹo Hải Hà đã tiến hành nghiên cứu quy mô của thị trường qua doanh số bán của ngành và nhóm hàng, số lượng người mua và người bán trên thị trường, mức độ thoả mãn nhu cầu thị trường về bánh kẹo so với tổng dung lượng thị trường. Nguồn cung ứng bánh kẹo trên thị trường Việt Nam rất dồi dào bao gồm các nhà cung cấp trong nước và nước ngoài. Bảng 5: Nguồn cung cấp bánh kẹo. Nguồn cung 1999 2000 2001 SL Tỷ trọng(%) SL Tỷ trọng(%) SL Tỷ trọng(%) Trong nước 120000 88.8 135520 91.87 150250 91.47 Nhập khẩu 15000 11.11 12000 8.13 14000 8.53 Tổng cung 135000 100 147520 100 164250 100 Bảng 6 : Tổng cầu bánh kẹo trên thị trường. Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001 Tổng dân số Sản lượng bánh kẹo tiêu thụ Bình quân tính theo đầu người Triệu người Tấn Kg 79 128.000 1,62 80 139.000 1,73 81 150.000 1,85 Qua số liệu bảng trên ta thấy thị trường bánh kẹo ngày càng có xu hướng tăng về sản lượng cung ứng và tiêu dùng.Đây là cơ hội thuận lợi cho công ty bánh kẹo Hải Hà và cũng là thách thức lớn đối với công ty. Dựa trên số liệu thu được công ty phân tích và dự báo mức tiêu thụ bình quân đầu người trong năm tới, từ đó điều chỉnh lượng cung ứng thị trường cho phù hợp; có kế hoạch đầu tư về vốn, khoa học, công nghệ … cho hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu cho cả nước. Mặt khác, công ty còn nghiên cứu lượng cung và cầu để điều chỉnh giá bán cho phù hợp. Hiện nay giá cả bánh kẹo của các doanh nghiệp thường xấp xỉ nhau, sản phẩm chỉ khác nhau ở vài chi tiết chất lượng, mẫu mã. Vì vậy mà công tác tiếp thị, quảng cáo…có vai trò rất quan trọng. Chúng ta thấy rằng ngành bánh kẹo đang ở trong một thị trường cạnh tranh hết sức gay gắt. chính sự cạnh tranh này càng thúc đẩy Hải hà phải có hướng đi năng động mạnh mẽ và đa dạng các sản phẩm của mình. Đầu tư phát triển các sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, bao bì, mẫu mã nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Hải Hà đã có văn phòng đại diện ở thành phố Hồ Chính Minh và hàng trăm đại lý trên cả nứoc. Chính vì vậy, giờ đây bánh kẹo có mặt hầu như từ các đường phố, siêu thị, ngõ hẻm, vùng sâu, vùng xa, điều này cho biết nhu cầu tiêu thụ bánh kẹo ngày càng tăng. Với tốc độ phát triển dân số của nước ta đó cũng là một thị trường lớn, ngoài ra chúng ta cũng phải xâm nhập thị trường nước ngoài nhiều hơn nữa. 2.2. Nghiên cứu cơ cấu thị trường: Nghiên cứu cơ cấu thị trường cho phép doanh nghiệp hiểu được các bộ phận cấu thành chủ yếu của thị trường. Mỗi vùng khác nhau có điều kiện kinh tế xã hội, phong tục tập quán, lôi sống, thị hiếu, thu nhập, thói quen khác nhau. Vì thế mà quy mô thị trường, cơ cấu hàng hoá để thảo mãn nhu cầu cũng khác nhau. Thị trường tiêu thụ của công ty bánh kẹo Hải Hà đã được chia thành 3 vùng Bắc, Trung và Nam. Nghiên cứu thị trường giúp cho công ty không những bố trí lượng hàng hoá phù hợp với nhu cầu của dân cư trong vùng mà còn có các biện pháp kênh phân phối xúc tiến bán hàng cho phù hợp. * Thị trường miền Bắc: Thị trường chính của công thay thế, trung tâm là thủ đô Hà Nội, các tỉnh lân cận và khu 4 cũ được tiêu thụ trên thị trường này. Tâm lý của ngưới miền Bắc khi mua bánh kẹo thường quan tâm đến khối lượng của gói. Các thu nhập của người dân miền Bắc thấp hơn miền Nam nên tiêu thụ bánh kẹo mới chỉ tập trung ở thành phố và thị xã. Nhu cầu về bánh kẹo không phải là nhu cầu thiết yếu. Ăn bánh kẹo trở thành nhu cầu khi đời sống người tiêu dùng cao hơn bánh kẹo còn được dùng làm quà biếu vì thế khách hàng quan tâm đến kiểu cách và hình thức các loại mặt hàng. Các loại bánh kẹo được sản xuất ra để đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lợp xã hội nhưng chủ yếu phục vụ cho nhu cầu trẻ em. Bánh kẹo thường có mặt ở các buổi lễ, tiệc, sinh nhật và các buổi trò chuyện. Vì vậy bánh kẹo vừa phải có hình thức đẹp nhỏ nhắn lịch sự. Người miền Bắc thích những loại bánh kẹo sang trọng như bánh kẹo miền Nam và ngoại nhập. Mặc dù chất lượng của Hải Hà không thua kém chất lượng bánh kẹo của các đối thủ cạnh tranh nhưng khả năng đáp ứng nhu cầu của người dân miền Bắc còn hạn chế bao gói và hình dáng của sản phẩm ví dụ như kẹo cốm của Hải Hà thường bị méo hay bao bì của một số loại bánh không đẹp lắm. * Đặc điểm thị trường miền Trung: Đây là thị trường mà dân cư có mức thu nhập thấp hơn hẳn 2 vùng kia, mặt khác nhu cầu tiêu dùng bánh kẹo ít họ dùng chủ yếu những loại bánh kẹo có giá thành rẻ, họ hầu như không quan tâm đến hình thức mẫu mã mà chỉ quan tâm đến độ ngọt. ở thị trường này sản phẩm chủ yếu là kẹo sữa mềm, kẹo hoa quả, kẹo cốm… Nhìn chung đây là thị trường dễ tính mà Hải Hà hoàn toàn có thể xâm nhập. Đây là thị trường tiềm tàng mà chưa khai thác được nhiều. * Đặc điểm thị trường miền Nam ở thị trường này bánh kẹo được bán tẩp trung ở các khu vực thị trường bánh kẹo. Người dân ở đây có thu nhập cao do vậy kẹo là nhu cầu gần như thường xuyên của người dân đặc biệt là trẻ em. ở đây khách hàng thường quan tâm đế số lượng kẹo trong mội gói, ít quan tâm đến khối lượng và bao bì hơn người miền Bắc và ít dùng bánh kẹo làm quà biếu. Người dân miền Nam có tập quán là ưa ngọt thích những loại bánh kẹo mang hương vị của những loại hàng hoá khác nhau. Bánh kẹo của Hải Hà có ưu thế về độ ngọt tuy nhiên về hương vị, kiểu cách và khối lượng của gói chưa phongphú, chưa đáp ứng được thị hiếu người dân ở đây. Vì vậy miền nam chỉ tiêu thụ được phần nhỏ ( 3, 7 - 6%) bánh kẹo của Hải Hà và không được ổn định. Đây là thị trường mà Hải Hà mới xâm nhập. 2.3. Nghiên cứu các nhân tố môi trường. a. Môi trường kinh tế : Cơ chế thị trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho công ty tham gia cạnh tranh, tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tự chủ trong liên doanh liên kết để mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong những năm gần dây, nền kinh tế nước ta tăng trưởng với tốc độ cao. Làm cho thu nhập trong các tầng lớp dân cư tăng rõ rệt làm cho khả năng thanh toán của tăng sức mua lớn hơn. Đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp , trong đó có Hải Hà nắm bắt được nhu cầu của thị trường công ty đã ngày càng mở rộng quy mô sản xuất mở rộng danh mục sản phẩm. Cụ thể nếu như năm 2001 công ty chỉ có 20 chủng loại bánh và 40 chủng loại kẹo thì sang năm 2002 công ty đã có tới 33 chủng loại bánh và 64 chủng loại kẹo. Tỷ lệ giảm phát giảm nhiều làm cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư sản xuất, mua thêm máy móc, thiết bị. Tuy nhiên do phải đi vay vốn nhiều mà lãi suất tiền vay cao đã làm giảm lợi nhuận công ty ( hàng tháng Hải Hà phải trả lãi tiền vay ngân hàng từ 700 - 800 triệu đồng). Mấy năm gần đây do biến động về tình hình tài chính khu vực và thế giới làm cho giá ngoại tệ tăng lên làm cho giá vật tư nhập khẩu tăng trong khi đó giá bánh kẹo không tăng do tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo dẫn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh sút kém. Sang năm nay giá đường giảm một cách đột ngột làm cho chi phí sản xuất của công ty giảm đáng kể. b. Môi trường luật pháp : Nước ta có thể chế chính trị ổn dịnh, đường lối rõ ràng thêm vào đó tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định của nền kinh tế tạo điều kiện để công ty phát triển các mối quan hệ liên doanh liên kết kinh tế quốc tế. Thực tế công ty bánh kẹo Hải Hà hiện nay đang góp vốn kinh doanh với hai đối tác nước ngoài để thành lập hai công ty liên doanh tại Việt Nam. - Công ty Hải Hà - Kotobuki Việt Nam (tại Hà Nội). - Công ty Miwon Việt Nam (sản xuất mì chính) ( tại Việt Trì). Đường lối chính trị rộng mở giúp công ty mua nguyên vật liệu từ nước ngoài tránh bị ép giá, đảm bảo chất lượng và có điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu. c. Môi trường công nghệ: Nhờ áp dụng những thành tựu về khoa học công nghệ và có máy móc hiện đại mà chất lượng sản phẩm của công ty ngày càng được nâng cao. Giá thành giảm. Quá trình thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền đạt thông tin ngày càng chính xác, kịp thời giúp công ty phản ứng nhanh với sự biến động của thị trường bánh kẹo. Khi đánh giá về trình độ công nghệ chế biến chỉ có Hải Hà có đủ chủng loại bánh kẹo và là cơ sở mạnh dạn đi đâù trong nhiều sản phẩm công nghệ mới như: kẹo cứng có nhân, kẹo mền đa dạng, kẹo Jelly đổ khuôn, bánh Cacker giòn, bánh quy xốp. Các thiết bị sản xuất được nhập mới từ các nước công nghiệp tiên tiến như Đức, Nhật, Đam mạch… tuy nhiên nó là những loại có công suất nhỏ. Dây chuyền sản xuất còn ở dạng nhập lẻ, ít dây chuyền đồng bộ từ khâu nấu tới thành phẩm nên việc phát huy công suất còn bị hạn chế chưa được nâng cao. Các dây chuyền làm bánh đều nhập các lò nướng bằng điện. Do lúc đầu thiếu kinh nghiệm và tại thời điểm đó ngành sản xuất chưa phát triển vì vậy sử dụng các lò nướng này tiêu thụ nhiều điện gây khó khăn cho sản xuất, làm tăng giá thành sản phẩm. Ngành công nghiệp bánh kẹo của nước ta so với các nước trên thế giới còn non trẻ, do những chính sách mở cửa của Đảng ta, mở rộng quan hệ kinh tế, văn hoá với các nước trên thế giới làm cho chúng ta tiếp cận được công nghệ hiện đại nhằm đưa ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao. d. Môi trường văn hoá: Phong tục tập quán, lối sống, thị hiếu, thói quen tiêu dùng của người dân có ảnh hưởng rất lớn tới cơ cấu nhu cầu thị trường do đó ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty. Vì vậy, việc nghiên cứu môi trường văn hoá, xã hội, tập quán của người dân cần được lưu tâm. Điều kiện khí hậu ảnh hưởng rất lớn đến việc sản xuất bánh kẹo của công ty.Về mùa hè thời tiết nóng ẩm, bánh kẹo dễ bị chẩy nước ảnh hưởng xấu tới chất lượng và năng suất lao động. Mùa đông thuận tiện cho việc bao gói, bảo quản. Như vậy công ty phải chú ý đến công tác bảo quản sản phẩm tránh tình trạng sản phẩm biến chất gây ảnh hưởng xấu tới người tiêu dùng. 2.4. Nghiên cứu người tiêu dùng : Đây là bước tiếp theo của việc nghiên cứu thị trường tiêu thụ, là bí quýêt thành công của mỗi công ty trên thị trường bởi vì xác định, tìm hiểu các dạng khách hàng có tập tính tiêu dùng hiện thực và tinh thần sẽ tạo điều kiện cho công ty đưa ra được những phương án kinh doanh hữu hiệu. Nghiên cứu người tiêu dùng rất tốn kém và hết sức phức tạp đòi hỏi nhân viên thị trường phải tích cực và nhiệt tình làm công tác trên địa phận mình được giao. Trong thời gian qua Hải Hà đã thực hiện tốt công tác này. Mỗi nhân viên thị trường hoạt động trên một địa bàn cụ thể tiếp cận với từng người ở đủ các lứa tuổi, giới tính, thu nhập cụ thể như sau: Bảng 7: Bảng nghiên cứu người tiêu dùng Đoạn thị trường Yêu cầu về sản phẩm Loại sản phẩm hay mua Khối lượng mua Cơ hội mua Từ 3 - 14 tuổi - Màu sắc sặc sỡ. - Độ ngọt cao Bánh và kẹo Thích gói nhỏ, mỗi lần chỉ mua một vài gói Người lớn mua cho là chủ yếu (vào mùa lạnh) Từ 15 - 45 tuổi. Thu nhập bình quân - Chất lượng tốt. - Giá cả vừa phải. Mùa hè hay dùngbánh, mùa đông dùng cả bánh và kẹo. Vài ngày mua một lần - Mua vào dịp lễ tết, cưới, biếu. - Mùa lạnh mua nhiều hơn. Từ 15 - 45 tuổi. Thu nhập cao Dùng loại bánh kẹo cao cấp, mẫu mã đẹp, chất lượng cao - Mùa nóng ít dùng - Mùa lạnh dùng cả bánh và kẹo. - Mua ít khi dùng tráng miệng. - Mua nhiều khi có công việc. Mua vào dịp lễ tết. Thường mua làm đồ tráng miệng Từ 15 -45 tuổi. Thu nhập thấp Chất lượng vừa phải, giá rẻ Dùng chủ yếu bánh và kẹo vào mùa lạnh. Thỉnh thoảng mua,mua nhiều khi có việc - Mua để biếu - Mua cho con cháu khi giỗ, tết, cưới. Từ 46 tuổi trở lên. Thu nhập trung bình Chất lượng gắn liền với giá cả - Mua loại quen thuộc, hay mua bánh Mua rất ít Mua cho con cháu Từ 46 tuổi trở lên. Thu nhập cao - Chất lượng tốt. -Giá cả vừa phải. -Quan tâm đến bao bì. -Hay dùng bánh. - Mua loại quen thuộc Mua ít -Dùng tráng miệng sau bữa ăn. - Mua cho cháu. - Mua đi lễ Từ 46 tuổi trở lên. Thu nhập thấp Chất lượng vừa phải, giá rẻ, ít quan tâm đến bao bì Mùa hè dùng rất ít Mua ít - Mua cho cháu. - Mua đi lễ, tết Qua đây ta có thể rút ra nhận xét. - Việc tiêu dùng bánh kẹo phụ thuộc vào lứa tuổi: người già ăn ít và chủ yêú là bánh, thường mua cho con cháu. Người trung niên mua cho con, mua khi có công việc, mua vào dịp lễ, tết, cưới hỏi, liên hoan… lứa tuổi nhỏ3 - 14 thích ăn bánh kẹo nhất. -Việc tiêu dùng phụ thuộc vào thoì tiết vào mùa lạnh thì mua nhiều hơn, mua nhiều vào dịp lễ, tết. - Việc tiêu thụ bánh kẹo hầu như ít phụ thuộc vào nghề nghiệp, giới tính. - Chủng loại bánh kẹo mua phụ thuộc vào thu nhập: người có thu nhập cao thì mua bánh kẹo cao cấp và ngược lại Căn cứ vào kết quả nghiên cứu từ đó công ty có thể vạch ra chiến lược phù hợp với từng đối tượng nghiên cứu để sản xuất ra sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. 2.5. Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh: Hiện nay trên thị trường bánh kẹo cạnh tranh xảy ra hết sức quyết liệt. Công ty bánh kẹo Hải Hà không những phải cạnh tranh với các đối thủ trong nước mà còn phải cạnh tranh với các loại bánh kẹo ngoại nhập tràn lan trên thị trường. Để thành công trong kinh doanh đòi hỏi công ty phải tiến hành nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh. * Đối thủ cạnh tranh trong nước: Thứ nhất: Công ty bánh kẹo Hải châu sản xuất một số loại bánh kẹo tương tự như của Hải Hà nhưng bán với giá rẻ hơn, điều này gây rất nhiều khó khăn cho Hải Hà. Thứ hai: Ngay trên thị trường hà nội Hải Hà bị cạnh tranh mạnh mẽ bởi bánh kẹo Tràng An đặc biệt là kẹo cốm Tràng An, chất lượng thơm ngon mùi hương cốm đặc sắc đã có uy tín với người Hà Nội. Ngoài ra còn có bánh kẹo Hữu Nghị, bánh kẹo của nhà máy đường 19-5. Bánh kẹo của công ty sữa Vinamilk như bánh Betit Beur chất._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC983.doc
Tài liệu liên quan