Báo cáo Thực tập tại Công ty bánh kẹo Hải Hà

Lời mở đầu Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm cho nền kinh tế nước ta có những thay đổi vượt bậc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước, trong những năm qua nền kinh tế đã từng bước đổi mới, hoàn thiện và phát triển một cách vững chắc. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là môi trường và động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng năng suất lao động và

doc50 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1820 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Thực tập tại Công ty bánh kẹo Hải Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng hiệu quả sản xuất. Do đó, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là rất khốc liệt, mọi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp trên cơ sở tổ chức tốt các công tác, kế hoạch đã đề ra. Một trong những công tác đó là công tác hạch toán kế toán. Công tác hạch toán đã góp phần quan trọng đối với sự tồn tại của mọi doanh nghiệp. Nó cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác các tài liệu về tình hình cung ứng, dự trữ, sử dụng tài sản từng loại góp phần bảo vệ và sử dụng hợp lý các tài sản đó; giám sát tình hình kinh doanh của cắc doanh nghiệp công ty, tình hình sử dụng nguồn kinh phí của các đơn vị, sự nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh, hiệu quả nguồn vốn cấp phát đồng thời theo dõi tình hình huy động và sử dụng các nguồn tài sản do liên kết kinh doanh; giám sát tình hình thực hiện các hợp đồng kinh tế, các nghĩa vụ với nhà nước, với cấp trên. Như vậy nhiệm vụ cơ bản của hạch toán kế toán là cung cấp thông tin về kinh doanh tài chính cho những người ra quyết định. Em đã được học chuyên ngành kế toán tổng hợp của trường Đại học Kinh tế quốc dân, để có thể tiếp cận được thực tế công tác hạch toán kế toán và hoạt động kinh doanh trên thực tế nhằm vận dụng những kiến thức lý thuyết chuyên ngành vào việc quan sát, tổng hợp, đánh giá thực tế, trên cơ sở đó đưa nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và năng lực thực hành, được sự giới thiệu của nhà trường em đã thực tập tại Công ty bánh kẹo Hải Hà. Đây là một trong những Công ty sản xuất bánh kẹo lớn nhất trong cả nước. Với những kiến thức em đã được các thầy cô giáo truyền đạt kết hợp với sự tìm hiểu thực tế tại công ty bánh kẹo Hải Hà cùng với sự giúp đỡ của các cán bộ phòng kế toán, các phòng ban khác em đã hoàn thành bản báo cáo thực tập tổng hợp với các nội dung chính như sau: Phần I. Những đặc điểm chung của công ty. Phần II. Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán tại Công ty. Phần III. Đánh giá khái quát tổ chức hạc toán kế toán tại đơn vị thực tập. Phần i Những đặc điểm chung của công ty I. Những vấn đề chung ở cơ sở thực tập 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty bánh kẹo Hải Hà Công ty bánh kẹo Hải Hà là một doanh nghiệp Nhà Nước thuộc Bộ công nghiệp có tên giao dịch là HAIHA COMPANY (gọi tắt là HAPACO).Công ty chuyên kinh doanh tất cả các mặt hàng bánh kẹo, chế biến thực phẩm do Nhà nước đầu tư vốn và quản lý với tư cách là người chủ sở hữu. Hiện nay, trụ sở chính của Công ty đặt tại số 25 đường Trương Định - Quận Hai Bà Trưng- Hà Nội. Hiện tại, Công ty bánh kẹo Hải Hà đang là một công ty có uy tín trên toàn quốc, các sản phẩm của công ty đang được ưa chuộng và có mặt ở nhiều nơi trong cả nước và cả thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, để đạt được những thành công như hiện nay, công ty đã phải trải qua nhiều khó khăn. Quá trình hình thành của công ty đựoc chia thành năm giai đoạn chính: * Giai đoạn 1959_1961: Mảnh đất với diện tích 22500 m2 của nhà tư sản Hàn Lâm bị tịch thu, xung quanh là cảnh ao tù nước đọng thuộc khu vực Hoàng Mai nay là phường Trương Định, Tổng công ty nông thổ sản Miền Bắc trực thuộc Bộ nội thương đã cho xây dựng một cơ sở thí nghiệm để nghiên cứu hạt chân trâu vào tháng 1/1959. Số lao động ban đầu chỉ có 9 người, do đồng chi Võ Chi làm giám đốc, đây là lớp cán bộ đầu tiên của nhà máy. Sau đó từ giữa năm 1959 đến tháng 4/1960 thực hiện chủ trương của tổng công ty nông sản miền Bắc thì bắt đầu nghiên cứu mặt hàng sản xuất miến. Miến là sản phẩm đầu tiên được sản xuất từ nguyên liệu ccml để cung cấp cho tuêu dùng của nhân dân. Công việc chủ yếu là làm thủ công, dây chuyền sản xuất miến gồm: ngâm đỗ, xay xát, phơi miến. Đây là việc khó làm nên mọi người phải nỗ lực. Đến tháng 4/1960 công trình đã thành công. Với thành tích này vừa là nguồn động lực cổ vũ cho họ hoàn thành sản xuất. Trên cơ sở đó ngày 25/12/1960, xưởng miến Hoàng Mai chính thức ra đời đánh dấu bước ngoặt đầu tiên cho sự hình thànhvà phát triển của nhà máy sau này. * Giai đoạn 1962_1967: Bắt đầu từ năm 1962, xí nghiệp miến Hoàng Mai trực thuộc bộ CN nhẹ quản lý. Thời kỳ này xí nghiệp đã thử nghiệm và thành công đưa vào sản xuất các mặt hàng như xì dầu tinh bột ngô cung cấp cho nhà máy in Văn Điển. Đến năm 1965, chấp hành chỉ thị của bộ công nghệ phẩm nhẹ nhằm sử dụng nguyên liệu tại chỗ nhằm giảm nhẹ khâu vận chuyển của 36 người ở xí nghiệp miến do đồng chí Dương Xuân Phong phụ trách đã lên xây dựng và giúp đỡ nhà máy miến Hoà An ở Cao Bằng. Khi lên giúp đỡ chấm dứt sản xuất miến ở nhà máy. Năm 1966 Viện thực phẩm lấy nơi vừa sản xuất vừa nghiên cứu các đề tài thực phẩm. Từ đó phổ biến cho các địa phương nhằm giải quyết hậu cần tại chỗ. Từ đây nhà máy được đổi tên thành nhà máy thực nghiệm thực phẩm Hải Hà. Ngoài nhiệm vụ sản xuất tinh bột ngô nhà máy còn sản xuất viên đạm, nước chấm lên men, nước chấm hoá giải, dầu đậu tương, bánh mì bột dinh dưỡng trẻ em và bắt đầu nghiên cứu sản xuất mạch nha. Nhiệm vụ mới tuy nặng nề song những cơ sở nhà máy vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ lại không hoàn toàn thuận lợi vì nhà máy vừa sản xuất vừa thực nghiệm nên khi thử những các đề tài khác nhau nhà máy buộc phải thay đổi quy trình công nghệ, thiết bị khác nhau. Mặt khác trình độ công nhân viên không đáp ứng đủ kiẹp thời, hầu hết vẫn là lao động thủ công. Đứng trước tình hình đó lãnh đạo nhà máy đã đề ra những biện pháp giải quyết kịp thời và đã được bộ trang bị những máy móc để phục vụ cho sản xuất. Đầu 1967, tình hình trong nước trở lên căng thẳng khó khăn nhưng đội ngũ lãnh đạo cùng toàn thể anh chị em công nhân trong nhà máy đã kiên trì bám trụ và giữ vững nhà máy thực hiện khẩu hiệu "Việc sự an toàn cho chờ máy chứ không để máy chờ việc", " Bám điện, bám máy, bám việc". Công nhân làm việc cả tháng cả năm không nghỉ. Chị em phụ nữ với tinh thần 3 đảm đang vương lên trong khó khăn để đạt tiêu chuẩn thi đua tôt. Với những thành tích xuất sắc đó cuối 1967 nhà máy được hội đồng nhà nước tặng lao động hạng 3. Tháng 12/1967, nhà nước phê chuẩn phản ánh thiết kế mở rộng nhà máy Hải Hà với công suất 6000 tấn/ năm. Đến giữa tháng 6 năm 1970 thực hiện chỉ thị của bộ lương thực thực phẩm, nhà máy đã chính thức tiếp nhận phân xưởng kẹo của Hải Châu bàn giao với công suất 900 tấn/ năm . Số lượng máy móc thiết bị 1 máy dập hình kẹo cứng, 2 máy cắt, một máy cán. Bắt đầu thời kỳ mới nhà máy có phương hướng sản xuất rõ ràng. Nhiệm vụ lúc này sản xuất thêm một số loại kẹo, đường nha và giấy tinh bột để phù hợp với nhiệm vụ mới nhà máy đổi tên thành nhà máy thực phẩm Hải Hà. Năm 1971, nhà máy đã lắp đặt một dây chuyền sản xuất nha gồm có các máy móc thiết bị để phục vụ sản xuất. Năm 1972 nhà máy lắp đặt hoàn chỉnh dây chuyền sản xuất tinh bột duy nhất trên cả nước để sản xuáat giấy tinh bột để gói lót kẹo. Năm 1975 nhà máy lắp đặt hoàn chỉnh một hệ thống nồi hoà đường để thay thế khâu hoà đường bằng thủ công cũ. Ngay từ 1970 nhà máy đã đưa vào sử dụng nhà 2 tầng với diện tích 800 m2, tổng số lượng lao động là 555 người. Lao động thủ công nhiều nên đa số là lao động nữ. Bộ máy quản lý cũng luôn được củng cố hoàn thiện và ngày càng phát huy vai trò trong việc thúc đẩy sản xuất. Giá trị tổng sản lượng đạ được qua các năm tăng theo 1 cách rõ rệt. Năm 1971, giá trị sản lượng: 7.460.000đ nhưng chỉ sau 4 năm giá trị này đã tăng đột biến: năm 1975: giá trị sản lượng:11.055.000đ. * Giai đoạn 1976 đến 1980: Thời kỳ này nhà máy thực phẩm Hải Hà vẫn trực thuộc bộ lương thực và thực phẩm với tổng diện tích mặt bằng khoảng 300000m2. Nhà máy tiến hành khởi công xây dựng nhà máy sản xuất chính với diện tích là 2500m2, cao hai tầng Năm 1980 nhà máy này được đưa vào sản xuất. Số lượng công nhân viêc chức của nhà máy qua từng năm có thay đổi để đáp ứng yêu cầu sản xuất và quy mô của nhà máy. 1976 tổng cán bộ công nhân viên: 800 người 1978 tổng cán bộ công nhân viên: 887 người 1979 tổng cán bộ công nhân viên: 911 người 1980 tổng cán bộ công nhân viên: 900 người 1980 quán triệt nghị quyết trung nông lần thứ 6 khoá 5 nhà máy chính thức thành lậpbộ phận sản xuất phụ và rượu và thành lập nhóm kiến thiết cơ bản. Có thể nói trong những năm 76 đến 80 lãnh đạo nhà máy rất quan tâm đến việc củng cố xây dựng đội ngũ nâng cao chất lượng cán bộ và bồi dưỡng tay nghề cho công nhân. Kết quả của công tác này đã tạo điều kiện thuận lợi để nhà máy thực hiện cải tiến quản lý áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật đáp ứng yêu cầu sản xuất phục vụ trong nước và xuất khẩu. Trong thời kỳ này nhà máy đã có phòng y tế để khám sức khoẻ định kỳ cho công nhân viên và thực hiện cuộc vận động sinh để có kế hoạch. Công tác này đã mang lại hiệu qủa kinh tế, đáng được khích lệ. Thời kỳ này việc nâng bậc lương cho công nhân viên cũng được chú ý nhiều. Số cán bộ công nhân viên được nâng hàng năm trung bình 15_20% *Giai đoạn 1981 đến 1991: Từ năm 1981 đến 1985 là thời gian ghi nhận những bước chuyển biến của nhà máy từ giai đoạn sản xuất thủ công có một phần cơ giới sang sản xuất cơ giới hoá có một phần thủ công. Cũng bắt đầu từ năm 1981 nhà máy được chuyển giao sang cho Bộ công nghiệp thực phẩm quản lý với tên gọi là nhà máy Thực phẩm Hải Hà. Năm 1982 nhà máy sản xuất thêm kẹo mè xửng xuất khẩu. Năm 1983 sản xuất thêm các loại kẹo chuối, lạc vừng, cà phê và lần đầu tiên sản xuất kẹo cứng có nhân. Đến năm 1985 nhà máy có 6 chủng loại kẹo bao gồm: Kẹo mềm, kẹo cà phê, kẹo chuối, kẹo vừng lạc, kẹo vừng xốp, kẹo mềm socola, kẹo cứng nhân các loại. Để phù hợp với tình hình và nhiệm vụ sản xuất từ năm 1987 nhà máy thực phẩm Hải Hà một lần nữa lại đổi tên thành nhà máy kẹo Xuất khẩu Hải Hà và trực thuộc Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm. Năm1988 nhà vệ sinh công nghiệp hai tầng với diện tích 820m2 vdà nhà điều hành sản xuất 4 tầng với diện tích là 1400m2 đã đưa vào sử dụng. Năm 1989 bằng nguồn vốn tự có nhà máy đã tiến hành thi công nhà cầu hành lang rộng 200m2 và nhà hoà đường tập trung. Đến 1990 nhà ăn ca và hội trường lớn với diện tích hơn 1000m2 đã được đưa vào sử dụng tạo thêm nhiều thuận lợi cho việc tổ chức quản lý sản xuất cũng như các hoạt động khác. Năm này thì nhiều sản phẩm đã được nghiên cứu thành công và đưa vào sản xuất. Nhìn cung tốc độ tăng trưởng sản lượng hàng năm tăng 10% đ 15% sản xuất từ chỗ thủ công đã dần dần tiến lên cơ giới hoá 70% đ 80%. * Từ 1992 đến nay. Theo đề nghị của đồng chí giám đốc nhà máy kẹo xuất khẩu Hải Hà và vụ trưởng vụ tổ chức cán bộ lao động nhà máy kẹo xuất khẩu Hải Hà đổi tene thành công ty bánh kẹo Hải Hà chính thức từ 10/7/1992. Năm 1993 công ty đã liên doanh sản xuất bánh kẹo với hãng KOTOBUKI của Nhật Bản. Việc liên doanh này cao uy tín của công ty về chất lượng cũng như chủng loại sản phẩm trên thị trường. Năm 1994 xí nghiệp thực phẩm việt trì là xí nghiệp thành viên của công ty. Công ty đã liên doanh với MiWon của Hàn Quốc để sản xuất mì chính. Năm 1996 xí nghiệp bột dinh dưỡng Nam Định trở thành xí nghiệp thành viên của công ty. Tháng 12/2002 công ty đã đầu tư nhập một dây truyền sản xuất kẹo chew của Đức với số vốn 25 tỷ. Ngoài ra công ty còn nhập thêm một số máy như máy gói cho kẹo cứng... Đến nay, công ty đã có 7 xí nghiệp thành viên trong đó có 5 xí nghiệp đóng tại cơ sở chính (25 Trương Định - Hà Nội) là: Xí nghiệp kẹo cứng, xí nghiệp kẹo mềm, xí nghiệp bánh, xí nghiẹp kẹo chew, xí nghiệp phụ trợ. Hai xí nghiệp còn lại là xí nghiệp thực phẩm Việt Trì và nhà máy bột dinh dưỡng Nam Đinh. 2. Nhiệm vụ chính của công ty bánh kẹo hải hà - Sản xuất kinh doanh những loại bánh kẹo trên thị trường. - Xuất khẩu các sản phẩm của Công ty và sản phẩm liên doanh đồng thời nhập khẩu các loại máy móc công nghệ, nguyên vật liệu phù hợp với sản phẩm đáp ứng nhu cầu đang ngày một nâng cao. - Ngoài việc sản xuất các loại bánh kẹo chính, Công ty còn kinh doanh những loại mặt hàng khác để không ngừng nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên, củng cố vị trí và thúc dẩy phát triển ngày một lớn mạnh của Công ty. - Công ty la một trong những Công ty có vốn Nhà nước giao nên việc bảo toàn và phát triển vốn được giao là một trong những nhiệm vụ hàng đầu được Công ty quan tâm. - Cũng như các doanh nghiệp khác nói chung, Công ty bánh kẹo Hải Hà phải thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ và nghĩa vụ đối với Nhà nước. - Công ty cũng thực hiện phân phối theo lao động, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ công nhân viên, chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn. 3. Thị trường tiêu thụ của công ty bánh kẹo Hải Hà Hiện nay, các sản phẩm của Công ty đang được ưa chuộng ở các tỉnh trong nước và nước ngoài và Công ty có gần 300 đại lý trong toàn quốc. Thị trường trong nước của Công ty được chia làm ba khu vực chính, đó là: thị trường miền Bắc, thị trường miền Trung, thị trường miền Nam. trong đó cu thể tình hình tiêu thụ ở mỗi loại thị trường là khác nhau đòi hỏi Công ty phải có những biện pháp thích hợp: - Thị trường miền Bắc là thị trường chính của Công ty: sản phẩm của Công ty đã rất quen thuộc với người dân miền Bắc. Do sản phẩm của Công ty có chất lượng tốt, cao cấp và giá thành hơi cao nên ở thị trường này, nhu cầu bánh kẹo tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn và thị xã còn ở nông thôn thì thị phần của công ty rất ít vì thu nhập của người dân ở đây còn hạn chế. - Thị trường miền Trung: Một thực tế thấy rõ là thu nhập của người dân miền Trung thấp hơn hẳn so với người miền Bắc và miền Nam do đó họ chủ yếu dùng những loại sản phẩm bánh kẹo có chất lượng vừa phải, giá thành rẻ và đặc biệt họ ít quan tâm đến hình thức mẫu mã của sản phẩm như người miền Bắc. Đối với thị trường này, sản phẩm chủ yếu là kẹo cốm, kẹo sữa mền, kẹo bắp. - Thị trường mièn Nam nhu cầu về sản phẩm có chất lượng cao hơn. Nhu cầu về bánh kẹo ở thị trường này rất lớn nhưng lượng tiêu thụ sản phẩm của công ty ở đây chưa cao do một số nguyên nhân chủ yếu: thứ nhất là do sự xa cách về mặt địa lý. Thứ hai la do yếu tố cạnh tranh, hiện nay có rất nhiều công ty bánh kẹo có chất lượng cao như: Kinh Đô…. và một số công ty bánh kẹo của nước ngoài như Malaisia, Thái Lan… vì vậy việc chiếm được thị phần lớn ở thị trường này rất khó. Điều đó cần sự cố gắng, nỗ lực rất nhiều của Công ty. Thứ ba, nguyên nhân quan trọng nhất đó là đặc điểm tâm lý, thị hiếu, thói quen tiêu dùng của khách hàng… Ngoài ra, công ty còn thực hiện xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài. Trước đây, thị trường chủ yếu của Công ty là Liên Xô và các nước Đông Âu cũ. Tuy nhiên, từ khi hệ thống các nước XHCN tan rã, số lượng tiêu thụ ở thị trường này còn rất ít. Hiện nay, Công ty đang mở rộng, thiết lập một số thị trường mới như Mông Cổ, Trung Quốc, các nước ASIAN và một số thị trường khác. 4. Kết quả hoạt động của một số năm gần đây Mặc dù công ty còn nhiều gian nan trong cơ chế thị trường, phải cạnh tranh chất lượng uy tín với các công ty bạn song công ty bạn song công ty bánh kẹo Hải Hà với ưu thế về công nghệ và thiết bị, với đội ngũ cán bộ năng động sáng tạo nhiệt tình, với đội ngũ công nhân lành nghề thì công ty đã liên tục trưởng thành và phát triển, đã phát huy mọi khả năng sản xuất kinh doanh của mình để đứng vững trên thị trường, nâng cao uy tín của công ty. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty được thể hiện qua một số chỉ tiêu ở dưới bảng sau. Bảng: Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 2002 Sản lượng Tấn 11,133 12,726 14,685 Doanh thu Tỷ đồng 214,63 245,49 279,0 Nộp ngân sách Tỷ đồng 29,751 33,627 36,43 Lợi nhuận Tỷ đồng 2,8 3,21 3,85 Thu nhập bình quân 1000đ/người 975 1050 1250 Nhìn chung tình hình kết quả kinh doanh của công ty trong những năm gần đây tương đối ổn đinh. Tốc độ tăng sản lượng hàng năm tăng từ 10% đ 15%. Tăng các khoản nộp ngân sách hàng năm cũng tăng. Thu nhập bình quân của người lao động đến 2002 đạt 1250.000 là tương đối cao đời sống của cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện. Để hiểu rõ hơn tình hình kinh doanh của công ty xem bảng phân tích cơ cấu với một số chỉ tiêu chủ yếu. Bảng: Phân tích cơ cấu tài sản và nguồn vốn Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2001 2002 Tiền % Tiền % I. Tổng tài sản 118,43 10,0% 127,52 100% A. TSLĐ 36,948 31,19% 35.573 27,89 1. Tiền 16,413 13,85% 16,254 12,75% 2. Các khoản phải thu 9,239 7,8 8,947 7,02% 3. Hàng tồn kho 11,296 9,54% 10,372 8,12% B. TSCĐ 80,482 68,81% 91,947 72,11% II. Tổng nguồn vốn 118,43 100% 127,52 100% A. Nợ phải trả 42,827 36,16% 47,543 37,28% 1. Nợ gắn hạn 27,718 23,4% 25,04 19,62% 2. Nợ dài hạn 15,109 12,76% 19,522 15,31% B. Nguồn vốn CSH 75,603 63,84% 79,977 62,71% 1. Vốn kinh doanh 50,471 42,62% 52,632 41,27% 2. Vốn, quỹ khác 25,132 21,22% 30,345 23,8% Nhận xét: Cơ cấu tài sản của công ty năm 2002 so với năm 2001 là tốt hơn thể hiện ở tỷ trọng đầu tư TSLĐ giảm còn tỷ trọng đầu tư TSCĐ tăng. Đây là một thuận lợi nếu công ty sử dụng hợp lý và hiệu quả TSCD, tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn sẽ giảm do TSCĐ lưu chuyển chậm. Số liệu về giá trị hàng tồn kho trong hai năm là tương đối cao điều này là do tính chất sản xuất mang tính thời vụ, tiêu thụ mạnh vào cuối tháng 12 và đầu tháng 1 năm sau. Tỷ trọng các khoản phải thu giảm chứng tỏ một trong những nguyên nhân là doanh nghiệp đã áp dụng niều biện pháp để khuyến khích khách hàng mua hàng thanh toán ngay điều này là rất tốt. Mặc dù nguồn vốn chủ sở hữu năm 2002 tăng so với năm2001 cả về số lượng đối là 4,374 tỷ (79,977 -75,603) và số lượng đối là 105,78% nhưng tỷ trọng trong tổng số nguồn vốn lại giảm xuống (từ 63,84% năm 2001 xuống còn 62,71% năm 2002) trong khi nợ phải trả năm 2002 lại tăng thêm 4,716 tỷ (47,543 tỷ - 42,824 tỷ) hay tăng 111%. So với năm 2001 chứng tỏ công ty đã tăng cường đi chiếm dụng vốn. Tuy nhiên tỷ suất tự tài trợ vốn khá cao. Tỷ suất tự tài trợ Tỷ suất tự tài trợ năm 2001 = 0,638 Năm 2002 = 0,627 Điều này cho thấy khả năng tài chính của công ty vẫn đảm bảo, phần lớn tài sản của công ty mua sắm đầu tư bằng số vốn của mình. 5. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý Với đặc điểm của một đơn vị vừa sản xuất vừa hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty bánh kẹo Hải Hà có bộ máy quản lý được tổ chức theo mô hình đa bộ phận với cơ cấu tổ chức trực tuyến chức năng bao gồm ban lãnh đạo và các phòng ban trực thuộc quản lý và phục vụ sản xuất. - Ban lãnh đạo gồm: + Tổng giám đốc là người có quyền cao nhất, quyết định chỉ đạo toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và chịu trách nhiệm trước công ty, Bộ công nghiệp và Nhà Nuớc. + Một phó tổng giám đốc sản xuất kinh doanh phụ trách phòng kinh doanh và giới thiệu sản phẩm, có nhiệm vụ điều hành sản xuất kinh doanh và kỹ thuật sản xuất. + Một phó tổng giám đốc tài chính kiêm kế toán trưởng có nhiệm vụ tổ chức thực hiện toàn bộ công tác kế toán, thống kê tài chính ở công ty đồng thời thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động kế toán tài chính của công ty. _ Các phòng ban trực thuộc bao gồm: + Phòng kỹ thuật chịu trách nhiệm về kỹ thuật của quy trình công nghệ tính toán đề ra các định mức tỷ lệ tiêu hao nguyên vật liệu, nghiên cứu lập kế hoạch sản xuất để chế tạo ra sản phẩm mới + Phòng kinh doanh có nhiệm vụ cung ứng vật tư, nghiên cứu thị trường đề ra các biện pháp tiêu thụ sản phẩm hợp lý đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh ổn định. + Phòng tài vụ đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức công tác hạch toán kế toán, theo dõi và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty dưới hình thức giá trị để phản ánh chi phí đầu vào, kết quả đầu ra, đánh giá kết quả lao động của cán bộ công nhân viên. Phân tích kết quả kinh doanh của từng tháng, quý, năm, phân phối nguồn thu nhập. Đồng thời cung cấp thông tin cho tổng giám đốc nhằm phục vụ tốt công tác quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh. + Phòng KCS có nhiệm vụ chính là kiểm tra chất lượng sản phẩm, ngoài ra còn có cùng với phòng kỹ thuật tính toán đề ra các định mức, tỷ lệ tiêu hao nguyên vật liệu. + Văn phòng làm nhiệm vụ tham mưu cho lãnh đạo, định ra đường lối sắp xếp phân phối lao động một cách hợp lý. Xây dựng chế độ lương,thưởng, BHXH… + Phòng bảo vệ có nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho tài sản, sản xuất và trật tự an ninh trong công ty 6. Đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh 6.1 Đặc điểm của sản phẩm Thứ nhất: Công ty bánh kẹo Hải Hà đã trải qua 40 năm hoạt động sản xuất kinh doanh các loại bánh kẹo khác nhau, đã và đang khẳng định thế mạnh của mình trên thị trường trong nước và luôn đi đầu trong việc sản xuất ra các sản phẩm độc đáo của nghành bánh kẹo Việt Nam. Các sản phẩm của công ty được chia làm ba nhóm chính: kẹo cứng, kẹo mềm, bánh. - Kẹo mềm - Kẹo cứng: là mặt hàng phổ biến và cũng là mặt hàng truyền thống của công ty. - Bánh: Bánh Biscuit, bánh Craker, bánh kẹp kem. Một đặc điểm đặc trưng của công ty là chuyên dùng các loại hoa để đặt tên cho bánh kẹo của mình như cẩm chướng, hải đường, thuỷ tiên… Thứ hai: cũng giống như các loại sản phẩm bánh kẹo khác, bánh kẹo của công ty cũng được chế biến từ nguyên liệu dễ huỷ như bơ, đường, sữa… nên thời gian bảo quản ngắn, thông thường là 90 ngày riêng kẹo càphê thời gian dài hơn cũng chỉ là 180 ngày, tỷ lệ hao hụt tương đối lớn, yêu cầu vệ sinh công nghiệp cao. Khác với sản phẩm thông thường quá trình để hoàn thành sản phẩm bánh kẹo chỉ khoảng từ 3 đến 4 giờ vì vậy không có sản phẩm dở dang. Thứ 3: Sản phẩm bánh kẹo của công ty bánh kẹo Hải Hà mang tính thời vụ, chẳng hạn vào các dịp tết sản phẩm của công ty sản xuất đến đâu tiêu thụ đến đó thậm chí đôi khi không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng. Song khi sang mùa hè số lượng sản phẩm tiêu thụ giảm đi rõ rệt do vậy một số loại bánh kẹo chỉ sản xuất theo mùa vì thời gian bảo quản không được lâu. 6.2 Đặc điểm tổ chức sản xuất Dây chuyền sản xuất bánh Cracker Nguyên liệu Nhào trộn Lên men Tạo hình Nướng bằng điện Đóng túi Phun sôcôla Làm nguội Dây chuyền sản xuất bánh bích quy Nguyên liệu Nhào trộn Tạo hình Làm nguội Máy cắt thanh Đóng túi Dây chuyền sản xuất kẹo mềm Máy vuốt Máy gói Đóng túi to Hoà đường Nấu Làm nguội Quật kẹo Cán kẹo Máy lăn con Chặt miếng Sàng rung Gói tay Dây chuyền sản xuất kẹo cứng Hoà đường Nấu Làm nguội Máy lăn côn Vuốt keo Máy gói Dập hình Sàng làm lạnh Gói tay Đóng túi Bơm nhân Tạo nhân Dây chuyên sản xuất kẹo Chew Nguyên liệu Nấu Làm lạnh Máy đùn Máy dập hình Máy gói Đóng hộp Phần II Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán tại Công ty bánh kẹo hải hà 1. Đặc điềm tổ chức bộ máy kế toán Bộ máy kế toán của công ty được tổ chức theo hình thức tổ chức công tác kế toán tập trung tức là công tác kế toán, thống kê, tài chính được hợp nhất trong một bộ máy chung được gọi là phòng tài vụ. ở các xí nghiệp thành viên không tổ chức bộ máy kế toán riêng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường bộ máy kế toán của công ty được sắp xếp gọn nhẹ phù hợp với tình hình chung của công ty. Phòng tài vụ (kế toán) gồm: Kế toán trưởng, kế toán tổng hợp, kế toán tài sản cố định và xây dựng cơ bản, kế toán thương mại, kế toán trung gian ngân hàng, kế toán vật liệu và công cụ dụng cụ, khoán chi phí và giá thành kiêm tiền lương, kế toán tiêu thụ, thủ quỹ + Kế toán trưởng: Là người chịu trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp mọi công việc của toàn bộ phòng kế toán tại công ty. + Kế toán tổng hợp: có nhiệm vụ thực hiện các phần hành kế toán còn lại mà chưa phân công cho các phần hành kế toán về tiêu thụ, chi phí và giá thành… thực hiện các nhiệm vụ nội sinh, lập các bút toán, khoá sổ kế toán cuối kỳ. Để thực hiện cho việc khoá sổ kế toán, lập báo cáo kế toán kế toán tổng hợp phải kiểm tra số liệu kế toán của các bộ phận khác chuyển sang sau đó lập báo cáo ké toán tài khoản (nếu cần) lập báo cáo kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh của công ty, lập các báo cáo kế toán nội bộ khác ngoài những báo cáo nội bộ mà các bộ phận kế toán khác đã lập. + Kế toán tài sản cố định và xây dựng cơ bản: có nhiệm vụ chủ yếu là ghi chép kế toán tổng hợp và kế toán tài sản cố định theo dõi tài sản cố định ở các bộ phận của công ty. Tính khấu hao tài sản cố định, phân bổ khấu hao cho từng tháng, quý, năm sau đó lập báo cáo kế toán nội bộ về tình hình tăng giảm tài sản cố định. + Kế toán tiền mặt: Là người chịu trách nhiệm hạch toán chi tiết về tiền mặt lên " Sổ chi tiết tiền mặt" các nghiệp vụ có liên quan, kiểm tra tính hợp lệ hợp lý của các chứng từ gốc, từ đó thiết lập các phiếu thu, phiêu chi cho các nghiệp vụ tiền mặt. + Kế toán tiền gửi ngân hàng: Là chịu trách nhiệm hạch toán các nghiệp vụ liên quan đến tiền gửi ngân hàng, thực hiện các quá trình thanh toán giữa công ty và các đối tượng khác thông qua hệ thống ngân hàng, định kỳ lập tiền thuế, về các khoản mà công ty phải thanh toán với nhà nước, giám sát việc thu chi thông qua hệ thống ngân hàng. + Kế toán nguyên vật liệu và công cụ dụng cụ: là người chịu trách nhiệm hạch toán các nghiệp vụ liên quan đến nhập xuất nguyên vật liệu công cụ dụng cụ. Đồng thời theo dõi quá trình thanh toán giữa công ty với nhà cung cấp, tính ra trị giá nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ xuất kho cho các mục đích khác nhau và giá trị tồn kho của nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ… + Kế toán tập hợp chi phí và giá thành: Là người có nhiệm vụ tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất cho từng loại sản phẩm, trên cơ sở đó tính đúng và tính đủ giá thành cho từng loại sản phẩm hoàn thành trong kỳ. Giám sát tình hình thực hiện các định mức và lập báo cáo chi phí sản xuất theo đúng chế độ. +Kế toán tiêu thụ: là người chịu trách nhiệm hạch toán quá trình bán hàng, liên doanh thu, theo dõi giá vốn và định kỳ lập báo cáo kết quả kinh doanh của công ty, theo dõi và đôn đốc tình hình thanh toán của khách hàng cho công ty. + Thủ quỹ : là người nhận và xuất thương mại, kiểm tra độ thật giả của tiền và ghi sổ quỹ thương mại, gửi tiền vào ngân hàng kịp thời theo quy định. + Bộ máy kế toán ở các xí nghiệp thành viên: Các xí nghiệp thành viên không tổ chức bộ máy kế toán đầy đủ như ở Công ty. Tổ chức kế toán tại xí nghiệp thành viên gồm 2- 3 người: dưới sự điều hành của giám đốc xí nghiệp và sự chỉ đạo chuyên môn của kế toán trưởng công ty như thu thập chứng từ, thực hiện ghi chép ban đầu… và có trách nhiệm cung cấp đầy đủ số liệu kinh tế theo định kỳ và đột xuất của công ty. Như vậy , ta có thể thấy rằng bộ máy kế toán đuợc tổ chức rất phù hợp với mô hình trực tuyến chức năng của bộ máy quản lý. Kế toán trưởng Thủ quỹ KT tiền mặt KT TGNH KT VL và CCDC KT XDCB và TSCĐ KT cp giá thành và lương KT TP tiêu thụ KT tổng hợp KT các xí nghiệp thành viên Sơ đồ: Bộ máy kế toán của Công ty bánh kẹo Hải Hà 2. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán của đơn vị 2.1. Những thông tin chung về tổ chức công tác kế toán - Phương pháp hạch toán hàng tồn kho: theo phương pháp kê khai thường xuyên. - Phương pháp tính khấu hao tài sản cố định (TSCĐ): theo phương pháp khấu hao đều. - Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng (GTGT): công ty hạch toán thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ. - Phương pháp giá trị nguyên vật liệu xuất: giá trị nguyên vật liệu xuất được xác định theo phương pháp Fifo. - Phương pháp tính giá sản phẩm dở dang: cong ty không co sản phẩm dở dang do chu kỳ sản xuất nhỏ. 2.2. Tổ chức chứng từ kế toán Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp đã sử dụng một số những chứng từ tiêu biểu cho những nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Chứng từ lao động tiền lương: Bảng đơn giá lương khoán cho một sản phẩm Bảng chấm công Sổ theo dõi lao động Phiếu báo cáo lao động hàng ngày Bảng kê khối lượng sản phẩm hoàn thành Bảng thanh toán tiền lương khoán (từng xí nghiệp) Hợp đồng thuê khoán lao động Phiếu làm thêm giờ Bảng phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội … Chứng từ hàng tồn kho: Phiếu nhập kho Phiếu xuất kho Phiếu xuất kho theo định mức Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ Biên bản kiểm nghiệm vật tư hàng hoá Thẻ kho Biên bản kiểm kê vật tư sản phẩm hàng hoá… Chứng từ bán hàng: Hoá đơn bán hàng Hoá đơn kiểm phiếu xuất kho Hoá đơn cước vận chuyển (trong trường hợp công ty vận chuyển tới khách hàng) Hoá đơn giám định hàng xuất nhập khẩu Bảng thanh toán hàng đại lý Thẻ quầy hàng Thẻ kho hàng hoá … Chứng từ về tiền tệ: Phiếu thu Phiếu chi Giấy đề nghị tạm ứng Giấy thanh toán tiền tạm ứng Biên lai thu tiền Bảng kiểm kê quỹ… Chứng từ tài sản cố định: Quyết định (tăng giảm tài sản cố định) Hợp đồng mua bán Phiếu nhập kho Hoá đơn giá trị gia tăng Quyết định về việc thanh lý thiết bị Thông báo (về việc bán đấu giá tài sản cố định) Biên bản bán đấu giá Danh mục thiết bị bán Phiếu thu (người mua nộp tiền đối với tài sản cố định thanh lý) Biên bản giao nhận TSCĐ Thẻ TSCĐ Biên bản giao nhận TSCĐ sửa chữa lớn hoàn thành Biên bản đánh giá lại TSCĐ…. 2.3. Hệ thống tài khoản kế toán sử dụng Doanh nghiệp áp dụng chế độ tài khoản theo quyết định 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 1-11-1995 của Bộ trưởng Bộ tài chính. Tuy nhiên do áp dụng kế toán máy, gắn với đặc điểm công nghệ sản xuất sản phẩm và đặc điểm kinh doanh nên sự vận dụng hệ thống tài khoản đối với các tài khoản chi tiết có một số điểm chú ý sau: TK 112 được chi tiết theo các ngân hàng TK 112121 Ngân hàng công thương Thanh Xuân TK11211 Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội TK 112126 Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín TK 112127 Ngân hàng Tech Combank TK 112128 Kho bạc Hai Bà Trưng TK 131, 141, 331 được chi tiết theo mã. Một số tài khoản: TK 136, 138, 336, 511, 621, 622, 627, 157… được chi tiết theo từng xí nghiệp thành viên ví dụ như: 1361 - Việt Trì - Phải thu của xí nghiệp Việt Trì 1361- Nam Định- Phải thu của nhà máy Nam Định 1368 - Việt Trì - Phải thu khác của xí nghiệp Việt Trì 1368- Nam Định- Phải thu khác của nhà máy Nam Định 621 - Bánh - Chi phí NVL trực tiếp sản xuất bánh 621 - Kẹo cứng - Chi phí NVL trực tiếp sản xuất kẹo cứng 621 - Kẹo mềm - Chi phí NVL trực tiếp sản xuất kẹo mềm Đối với tài khoản 311 chi tiết thành một số tiểu khoản như: TK3111 : vay ngắn hạn ngân hàng TK311K: Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên Do công ty hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên nên không sử dụng các tài khoản 611, 631 Ngoài ra có một số tài khoản sau hầu như công ty không sử dụng đó là: * Tài khoản thuộc bảng cân đối kế toán TK 113 - Tiền đang chuyển TK 121 - Đầu tư chứng khoán ngắn hạn TK 144 - ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC093.doc
Tài liệu liên quan