Báo cáo Phương hướng hoàn thiện hệ thống tài chính- Kế toán trong việc phân tích tình hình tài chính nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay

Lời mở đầu Trong nền kinh tề thị trường hiện nay, các thành phần kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước đều có khả năng phát huy quyền chủ động của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong hoạt động tài chính. Để thích ứng với sự biến động lớn của nền kinh tế đồng thời để đứng vững trong cạnh tranh , các doanh nghiệp đều phải đề ra những chiến lược phát triển dài hạn và ngắn hạn, mà một trong những nhiệm vụ quan trọng quyết định đó là quan tâm tới tình hình tài chính của

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Phương hướng hoàn thiện hệ thống tài chính- Kế toán trong việc phân tích tình hình tài chính nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh nghiệp. Nếu như việc cung ứng, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm…trôi chảy là tiền đề đảm bảo cho hoạt động tài chính được hiệu quả thì việc tổ chức và huy động các nguồn vốn kịp thời, việc quản lý và phân phối nguồn vốn đúng đắn sẽ tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục và có lợi nhuận cao. Do đó, để đáp ứng một phần các yêu cầu mang tính chiến lược của mình , các doanh nghiệp cần tiến hành định kỳ phân tích, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua hệ thống các báo cáo tài chính để từ đó phát triển mặt tích cực, hạn chế tiêu cực của hoạt động tài chính , xác định nguyên nhân cơ bản đã ảnh hưởng đến các mặt này để từ đó đưa ra các biện pháp cần thiết , kịp thời nhằm cải tiến hoạt động tài chính , tạo tiền đề tăng hiệu quả của sản xuất kinh doanh . Như vậy việc phân tích tình hình tài chính thông qua các bản báo cáo tài chính không những có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá những tiềm lực vốn có của doanh nghiệp , xem xét khả năng và thế mạnh trong sản xuất kinh doanh mà còn thông qua đó xác định được xu hướng phát triển của doanh nghiệp tìm ra những bước đi vững chắc , hiệu quả trong tương lai gần. Nó thực sự là một công cụ trong công tác quản lý của chủ doanh nghiệp nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung. Hiện nay, trong chặng đường đầu tiên của công cuộc Công nghiệp hoá- hiện đại hóa, hệ thống các bản báo cáo tài chính áp dụng cho các doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Đặc biệt, hệ thống thuế cũng như các văn bản quy định việc thu sử dụng vốn của các doanh nghiệp , phương pháp hạch toán, kế toán tài sản cố định, tài sản lưu động ảnh hưởng rất lớn đến việc lập bản báo cáo tài chính của các doanh nghiệp. Từ nhận thức về tầm quan trọng của phân tích tình hình tài chính qua báo cáo tài chính của doanh nghiệp, em quyết định chọn đề tài : “Phương hướng hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính- kế toán trong việc phân tích tình hình tài chính nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay” . Phần 1 Cơ sở lý luận về phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua hệ thống báo cáo tài chính. I. Hoạt động tài chính và sự cần thiết phải phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp . 1.1 Hoạt động tài chính và mối quan hệ tài chính chủ yếu của doanh nghiệp 1.1.1. Hoạt động tài chính Hoạt động tài chính là một trong những hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ phát sinh trong quá trình kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Nói cách khác, trên giác độ kinh doanh vốn, hoạt động tài chính là các quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức huy động, phân phối và sử dụng, quản lý vốn một cách hiệu quả. Hoạt động tài chính nhằm đảm bảo thực hiện các vấn đề tài chính trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: + Đảm bảo nguồn vốn tài chính của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động kinh doanh bình thường, đều đặn. + Huy động nguồn vốn kinh doanh với chi phí thấp nhất. + Đảm bảo việc sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả + Tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp + Nhìn nhận được tình hình tài chính của doanh nghiệp ở thời điểm hiện tại, từ đó hoạch định các chính sách tài chính trong tương lai. Và nhiệm vụ của hoạt động tài chính nhằm giải quyết một số câu hỏi: Đầu tư vào đâu và như thế nào cho phù hợp với hình thù kinh doanh đã chọn, nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp? Nguồn vốn tài trợ được huy động ở đâu, vào thời điểm nào với một cơ cấu vốn tối ưu và chi phí vốn thấp nhất? Lợi nhuận của doanh nghiệp được sử dụng như thế nào? Phân tích, đánh giá, kiểm tra các hoạt động tài chính như thế nào để thường xuyên đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính? Quản lý các hoạt động tài chính như thế nào để đưa ra các quyết định thu, chi phù hợp. Các câu hỏi trên đây chưa phải là tất cả mọi vấn đề của họat động tài chính doanh nghiệp nhưng đó là những câu hỏi quan trọng nhất liên quan đến cách thức tổ chức, quản lý tài chính doanh nghiệp. 1.1.2. Các quan hệ tài chính Căn cứ vào hoạt động của một doanh nghiệp trong một môi btrường kinh tế xã hội có thể thấy quan hệ tài chính rất phong phú, đa dạng, xuyên suốt cuộc đời của các doanh nghiệp. Các quan hệ đó là: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước: Quan hệ này phát sinh trong quá trình trao đổi hàng hoá dịch vụ phân phối sản phẩm quốc dân giữa Nhà nước với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải nộp thuế cho Nhà nước theo luật định. Nhà nước cấp vốn cho doanh nghiệp hoạt động( đối với doanh nghiệp Nhà nước). b. Quan hệ tài chính với doanh nghiệp tài chính: Doanh nghiệp thực hiện quá trình trao đổi mua bán các sản phẩm tài chính nhằm thoả mãn nhu cầu vốn của mình. Trong quá trình đó, doanh nghiệp luôn phải tiếp xúc với thị trường tài chính mà chủ yếu là thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Với thị trường tiền tệ: thông qua thị trường các ngân hàng, doanh nghiệp có thể tạo được nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình. Đồng thời các doanh nghiệp đều phải mở tài khoản tại một ngân hàng nhất định và thực hiện các giao dịch mua bán qua chuyển khoản. Do đó, quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp và các ngân hàng trở thành quan hệ vốn có bền vững. Với thị trường vốn: Doanh nghiệp có thể tạo được nguồn vốn dài hạn bằng cách phát hành các chứng khoán cuả mình như: cổ phiếu, kỳ phiếu…mặt khác doanh nghiệp có thể tiến hành kinh doanh chứng khoán trên thị trường này để kiếm lời. c. Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường khác: Với tư cách là chủ thể kinh doanh, doanh nghiệp quan hệ với thị trường cung cấp đầu vào và thị trường phân phối tiêu thụ đầu ra, đó là thị trường hàng hoá dịch vụ, thị trường sức lao động… Thông qua các thị trường này, doanh nghiệp có thể xác định nhu cầu sản phẩm và dịch vụ cung ứng, trên cơ sở đó doanh nghiệp xác định số tiền vốn đầu tư sản xuất, nghiên cứu thị trường… nhằm thoả mãn các nhu cầu thị trường và thu được lợi nhuận tối đa với lượng chi phí bỏ ra thấp nhất, có khả năng cạnh tranh cao nhất. d. Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp : Biểu hiện của quan hệ này là sự luân chuyển vốn trong doanh nghiệp. Đây là các quan hệ tài chính giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh với nhau, giữa các đơin vị thành viên với nhau, giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Các quan hệ này được biểu hiện thông qua chính sách tài chính của doanh nghiệp như: Chính sách phân phối thu nhập, chính sách về cơ cấu nguồn vốn, chính sách về đầu tư và cơ cấu đầu tư… e. Các quan hệ tài chính khác : Bên cạnh các quan hệ tài chính Nhà nước, các thị trường và nội bộ doanh nghiệp, cần có các quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các nhà đầu tư, các nhà quản lý… trong việc quyết định đầu tư hay rút lui đầu tư của doanh nghiệp và các quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp với nhau. Thông qua việc giải quyết mối quan hệ tài chính của doanh nghiệp với môi trường xung quanh giúp doanh nghiệp xác định nhu cầu các yếu tố đầu vào, khả năng cung ứng hàng hoá và dịch vụ đầu ra, tạo điều kiện cho doanh nghiệp huy động đủ, kịp thời nghuồn vốn phục vụ kinh donh, sử dụng linh hoạt các công cụ huy động vốn, xác định chính xác giá trị doanh nghiệp trên thị trường nhằm thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng hoàn thiệ các phương thức kinh doanh để đạt hiệu quả cao hơn. 1.2.Sự cần thiết phải phân tích tình hình tài chính Phân tích tình hình tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về tài chính hiện hành của doanh nghiệp với quá khứ hay so sánh giữa các doanh nghiệp khác nhau trong cùng một ngành kinh tế. Thông qua việc phân tích tình hình tài chính, người sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai và triển vọng của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như: Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các nhà cho vay tín dụng, các nhà quản lý, các nhân viên ngân hàng, các nhà bảo hiểm, kể cả các cơ quan chính phủ và người lao động. Mỗi một nhóm ngươig này có những nhu cầu thông tin khác nhau nên có những cách nhìn khác nhau về tình hình tài chính của công ty. Song trên thực tế, những nhóm người này đều dựa trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp cần quan tâm để đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn nhất, phù hợp với họ nhất. Đối vói doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Thông thường, để tối đa hoá nguồn vốn chủ sở hữu, các doanh nghiệp thường có xu hướng sử dụng đòn bẩy tài chính. Nhưng cái gì cũng có mặt trái của nó đó là rủi ro rất cao có thể dẫn tới nguy cơ phá sản của doanh nghiệp do tính thanh khoản của các dòng tiền thấp, không có đủ khả năng trả nợ. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp không đi vay, không huy động thêm vốn để mở rộng khả năng kinh doanh của mình thì nguồn vốn chủ sỏ hữu của doanh nghiệp có thể bị bào mòn dần và sẽ không tiếp tục kinh doanh được. Do đó, đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, điều đặc biệt cần lưu ý đó là phải có các chính sách bổ sung kịp thời nhằm điều tiết sự chênh lệch giữa việc huy động vốn và sử dụng vốn của mình một cách hợp lý thông qua việc phân tích các chỉ tiêu từ các bản báo cáo tài chính. Đối với các chủ ngân hàng và các tổ chức tín dụng, mối quan tâm của họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ đăc biệt chú ý tới số lượng tiền mặt, các chứng khoán khả mại, các khoản phải thu, hàng tồn kho tức tài sản lưu động của doanh nghiệp và khả năng chuyển đổi thành thành tiền nhanh của chúng, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp đó. Bên cạnh đó, các chủ ngân hàng và các tổ chức tín dụng còn quan tâm tới nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bởi vì đó chình là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp kinh doanh gặp phải rủi ro. Do vậy, việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ giúp cho họ tránh được những rủi ro đáng tiếc trong quan hệ tín dụng như hiện tượng thông tin không cân xứng hay rủi ro đạo đức. Đối với các nhà đầu tư, họ cần có những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh và các tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp để nắm được các yếu tố về rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn. Đồng thời, các nhà đầu tư cũng quan tâm tới việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả của công tác quản lý. Những điều đó nhằm đảm bảo sự an toàn và tính hiệu quả cho các nhà đầu tư đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang bắt đầu thành lập thị trường chứng khoán buộc các doanh nghiệp đăng ký niêm yiết chứng khoán phải công khai tình hình tài chính thông qua các báo cáo tài chính- kế toán dưới sự giám sát của các công ty kiểm toán. Đối với các nhà cung ứng sản phẩm hàng hoá đầu vào họ cần phải xem xem có nên cho doanh nghiệp mua chịu hàng hoá hay không. Do đó họ cần phải biết khả năng thanh toán của khách hàng hiện tại và thời gian sắp tới cũng như uy tín của khách hàng trong quan hệ vay mượn, thanh toán nợ. Phân tích tài chính còn rất cần thiết đối với các co quan thuế, cơ quan tài chính, thống kê, chủ quản những người lao động…Sở dĩ họ cần những thông tin này là do họ có liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm của doanh nghiệp như nghĩa vụ nộp thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp cũng như quyền lợi được hoàn lại thuế và hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp từ phía Chính phủ. Như vậy, phân tích tình hình tài chính là rất cần thiết, nhó đó mà giúp những người ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác thực trạng, tiềm năng của doanh nghiệp. II. Hệ thống báo cáo tài chính – công cụ để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp . 2.1. Mục đích và nội dung của báo cáo tài chính . * Mục đích của báo cáo tài chính Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, vốn và công nợ cũng như tình hình tài chính và kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Những báo cáo này do kế toán soạn thoả theo định kỳ nhằm mục đích cung cấp thông tin về kết quả và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Bởi vậy, hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp được lập với mục đích sau: + Tổng hợp và trình bày một cách tổng quát, toàn diện tình hình tài sản, công nợ, nguồn vốn, tình hình và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ hạch toán như: Tài sản lưu động, tài sản cố định, nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, nguồn vốn chủ sở hữu trong bảng cân đối kế toán hay doanh thu, thu nhập trước lãi và thuế, thu nhập sau thuế trong báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp…. + Cung các các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu cho việc đánh giá tình hình và kết quả hoạt động, thực trạng tài chính của doanh nghiệp trong kỳ hoạt động đã qua và những dự đoán trong tương lai. Thông tin của báo cáo tài chính là căn cứ quan trọng để đè ra những quyết định về quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, hoặc đầu tư vào doanh nghiệp của chủ sở hữu, các nhà đầu tư, các chủ nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp. *Nội dung của hệ thống báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính quy định cho các doanh nghiệp gồm 4 biểu mẫu báo cáo: + Bảng cân đối kế toán (Mẫu số B01-DN) + Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Mẫu số B02-DN) + Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Mẫu số B03-DN) + Thuyết minh báo cáo tài chính (Mẫu số B04-DN) Ngoài ra còn tồn tại một số báo cáo khácphục vụ các yêu cầu của doanh nghiệp như báo cáo giá thanhf sản phẩm dịch vụ, báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh, báo cáo chi tiết công nợ… Nội dung phương pháp tính toán, hình thức trình bày các chỉ tiêu trong từng báo cáo quy định trong chế độ này được áp dụng thống nhất cho các doanh nghiệp. 2.2.Trách nhiệm, thời hạn lập báo cáo tài chính . + Tất cả các doanh nghiệp độc lập ( không nằm trong cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp khác) có tư cách pháp nhân đầy đủ đều phải lập và gửi báo cáo tài chính theo đúng quy định. Riêng báo cáo lưu chuyển tiền tệ, tạm thời chưa quy định là phải lập và gửi nhưng Nhà nước đang khuyến khích các doanh ghiệp thực hiện điều này. + Báo cáo tài chính quý: Đối với các doanh nghiệp Nhà nước như các doanh nghiệp trong tổng công ty và các doanh nghiệp hạch toán độc lập không nằm trong tổng công ty lập và gửi báo cáo tài chính quý chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày kết thúc quý. Đối với doang nghiệp cấp tổng công ty lập và gửi chậm nhất là 45 ngày kể từ ngày kết thúc quý. + Báo cáo tài chính năm: Đối với các doanh nghiệp hạch toán độc lập và hạch toán phụ thuộc tổng công ty ; các doanh nghiệp hạch toán độc lập không nằm trong tổng công ty thòi hạn lập và gửi báo cáo tài chính chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày kết thúc năm. Đối với tổng công ty, thời hạn lập và gửi báo cáo chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, thời hạn lập và gửi chậm nhất là 30 ngày. Đối với các loại hình doanh nghiệp khác, nếu có năm tài chính khác với năm lịch thì thời hạn lập và gửi báo cáo tài chính chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính. 2.3.Bảng cân đối kế toán . 2.3.1. Bản chất và ý nghĩa của bảng cân đối kế toán. Bảng cân đối kế toán (BCĐKT) là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Số liệu trên BCĐKT cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp theo cơ cấu của tài sản, nguồn vốn và cơ cấu nguồn hình thành các tài sản đó. Căn cứ vào BCĐKT có thể nhận xét, đành giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp. 2.3.2 Nội dung và kết cấu của BCĐKT BCĐKT được chia làm 2 phần: Phần Tài sản và Phần Nguồn vốn * Phần Tài Sản: Các chỉ tiêu ở phần Tài sản phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tai thời điểm báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản được phân chia như sau: + Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn gồm: Tiền ( tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển); Các khoản phải thu ( phải thu của khách hàng, trả trước cho người bán, phải thu nội bộ, các khoản phải thu khác, dự phòng các khoản phải thu khó đòi…); Hàng tồn kho (TSLĐ nằm trong quá trình dự trữ chuẩn bị sản xuất, TSLĐ đang trong quá trình trực tiếp sản xuất, TSLĐ nằm trong quá trình dự trữ tiêu thụ, dự phòng giảm giá hàng tồn kho) ; TSLĐ khác như tạm ứng cho người lao động, chi phí trả trước, các khoản cầm cố, ký quỹ ngắn hạn, ký cược ; Vốn lưu động thường xuyên cần thiết… Tài sản đầu tư ngắn hạn bao gồm những tài sản đầu tư tài chính có thời hạn thu hồi vốn không quá 1 năm hoặc trong một chu kỳ kinh doanh. +Tài sản cố định và tài sản đầu tư dài hạn Tài sản cố định bao gồm nhà xưởng, máy móc, thiết bị… của doanh nghiệp. Tài sản đầu tư dài hạn gồm những tài sản đầu tư tài chính có thời hạn hồi vốn trên một năm. Về mặt ý nghĩa kinh tế: Qua xem xét phần tài sản cho phép đánh giá tổng quát năng lực và trình độ sử dụng tài sản. Về mặt ý nghĩa pháp lý: Thể hiện tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản lý sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích trong tương lai. *Phần nguồn vốn: phản ánh nguồn hình thành tải sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo. Các chỉ tiêu nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với tài sản đang quản lý và sự dụng của doanh nghiệp. Nguồn vốn được chia ra: + Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu Mỗi phần của BCĐKT đều được phản ánh theo 3 cột: Mã số, số đầu năm, số cuối kỳ. Về mặt ý nghĩa kinh tế: Người sử dụng thấy được thực trạng kinh tế của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý: Người sử dụng BCĐKT thấy được trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh của Nhà Nước, về số tài sản được hình thành từ các nguồn vay ngân hàng, vay của các đối tượng khác… cũng như trách nhiệm phải thanh toán các khoản nợ với người lao động, với Nhà Nước, với nhà cung cấp… Hai phần của BCĐKT là tài sản và nguồn vốn có số tổng bao giờ cũng bằng nhau cụ thể là: Tổng Tài Sản = Tổng Nguồn Vốn Hoặc Tổng Tài Sản = Vốn chủ sở hữu + Nợ phải trả Hay Tài sản lưu động + Tài sản cố định = Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu Ngoài ra, BCĐKT còn có thêm các phần phụ phản ánh các chỉ tiêu dài hạn không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp như: Ngoại tệ các loại, vốn khấu hao, tài sản thuê ngoài, hàng hoá nhận gia công chế biến… 2.3.3. Cơ sở số liệu để lập BCĐKT + Căn cứ vào BCĐKT kỳ trước + Căn cứ vào số liệu từ sổ cái các khoản tổng hợp và chi tiết. + Căn cứ vào các tài liệu khác. + Căn cứ vào bảng cân đối tài khoản. 2.3.4. Phương pháp lập BCĐKT * Các công việc phải làm trước khi lập BCĐKT : + Kiểm tra kỹ nội dung phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào sổ kế toán có liên quan. + Khoá sổ và rút số dư các tài khoản. + Đối chiếu số liệu giữa các sổ kế toán có liên quan * Phương pháp lập : + Cột sốđầu năm căn cứ vào số liệu ở cột số cuối kỳ trên bảng cân đối tài sản ngàu 31/12 năm trước để ghi vào các chỉ tiêu tương ứng. + Đối với số cuối kỳ của những chỉ tiêu phản ánh ở phần tài sản căn cứ vào số dư bên nựo của các tài khoản cấp 1 hoặc cấp 2 trong soỏ cái tương ứng để ghi. Đối với chỉ tiêu điều chỉnh giảm tài sản như : Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn (TK 129); Dự phòng các khoản phải thu khó đòi ( TK 139); Dự phòng giảm giá hàng tồn kho ( TK159); Giá trị hao mòn luỹ kế (TK214); Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn ( TK 229) luôn có số dư bên Có khi lập BCĐKT vẫn phải phản ánh ở phần tài sản nhưng được ghi đỏ. + Đối với cột số cuối kỳ của những chỉ tiêu ở phần nguồn vốn thì được ghi bằng cách lấy số dư bên Có của các tài khoản cấp 1 hoặc cấp 2 tương ứng. Nhưng riêng các chỉ tiêu: Chênh lệch đánh giá lại tài sản( TK 412), Chênh lệch tỷ giá( TK 413); và lãi chưa phân phối( TK 421) có cả dư Nợ và dư Có. Vì vậy, nếu các tài khoản này có số dư bên Có thì ghi bằng mực đen bình thường vì là nguồn vốn chủ sử hữu tăng lên. Ngược lại, nếu các tài khoản đó có số dư bên Nợ thì được ghi với số âm. + Đối với các chỉ tiêu ngoài bảng cân đối kế toán thì được ghi theo sổ cái các tài khoản tương ứng. BCĐKT tuy là báo cáo quan trọng nhất trong các báo cáo tài chính nhưng nó chỉ phản ánh một cách toỏng quát tình thình tài sản của doanh nghiệp, nó không cho biết về kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ như các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, lưọi nhuận. Như vậy, để biết thêm các chỉ tiêu đó chúng ta cần xem xét trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. 2.4. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (BCKQHĐSXKD) 2.4.1. Bản chất và ý nghĩa của BCKQHĐSXKD BCKQHĐSXKD là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp, chi tiết theo hoạt động kinh doanh chính và các hoạt động khác, tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà Nước về thuế và các khoản phải nộp khác. 2.4.2 Nội dung và kết cấu của BCKQHĐSXKD Báo cáo gồm 3 phần: + Phần 1: Lãi, lỗ: phản ánh tình hình kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm hoạt động kinh doanh và hoạt động khác. Tất cả các chỉ tiêu trong phần này đều trình bày số liệu của kỳ trước ( để so sánh) tổng số phát sinh trong kỳ báo cáo và số luỹ kế từ đầu năm đến cuối kỳ báo cáo. + Phần 2: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước như nộp thuế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn và các khoản nộp khác. Tất cả các chỉ tiêu trong phần này đều được trình bày: Số còn phải nộp kỳ trước chuyển sang; Số phải nộp phát sinh trong kỳ báo cáo; Số đã nộp trong kỳ báo cáo; Số còn phải nộp đến kỳ báo cáo. + Phần 3: Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm: phnr ánh số thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, số thuế giá trị gia tăng được hoàn lại, đã hoàn lại và còn được hoàn lại, số thuế giá trị gia tăng được miễn giảm, đã miễn giảm và còn được miễn giảm cuối kỳ. Tất cả các chỉ tiêu trong phần này đều trình bày số phát sinh trong kỳ báo cáo và số luỹ kể từ đầu năm cho đến cuối kỳ báo cáo. 2.4.3. Cơ sở và phương pháp lập + Căn cứ vào báo cáo kết quả kinh doanh kỳ trước + Căn cứ vào sổ kế toán trong kỳ các tài khoản từ loại 5 đến loại 9. 2.5.Báo cáo lưu chuyển tiền tệ 2.5.1.Bản chất và ý nghĩa của báo cáo lưu chuyển tiền tệ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh theo các hoạt động khác nhau trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ, người sử dụng có thể đánh giá được khả năng thanh toán của doanh nghiệp và dự đoán được lượng tiền tiếp theo. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thực chất là một báo cáo cung cấp thông tin về những sự kiện và nghiẹep vụ kinh tế phát sinh có ảnh hưởng đến tình hình tiền tệ của doanh nghiệp, cụ thể là những thông tin về: + Doanh nghiệp đã bằng cách nào kiếm được tiền và chi tiêu như thế nào + Quá trình đi vay và trả nợ của doanh nghiệp + Quá trình mua bán lại chứng khoán vốn của doanh nghiệp và của các doanh nghiệp khác. Phần thu nhập từ hoạt động trên thị trường chứng khoán do giá chứng khoán của công ty cao hơn sẽ được bổ sung vào phần “ thặng dư vốn” trong nguồn vốn chủ sở hữu. + Quá trình thanh toán cổ tức và các quá trính phân phối khác cho chủ sở hữu như các cổ đông thường , cổ đông ưu đãi và các đối tượng khác như trái chủ, các tổ chức tín dụng. + Các yếu tố ảnh hưởng đên khả năng thanh toán của doanh nghiệp có thể là do rủi ro hệ thống hoặc rủi ro không hệ thống. 2.5.2. Kết cấu và nội dung của báo cáo lưu chuyển tiền tệ Trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ thể hiện tình hình tài chính của 3 hoạt động chủ yếu mà có khả năng biến đổi đồng tiền, đó là: + Hoạt động sản xuất kinh doanh + Hoạt động đầu tư + Hoạt động tài chính Ngoài ra nó còn gồm phần: Tăng( giảm) tiền, tiền đầu kỳ và tiền cuối kỳ. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh: Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các dòng tiền này gồm: + Các dòng thu tiền mặt từ tiền thu bán hàng, từ doanh thu dịch vụ phục vụ, các khoản thu bất thường bằng tiền mặt khác. + Các dòng tiền mặt trả cho người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ, tiền thanh toán cho công nhân về tiền lương và bảo hiểm xã hội, …, các chi phí khác bằng tiền như chi văn phòng phẩm, công tác phí… Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư : Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư bao gồm 2 phần: + Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho bản thân doanh nghiệp như hoạt động xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định. + Đầu tư vào các đơn vị khác dưới hình thức góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán, cho vay không phân biệt đầu tư ngắn hạn hay dài hạn. + Dòng tiền thu vào gồm thu từ bán tài sản cố định, máy móc thiết bị; bán chứng khoán đầu tư của công ty khác, thu nợ của công ty khác; thu tiền lãi cổ phần đầu tư. Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính: phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đền hoạt động tài chính của doanh nghiệp. + Dòng tiền thu gồm: chủ doanh nghiệp góp vốn, vay vốn, nhận vốn liên doanh, phát hành cổ phiếu, trái phiếu,… + Dòng tiền chi ra gồm tiền trả cho các bên góp vốn, trả lãi cổ phiếu, trái phiếu bằng tiền… Việc báo cáo lượng tiền lưu chuyển theo ba mặt hoạt động có tác dụng giúp doanh nghiệp nắm được tưngf mặt hoạt động đã tạo ra các luồng tiền vào doanh nghiệp bằng cách nào và việc chi dùng tiền cho từng hoạt động, từ đó có thể biết được hoạt động nào mang lại nhiều lợi nhuận nhất, hoạt động nào sử dụng nhiều tiền nhất và sự hợp lý của việc sử dụng các khoản tiền đó. 2.5.3.Phương pháp lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Có hai phương pháp lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ: phương pháp trực tiếp và gián tiếp. Hai phương pháp này chỉ khác nhau khi tính lượng tiền lưu chuyển từ hoạt động kinh doanh , còn lượng tiền lưu chuyển từ hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính được tính như nhau. Nếu phương pháp gián tiếp chọn chỉ tiêu lãi thuần từ hoạt động kinh doanh làm điểm bắt đầu để đieèu chỉnh các khoản theo cơ sở trên nhằm xác định lượng tiền lưu chuyển từ hoạt động kinh doanh thì phương pháp trực tiếp lại bắt đầu từ chỉ tiêu doanh thu bán hàng. NHư vậy, hai phương pháp này mặc dù xuất phát từ hai chỉ tiêu khác nhau nhưng lại giống nhau ở chỗ đều phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh nên cuối cùng cả hai sẽ cùng dẫn đến một kết quả thống nhất lượng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh. 2.6.Thuyết minh báo cáo tài chính 2.6.1.Bản chất và ý nghĩa Thuyết minh báo cáo tài cính là một bộ phận hợp thành hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình tài chính , tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các báo cáo tài chính khác không thể trình bày rõ ràng, chi tiết được. 2.6.2.Nội dung Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp áp dụng, tình hình và lý do biến động của một số đối tượng tài sản và nguồn vốn quan trọng, phân tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu và các kiến nghị của doanh nghiệp. 2.6.3.Cơ sở tài liệu để lập thuyết minh báo cáo tài chính + Các sổ kế toán trong kỳ báo cáo + Bảng cân đối kế toán trong kỳ báo cáo + Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ báo cáo + Thuyết minh báo cáo tài chính kỳ trước hoặc năm trước 2.6.4.Phương pháp chung để lập thuyết minh báo cáo tài chính Phần trình bày bằng văn bản phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, số liệu phải thống nhất với số liệu trên báo cáo khác. Đối với các báo cáo quý, các chỉ tiêu thuộc phần chế độ kế toán phải thống nhất trong cả niên độ kế toán. Các chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp chỉ sử dụng trong thuyết minh báo cáo tài chính năm. Trong thuyết minh báo cáo tài chính phải thể hiện cá chỉ tiêu sau: + Chi phí sản xuất, kinh doanh theo yếu tố: Chỉ tiêu này phản ánh toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm: Chi phí nguyên liệu, vật liệu; Chi phí nhân công; Chi phí khấu hao tài sản cố định; Chi phí dịch vụ mua ngoài; Chi phí khác bằng tiền. + Tình hình tăng giảm tài sản cố định (TSCĐ): chỉ tiêu phản ánh tình hình tăng giảm TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình, TSCĐ thuê tài chính. + Tình hình thu nhập của công nhân viên: phản ánh thu nhập bình quân của công nhân viên và các khoản khác có liên quan đến tiền lương. + Tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu: phản ánh tăng giảm các nguồn vốn chủ sở hữu trong kỳ báo cáo và lý do tăng giảm. + Tình hình tăng giảm các khoản đầu tư vào các đơn vị khác: phản ánh tổng số tăng giảm các khoản đầu tư vào đơn vị khác như góp vốn liêndoanh, đầu tư vào chứng khoán và lý do tăng giảm. + Các khoản phải thu và nợ phải trả: phản ánh tình hình tăng giảm các khoản phải thu và nợ phải trả, các khoản đã quá hạn thanh toán, đang tranh chấp hoặc mất khả năng thanh toán trong kỳ báo cáo theo từng đối tượng cụ thể và lý do chủ yếu. + Một số chỉ tiêu để đánh giá khái quát tình hình hoạt độg của doanh nghiệp như bố trí cơ cấu vốn, tỷ suất lợi nhuận, tỷ lệ nợ phải trả so với toàn bộ tài sản, khả năng thanh toán. III.Sử dụng các báo cáo tài chính để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Một trong những giá trị sử dụng quan trọng của các báo cáo tài chính là xác định hiệu quả quản lý chi phí và khả năng sinh lời của một công ty. Điều này có thể thực hiện được bằng cách so sánh báo cáo thu nhập của ngành này hay của một công ty làm ăn tốt nhất trong ngành. Các báo cáo thu nhập cũng có thể cho biết lợi nhuận của công ty chịu ảnh hưởng do thay đổi trong chi phí có định như tiền lãi, khấu hao cũng như những chi phí cố định ảnh hưởng như thế nào. Các bảng cân đối kế toán giúp các nhà quản lý của doanh nghiệp xem liệu mức tài sản có ( nguồn vốn) và một tài sản nhất định nào đó có được sử dụng một cách hiệu quả hay không. Ta có thể lấy một ví dụ về m._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV210.doc