Báo cáo Nghiên cứu khoa học - Tội ác và hình phạt của dostoevsky qua góc nhìn tâm lý học tội phạm

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU: TỘI ÁC VÀ HÌNH PHẠT CỦA DOSTOEVSKY QUA GÓC NHÌN TÂM LÝ HỌC TỘI PHẠM Các thành viên thực hiện: Hoàng Thị Hương Thùy – DK68 Ngữ văn Vũ Thị Hương Giang – CLCK68 Ngữ văn Lương Thủy Tiên – DK68 Ngữ văn Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Thành Đức Hồng Hà Hà Nội, tháng 4 năm 2021 MỤC LỤC Danh mục Trang A. MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề. 3 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

pdf70 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 05/01/2022 | Lượt xem: 1088 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Nghiên cứu khoa học - Tội ác và hình phạt của dostoevsky qua góc nhìn tâm lý học tội phạm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u.. 5 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 7 5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................... 7 6. Ý nghĩa đề tài .. 8 7. Bố cục.. 9 B. NỘI DUNG. 9 Chương 1: Giới thuyết chung về tâm lý học tội phạm và màu sắc tâm lý học tội phạm trong Tội ác và hình phạt 9 1.1. Những vấn đề chung về tâm lý học tội phạm 9 1.2. Bức tranh tâm lý học tội phạm trong Tội ác và hình phạt... 19 Chương 2: Hành vi phạm tội trong Tội ác và hình phạt. 22 2.1. “Tội ác” và “hình phạt” – nguyên nhân và hệ quả của tâm lý học tội phạm 22 2.2. Tội ác – những hành động phạm tội từ tâm lý “không nguyên vẹn” 24 2.3. Hình phạt – sự khủng hoảng trong tâm lý người phạm tội.. 39 2.4. Sự cứu rỗi và hoàn lương. 50 Chương 3: Phương thức thể hiện tâm lý học tội phạm trong Tội ác và hình phạt.. 53 3.1. Mô hình tiểu thuyết đa thanh.. 53 3.2. Phá vỡ motif truyện trinh thám... 60 C. KẾT LUẬN.. 63 A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nếu coi văn học nhân loại là một bức tranh rực rỡ thì ta không thể không kể đến sự đóng góp của gam màu nổi bật trong văn học Nga. Đặc biệt, văn học Nga thế kỷ XIX là một trong những giai đoạn ngời sáng bởi sự xuất hiện của các nhà văn vĩ đại, cùng với đó là những tác phẩm bất hủ cùng thời đại. Điều đó đã tạo bệ phóng cho văn học Nga vươn mình phát triển và đạt được những thành tựu to lớn, mang những tư tưởng tiến bộ của thời đại, những khát khao đấu tranh để giải quyết những vấn đề xã hội từ nửa đầu đến nửa cuối thế kỷ XIX. “Sự trưởng thành” kỳ diệu ấy của văn học Nga đã khiến các nhà nghiên cứu phương Tây ví nó như “một phép lạ”, được M.Gorki nhận xét “như một hiện tượng kỳ diệu”. Với tốc độ nhanh chóng để vươn tới ánh hào quang chói lọi, văn học Nga đã khẳng định tầm quan trọng của mình, ghi tên mình một cách ấn tượng trên bản đồ văn học nhân loại, được thế giới công nhận vì vẻ đẹp và sức mạnh của mình. Fyodor Dostoevsky (1821-1881), cùng với Lev Tolstoy, được coi là hai cây đại thụ của văn học Nga nửa sau thế kỉ XIX. M. Gorky từng ca ngợi Dostoevsky rằng: “Cần phải xuất hiện một con người thể hiện được trong tâm hồn mình kí ức về tất cả những đau khổ của con người và phản ánh được cái ký ức khủng khiếp đó - con người ấy là Dostoevsky”. Dostoevsky có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ và rực rỡ đáng cảm phục với những kiệt tác xếp vào hạng kinh điển của văn học nhân loại. Trong đó cuốn tiểu thuyết Tội ác và hình phạt là tác phẩm đầu tiên trong bộ “Ngũ kinh”, cũng là tác phẩm được biết đến rộng rãi nhất của ông. Nó được coi là “cuốn tiểu thuyết hoàn chỉnh và hay nhất trong toàn bộ hệ thống tác phẩm của Dostoevsky, là tác phẩm có nội dung bi thảm nhất của nền văn học nhân loại” [6, 1756]. Tội ác và hình phạt xoay quanh hành trình gây tội ác và cuộc vật lộn với hình phạt tâm lí diễn ra trong nhân vật chính - chàng sinh viên trẻ Raskolnikov, từ một người giàu tình thương trở nên bất bình với xã hội, tự dựng lên một hệ tư 1 tưởng và quyết định giết người để thử nghiệm cho hệ tư tưởng của mình. Dostoevsky sẽ khắc họa một cách vô cùng sinh động sự phức tạp không thể nào khám phá hết trong tâm lý của con người. Tội ác và hình phạt là tiểu thuyết tâm lý điển hình, là sản phẩm tinh thần vĩ đại của bậc thầy tiểu thuyết tâm lý Dostoevsky. Đây là một tiểu thuyết đa thanh phức tạp, diễn biến tâm lí nhân vật trải dài xuyên suốt lộ trình tác phẩm. Từ góc độ tâm lý, nhà văn đã khai thác một cách sâu sắc nhất những nét tính cách đầy phức tạp, mâu thuẫn giữa những nguyên tắc về lý tưởng đạo đức và những suy nghĩ sai lầm, lệch lạc trong nhận thức của nhân vật. Dostoevsky đã thành công trong việc vận dụng điều đó mà gieo vào lòng người đọc những dư âm băn khoăn sau khi tác phẩm khép lại: Bản chất thực sự trong hành động giết người của Raskolnikov là gì? Tại sao Raskolnikov đã tự thú nhưng vẫn không phục? Nguyên nhân nào khiến Sonya tránh khỏi tội lỗi nghiệt ngã như Raskolnikov trong khi cô cũng rơi vào hoàn cảnh bi kịch?... Đó là những điều không đơn giản để nhận ra trong quá trình tâm lý mà tác giả đã thể hiện trong toàn bộ tiểu thuyết. Khi đặt Dostoevsky đối sánh với Gogol, có một nhà phê bình đã nhận ra điểm đặc biệt: “Gogol trước hết là nhà văn mang tính xã hội, còn Dostoevsky là nhà văn tâm lý. Đối với Gogol, cá nhân có ý nghĩa như một đại diện của một giai tầng xã hội nhất định, còn với Dostoevsky, xã hội được quan tâm ở phạm vi tác động lên tính cách cá nhân”. Do đó, Tội ác và hình phạt đòi hỏi ở người đọc sự nghiền ngẫm và tiếp nhận các hệ tư tưởng đang tranh đấu trong nó một cách sáng suốt. Đặc biệt, khi chúng tôi chọn nghiên cứu tác phẩm ở góc nhìn của tâm lý học tội phạm thì đây là một hình thức lý giải tác phẩm chuẩn mực. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến những vấn đề khác nhau của tác phẩm Tội ác và hình phạt nhưng chưa có nhiều tài liệu và nghiên cứu nào cụ thể, chuyên sâu về vấn đề tâm lý học tội phạm trong tác phẩm này. Hiện nay, tâm lý học tội phạm có thể coi là một trong những lĩnh vực tâm lý được nhiều người quan 2 tâm nhất. Tuy không phải tất cả các thể loại văn học đều sử dụng tâm lý học tội phạm làm chất liệu sáng tác, nhưng với một tiểu thuyết tiêu biểu có màu sắc hình sự và chất liệu từ tâm lý học tội phạm như Tội ác và hình phạt của Dostoevsky, người viết nhận thấy có thể nghiên cứu tác phẩm qua góc nhìn của tâm lý học tội phạm. Vì vậy, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Tội ác và hình phạt của Dostoevsky qua góc nhìn tâm lý học tội phạm để đóng góp một cái nhìn rõ hơn và tương đối mới mẻ về tác phẩm cũng như tác giả Dostoevsky. 2. Lịch sử vấn đề Dostoevsky được coi là “người khổng lồ” không chỉ văn học Nga mà còn là của văn học thế giới, chính vì vậy những công trình nghiên cứu về Dostoevsky và sáng tác của ông vô cùng phong phú. Nghiên cứu tổng thể về Dostoevsky, một số công trình nghiên cứu có ảnh hưởng ở Việt Nam từ trước đến nay có thể kể đến: Năm 1993, nhà nghiên cứu M.Bakhtin trong cuốn Những vấn đề thi pháp Dostoevsky đã khai thác những vấn đề về người trần thuật, ngôn ngữ, nhân vật và lập trường tác giả trong tiểu thuyết Dostoevsky. Đóng góp lớn nhất của công trình này là đã chỉ ra đặc trưng “tiểu thuyết đa thanh” trong sáng tác của Dostoevsky. Năm 1997, Nguyễn Kim Đính viết phần Dostoevsky trong Lịch sử văn học Nga, trình bày khá kỹ càng những vấn đề về tiểu sử, đặc điểm phong cách và những tác phẩm tiêu biểu của tiểu thuyết Dostoevsky. Đồng thời cũng chỉ ra mạch triển khai các tuyến nhân vật song song làm nổi bật nhân vật trung tâm. Năm 2000, công trình của Lê Sơn tổng hợp các bài dịch, lược thuật nghiên cứu của học giả thế giới về Dostoevsky, in thành sách Sáng tác của Dostoevsky những tiếp cận từ nhiều phía. Giáo trình văn học Nga do PGS.TS Đỗ Hải Phong viết đã phân tích khá sâu sắc và chi tiết những nét chủ đạo trong sáng tác của Dostoevsky, đồng thời cũng đề cập 3 đến hệ thống nhân vật “chung đôi” và nhân vật mang tư tưởng trong đặc trưng sáng tác. Ngoài ra, PGS.TS Đỗ Hải Phong còn nhận xét về nhân vật mang tư tưởng trong sáng tác của Dostoevsky: “Tính tâm lý trong tác phẩm của Dostoevsky gắn liền với tính triết lí, tính ý thức hệ của nhân vật. Những nhân vật trung tâm của Dostoevsky thường là những nhân vật, nhà tư tưởng, những nhân cách luôn trăn trở với ý thức về giới và về chính mình” [15, 63]. Năm 2015, trên tạp chí Nghiên cứu Văn học đăng bài viết của Trần Thị Nâu về đề tài: Cái đẹp sẽ cứu thế giới - Cảm thức tôn giáo trong sáng tác của Dostoevsky. Riêng nói về tiểu thuyết Tội ác và hình phạt, đây là tác phẩm phổ biến nhất của Dostoevsky. Trong các công trình nghiên cứu trên cũng đã đưa ra nhiều phân tích, đánh giá về nhân vật, tư tưởng về nghệ thuật của tác phẩm. Bài viết Dostoevsky và di sản văn học của ông của Khrapchenko năm 1972 (được dẫn trong công trình tổng hợp của Lê Sơn) nhắc đến mối liên quan giữa Dostoevsky và sáng tác của ông với xã hội nước Nga đương thời. Ngoài ra, nhà nghiên cứu còn phân tích học thuyết cá nhân với triết lý tự kỷ trung tâm trong các nhân vật của Tội ác và hình phạt. Đỗ Hải Phong phân tích sâu bi kịch cuộc sống khốn cùng đưa đến tội lỗi, hình phạt cùng sự cứu rỗi, hệ thống nhân vật chung đôi trong Tội ác và hình phạt. Năm 2017, trên tạp chí Nghiên cứu Văn học đăng bài viết của Thành Đức Hồng Hà về Biểu tượng màu sắc trong Tội ác và hình phạt của Dostoevsky, tìm hiểu “giá trị tiềm ẩn khuất lấp sau từng biểu tượng cũng như mối liên hệ giữa chúng, những thông điệp mà nhà văn gửi gắm, khẳng định tính nhân văn của tác phẩm” [6, 101]. Năm 2020, Đỗ Thị Hường có bài viết Giải mã không gian trong Tội ác và hình phạt của Dostoevsky, nghiên cứu không gian trong mối quan hệ với cốt truyện. Trong đó, người viết phân tích các không gian thực - trong nhà, trên ngưỡng, 4 không gian Peterburg; không gian hồi cố và dự cảm trong những giấc mơ; và không gian thoáng rộng ở thảo nguyên nơi Raskolnikov được phục sinh tinh thần. Năm 2020, Nguyễn Thị Hoàn có bài báo bằng tiếng Nga nghiên cứu sự chuyển dịch tư tưởng của Raskolnikov qua các bản dịch sang tiếng Việt, đăng trên tạp chí Khoa học Ngoại ngữ số 61 (tháng 3/2020). Vì điều kiện ngoại ngữ nên chúng tôi không thể đọc được toàn văn bài báo này. Dựa theo tóm tắt, tác giả của bài báo khẳng định tư tưởng là một trong những nguyên nhân chính đẩy Raskolnikov - “một người có bản chất tốt - vào một tội ác khủng khiếp”, bằng việc so sánh ba bản dịch tiểu thuyết để đánh giá sự chuyển dịch tư tưởng của Raskolnikov trong các bản dịch. Thông qua tóm lược một số công trình nghiên cứu về Dostoevsky nói chung và tiểu thuyết Tội ác và hình phạt nói riêng, chúng tôi nhận thấy có những xu hướng nghiên cứu chung như: - Tiếp cận tác phẩm từ góc độ văn học, sử dụng bộ công cụ của thể loại tiểu thuyết, khảo sát các chi tiết nghệ thuật để phân tích mối quan hệ với nhân vật chính Raskolnikov - Tiếp cận tác phẩm từ góc độ văn hóa, khảo sát các biểu tượng không gian, màu sắc để chỉ ra ý nghĩa với cốt truyện và nhân vật Như vậy, ngoài một số bài viết riêng lẻ trên các trang mạng điện tử đặt ra vấn đề động cơ phạm tội của Raskolnikov thì chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu tiểu thuyết Tội ác và hình phạt dưới góc nhìn tâm lý học tội phạm. Bởi vậy, chúng tôi cần xem xét, bổ sung, hoàn thiện để làm nên thành công của mảng đề tài này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu 5 Mục đích của đề tài Tội ác và hình phạt của Dostoevsky qua góc nhìn tâm lý học tội phạm là tìm hiểu, phân tích, đánh giá và lý giải các phạm trù được đề cập đến trong tác phẩm, cụ thể là những tội ác và hình phạt từ điểm nhìn của tâm lý học tội phạm. Từ đó, chúng tôi thấy được những giá trị cũng như ý nghĩa mà nhà văn Dostoevsky đã đóng góp cho chủ nghĩa hiện thực nói chung và mảng tiểu thuyết tâm lý nói riêng thông qua tác phẩm Tội ác và hình phạt. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện đề tài này với những mục đích trên, chúng tôi hướng đến đạt được những yêu cầu sau đây: Thứ nhất, xây dựng một vài điểm khái quát cơ bản về tâm lý học tội phạm. Đây là tiền đề để chúng tôi sử dụng tâm lý học tội phạm làm điểm tựa vững chắc để lý giải và chứng minh những yếu tố mang màu sắc tâm lý học tội phạm xuất hiện trong tác phẩm ở bài báo cáo của mình. Thứ hai, phân tích về tâm lý học tội phạm, làm rõ hành vi phạm tội của các nhân vật đặc biệt là nhân vật chính Raskolnikov trong Tội ác và hình phạt, từ đó chúng tôi khẳng định vai trò của tâm lý học tội phạm trong tác phẩm. Thứ ba, qua việc phân tích tâm lý các nhân vật, đặc biệt là tâm lý tội phạm, những động cơ phạm tội khác nhau, chúng tôi trình bày các hình phạt tương xứng với tội ác. Trong đó, báo cáo chú trọng làm rõ hình phạt về tâm lý, đồng thời, nhấn mạnh niềm tin của Dostoevsky vào sự che chở của Chúa là sự cứu rỗi tâm hồn con người. Thứ tư, thông qua nghiên cứu cho thấy phương thức thể hiện tâm lý học tội phạm qua mô hình tiểu thuyết đa thanh và motif truyện trinh thám độc đáo - một sáng tạo riêng của Dostoevsky. Từ những vấn đề đã nghiên cứu trên, nhóm nghiên cứu rút ra những bài học về việc ứng dụng tâm lý học tội phạm cả trong công tác giảng dạy các tác phẩm văn học và trong đời sống thực tại. Nhóm nghiên cứu cần thấy được sự khởi đầu, 6 những phát hiện vĩ đại của Dostoevsky ở phương pháp ứng dụng tâm lý vào sáng tác bằng bút pháp tài tình của mình. Khi đã xác định rõ ràng những mục đích nghiên cứu về đề tài đồng nghĩa với việc nhóm thực hiện báo cáo đã triển khai những vấn đề chính một cách logic, khoa học và cố gắng thực hiện báo cáo nghiên cứu một cách nghiêm túc và hoàn chỉnh nhất. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài mà chúng tôi chọn lựa để nghiên cứu là Tội ác và hình phạt của Dostoevsky qua góc nhìn tâm lý học tội phạm nên đối tượng chúng tôi hướng tới là tiểu thuyết Tội ác và hình phạt của Dostoevsky (bản dịch của Cao Xuân Hạ và Cao Xuân Phố) và những khía cạnh có liên quan trực tiếp tới biểu hiện của tâm lý học tội phạm trong tác phẩm: các khái niệm phổ quát về tâm lý học tội phạm, các vấn đề của tâm lý học tội phạm có thể khai thác trong tác phẩm, vai trò, vị trí của tâm lý học tội phạm nói chung và đối với tác phẩm nói riêng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Do vấn đề chỉ giới hạn trong một tác phẩm cụ thể nên phạm vi nghiên cứu chỉ được giới hạn trong phạm vi hẹp. Vì vậy, chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu là vấn đề tâm lý học tội phạm trong tác phẩm Tội ác và hình phạt. Ngoài ra, để báo cáo có sự hoàn thiện nhất cho đề tài nghiên cứu, chúng tôi có sử dụng các tư liệu, tài liệu tham khảo, giáo trình thu thập được có liên quan trực tiếp tới đề tài nghiên cứu này. 5. Phương pháp nghiên cứu Khi nghiên cứu một đề tài khoa học, điều đầu tiên đòi hỏi sinh viên là vốn kiến thức vững chắc về mảng đề tài mà mình nghiên cứu. Hơn thế nữa, sinh viên cần có 7 sự yêu thích, sự say mê tìm tòi, khám phá và đầu tư chỉn chu cho một công trình khoa học quan trọng. 5.1. Phương pháp phân tích: Để hoàn thành đề tài nghiên cứu Tội ác và hình phạt qua góc nhìn tâm lý học tội phạm, chúng tôi tiến hành khảo sát, phân tích văn bản Tội ác và hình phạt từ góc độ lịch sử, góc độ lý luận đến góc độ tâm lý, khía cạnh con người, những tác động từ vấn đề xã hội; kết hợp phân tích các yếu tố của tâm lý học tội phạm áp dụng trong nghiên cứu tác phẩm. 5.2. Phương pháp thu thập và đánh giá tài liệu nghiên cứu Trên cơ sở thu thập các công trình nghiên cứu, các tài liệu có liên quan về tâm lý, tội phạm học, tâm lý học tội phạm, cũng như về Dostoevsky và tiểu thuyết Tội ác và hình phạt, tiến hành phân loại tài liệu dựa theo các tiêu chí, đánh giá và tiếp nhận các ý kiến phù hợp. * Sự hỗ trợ từ giảng viên hướng dẫn: Ngoài những phương pháp trên, để hoàn thành đề tài nghiên cứu một cách tốt nhất, chúng tôi may mắn có sự hỗ trợ, định hướng tỉ mỉ từ PGS.TS Thành Đức Hồng Hà. Sự đồng hành hướng dẫn của cô là một trong những yếu tố không nhỏ tạo nên thành công cho công trình nghiên cứu khoa học này. 6. Ý nghĩa đề tài Chúng tôi đã giới thiệu ngắn gọn những vấn đề, nhận định xoay quanh tác phẩm Tội ác và hình phạt của các tác giả trong và ngoài nước. Từ đó, chúng tôi tiếp thu, học hỏi và phản biện trên tinh thần đối thoại những vấn đề đó để phân tích những phương diện thể hiện rõ ràng việc sử dụng tâm lý học tội phạm trong tác phẩm Tội ác và hình phạt. Đề tài đi sâu vào nghiên cứu về tâm lý học tội phạm trong tác phẩm Tội ác và hình phạt sẽ phần nào đưa đến cho người đọc hiểu thêm một góc nhìn, khía cạnh khác 8 về tác phẩm này. Đồng thời, chúng tôi chỉ ra vị trí vai trò của tâm lý học tội phạm được Dostoevsky sử dụng trong tác phẩm để làm rõ hơn nghệ thuật đặc sắc đã sáng tạo nên cuốn tiểu thuyết tâm lý nổi tiếng của nhà văn Dostoevsky. Qua việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi hy vọng sẽ đóng góp một góc nhìn mới mẻ về tác phẩm. Đề tài không chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin, làm mới cách tiếp cận tác phẩm mà còn đóng góp cho công tác giảng dạy, ứng dụng những lý thuyết của tâm lý học tội phạm vào đời sống, góp phần ngăn chặn những hành vi phạm tội, đảm bảo an ninh trật tự xã hội. 7. Bố cục Bài báo cáo ngoài phần mở đầu, tổng kết, thư mục tham khảo gồm ba chương chính. Cụ thể: Chương 1: Giới thuyết chung về tâm lý học tội phạm (TLHTP) và màu sắc tâm lý học tội phạm trong Tội ác và hình phạt Chương 2: Hành vi phạm tội trong Tội ác và hình phạt Chương 3: Phương thức thể hiện tâm lý học tội phạm trong Tội ác và hình phạt B. NỘI DUNG Chương 1: Giới thuyết chung về tâm lý học tội phạm và màu sắc tâm lý học tội phạm trong Tội ác và hình phạt 1.1. Những vấn đề chung về tâm lý học tội phạm 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Tâm lý tội phạm Có rất nhiều khái niệm nói về Tâm lý tội phạm, trong đó, bao gồm những thuật ngữ có ý nghĩa tương đồng với nó. Tâm lý tội phạm, tâm lý ý thức phạm tội, tâm lý phạm tội là những thuật ngữ có nội dung giống nhau. Đó là tâm lý tiêu cực phản ánh sự tác động của những yếu tố 9 tiêu cực trong môi trường xung quanh đến cá nhân, định hướng, điều khiển, điều chỉnh hành vi phạm tội. Tâm lý tội phạm là trạng thái tư tưởng, tình cảm, suy nghĩ của tội phạm có liên quan đến việc chuẩn bị và thực hiện tội phạm, sự hình thành tâm lý phạm tội, ý đồ phạm tội và những biện pháp, phương thức thực hiện tội phạm. (Thư viện pháp luật) Tâm lý tội phạm là tâm lý tiêu cực bao gồm các trạng thái, tư tưởng, suy nghĩ của tội phạm có liên quan đến việc chuẩn bị và thực hiện tội phạm với ý đồ, những biện pháp, phương thức thực hiện tội phạm nhằm phản ánh những tác động của những yếu tố tiêu cực trong môi trường xung quanh đến cá nhân, định hướng, điều khiển, điều chỉnh hành vi phạm tội. 1.1.1.2. Tâm lý người phạm tội Tâm lý người phạm tội giống tâm lý của người không phạm tội ở điểm: trong tâm lý của học đều có cả tâm lý tích cực và tiêu cực nhưng không bao gồm tâm lý tội phạm. Tâm lý người phạm tội khác tâm lý của người không phạm tội ở điểm: trong tâm lý người phạm tội tồn tại tâm lý tội phạm. Như vậy, tâm lý người phạm tội có những điểm giống với tâm lý người không phạm tội, nhưng tồn tại tâm lý tội phạm. 1.1.1.3. Tâm lý học tội phạm Cuối thế kỉ XIX, cùng với sự ra đời của khoa học nghiên cứu về tội phạm, tâm lý học tội phạm – một chuyên ngành tâm lý học chuyên nghiên cứu về tâm lý của những người phạm tội được hình thành. Trải qua các giai đoạn phát triển, tâm lý học tội phạm trở thành một ngành khoa học độc lập nghiên cứu các hiện tượng tâm lý nảy sinh ở người phạm tội, những vấn đề, những quy luật tâm lý liên quan đến hoạt động của tội phạm. Tâm lý học tội phạm là khoa học nghiên cứu những hiện tượng tâm lý nảy sinh trong quá trình hoạt động phạm tội của tội phạm nhằm phòng ngừa, phát hiện và 10 đấu tranh chống tội phạm, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn trật tự xã hội. 1.1.2. Vị trí, vai trò của tâm lý học tội phạm 1.1.2.1. Vị trí của tâm lý học tội phạm Tâm lý học tội phạm có vị trí quan trọng trong hệ thống các khoa học pháp lý. Nó là 1 bộ phận cấu thành của tâm lý học pháp lý, nghiên cứu tâm lý người phạm tội cũng như các vấn đề, các khía cạnh tâm lý nảy sinh trong hoạt động phạm tội của tội phạm nhằm giúp cho hoạt động điều tra, xét xử và cải tạo giáo dục người phạm tội có kết quả. Tâm lý học tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với tội phạm học, khoa học điều tra hình sự, tâm lý học nhân cách, tâm lý học hoạt động Nó được nghiên cứu, xây dựng dựa trên lý luận của các ngành tâm lý học nói trên. 1.1.2.2. Vai trò của tâm lý học tội phạm Tâm lý học tội phạm có vai trò to lớn trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Những kết quả nghiên cứu các vấn đề, các quy luật tâm lý nảy sinh trong hoạt động phạm tội của tội phạm đã góp phần nâng cao hiệu quả của các mặt hoạt động này. Việc nghiên cứu tâm lý học tội phạm là cơ sở quan trọng cho việc giáo dục, cải tạo người phạm tội. Nghiên cứu làm rõ đặc điểm tâm lý, nhân cách của đối tượng, bị cáo, phạm nhân cho phép cơ quan có thẩm quyền xây dựng những biện pháp tác động phù hợp, đảm bảo việc thực hiện hóa mục đích của hoạt động điều tra, xét xử và thi hành án. 11 Việc nghiên cứu, hoàn thiện lý luận của tâm lý học tội phạm góp phần quan trọng vào việc xây dựng, bổ sung lý luận cho khoa học điều tra hình sự và khoa học tâm lý pháp lý. 1.1.3. Nguồn gốc của tâm lý học tội phạm 1.1.3.1. Những tác động tiêu cực của môi trường quốc tế Với xu hướng toàn cầu hóa, bên cạnh những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những xu thế mới của thời đại, những vấn đề tiêu cực trong môi trường quốc tế cũng có những tác động không nhỏ tới tâm lý tội phạm. Những vấn đề tiêu cực không phải quan trọng nhất nhưng ít nhiều nó đã ảnh hưởng trực tiếp đến những suy nghĩ của người phạm tội, làm cho tâm lý của người tiếp thu trở nên lệch lạc, không còn đúng đắn và dẫn tới hành vi phạm tội. Trong đó, có một số vấn đề trọng tâm cần lưu ý bao gồm: Thứ nhất, các thế lực thù địch tiến hành chống phá nhiều mặt nhằm làm đất nước suy yếu, gây hoang mang trong nội bộ nhân dân. Đây là một trong những thủ đoạn thâm hiểm nhất của kẻ thù, đòi hỏi Nhà nước cần phải có biện pháp ngăn chặn triệt để và quyết liệt, đồng thời, người dân cần phải tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền, của Nhà nước, tránh bị lợi dụng dẫn tới những hành vi phạm tội sai trái. Thứ hai, đế quốc thông tin và chiến tranh tâm lý nhằm đánh vào suy nghĩ, khối óc dựa trên cơ sở tâm lý tuyên truyền: Một điều không đúng sự thật, nhưng cứ nói 100 lần rồi người ta cũng tin đó là sự thật (Luận thuyết của Golben). Trong thời đại công nghệ 4.0, việc thông tin được cập nhật một cách tràn lan là điều không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, kẻ thù có thể dễ dàng lợi dụng điểm này để truyền bá những thông tin sai lệch, mang tính phản động. Đối diện với vấn đề này, người dân cần phải tiếp thu thông tin có chọn lọc, không chia sẻ những điều sai trái, cho cho 12 tâm lý lệch lạc, gián tiếp tiếp tay cho mục đích chống phá của kẻ thù, biến bản thân mình thành nạn nhân đồng thời cũng là kẻ phạm tội. Thứ ba, sự khác biệt về mặt văn hóa là vấn đề mang tính chất có xu hướng dẫn đến sự xâm lược về văn hóa. Nếu nền văn hóa dân tộc không chống lại. không giữ gìn bản sắc của mình thì dân tộc đó thực sự bị xâm lược. Nền văn hóa hòa nhập không có sự chắt lọc dẫn tới tâm lý người tiếp nhận hiểu sai và lệch lạc, trở thành tác động dẫn tới hành vi phạm tội. Do đó, đi đôi với bảo vệ, giữ gìn nền văn hóa, mỗi người cũng cần phải tự ý thức về việc “gạn đục khơi trong” trong tiếp thu văn hóa. 1.1.3.2. Hoàn cảnh gia đình và bản thân người phạm tội Gia đình là nơi nuôi dưỡng con người không chỉ về thực trạng thể chất mà con là nơi vun đắp tâm hồn. Khi gia đình không còn là nơi lấy lại cân bằng tâm sinh lý: giải tỏa ấm ức, hẫng hụt, bực bội xảy ra trong cuộc sống, không còn là nhân tố thúc đẩy cá nhân hướng tới cái tích cực thì tâm lý con người bị ảnh hưởng theo chiều hướng xấu đi là điều tất yếu. Ngoài những vấn đề do những yếu tố bên ngoài tác động tới cảm xúc tâm lý, những hoàn cảnh gia đình khác nhau: gia đình không hạnh phúc, cha mẹ lơ là trong việc dạy dỗ con cái cũng góp phần tác động không nhỏ làm cho người phạm tội có những suy nghĩ tiêu cực không thể kiểm soát. Bản thân người phạm tội là nguyên nhân quan trọng nhất, là nguồn gốc cốt lõi dẫn tới hành vi phạm tội và tâm lý học tội phạm. Tâm lý của người phạm tội bao gồm cả tâm lý tích cực, tiêu cực và cả tâm lý tội phạm. Những tâm lý tiêu cực dường như lấn át tâm lý tích cực, làm nảy sinh tâm lý tội phạm trong nội tại nhận thức của người phạm tội. Người phạm tội do tiếp xúc với những điều không lành mạnh, không thanh lọc trong quá trình tiếp nhận dẫn tới tâm lý bị lệch lạc, suy nghĩ sai lầm, không đúng đắn, lại không được sự chỉ bảo, dạy dỗ từ phía gia đình nên họ không thể nhận thức được điều mình nghĩ và làm là sai trái. Chính điều này đã tạo điều kiện cho việc nghiên cứu tâm lý học tội phạm dựa trên bản thân người phạm 13 tội bị tâm lý tiêu cực chi phối cả suy nghĩ và hành động của họ. Đây cũng là yếu tố quyết định dẫn tới hành vi phạm tội của người phạm tội. 1.1.3.3. Ảnh hưởng của nhóm không chính thức tiêu cực Ảnh hưởng của nhóm không chính thức tiêu cực đến cá nhân người phạm tội được biểu hiện theo cơ chế: do áp lực của thủ lĩnh, áp lực số đông; sự khẳng định của cá nhân trong nhóm; các cá nhân lĩnh hội lẫn nhau nhiều mặt, nhất là phương thức hành động do một người lựa chọn tỏ ra có hiệu quả để đạt được mục tiêu cá nhân. Vì cơ chế trên, khi cá nhân đã tham gia vào nhóm không chính thức tiêu cực thì sự lây nhiễm, hình thành và gia tăng tâm lý tiêu cực ngày càng nhanh chóng. Cá nhân đó sẽ không tự ý thức được việc bảo vệ bản thân trong ảnh hưởng của nhóm, gây ra những hành vi phạm tội. 1.1.4. Nhân cách người phạm tội 1.1.4.1. Định nghĩa Có rất nhiều định nghĩa về nhân cách. Đề tài khoa học thuộc chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX – 07 Con người Việt Nam mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội đã quan niệm: Nhân cách là sự phù hợp giữa hệ giá trị, thang đo và thước đo giá trị của cá nhân với xã hội – sự phù hợp càng cao thì nhân cách càng lớn. Điều này có thể suy ra: nhân cách gồm những giá trị xã hội – những điều tốt đẹp được xã hội thừa nhận và người nào cũng có nhân cách, chỉ khác nhau ở mức độ phù hợp với hệ giá trị, thang đo và thước đo giá trị của cá nhân đối với xã hội. Và như vậy, ta có thể cắt nghĩa quan niệm như trên và suy ra rằng: Nhân cách của người phạm tội là nhân cách thiếu sự phù hợp với hệ giá trị, thước đo và thang đo giá trị của cá nhân với xã hội, bị “lấn át” bởi tâm lý tội phạm. “Lấn át” được hiểu là khi tâm lý tội phạm chi phối nhân cách trong tình huống, hoàn cảnh phạm tội. 14 Điều này có tính chất “thường xuyên”, kiểu lấn át này thường thấy ở kẻ phạm tội tái phạm nhiều lần, có sự chuyên nghiệp trong hoạt động phạm tội. Quá trình nghiên cứu tâm lý học tội phạm được chú ý xem xét sự tương tác giữa cá nhân với tình huống, hoàn cảnh với môi trường xung quanh. Từ “lấn át” ở định nghĩa trên về nhân cách người phạm tội cũng thể hiện quan niệm này. Vì vậy, nhân cách người phạm tội được phân loại như sau: Thứ nhất là loại hình nhân cách người phạm tội tình huống. Người có nhân cách loại này thường có hành vi phạm tội xảy ra trong hoàn cảnh xung đột, hành vi phạm tội xảy ra tựa như kích thích - phản ứng. Loại người có nhân cách này thường chỉ có vài phẩm chất tâm lý tiêu cực mà trong tình huống nhất định đã thúc đẩy cá nhân phạm tội. Thứ hai là loại hình nhân cách phạm tội do pháp luật không nghiêm. Ở đây, người phạm tội có lối sống lệch chuẩn trong sự tác động của tình trạng pháp luật lỏng lẻo, khiến cho họ có tâm lý lợi dụng hoàn cảnh để thực hiện hành vi phạm tội. Thứ ba là loại hình nhân cách phạm tội có hệ thống. Người có nhân cách loại hình phạm tội này họ không chỉ lợi dụng hoàn cảnh mà còn tạo ra hoàn cảnh, tìm cách vượt qua trở ngại để thực hiện hành vi phạm tội và hành vi phạm tội như trở thành thói quen của họ. Có thể thấy, những loại hình nhân cách không chỉ giúp cơ quan điều tra phân loại tội phạm mà còn giúp ích rất nhiều cho công tác nghiên cứu khác về tâm lý học tội phạm. 1.1.4.2. Quá trình hình thành và suy thoái nhân cách của người phạm tội Nhân cách người phạm tội là kết quả của quá trình hình thành nhân cách có những khiếm khuyết, lệch chuẩn hoặc quá trình suy thoái nhân cách. Trong đó, có thể chia quá trình này thành các giai đoạn như sau: Quá trình hình thành nhân cách có những khiếm khuyết, lệch chuẩn bao gồm các biểu hiện từ sự nhàn rỗi sau đó tìm kiếm nguồn mua vui, tụ tập thành nhóm không 15 chính thức mang tính chất trung tính bề ngoài hoặc nhóm không chính thức tiêu cực, thực hiện hành vi phạm tội và dẫn đến phạm tội. Ở quá trình này, khi thấy cá nhân ở giai đoạn nào thì phải có biện pháp khắc phục, nếu không, dễ có nguy cơ chuyển nhanh tiến gần đến phạm tội nghiêm trọng. Quá trình hình thành nhân cách có những khiếm khuyết, lệch chuẩn ở trên thường bắt gặp ở lứa tuổi thanh, thiếu niên phạm tội. Tuy nhiên, không phải tất cả thánh, thiếu niên phạm tội đều trải qua đầy đủ các giai đoạn trên, có những cá nhân chỉ trải qua một vài giai đoạn. Nếu ở cá nhân nào xuất hiện càng nhiều dấu hiệu của quá trình đó thì càng dễ có nguy cơ dẫn tới phạm tội. Với quá trình suy thoái nhân cách, quá trình này bao gồm các quy luật cụ thể. Ở quy luật thứ nhất, sự phát triển tâm lý tiêu cực theo hướng dao động dần, tức là sự vi phạm chuẩn mực thông thường làm cho những vi phạm chuẩn mực khác dễ dàng hơn theo chiều hướng ngày càng xấu đi. Ở quy luật thứ hai, sự phát triển tâm lý hành vi tiêu cực theo tuyến ứng xử. Giả sử, hành vi trộm cắp vặt khi không được phát hiện và xử lý kịp thời thì sẽ dễ có chiều hướng thực hiện hành vi trộm cắp với quy mô lớn hơn và nghiêm trọng hơn. Như vậy, nhân cách người phạm tội mang tính quyết định và chi phối tới quá trình phạm tội của người phạm tội. 1.1.5. Các quan điểm chi phối hành vi phạm tội 1.1.5.1. Quan điểm của Phân tâm học Theo quan điểm của phân tâm học, hành vi do nguồn năng lượng tình dục (libido) bị chèn ép tạo ra và quyết định. Theo S.Freud: “Tất cả cái gì ta có được ở con người, dù trong đó có kết quả của giáo dục, chỉ là nguồn năng lượng tình dục (libido) quá mạnh bị chèn ép tạo ra mà thôi”. Người phạm tội phải chăng do năng lực tình dục (libido) quá mạnh và thoát ra không hợp lý (do cái tôi và cái siêu tôi chấp nhận). 16 Trong tâm lý học, việc đánh giá học thuyết của S. Freud còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Chúng ta có thể kế thừa “hạt nhân hợp ...u chàng ta không hề thừa nhận đó là một tội ác, bởi vì chàng ta cho rằng mụ Aliona đáng chết. Một động cơ thường thấy ở loại nhân cách người phạm tội tình huống muốn chống lại một thế lực nào đó. Nhưng ở Raskolnikov, động cơ của chàng ta còn phức tạp hơn nhiều. Bởi vì thứ đưa đẩy Raskolnikov có cái suy nghĩ một con người đáng chết là cả một hệ tư tưởng: Lý thuyết thế giới chia thành hai hạng người, lý thuyết về kẻ mạnh. Lý tưởng của Raskolnikov là Napoleon, là bá chủ thế giới nhờ dễ dàng vượt qua luật lệ thông thường. Soi chiếu vào hệ tư tưởng ấy, có thể rút ra nguyên nhân Raskolnikov giết người, giết một kẻ chàng ta cho là đáng chết, là một cách tự kiểm nghiệm bản thân thuộc loại người nào, để thể hiện nguồn sức mạnh bên trong tự cho là của kẻ mạnh. Ngày sau, Raskolnikov đã thú tội với Sonya như thế này: “Không phải vì tiền mà anh đã giết anh cần biết một điều khác, một điều khác đã thúc đẩy anh: lúc ấy anh cần biết, cần hối hả biết anh là thứ rận rệp như mọi người hay anh là một người? Anh có dám vượt lên hay không dám? Anh là thứ sinh vật run rẩy khiếp sợ hay là anh có quyền?” Tư tưởng tội ác ấy đã dẫn đến hành vi giết người tội lỗi của Raskolnikov. Viên dự thẩm Porfiri trong tiểu thuyết cũng nói, “‘môi trường’ có ý nghĩa rất quan trọng trong các vụ án mạng”. Xét đến cùng, hệ tư tưởng kẻ mạnh của Raskolnikov cũng là một cách phản ứng với xã hội, “cái ác là một sự phản kháng chống lại cơ cấu bất hợp lý của xã hội”, nhưng bạo lực và tàn nhẫn hơn Mamelazov hay Katerina rất nhiều. Raskolnikov cũng là một nạn nhân của bi kịch cuộc sống khốn cùng. Một sinh viên nghèo không nơi nương tựa giữa Peterburg, người thân anh 32 cũng phải trải qua những thử thách của cuộc đời - người mẹ với đồng lương quả phụ ít ỏi 120 rúp một năm, cô em gái chịu đủ sỉ nhục của tên địa chủ sa đọa, lại vẫn sẵn lòng lấy một tay ích kỷ khác chỉ để giúp đỡ cho tương lai của anh trai. Cảnh ngộ của Raskolnikov hòa với biết bao số phận ở Peterburg, trước mặt chàng “ngày tiếp ngày diễn ra bao cảnh đời lầm than, cùng quẫn” [13, 370] - gia đình Mamelazov trông vào đồng tiền của Sonya đã phải bán mình làm gái, ngoài phố, trước cửa nhà chứa đầy những cô gái điếm đừng mời khách, một cô bé mới mười lăm, mười sáu tuổi bị quấy rối; ngày tiếp ngày xuất hiện những kẻ hút máu đồng loại để giàu lên như mụ Aliona. Chân dung của mụ Aliona đối lập với những kiếp người khốn quẫn ở Peterburg, trong mắt Raskolnikov, là đại diện cho sự bất công của xã hội, mà hệ tư tưởng của chàng sẽ thay đổi xã hội ấy. Lời của một sinh viên xa lạ nào đó trong quán rượu đã nói thay ý thức xã hội bất công của Raskolnikov: “Một đằng là một mụ già đần độn, vô nghĩa, độc ác, bệnh tật, chẳng có ích gì cho ai cả, trái lại còn có hại cho mọi người, sống cũng chẳng biết để làm gì, mà dù cứ để mặc cho mụ sống thì chỉ nay mai mụ cùng sẽ chết già chết bệnh. Mặt khác là những sức lực trẻ trung, cường tráng phải điêu đứng vì vô kế sinh nhai.” Lọc trong lời của chàng sinh viên kia, Raskolnikov rút ra được một kiểu nguyên lý công bằng để biện minh cho hành vi tội ác của bản thân: “Hãy giết mụ ấy đi, và đoạt lấy số của ấy để suốt đời phụng sự nhân loại và sự nghiệp chung hàng nghìn việc thiện há lại chẳng chuộc được một tội ác cỏn con duy nhất ấy sao?” Tư tưởng của Raskolnikov, giết người để thử nghiệm tư tưởng, để muốn chứng tỏ mình là kẻ mạnh, để có thể đổi thay thế giới đầy rẫy bất công này: “Tư tưởng của Raskolnikov đúng là một cuộc nổi loạn chống lại thế giới hiện hành” [[15, 72]. Chỉ có điều, hệ tư tưởng, sự phản ứng lại xã hội một cách có hệ thống ấy ở Raskolnikov lại đưa đến tội ác kinh khủng. Sau khi Raskolnikov giết Alyona Ivanovna, cái ác, cái xấu trong xã hội không hề mất đi, chỉ có phần nhân tính trong 33 Raskolnikov bị hủy hoại. Hệ tư tưởng đã giải thoát con người khỏi ý thức lương tâm, tự đặt mình lên cao hơn người khác, tự cho mình quyền tước đoạt sinh mạng của người khác. Thực chất, hệ tư tưởng của Raskolnikov chỉ là một “giải pháp bạo lực có gắn mác tình thương”. Raskolnikov cũng đã bị cuốn vào chủ nghĩa cá nhân giống như Svidrigailov, như Luzhin - những nhân vật chung đôi bóng tối của mình. Không chỉ giết người để thử nghiệm hệ tư tưởng của mình, Raskolnikov còn bị cuốn theo thế lực đồng tiền, khao khát thoát khỏi hoàn cảnh túng thiếu. Trong lần đến tiệm cầm đồ của Aliona để cầm chiếc đồng hồ, ý nghĩ đầu tiên khi nghe tiếng mở tủ trong phòng bà Ivanovna của chàng thanh niên nghèo túng là: “Chắc là ngăn trên cùng”, “Mụ ta bỏ chìa khóa ở túi bên phải”... Raskolnikov ý thức rất rõ những gì anh vừa nghĩ thực sự là điều sai trái, là “kinh tởm” nhưng tiền, cái tủ, chìa khóa, cái rương khiến anh nung nấu một ý định gì đó chưa được hình thành rõ ràng. 2.2.2.2. Tâm lý trước, trong và sau khi phạm tội Đối với mỗi tên tội phạm, khi bắt tay thực hiện một hành vi tội ác, luôn luôn sẽ tồn tại trong linh hồn một quá trình tâm lý xuyên suốt từ trong, trong và sau khi phạm tội. Chính trong Tội ác và hình phạt, nhân vật Raskolnikov, với tư cách là một sinh viên khoa luật, cũng tự đề cập đến một quá trình tâm lý của kẻ giết người, hay “hầu như bất cứ kẻ nào cũng vậy”: “Khi nhúng tay vào tội ác thì nghị lực và lý trí suy sụp hẳn đi, nhường chỗ cho một sự nhẹ dạ kỳ quặc như của trẻ con, mà lại đúng vào lúc cần minh mẫn và thận trọng hơn cả. Tình trạng rối trí và mất nghị lực đó xâm nhập người ta như một cơn bệnh, phát triển dần và lên đến cực điểm trước khi người ta nhúng tay vào tội ác ít lâu; nó giữ nguyên mức độ ấy trong khi diễn ra tội ác và tiếp tục kéo dài một thời gian sau, dài ngắn tùy từng người; rồi cũng qua đi như bất cứ một cơn bệnh nào”. 34 Tức là, tội phạm sẽ có xu hướng rối loạn lý trí, đánh mất tinh thần và nghị lực khi bắt đầu nghĩ đến một tội ác. “Tình trạng rối trí và mất nghị lực” ấy sẽ gặm nhấm, dày vò kẻ đó, nhưng vì không thể bỏ được ý định phạm tội mà hắn ta sẽ như phát bệnh vì dằn vặt. Trước khi tội ác diễn ra ít lâu, đấy là lúc “cơn bệnh” lên đến “cực điểm”, có lẽ là do nó sẽ ép hắn ta chọn lựa giữa thực hiện hay không thực hiện hành vi phạm tội. Ngay cả trong khi tiến hành tội ác, hắn ta vẫn sẽ bị ám ảnh bởi sự rối loạn, và cứ thế ám ảnh cả một khoảng thời gian sau đấy nữa, dài hay ngắn là tùy theo trạng thái tinh thần của tội phạm ổn định hay không. Nhưng Raskolnikov cho rằng, rồi cảm giác có thể coi là “tội lỗi” ấy sẽ qua đi, qua đi như bất cứ cơn bệnh nào. Quá trình tâm lý này phóng chiếu lên Raskolnikov, và một số nhân vật gây tội khác, lại chứng minh rằng quá trình ấy, sự vận động của trạng thái rối loạn ấy phụ thuộc rất nhiều vào từng hoàn cảnh phạm tội. * Những linh hồn còn biết dằn vặt vì tội lỗi Raskolnikov, Marmeladov, Katerina đều là những người đã gây tội, họ trải qua một quá trình tâm lý dằn vặt, đầy mâu thuẫn, từ lúc có ý định phạm tội, kéo dài đến cả khi tội ác đã thành hình và phải trả giá. Khảo sát tâm lý của nhân vật Raskolnikov trước hành vi tội ác trên bề mặt là giết người, có thể nhận ra rằng, trước khi, trong khi, và sau khi thực hiện hành vi ấy, trong nhân vật Raskolnikov luôn tồn tại cảm giác mâu thuẫn, luôn bị bứt rứt không yên. Từ lúc kế hoạch giết mụ già hiệu cầm đồ bắt đầu nhen nhúm dù chưa thành hình thành dạng, Raskolnikov đã luôn luôn trải qua cảm giác bị dày vò, do dự, vừa muốn thực hiện ý định giết người vừa sợ hãi chính ý tưởng của mình. Rất nhiều lần Raskolnikov tự hỏi mình: “chả nhẽ mình có thể làm việc ấy sao”, tự chất vấn mình: “Hôm qua khi xuống thang gác, chính mình đã nói rằng như thế là khốn 35 nạn, ghê tởm, hèn hạ vô cùng Dù có thế chăng nữa mình cũng không thể làm được. Mình không thể chịu nổi, không sao chịu nổi!” Khi lý trí suy sụp, tội phạm chọn lựa một điểm tựa khác, vin vào một lý do khác, như số phận, như định mệnh, như sự bắt buộc của hoàn cảnh, và bấu víu vào nó với một niềm tin “nhẹ dạ kỳ quặc như của trẻ con”. Raskolnikov chắc chắn rằng “dường như có những ảnh hưởng và những sự tình cờ đặc biệt can dự vào việc này”, để tự biện minh cho ý nghĩ tội ác của bản thân. Từ việc có người bạn cho chàng địa chỉ của mụ Aliona từ tận mùa đông năm ngoái, đến việc chàng vừa từ hiệu cầm đồ của mụ ra về (trong lần đầu cầm cố chiếc nhẫn vàng) đã lại nghe những sinh viên khác nói chuyện về mụ, nói cái xấu xa của mụ, nói lời bào chữa cho hành động nếu-giết-mụ, rồi chàng lại tình cờ biết được ngày đối tượng ở nhà một mình - thời điểm thích hợp cho hành vi tội ác diễn ra, Raskolnikov gọi đó là những “chỉ thị của số mệnh” dẫn đường cho chàng ta giết mụ già Aliona. Raskolnikov tin vào những điều tựa như mê tín ấy (chính chàng ta nhận định thế), để cứu vãn cho lý trí vẫn luôn bị do dự vì chưa dám làm. Trạng thái tinh thần của Raskolnikov sau khi tội ác xảy ra đã không còn được nguyên vẹn. Bởi vì tội ác của Raskolnikov không chỉ là giết một, mà là giết hai mạng người, mạng người thứ hai còn là một người vô tội. Khi Raskolnikov giết mụ Aliona, khoảnh khắc bổ rìu xuống, chàng thấy mình “dường như kiệt sức”, nhưng khi rìu chạm đến đỉnh đầu của mụ già, chàng lại thấy “sức lực vụt trở lại”. Bởi vì Raskolnikov đang giết một kẻ chàng cho rằng nên giết, đáng bị giết. Nhưng khi lưỡi rìu cướp đi sinh mạng của Lizaveta, khi Lizaveta ngã nhào xuống, “Raskolnikov hoàn toàn rối trí”. Sau khi giết mụ Aliona, nhìn tổng thể thì Raskolnikov vẫn còn giữ được tinh thần để “cướp của”, hoặc để bày biện sao cho vụ mưu sát trông giống như một vụ giết người cướp của. Cách Raskolnikov “chăm chú, thận trọng, luôn có ý tứ giữ cho tay đừng dính máu”, cách Raskolnikov cưa sợi dây lấy bóp đựng tiền của mụ già, 36 cách Raskolnikov tìm chìa khóa mở rương: “chợt nhớ lại và suy ra rằng cái chìa khóa to, đầu có răng cưa chắc hắn không phải chìa mở tủ ngăn lần trước chàng cũng đã nghĩ như thế mà phải dùng để mở một cái tráp nào đấy”, cách Raskolnikov nghĩ ra được chùi máu vào vải đỏ thì sẽ “khó thấy hơn” đây đều là những phút tỉnh táo của lý trí còn sót lại. Nhưng sau khi Raskolnikov giết Lizaveta - một người vô tội, tâm lý của chàng trở nên hoảng loạn: “Chàng mỗi lúc một thêm hoảng hốt, nhất là sau vụ giết người thứ hai hoàn toàn bất ngờ này”. Thay vì tiếp tục việc bày hiện trường, Raskolnikov chỉ muốn “trốn khỏi nơi này cho thật nhanh”. Trong con người tội phạm ấy vẫn luôn tồn tại “tình trạng rối trí và mất nghị lực”, tồn tại những mâu thuẫn và các dòng suy nghĩ đối lập nhau. Raskolnikov cho rằng, rồi cái tình trạng ấy sẽ qua thôi, như một cơn bệnh, đến rồi đi. Quả thật, khi Raskolnikov giết xong hai mạng người, tỉnh táo lại một chút sau phút hoảng loạn vì giết người vô tội, chàng ta còn “nghĩ đến việc rửa tay và rửa rìu”. Nhưng Raskolnikov không ngờ được rằng, “cơn bệnh” này sẽ còn đeo đẳng. Luôn luôn thấy nhân vật như đang trong cơn mê sảng, vừa tìm cách phi tang mọi chứng cứ vừa muốn thú tội: “Thế nếu chính tôi giết mụ già và Livazeta thì sao?”Lúc nào chàng ta cũng có ảo giác rằng tất cả mọi người đã phát hiện ra tội ác của mình, sẽ tố cáo mình với cảnh sát. Khi Raskolnikov nhận được trát đòi lên sở cảnh sát, chàng cũng vẫn sợ là gọi vì vụ giết người (thực ra người ta đòi chàng lên vì chàng nợ tiền nhà). Và lúc Raskolnikov tự nhận ra có thể có nỗi “kinh hãi và ghê tởm trước việc mình vừa làm”, thì cũng là lúc tâm lý của kẻ phạm tội đã đổ vỡ vì chính tội ác của mình. Tâm lý của kẻ đã phạm tội dưới những tác động của ngoại cảnh còn ám ảnh đến mức bắt Raskolnikov phải luôn trải nghiệm lại cảm giác khi phạm tội. Đây cũng là hình phạt cho tội ác mà Raskolnikov gây ra, sẽ được chúng tôi nói kĩ hơn ở phần sau. 37 Mamelazov hay Katerina không gây ra một tội ác chính thức như Raskolnikov. Hai nhân vật này vượt qua lằn ranh của lương tâm, Katerina buông lời nghiệt ngã, xúc phạm đến trinh tiết và phẩm giá của Sonya: “Còn gì nữa, còn giữ làm gì? Quý báu lắm đấy?”; Mamelazov vì không thể giữ được mình mà phạm lên những đồng tiền cứu gia đình mà con gái phải lĩnh thẻ vàng mới có được. Trong khốn cùng người ta có thể trở nên tội lỗi, nhưng ở hai nhân vật này vẫn nhìn thấy cảm giác áy náy, dằn vặt vì ý thức tội lỗi của mình. Katerina “quỳ bên chân” Sonya cả buổi tối, hôn lên chân của Sonya. Mamelazov trong cơn say bí tỉ, đến khi tỉnh táo nhất, ông rất rõ ràng tội nghiệt của bản thân. * Những kẻ phạm tội không áy náy Trong những nhân vật như Luzhin, Svidrigailov hay Mikolka đánh xe tồn tại con quỷ đã vượt quá lằn ranh đạo đức, khiến chúng không còn áy náy lương tâm khi gây ra tội ác. Trong Luzhin, cái tôi cá nhân đạt đến tận cùng, con người ấy tự cho mình ở vị trí cao hơn người khác, nên muốn được làm ân nhân để người khác mang ơn mình. Hắn ta không hề áy náy lương tâm khi chà đạp lên người khác. Sau khi bị Raxcolnicov xúc phạm, hắn đổ mọi tội lên Dunia, bắt Dunia phải lựa chọn hoặc là “tôi” hoặc là “anh trai”, Dunia quả quyết chọn anh trai. Cuộc đính hôn tan vỡ, Luzhin khi bị Dunia đuổi đi. Gây ra một hành động ích kỷ như thế, nhưng hắn ta chỉ nghĩ đến việc đáng lẽ ra phải tung tiền ra trước để trói hai mẹ con nhà ấy. Sau khi làm ra hành động bẩn thỉu như vu khống cho Sonya, Luzhin vẫn điềm nhiên, bởi trong quan niệm của hắn một cô gái điếm trở thành kẻ ăn cắp không có vấn đề gì. Hắn điềm nhiên bước ra ngoài coi như không có chuyện gì xảy ra ngay cả khi âm mưu không thực hiện được. Luzhin là kẻ phạm tội, chà đạp lên ranh giới đạo đức mà không áy náy lương tâm một chút nào. Svidrigailov là một kẻ hết sức trụy lạc, lão ta chết ngập trong các thói xấu xa. Suốt bao nhiêu năm qua, lão ta gây ra hàng loạt tội ác, hủy hoại biết bao con người, 38 nhưng mặc nhiên không hề có chút tự vấn lương tâm. Lão ta chỉ muốn thỏa mãn dục vọng của bản thân. Mikolka đánh xe xuất hiện trong giấc mơ của Raskolnikov, là hiện thân cho tất cả những tàn nhẫn, bạo lực ở con người. Hành động của hắn biểu thị một trạng thái tâm lý duy nhất: thỏa mãn khi gây tội, thỏa mãn khi tổn thương người khác. 2.3. Hình phạt - sự khủng hoảng trong tâm lí người phạm tội Hình phạt trong nhan đề tác phẩm Tội ác và hình phạt có nghĩa là hình phạt xảy ra với mỗi con người tội lỗi những hình phạt khắc họa chính ở Raskolnikov về lương tâm và cả pháp luật. Hình phạt trước pháp luật như một điều “tất lẽ dĩ ngẫu" trong đời, nhưng hình phạt về lương tâm mới là bản án cao nhất mà Raskolnikov phải chịu. Đó là hình phạt xảy ra trước và sau khi giết người. Trước khi thực hiện hành vi giết người, đó là hình phạt về ý thức phân mảnh. Hình phạt Raskolnikov xuất hiện cùng với hệ tư tưởng tội ác và có trước tội ác. Hình phạt ý thức phân mảnh xảy ra bởi trái tim vị tha phản ánh mãnh liệt với hệ tư tưởng. Sau khi giết người hắn còn chịu những hình phạt khác: luôn phải sống lại khoảnh khắc phạm tội, thấy mình bị tách rời khỏi nhân loại và phải chịu các cuộc đối thoại tâm lý tra tấn với các nhân vật chung đôi hay chính là tự đối thoại với lương tâm của bản thân. 2.3.1. Hình phạt tất yếu Hình phạt là điều tất yếu với những kẻ phạm tội dù là phạm tội trong tâm hồn hay phạm tội gây án thì đều phải chịu điều đó như hệ quả của cuộc sống nhân quả như đã nêu ở phần 2.1. Trong cuộc sống vẫn luôn tồn tại sự công bằng, bất cứ kẻ phạm tội nào đều không thể trốn thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật. Raskolnikov tuy phạm tội vì cho rằng mình đại diện cho chính nghĩa nhưng không thể bào chữa rằng anh ta vô tội. Nếu Raskolnikov cho rằng mụ già cầm đồ đáng phải chết vì mụ đại diện cho những kẻ xấu thì Lizaveta thật sự đáng thương, hiền lành, là nạn nhân vô tội. Sự thật là Raskolnikov đã giết hai mạng người là mụ già Ivanovna và em 39 gái mụ là Lizaveta. Ban đầu Raskolnikov vẫn không có ý định đi thú tội với suy nghĩ “thượng đẳng" loại trừ những kẻ xấu và ngay cả Napoleon cũng giết những kẻ phản kháng để phục vụ một mục tiêu cao cả hơn. Không có án mạng nào là không để lại dấu vết, chỉ cần có một chứng cứ mới, một phán đoán từ cảnh sát là Raskolnikov lại lo lắng. Porfiri - thanh tra với khả năng dùng đòn tâm lý cực tốt, ông đã đưa Raskolnikov vào cuộc đấu tranh tâm lý dữ dội đánh trúng vào điểm yếu để Raskolnikov dần nhận ra tội lỗi của mình. Bởi bản chất con người Raskolnikov không phải là người xấu, anh là sinh viên khoa luật đầy tiềm năng nhưng bị xã hội đương thời dồn ép vào đường cùng khiến con người nảy sinh ra những suy nghĩ ích kỷ, xấu xa. Cùng với đòn tâm lý của Porfiri, tình yêu thương của Dunia, Sonya và cả cái chết của Svidrigailov đã khiến Raskolnikov ra tự thú. Kết cục cuối cùng, Raskolnikov sau chín tháng dằn vặt, dày vò về lương tâm, đã đến toà tự thú, đối diện với hình phạt và chịu trách nhiệm về tội ác của mình. Tuy nhiên toà án pháp luật cũng không lạnh lùng và tàn nhẫn mà vẫn để cho con người một cơ hội để quay đầu, để thú tội và làm lại cuộc đời. Kẻ phạm tội biết hối lỗi, biết nhận tội thì đều được khoan hồng dù hình phạt là lẽ tất yếu nhưng đều có mức độ tương xứng cho từng con người. Xét thấy thần kinh của Raskolnikov không ổn định, toà tuyên án miễn tội chết cho Raskolnikov và đày Raskolnikov biệt xứ ở Siberia tám năm khổ sai. 2.3.2. Hình phạt tâm lý tối thượng 2.3.2.1.“Sự trải nghiệm lại cảm giác khi phạm tội" Tội ác không hề buông tha cho Raskolnikov mà nó theo đuổi anh vào cả những giấc mơ, những cơn mê sảng, đau khổ dằn vặt. Trong những lần độc thoại với chính mình, anh rơi vào trạng thái tự vấn về hành động của bản thân: “Tôi muốn giết người, vì sự thỏa mãn chính mình Vào lúc đó, tôi không quan tâm đến việc mình sẽ dành phần đời còn lại của mình như một con nhện bắt tất cả chúng trong 40 mạng của mình và hút hết nước từ chúng”. Raskolnikov luôn mộng tưởng rằng mình có thể thay đổi thế giới, nhưng trong thực tại, anh ta chỉ là một sinh viên nghèo, vì sự ám ảnh tâm lý và sự chi phối của đồng tiền trong cuộc sống mưu sinh mà thực hiện hành vi tội ác, trở thành kẻ giết người. Hiện thực xã hội rối loạn, bí bách đã chèn ép cả vào giấc mơ của Raskolnikov, gây ảo ảnh cho anh ta. Raskolnikov thấy mình là Napoleon, anh ta muốn thực thi thanh lọc thế giới giúp đỡ mọi người. Chính điều này đã dẫn tới mâu thuẫn giằng xé trong tâm hồn và tính cách nhân vật: một mặt, Raskolnikov là người tốt, có sự cảm thông, thấu hiểu với những người lao động nghèo khổ, mặt khác, anh là kẻ sát nhân bởi những ý tưởng cuồng loạn xuất phát từ sự tổn thương tâm lý. Kết cục cuối cùng, Raskolnikov đã ra đầu thú, đối diện với hình phạt và chịu trách nhiệm về tội ác của mình sau khi bị sự ám ảnh của khoảnh khắc phạm tội giằng xé trong tâm can. Có lẽ điều tồi tệ và tra tấn nhất với một kẻ phạm tội không phải là cái chết mà là sự trải nghiệm lại cảm giác phạm tội một lần nữa. Raskolnikov đã trải qua cảm giác phạm tội một lần nữa trong giấc mơ của mình. Giấc mơ sau khi giết mụ già cầm đồ - đó là giấc mơ thứ 3 của Raskolnikov. Raskolnikov mơ mình lại đến căn hộ của mụ già cầm đồ lần nữa, anh ta nhìn thấy mụ già đang ngồi trên ghế “người gập hẳn lại, đầu cúi gằm nên chàng không trông thấy mặt nhưng đó chính là mụ ta". Trong mơ, Raskolnikov nhìn thấy mụ già cầm đồ và vẫn giống như ngày gây án anh ta “rút rìu ra khỏi quai và giáng lên đỉnh sọ mụ già một nhát, rồi một nhát nữa". Vẫn là chiếc rìu - hung khí gây án nhưng lần này chuyện lạ đã xảy ra khiến Raskolnikov sợ hãi “lạ thay, bị mấy nhát rìu mà mụ cũng không hề nhúc nhích, tưởng chừng như người mụ làm bằng gỗ". So với ngoài đời không có gì thay đổi “mọi vật vẫn y nguyên như cũ: mấy chiếc ghế dựa, tấm gương, chiếc đi văng vàng và những bức tranh đóng khung". Nhưng thời gian thì thay đổi, đêm “trăng rằm như một quả cầu bằng đồng đỏ đồ sộ nhìn vào vào cửa sổ" và chính vì ánh trăng nên mọi thứ quá im lặng “vầng trăng càng yên tĩnh bao nhiêu thì tim chàng càng 41 đập mạnh bấy nhiêu, đến nỗi ngực chàng đau nhói lên". Mọi thứ giống như đã chết hay trong tâm hồn Raskolnikov đã chết. Tiếng cười xuất hiện như chế giễu, cười nhạo chính bản thân Raskolnikov, anh ta cảm thấy chính mình đã giết mình chứ không phải mụ già “một trận cười im lặng mà mụ cố giữ hết sức đừng vang lên thành tiếng". Càng nghe thấy tiếng cười cùng tiếng thì thầm ở phòng bên Raskolnikov càng hoảng loạn “hết sức giáng rìu vào đầu mụ ta" nhưng mỗi nhát rìu giáng xuống mụ ta không chết mà chỉ thấy “tiếng cười và tiếng thì thầm ngày một rõ thêm". Tiếng cười ấy làm cho Raskolnikov cảm thấy như mục đích, tư tưởng muốn trở thành Napoleon của mình sụp đổ, thấy điều giết người là vô nghĩa và càng trở nên sợ hãi, hoang mang không biết thế nào là đúng là sai. Giấc mơ là một trong những vấn đề phân tâm học của Freud, giấc mơ đại diện cho những ham muốn, những suy nghĩ và động lực trong trạng thái vô thức của con người. Khi tỉnh táo, con người bị điều khiển, kìm giữ những bản năng và dục vọng. Những suy nghĩ này không bộc lộ khi con người ở trạng thái tỉnh táo và ông cho rằng những bản năng và dục vọng bị kìm nén sẽ len lỏi, tìm cách xuất hiện trong giấc mơ. Raskolnikov đã ám ảnh tội lỗi cùng với hệ tư tưởng tội ác, hai mặt đấu tranh nhau cùng những cảm xúc đã đẩy đến cao trào khiến con người gần như mê sảng. Sự trải nghiệm cảm giác phạm tội thông qua giấc mơ có lẽ là điều kinh khủng nhất bởi nó không chỉ là phạm tội hình thức mà còn cảm nhận lương tâm mình phạm tội thêm lần nữa “tim chàng thắt lại". 2.3.2.2. Tòa án lương tâm - hình phạt cao nhất cho kẻ phạm tội Hình phạt lương tâm trước hết dành cho Raskolnikov. Hình phạt tâm lý xuất hiện từ trước khi phạm tội khi anh ta thể hiện thái độ chán ghét, vô ơn đối với những người thân xung quanh kể cả mẹ và em gái hay người bạn thân Razumikhin. Raskolnikov tự thấy bản thân không xứng đáng với tình yêu thương, công sức của những người thân đã dành cho mình nhưng đôi khi lại nghi ngờ họ như đang điều tra, gài bẫy mình. 42 Tội ác khủng khiếp nào cũng thường để lại dấu vết, chứng cứ nhưng Raskolnikov có thể là vì may mắn và ngẫu nhiên đã thực hiện tội ác một cách nhanh chóng và trôi chảy. Một tháng trời sau khi xảy ra vụ án Raskolnikov cũng không bị nghi ngờ nhưng những cảm xúc lại dày vò chính bản thân anh ta. Bởi những trạng thái tâm lý, những cảm xúc đã xuất hiện trước khi Raskolnikov gây án nên sau khi phạm tội anh lại càng chìm trong suy nghĩ, lo sợ. Gần một tháng không ai chú ý hay nghi ngờ đến Raskolnikov và chính khoảng thời gian này đã diễn ra toàn bộ quá trình tâm lý của tội ác. Những vấn đề day dứt không giải quyết được trỗi dậy trong lòng kẻ tình nghi và những cảm xúc bất ngờ giày vò trái tim Raskolnikov hàng ngày. Cái chết nhanh chóng để kết thúc tội ác của kẻ phạm tội có lẽ vẫn là cách hạnh phúc hơn việc bị tra tấn bởi tâm lý trong bản thân mình. Hình phạt của ý thức phân mảnh là hình phạt cao nhất dành cho Raskolnikov. Sự đấu tranh nội tâm, dằn vặt lương tâm đến mức khủng hoảng gần như mắc bệnh về tâm lý sinh ra cũng bởi ý thức phân mảnh. Cái thiện và cái ác cùng tồn tại, đấu tranh trong con người Raskolnikov, sự giằng xé giữa trái tim vị tha và lòng vị kỷ. Raskolnikov lên kế hoạch kĩ càng cho tội ác của mình nhưng cũng sợ hãi, do dự trước ý định đó “Hôm qua khi xuống thang gác, chính mình đã nói rằng như thế là khốn nạn, ghê tởm, hèn hạ vô cùng Dù có thế chăng nữa mình cũng không thể làm được. Mình không thể chịu nổi, không sao chịu nổi". Nhưng Raskolnikov vẫn thực hiện hành động giết người. Hành động này chỉ để khẳng định chính mình, chứng minh rằng mình là loại thượng đẳng hay hạ đẳng theo lối suy nghĩ loài người chia làm hai loại “Loại hạ đẳng (những người bình thường), nghĩa là, có thể nói, vật liệu và loài người thực sự, nghĩa là có thiên bẩm hay tài năng để nói tiếng nói mới trong môi trường của mình Loại thứ nhất là những người bảo thủ, chân chỉ theo bản chất của mình, sống trong sự phục tùng và thích chịu sự phục tùng Loại thứ hai, tất cả đều phạm luật, đều là những người phá bỏ phần lớn họ đòi hỏi một sự phá bỏ thực tại nhân danh một tương lai tốt hơn. Nhưng nếu 43 cần, cho tư tưởng của mình, dù là phải bước qua xác người, qua máu, thì tự bên trong, theo lương tâm, có thể cho phép mình bước qua cả máu”. Chọn mụ già cầm đồ để giết chỉ vì nghe người sinh viên nói tài sản của mụ đủ nuôi hàng nghìn người nghèo nhưng lại để di chúc lại cho nhà thờ. Để khẳng định mình là ai với tư tưởng nổi loạn chống lại xã hội nhưng mụ già chỉ là người bình thường, có chăng là có tài sản hơn những người thường khác. Còn tổ chức chính quyền mới là thứ cần thay đổi để xã hội được tốt đẹp hơn. Sau khi giết được mụ già cầm đồ nhưng Raskolnikov vẫn không chứng minh được bản thân và chẳng có gì thay đổi. Tự dằn vặt đến mức ám ảnh tâm lý rồi nhận ra mình cũng chỉ là những “sinh vật run rẩy" mà thôi. Xét về lương tâm trong con người Raskolnikov thì rõ ràng anh là một người lương thiện, nhân hậu và giàu lòng thương người. Điều đó đầu tiên được thể hiện qua tình yêu của Raskolnikov đối với mẹ và em gái mình:“Dunia anh không thể nhận hy sinh của em, mẹ ơi, con không muốn thế!...Tôi không đời nào chịu thế!”. Raskolnikov là người đã sẵn sàng vét những đồng xu trong túi mình cứu người say rượu Mamelazov dẫu chỉ mới gặp có một lần với thái độ tận tình và sốt sắn:“Đưa vào nhà thương thì lâu quá mà ở trong nhà ấy thế nào chả có thầy thuốc! Tôi sẽ trả tiền, tôi sẽ trả! Dù sao cũng được người nhà săn sóc chữa chạy cho ngay, chứ đi nhà thương thì có thể chết dọc đường”. Sau khi giết mụ già cầm đồ và có được của cải của mụ thì Raskolnikov cũng không tiêu cho mình mà đem phân phát cho những người cần hơn và sợ cảnh sát nên đem đi chôn.Chính những đức tính ấy ở Raskolnikov khiến cho rất nhiều người không thể nào hiểu được tại sao anh lại có hành động giết người dã man như vậy. Cuộc sống Raskolnikov đầy sự vị tha và vị kỷ trong con người. Raskolnikov đưa những đồng tiền cuối cùng để giúp đỡ cho gia đình Sonya nhưng lại nghĩ rằng họ có được Sonya còn mình thì cô độc, không có gì. Anh sống trong sự dày vò ân hận vì đã giết người “Lạy chúa! Chỉ xin nói rõ cho con một điều: họ đã biết việc ấy chưa, hay là chưa biết? Chắc họ biết hết rồi nhưng cứ giả vờ không biết để trêu gan 44 mình, trong khi mình còn nằm liệt giường, thế rồi đến một lúc nào đó họ sẽ ập vào và nói rằng họ đã biết hết từ lâu nhưng cứ để thế xem sao". Hình phạt khi gây ra tội ác theo đuổi Raskolnikov qua những giấc mơ, cơn mê sảng và sự dằn vặt đau khổ, tự độc thoại với chính mình và luôn tự vấn lương tâm sau khi gây án “Ta là con sâu, con bọ run rẩy hay ta có quyền lực?”. Câu hỏi bộc lộ sự hoang mang, khủng hoảng đến tột độ về tư tưởng và nhân thức của Raskolnikov. Hình phạt của tòa án lương tâm với tình thần con người xảy ra rõ ràng nhất khi Raskolnikov đọc thư mẹ và đoạn đối thoại của Raskolnikov với mẹ vào đêm trước khi đi tự thú. Ngày thường Raskolnikov luôn cáu gắt với mẹ còn người mẹ thì lại sợ con nhưng khi lương tâm cắn rứt và tình yêu dành cho gia đình trỗi dậy cùng nỗi hổ thẹn đã khiến Raskolnikov bộc lộ những cảm xúc thật nhất của mình với người yêu thương mình nhất. Raskolnikov đã bày tỏ nỗi lòng mình với mẹ. Mẹ là điểm tựa cuối cùng mà anh cảm thấy an toàn nhất sau những ám ảnh đeo bám anh. Raskolnikov sợ rằng từ những lời nói phiến diện sau tất cả mọi chuyện thì mẹ sẽ không thương anh nữa: “Mẹ ơi, dù có xảy ra chuyện gì, dù mẹ có nghe nói gì về con, dù họ có nói gì với mẹ về con, mẹ có còn thương con như bây giờ nữa không?”. Giây phút dằn vặt ấy đã thúc đẩy thành sự sợ hãi nếu bị mẹ bỏ rơi. Raskolnikov không còn bến đỗ nào cho tâm hồn mình ngoài tình yêu thương của mẹ. Điều đó khiến cho Raskolnikov dằn vặt bản thân một cách dữ dội, anh thốt lên những lời như van xin sự tin tưởng cuối cùng từ mẹ: “Dù có xảy ra chuyện gì”, “dù mẹ có nghe nói gì về con”, “dù họ có nói gì với mẹ về con”. Những câu từ khẩn khoản ấy trong khoảnh khắc dằn vặt đã được nâng lên thành hy vọng cuối cùng của Raskolnikov. Anh ta hy vọng 45 mình sẽ được mẹ chở che, không bị mẹ ruồng bỏ cho dù bất cứ điều gì tồi tệ đã xảy ra. Đáp lại người van nài của của đứa con tội nghiệp, mẹ Raskolnikov ý thức được bà không thể làm tổn thương đứa con tội nghiệp của mình. Bà thậm chí đuổi những kẻ đàm tiếu về con mình đi ngay lập tức. Niềm tin của bà cũng chỉ đặt vào con trai: “Mà ai nói gì với mẹ về con. Mẹ sẽ không tin ai đâu, dù ai cũng thế”. Bà không cho phép bất kỳ ai làm tổn thương con trai bà, “dù ai cũng thế”, là bất kì ai cũng không được. Sự tin tưởng của người mẹ đã trở thành nền móng vững chắc cho tâm hồn Raskolnikov bộc lộ những vẻ yếu đuối khó thấy được của một kẻ giết người. Chính tình mẫu tử thiêng liêng càng xoáy sâu vào tâm can Raskolnikov, làm cho nỗi đau mà lương tâm hành hạ anh ta càng đau nhiều hơn thế. Giữa những con người chỉ mang lại cho Raskolnikov những sự lo sợ, chỉ cần một chút manh mối, Raskolnikov có thể nghĩ rằng họ sẽ tố cáo anh với cảnh sát, duy nhất chỉ có mẹ đứng về phía anh. Điều này làm cho Raskolnikov cảm thấy an tâm, kẻ giết người lúc này dường như trở thành đứa trẻ, bộc bạch lòng mình với mẹ: “Con đến để xin mẹ tin cho rằng xưa nay bao giờ con cũng vẫn yêu mẹ và bây giờ chỉ có mình mẹ với con thế này, con mừng lắm”. Cảm xúc của Raskolnikov không chỉ đơn thuần là “mừng”, nó còn là niềm hạnh phúc vì đơn giản, nơi mình trao gửi niềm tin cuối cùng, bến đỗ an toàn cuối cùng của một tâm hồn tổn thương đã bị hủy diệt đã không bỏ rơi mình. Ít nhất, trong cảm thức bị “tách ra khỏi nhân loại” thì trong thế giới của Raskolnikov, cho dù trước đó anh có thái độ cáu gắt với mẹ thì mẹ vẫn luôn ở bên cạnh anh và không cho phép bất kỳ sự tổn thương nào xâm phạm đến con trai bà. Đó cũng chính là khi sự dằn vặt lên đến đỉnh điểm, Raskolnikov không thể buộc nó trong lòng mình được nữa. Những suy nghĩ của anh, tình yêu thương mà anh dành cho mẹ và em gái của mình chưa bao giờ thay đổi. Tình cảm ấy vẫn nguyên vẹn và cá...p tới những hình phạt thích đáng, tương xứng với từng tội ác của các nhân vật. Cũng giống như sự lý giải về tâm lý phạm tội, hình phạt về tâm lý, tư tưởng là điều mà báo cáo đã nhấn mạnh và phân tích cụ thể qua việc khai thác tác phẩm. Cuối cùng, người viết đã đề cập tới sự cứu rỗi tâm hồn con người thông qua triết lý, quan điểm đạo đức của Dostoevsky. Nhìn từ góc nhìn Tâm lý học tội phạm, tội ác mỗi nhân vật gắn với những nhân cách tội phạm khác nhau, động cơ gây ra tội ác cũng khác nhau. Nó có thể là sự bắt buộc, cố tình hay vô tình, ngay cả sự sám hối cũng tồn tại đan xen trong những khoảnh khắc phạm tội, điều đó được tác giả thể hiện xuyên suốt tác phẩm. Ta không khó để nhận thấy quan điểm của Phân tâm học trong phần giới thuyết gắn liền với Dostoevsky, giúp ông lý giải về cội nguồn của hành vi, về mâu thuẫn, xung đột trong cái bản năng và cái xã hội của các nhân vật dẫn đến những hành động tội ác của họ. Những tác động từ hoàn cảnh khách quan và từ bản thân nhân vật, quá trình suy thoái nhân cách cùng những quan điểm được đề cập của Tâm lý học cũng đã góp phần làm sáng tỏ hành vi phạm tội trong tác phẩm. 52 Chương 3: Phương thức thể hiện Tâm lý học tội phạm trong Tội ác và hình phạt Những khía cạnh của tâm lý nhân vật, ở đây là tâm lý của những người gây tội, được khắc họa rất sâu thông qua hình thức nghệ thuật của một tiểu thuyết văn học. Báo cáo tập trung vào hai yếu tố hình thức chính, là mô hình tiểu thuyết đa thanh và sự phá vỡ motif tiểu thuyết trinh thám. 3.1. Mô hình tiểu thuyết đa thanh Hầu hết các tác phẩm của Dostoevsky, từ truyện ngắn, truyện vừa đến tiểu thuyết cỡ lớn đều tuân theo mô hình “tiểu thuyết đa thanh” mà chính từ Dostoevsky đã hình thành ý niệm. Đặc điểm “đa thanh” biểu hiện rất đậm đặc trong “Tội ác và hình phạt”, thông qua nghệ thuật xây dựng nhân vật chung đôi và nhân vật mang tư tưởng, kết cấu không gian và thời gian, cùng cảm quan carnaval đậm nét. 3.1.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Dostoevsky đưa lên trang sách những minh chứng cho sự phức tạp khôn cùng của tâm lý con người, nhất là tâm lý của một tên tội phạm, một người gây tội. Quá trình tâm lí của con người từ khi nhen nhúm ý thức tội lỗi, gây tội và trả giá, cùng với động cơ phạm tội của họ, Dostoevsky không nói ra, mà là để cho nhân vật tự phát biểu, bằng ngôn ngữ hoặc hành động. Bakhtin coi đó là một đặc điểm của tiểu thuyết đa thanh: “Nhiều tiếng nói và ý thức độc lập không hòa nhập làm một, một sự đa thanh thực thụ của các tiếng nói có trọng lượng” [3, 13]. Từ Raskolnikov, Sonya, Dunia, Marmeladov đến Luzhin, Svidrigailov, hay cả người mẹ của Raskolnikov xuất hiện trong lá thư gửi con trai cũng đều là loại nhân vật mà lời của họ “cũng đầy sức nặng giống như lời của tác giả” [3, 13]. Nguyễn Kim Đính cũng nhận xét rằng, những nhân vật trong sáng tác của Dostoevsky nói chung đều “là những con người trải qua quá trình tự phân tích, tự ‘mổ xe’ tâm địa mình, tự nhận thức nhiều lúc chua chát, đau đớn, cay đắng. Và tiếng nói tự phân tích, tự 53 nhận thức đó phải tự phơi bày ra với những sắc thái khác nhau, những rối rắm, phức tạp của chính nó, phải tự vang lên từ những trang sách, trực tiếp đến với người đọc.” Và nhờ thế, mỗi “tội phạm” đều xuất hiện như một cá nhân độc lập, sống động, có động cơ riêng, trạng thái tâm lý riêng để dẫn đến hành vi phạm tội. Chẳng ai nói hộ Raskolnikov vì sao lại tạo dựng lên được một hệ tư tưởng như thế, chẳng ai nói hộ Raskolnikov làm cách nào để mưu sát mụ Aliona, cũng không ai chỉ hộ những biến chuyển trong tâm lý của chàng từ lúc bắt đầu hình thành ý định đến lúc thực hiện, đến cả sau khi phải trả giá cho tội nghiệt của mình. Dostoevsky không nói. Là người đọc lần ra từ trong những hành động của nhân vật, qua những đoạn độc thoại nội tâm của Raskolnikov. Raskolnikov tự “mổ xẻ” chính tâm trạng mâu thuẫn của bản thân: “Ta đang mưu đồ một việc như vậy, mà đồng thời lại sợ những chuyện nhảm ấy ư?” Hay ở nhân vật Marmeladov, cũng tự ông ý thức cảnh ngộ “khốn cùng” của bản thân, tự ý thức về tội lỗi của mình, tự ý thức về nỗi khổ của gia đình, tự ý thức về sự hy sinh cao cả của Sonya. Việc tự ý thức ấy là biểu hiện cho loại nhân vật chủ đạo trong sáng tác của Dostoevsky, mà Bakhtin gọi đó là nhân vật “đang ý thức” [3, 39], tự ý thức về mình, và tự ý thức về mình và về thế giới của mình. Đó là kiểu nhân vật mang tư tưởng, hay nhân vật tư tưởng. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa nhân vật tư tưởng là “loại nhân vật tập trung thể hiện một tư tưởng, một ý thức tồn tại trong đời sống tinh thần của xã hội” [9, 233]. Như Raskolnikov điển hình cho nhân vật mang tư tưởng, và “hành động theo tư tưởng rối loạn vô chính phủ chống lại tình trạng con người bị chà đạp, bỏ rơi, không lối thoát” [9, 233]. Mỗi nhân vật trong Tội ác và hình phạt đại diện cho một tư tưởng sống khác nhau, mang tam quan khác nhau. Có thể trong Raskolnikov, trong Svidrigailov, trong Luzhin cũng có một phần lối tư duy theo hệ tư tưởng về kẻ mạnh, nhưng mỗi người lại đi đến một điểm không giống nhau. Ngay cả viên dự thẩm Porfiri cũng 54 nhận ra mình từng nghĩ đến tư tưởng ấy, nhưng rồi ông không chấp nhận được sự tồn tại của nó trong thế giới này. Chính tư tưởng đã là một động cơ thúc đẩy hành vi phạm tội ở các nhân vật gây tội ấy, và vì tư tưởng không giống nhau nên hình thái của hành vi phạm tội ở các nhân vật cũng khác nhau. Môi trường sống, hoàn cảnh cụ thể, đặc trưng nghề nghiệp, vùng tiếp xúc xã hội tạo nên ở những nhân vật tội phạm động cơ và hành vi phạm tội không giống nhau. Thêm vào đó, quá trình tâm lý của con người khi tiến hành tội ác rất phức tạp, thường xuyên rơi vào trạng thái của những dằn vặt, mâu thuẫn. Đặc điểm này được thể hiện trong tiểu thuyết thông qua hệ thống nhân vật chung đôi(hay nhân vật song trùng) cùng soi chiếu vào nhân vật trung tâm. Đó có thể là sự song trùng ở một cá nhân, khi trong nhân vật đó có nhiều tiếng nói, nhiều luồng tư duy cùng vang lên, đấu tranh với nhau, bộc lộ ra hai mặt tốt và xấu của nhân vật. Đó cũng có thể là các cặp đôi, nhóm những nhân vật chung đôi, mà nhìn vào những kẻ chung đôi này, chủ thể như đang nhìn thấy một cái tôi khác đối thoại lại với cái tôi đang ngự trị. Tạo ra những nhân vật chung đôi với nhân vật chính Raskolnikov, Dostoevsky giúp chính nhân vật tự nhận thức về bản thân. Soi chiếu vào các nhân vật chung đôi, hoàn cảnh sống, động cơ phạm tội, tâm lý kẻ gây tội của Raskolnikov được ý giải toàn diện hơn. Trong hệ thống nhân vật chung đôi với Raskolnikov, có nhân vật chung đôi bóng tối, như Svidrigailov hay Luzhin. Họ soi chiếu cho hệ tư tưởng là nền tảng cho động cơ giết người của Raskolnikov. Luzhin chung với Raskolnikov ở cái tôi cá nhân vị kỷ, “yêu thương lấy một mình mình”, muốn được làm ân nhân để người khác phải mang ơn mình. Luzhin chỉ chung đôi với tư tưởng của Raskolnikov bởi anh ta chỉ muốn thỏa mãn lòng vụ lợi chứ chưa gây ra tội ác nào, nhưng Luzhin lại thực hành được trọn vẹn hệ tư tưởng kẻ mạnh, chà đạp lên người khác mà không hề áy náy. Svidrigailov lại là nhân vật chung đôi khủng khiếp nhất của 55 Raskolnikov, một kẻ đi xa hơn cả Raskolnikov và Luzhin, khi nắm rõ hệ tư tưởng của Raskolnikov, khi liên tiếp gây ra tội ác mà lại chẳng hề áy náy, còn có thể cười nhạo lên lương tâm đang giãy dụa của chàng. Cũng có những nhân vật chung đôi ánh sáng với Raskolnikov, như Sonya và Porfiri. Họ đại diện cho lương tâm và tình thương trong sâu thẳm con người đã gây tội ác là Raskolnikov, đại diện cho lòng hướng thiện và hướng về Chúa của con người đang đi lầm đường. Tình yêu thương vô điều kiện của Sonya giúp hồi sinh Raskolnikov từ trong vũng lầy của hệ tư tưởng kẻ mạnh bạo lực. Viên dự thẩm Porfiri lại là người không những nắm rõ mà còn có thể phân tích cặn kẽ hệ tư tưởng của Raskolnikov. Nhân vật này đại diện cho công lý, cho một loại năng lực nghiệp vụ có thể đào sâu vào động cơ phạm tội, định hướng cho những kẻ phạm tội quay đầu. Dostoevsky chỉ ra những phức tạp trong chiều sâu ý thức của con người, nhất là ở những kẻ phạm tội. Soi chiếu vào nhân vật chung đôi để nhìn ra quá trình tâm lý của Raskolnikov từng bước đi đến tội ác và sau tội ác, để lý giải cho việc Raskolnikov rõ ràng “có những mặt gần gũi, gắn bó, đồng cảnh, đồng tình với những Marmeladoz, Sonya, Lizaveta”, nhưng Raskolnikov lại “nhận ra ở Luzhin, Svidrigailov những nét tư tưởng, tâm lí của mình, đang chi phối tâm trí mình ghê gớm” [13, 373] 3.1.2. Kết cấu không gian, thời gian 3.1.2.1. Kết cấu không gian Bakhtin nhận định, Dostoyevsky thường “nhìn thấy và suy ngẫm về thế giới của mình chủ yếu là trong không gian, chứ không phải trong thời gian” [3, 27]. Không gian được nhấn mạnh, trở đi trở lại trong việc tạo dựng sự kiện, đồng thời mang đầy tính biểu tượng. 56 Không gian bao trùm lên các nhân vật là thành phố Peterburg - một Peterburg đầy đủ giai cấp, tầng lớp; đầy đủ các hạng người, “thợ may, thợ nguội, thợ nấu bếp, đủ loại người Đức, gái không chồng, viên chức nhỏ”, chen chúc nhau ở khu vực trung tâm thành phố, tạo nên những mảng tương phản kỳ lạ. Ở Peterburg có người tốt, kẻ xấu; có những thân phận giãy dụa trong bi kịch cuộc sống khốn cùng, cũng có những con người giàu có, quyền thế; có những kẻ hút cạn máu người khác để giàu lên, cũng có những tấm lòng thương yêu vô điều kiện. Tội ác của nhân vật chính Raskolnikov diễn ra ở Peterburg, được thúc đẩy rất nhiều từ môi trường sống ngột ngạt xung quanh, của “bầu không khí nghẹt thở”, vì “những biểu hiện cao đẹp của nhân tính yêu chuộng tự do đều bị tiêu diệt” với hiện thực xã hội tư bản (theo Grossman); nhưng cũng chính ở Peterburg, Raskolnikov được nhận tình yêu thương, sự cứu rỗi từ những con người khác. Tất cả các nhân vật trọng yếu của Tội ác và hình phạt đều sẽ tề tựu lại ở Peterburg, tạo nên một mạng lưới liên hệ vô hình. Luzhin đến Peterburg trước hai mẹ con Dunia, ở cùng ông Lebeziatnilov - kẻ đã đánh Katerina Ivanovna. Svidrigailov sau khi đầu độc vợ cũng đi đến Peterburg, thuê căn phòng cạnh phòng của Sonia. Dồn tất cả vào trong một không gian, thậm chí là trong một thời gian, để cả dòng ý thức va đập vào nhau, thúc đẩy sự phát triển của một ý thức trung tâm, đào sâu từng khía cạnh trong tâm lý của nhân vật Raskolnikov khi đối diện với các nhân vật chung đôi. Đây là đặc trưng của thủ pháp “đại hội nhân vật” trong nghệ thuật sân khấu mà Dostoevsky mang vào trong tiểu thuyết. Cảm quan carnaval tạo ra những điểm ngưỡng, ở trong hoặc ở ngoài nhân vật, buộc nhân vật phải chọn lựa và vượt qua. Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, “ngưỡng” là sự “chuyển qua lại giữa cái bên ngoài (cái phàm tục) và cái bên trong (cái thiêng liêng), tượng trưng “vừa cho sự tách biệt, vừa cho khả năng của một sự liên kết, một sự hòa hợp, một sự giải tỏa”. Ở những điểm ngưỡng ấy, con người ta như phân thân, “phân tách đến mức phân đôi trực tiếp nhân cách”, ở 57 Raskolnikov, là nhân cách của kẻ phạm tội và nhân cách của một con người giàu tình yêu thương, va đập vào nhau, gây ra một trạng thái khủng hoảng, dằn vặt, đau khổ, như một “cơn bệnh” không thể nào che giấu được. Đó là điểm ngưỡng, những không gian “điểm” nơi “xảy ra con khủng hoảng, sự thay đổi triệt để bước ngoặt của số phận, nơi người ta phải quyết định, nơi người ta phải bước qua những giới hạn cấm, nơi người ta đổi mới hay là chết” [3, 157]. Rất nhiều lần hình ảnh cầu thang xuất hiện trong Tội ác và hình phạt, mỗi lần Raskolnikov đi lên, đi xuống cầu thang là một lần tâm lý của nhân vật thay đổi. Không gian hẹp (căn phòng như cái quan tài, cái tủ) minh chứng cho tâm hồn muốn xa lánh thế giới của Raskolnikov, nhưng trong vô thức khi bước ra không gian rộng lớn như đại lộ, quảng trường, Raskolnikov vẫn muốn được hòa nhập cùng đám đông. Tâm lý của nhân cách tội phạm trong Raskolnikov từ khi hình thành ý định tội ác đến lúc thực hiện nó, cả khi đã phải trả giá cho nó, đều được đặt trên những điểm ngưỡng, mà con người sẽ phải vật lộn giữa “con người bản năng và con người ý thức”, và “lựa chọn giữa bước qua hay dừng lại là giữa tội ác hay lương thiện. Vượt ngưỡng chính là vượt qua chính mình - có thể là vượt qua để đến với Chúa, hoặc do sự lôi kéo của quỷ” [16, 43]. Trong không gian rộng lớn của Peterburg với “những mẫu người lắm hình lắm vẻ đến nỗi khó có thể ngạc nhiên khi gặp một bóng dáng quá kỳ quặc”, Bakhtin nhận ra “cảm giác carnaval về các thành phố lớn” của Dostoevsky. Nơi thành phố đông đúc diễn ra rất nhiều những cảnh tượng kỳ quái: Raskolnikov đến sở cảnh sát với tâm trạng lo âu vì sợ có người đã tố giác tội giết người của chàng ta, nhưng hóa ra người ta cho đòi chàng vì thiếu nợ tiền nhà, cuộc đối thoại của Raskolnikov trong sở cảnh sát với viên phó quận trưởng như một tràng cười nhạt bóc dần cái nhìn của nhân dân với chính quyền. Trong đám tang của Marmelazov được Katerina tổ chức linh đình, chỉ thấy đầy “không khí nhốn nháo, náo loạn, ầm ỹ được tạo nên bởi 58 những người còn sống” (theo Đỗ Thị Hường trong bài viết Giải mã không gian trong Tội ác và hình phạt của Dostoevsky) Ở Peterburg như một “cõi chiêm bao lạ lùng huyền ảo, như cái gì đứng giữa thực tại và sự hư cấu huyễn hoặc” [3, 145], cảm giác trên sông Neva là “một ảo ảnh” ấy, con người ta được nâng lên, được tấn phong, dù chỉ là trong ảo tưởng của anh ta, rồi sẽ bị hạ bệ ngay lập tức. Raskolnikov tự nâng mình lên cao hơn hết thảy với hệ tư tưởng kẻ mạnh, nhưng trái tim vị tha nguyên bản đã lập tức hạ bệ nhân vật xuống. Chính cái hệ tư tưởng trao cho anh ta quyền năng trong tưởng tượng, nhưng lại tiêu diệt phần nhân tính của Raskolnikov, hạ bệ anh ta trong cuộc sống người. Raskolnikov tưởng mình sẽ trở thành kẻ mạnh, nhưng thực ra chỉ là sa lầy trong tội ác. Carnaval hóa cho phép Dostoevsky “nhìn thấy và miêu tả trong tính cách và ứng xử của con người mà trong điều kiện của tiến trình cuộc sống bình thường không thể bộc lộ ra” [3, 148]. Động cơ giết người từ một hệ tư tưởng sai lầm ở Raskolnikov nhờ cảm quan carnaval mà hiện lên rõ nét, logic. 3.1.2.2. Kết cấu thời gian Một nét đặc trưng của tự sự Dostoevsky là cái nhìn “cùng tồn tại và tác động qua lại”. Bakhtin phân tích, Dostoyevsky cảm nhận hiện thực trong cùng một thời gian, lý giải thế giới bằng việc “suy nghĩ tất cả các nội dung của nó như là những cái đồng thời và phỏng đoán mối quan hệ của chúng trong mặt cắt của một thời điểm”, để “tất cả bên cạnh nhau và đồng thời” như là “những cái cùng tồn tại”. Dostoevsky co hẹp thời gian, “hành động của tiểu thuyết diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn ngủi vẹn vẹn mười bốn ngày”, dù những tính toán đã được chuẩn bị từ rất lâu trước đó. Nhịp điệu của hành động tiểu thuyết cũng “mang tính kịch căng thẳng” [13, 369] 59 Ông tạo ra những cốt truyện song song, những tuyến nhân vật song trùng. Những tội ác giống như đồng thời diễn ra, khi Raskolnikov giết mụ Aliona ở Peterburg, thì ở thị trấn tỉnh lẻ, Svidrigailov cùng đầu độc người vợ. Trong cùng thời điểm cơn mê sảng giấu đồ của Raskolnikov là giấc mộng gặp lại vợ của Svidrigailov. Trong đêm Svidrigailov lang thang giữa cơn mê man về quá khứ sau khi bị Dunia từ chối ở Peterburg, Raskolnikov cũng lang thang trên đường với ý định tự vẫn Những tuyến cốt truyện song song, đồng thời diễn ra, bi kịch của gia đình Marmeladov và Sonya, chuyện của Dunia và những kẻ cầu hôn, soi chiếu vào tuyến truyện trung tâm là Raskolnikov và cuộc thử nghiệm hệ tư tưởng kẻ mạnh. Các nhân vật của ba tuyến cốt truyện ấy, một lần duy nhất chung đụng là trong đám tang của Marmeladov, va đập vào nhau, xoáy sâu vào quá trình tâm lý của nhân vật chính lúc này đã là tên tội phạm. 3.2. Phá vỡ motif truyện trinh thám 3.2.1. Tưởng như Tội ác và hình phạt được xây dựng như một câu chuyện trinh thám, xây dựng trên một “cốt truyện hình sự”, có vụ án, hiện trường, hung khí, tội phạm, nạn nhân, điều tra viên đồng thời là thám tử, có động cơ phạm tội, có đủ sự kịch tính trong miêu tả hành vi phạm tội và quá trình truy tìm hung thủ; tuy nhiên, Dostoevsky lại phá vỡ đi đặc trưng của tiểu loại tiểu thuyết trinh thám này. Từ điển thuật ngữ văn học chỉ ra hai đặc điểm chính của tiểu thuyết trinh thám: thứ nhất, “nhân vật chính có thể là thám tử, là mật thám, hay điều tra viên nhưng đều có nghề nghiệp chung là dò la, điều tra, khám phá cái bí mật còn nằm trong bóng tối”; thứ hai, nó là “truyện vụ án, truyện viết về tội phạm”; thứ ba, về cách thức xây dựng cốt truyện, nó “phải giữ kín đến cùng những bí mật của tội phạm để tạo nên sự hấp dẫn, khiến người đọc luôn luôn ở trong trạng thái căng thẳng” [9, 341] 60 Trong ba đặc điểm trên, ngoại trừ đặc điểm thứ hai, thì Tội ác và hình phạt vi phạm cả hai điều còn lại. Nhân vật chính của Tội ác và hình phạt không phải kẻ đi điều tra, mà là kẻ gây tội. Nhân vật điều tra trong Tội ác và hình phạt (chủ yếu là viên dự thẩm Porfiri) chỉ giúp mở ra những góc sâu hơn trong tâm lý kẻ phạm tội, lý giải cặn kẽ động cơ phạm tội của Raskolnikov. Quan trọng hơn cả, là Tội ác và hình phạt đã phá vỡ tính giấu kín đến cuối cùng ở các tiểu thuyết trinh thám. Đúng là Tội ác và hình phạt xoay quanh một vụ án mạng giết người, song hứng thú của người đọc không nằm ở câu hỏi “ai là thủ phạm giết người” hay “giết như thế nào”, vì đơn giản là Dostoevsky đã chỉ rõ ở trong phần I của tiểu thuyết gồm sáu phần này, thủ phạm là Raskolnikov, anh ta giết hai mạng người ở nhà của nạn nhân bằng rìu. Vấn đề trọng tâm của tiểu thuyết Tội ác và hình phạt là truy tìm động cơ phạm tội: “Kẻ phạm tội thuộc hạng người nào? Cái gì đã đẩy con người ấy đến với tội ác”. Do đó, “không ai gọi Tội ác và hình phạt là tiểu thuyết trinh thám” [9, 342]. Đặc điểm của truyện trinh thám chỉ xuất hiện trong Tội ác và hình phạt“như những motif cốt truyện và những nhân vật phụ” [9, 341]. 3.2.2. Đỗ Hải Phong trong Giáo trình văn học Nga cho rằng, ở Tội ác và hình phạt, “cốt truyện hình sự ở trên bề mặt phản ánh ‘cốt truyện thử nghiệm tư tưởng ở chiều sâu của tác phẩm” [15, 71]. Tức là, cũng có thể coi Tội ác và hình phạt như một tiểu thuyết tâm lý, lấy nhân vật tội phạm của tiểu thuyết trinh thám làm đối tượng miêu tả tâm lý. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa tiểu thuyết tâm lý là loại tiểu thuyết “miêu tả các trạng thái tâm lí, xây dựng thế giới nội tâm của con người, đặc biệt nhấn mạnh tới động cơ, hoàn cảnh và cốt truyện nội tại” [9, 339]. Đúng là Tội ác và hình phạt xoay quanh tâm lý của kẻ gây tội Raskolnikov, diễn biến tâm trạng của anh ta trước, trong và sau khi phạm tội. Giống như mọi tiểu 61 thuyết tâm lý khác vì “bất mãn với việc miêu tả sự việc bên ngoài”, Tội ác và hình phạt cũng “đi sâu khám phá nguyên nhân bên trong” [9, 340]. Xuyên suốt tác phẩm là quá trình đào sâu tâm lý để tìm ra động cơ phạm tội của Raskolnikov. Điểm đặc biệt trong tiểu thuyết tâm lý của Dostoevsky là theo khái quát Từ điển thuật ngữ văn học thì ở Tội ác và hình phạt lại không thấy rõ “tính cách cá nhân” vốn được coi là quan trọng nhất trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của tiểu thuyết tâm lý. Ở Tội ác và hình phạt, điều nổi lên trên hết thảy không phải nhân vật tính cách mà là những nhân vật mang tư tưởng. Hệ tư tưởng về kẻ mạnh chi phối suy nghĩ, hành động của nhân vật Raskolnikov. Đó không phải là tư tưởng của tác phẩm Tội ác và hình phạt, không phải là tư tưởng của Dostoevsky, nó là tư tưởng của một nhân vật trong tác phẩm văn học. Tội ác và hình phạt không phải tập trung vào tư tưởng (mà tập trung vào con người mang tư tưởng), vậy nên có thể gọi Tội ác và hình phạt là tiểu thuyết tư tưởng hay không là một vấn đề cần xem xét kỹ hơn. Nhưng Tội ác và hình phạt cũng không đơn thuần chỉ là một cuốn tiểu thuyết tâm lý đào sâu diễn biến tâm trạng của một cá nhân. Chỉ có thể khẳng định rằng, dấu ấn của tư tưởng rất đậm nét trong nhân vật của Tội ác và hình phạt, có khi còn vượt trội hơn đặc điểm tính cách, nhất là ở nhân vật trung tâm Raskolnikov. Tiểu kết: Những khía cạnh về tâm lý học tội phạm trong tác phẩm có những phương thức để làm nổi bật lên vị trí của nó. Chương 3 là thao tác “đổ nền” cuối cùng cho bức tranh tâm lý học tội phạm trong Tội ác và hình phạt, đồng thời cũng là tấm áo cuối cùng để chúng tôi hoàn thiện công trình nghiên cứu. Chúng tôi đề cập và làm sáng tỏ nét vẽ tiêu biểu nhất của Dostoevsky đó là mô hình tiểu thuyết đa thanh với nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật xuất sắc, đặc biệt là tâm lý tội phạm và cách lựa chọn, tổ chức, sắp xếp không gian, thời gian nghệ thuật của nhà văn. Đây chính là trụ cột quan trọng tạo nên bố cục hoàn chỉnh cho bức tranh tâm lý học tội phạm. Cùng với đó là sự sáng tạo của Dostoevsky bằng việc phá vỡ cốt truyện trinh thám. Là một bậc thầy về tiểu thuyết tâm lý, dưới góc nhìn tâm lý 62 học tội phạm, Dostoevsky đã mượn một cốt truyện hình sự trên tầng bề mặt để phản ánh cốt truyện tư tưởng ở bề sâu ý nghĩa. Báo cáo đã tiến hành phân tích những phương thức biểu hiện ấy của tâm lý học tội phạm, làm sáng rõ hơn tác phẩm thông qua góc nhìn về tâm lý học tội phạm. C. KẾT LUẬN Báo cáo đã đặt ra những vấn đề cần nghiên cứu ở đề tài. Đó là những biểu hiện của tâm lý học tội phạm trong tiểu thuyết Tội ác và hình phạt. Báo cáo không đề cập đến tất cả các vấn đề mà tâm lý học tội phạm bao quát mà chỉ nhấn mạnh trọng tâm vào các yếu tố có biểu hiện trực tiếp trong tác phẩm (các khái niệm, vị trí, vai trò của tâm lý học tội phạm, nhân cách người phạm tội, các quan điểm chi phối). Đề cập những yếu tố đó làm cơ sở cho việc nghiên cứu, báo cáo đã gắn liền chúng với tác phẩm để phân tích, chứng minh, không phân tách làm tăng thêm tính thiết thực của báo cáo. Tội ác là không thể dung thứ, nó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân và không thể cân đo đong đếm một cách cụ thể. Từ tội ác, người viết phổ quát những vấn đề nhức nhối mà nhà văn đặt ra có tác động trực tiếp tới hành vi phạm tội và tâm lý “không nguyên vẹn” của kẻ phạm tội. Đó là sự lên ngôi của xã hội đồng tiền và sự vi phạm những chuẩn mực đạo đức. Sự ràng buộc về mặc cảm trong tâm lý đã hình thành nên tư tưởng về kẻ mạnh trong tiềm thức cá nhân. Việc hiểu sai tư tưởng và những triết lý tốt đẹp đó bằng cách phóng đại nó, gán tư tưởng ấy với vai trò thực thi của hình tượng Napoleon trong sự sùng bái của bản thân để giải thoát những con người nhỏ bé không thể đấu tranh đã vô hình chung trở thành “con dao hai lưỡi”, đưa nhân vật vào thế thực hiện hành vi phạm tội.Tất cả những gì mà con người sống trong xã hội Nga lúc này muốn là kiếm tiền, họ phải dành được đồng tiền bằng mọi giá để thoát khỏi nghèo 63 đói, bệnh tật. Dường như đồng tiền có một sức mạnh vô hình chi phối mọi hành động của họ. Nó chính là nguyên nhân sâu xa gây ra tội ác và sự thối nát đạo đức của các tầng lớp trong xã hội Nga lúc bấy giờ. Không chỉ hiện thực xã hội Nga bị Dostoevsky phản ánh gay gắt trước sự chi phối mãnh liệt của thế lực đồng tiền mà sự vi phạm lý tưởng đạo đức cũng là một cách lý giải những tội ác ấy. Đạo đức xã hội thể hiện ở phương diện: nghĩa vụ, lương tâm, hai thái cực “thiện” và “ác” tồn tại trong một con người. Xét trên hiện thực mà Dostoevsky xây dựng trong Tội ác và hình phạt thì những vấn đề về đạo đức trong xã hội đương thời đã bị biến đổi. Sự vi phạm những chuẩn mực đạo đức là một gam màu của “tội ác” bên cạnh thực trạng lên ngôi của xã hội đồng tiền. Dưới ngòi bút của Dostoevsky, Sonya và Dunia là hai nhân vật nữ như những viên ngọc quý. Dù có bị đánh rơi một lần, song, những viên ngọc ấy vẫn hoàn thiện thành công vai trò tỏa sáng của mình. Họ đại diện cho những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, đức hy sinh, sự cương trực, cứu rỗi hay đức hạnh tuyệt đẹp Chính họ là những hiện thân không thể hoàn hảo hơn của lý tưởng đạo đức con người. Bên cạnh đó, Dostoevsky vẫn phác họa chân dung của những kẻ trái ngược hoàn toàn. Từ đó, ông đã nêu lên những tuyên ngôn về đạo đức của mình. Với hai nhân vật Raskolnikov và Svidrigailov, Dostoevsky đã kêu gọi con người xây dựng một lý tưởng đạo đức cao đẹp. Ông đã khẳng định điều đó bằng việc sống có đức tin, có niềm tin mãnh liệt vào chúa, nó gắn liền với sự cứu rỗi tâm hồn con người. Đồng thời, họ cần phải biết tránh xa những cái xấu, kìm hãm bản thân trước những dục vọng, cám dỗ để bảo vệ, giữ gìn cái thiên lương của mình. Xứng danh là một trong những tiểu thuyết lớn làm nên tên tuổi cho Dostoevsky, Tội ác và hình phạt không chỉ thể hiện gói gọn ở những chủ đề mà vốn dĩ tên gọi của nó đã có ở tầng ý nghĩa bề mặt. 64 Những hình phạt mà Dostoevsky đề cập đến là những hình phạt thật sự thích đáng cho kẻ phạm tội. Đặc biệt, hình phạt về tâm lý qua sự trải nghiệm lại cảm giác khi phạm tội từ những giấc mơ đeo bám con người và sự dằn vặt lương tâm sau tội ác quả thật không thể phủ nhận sự khủng khiếp của nó. Tội ác và hình phạt xứng đáng với cái tên và tầm ảnh hưởng của nó. Nhân vật Raskolnikov là sự hiện thân cho việc trả giá sau những hành động phạm tội. Anh ta phải gánh chịu cả hình phạt về thể xác và tinh thần. Đỉnh điểm của sự đau khổ khi phải trả giá không chỉ là gây ra sự tàn nhẫn làm tổn thương những con người vô tội mà còn với chính những người thân yêu của mình. Đó là sự đau khổ tột cùng nhất, vượt lên trên tất cả mọi sự dằn vặt của lương tâm con người. Báo cáo cũng đã tiến hành lựa chọn và phân tích những nét nghệ thuật đặc sắc của bức tranh tâm lý học tội phạm trong Tội ác và hình phạt. Nó không chỉ đơn thuần là sự cấu tạo lên một tác phẩm tự sự vĩ đại mà còn là chất liệu tạo ra những vấn đề có thể nghiên cứu chuyên sâu. Ở đây, chúng tôi đã lựa chọn mô hình tiểu thuyết đa thanh, trọng tâm và nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật - một lát cắt không thể thiếu của một đề tài khoa học nghiên cứu từ góc độ tâm lý và sự tổ chức, bố trí không gian, thời gian nghệ thuật của nhà văn. Điều đó chứng tỏ, Dostoevsky không chỉ là một nhà văn tài năng trong văn học mà còn là một con người có cái nhìn đầy tinh tế. Đồng thời, Dostoevsky đã rất xuất sắc khi sử dụng cốt truyện hình sự ở bề mặt, tạo ra câu chuyện trinh thám ở chính cốt truyện ấy để phản ánh một cách sâu sắc cốt truyện tư tưởng ở bề sâu tác phẩm. Những người nghiên cứu đã chứng minh những phương thức ấy, làm rõ những biểu hiện của tâm lý học tội phạm trong tiểu thuyết vĩ đại của Dostoevsky. Dostoevsky là bậc thầy nghệ thuật miêu tả tâm lý con người khủng hoảng, con người ở “ngưỡng giới hạn”, trong những trạng thái tâm lý gần với bệnh lý, khi tiềm thức trỗi dậy bất ngờ, ranh giới giữa ý thức và vô thức trở nên mong manh, khó xác định. Thủ pháp giấc mơ, cơn mê sảng thường được Dostoevsky khai thác một cách 65 hữu hiệu để phục vụ mục đích khắc họa những trạng thái tâm lý này. Tác giả đã khám phá ra những góc tối trong tâm hồn con người mà ít ai chạm được đến qua tác phẩm Tội ác và hình phạt . Tác phẩm là lời tố cáo xã hội Nga thế kỷ XIX coi đồng tiền hơn tất cả nhân tính con người, chà đạp lên nhân phẩm và đạo đức. Đồng thời Dostoevsky cũng ca ngợi tình yêu thương giữa những con người nghèo khó với nhau, xoa dịu tâm hồn và tình yêu sẽ giúp con người trở nên lương thiện. Thế giới vốn mâu thuẫn, sự hài hoà cân bằng là điều khó có thể xảy ra nhưng tác phẩm của Dostoevsky vẫn hướng con người đấu tranh để vươn tới một xã hội tốt hơn “Chừng nào còn có con người trăn trở với khát vọng hài hoà trong một xã hội mâu thuẫn, người ta còn phải tìm đến Dostoevsky" (Đỗ Hải Phong) TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aitmatov (1981), “Viết về F.M.Dostoevsky”, trích trên “Báo Văn nghệ”, số 14. 2. Andre Gide (1996), Người quy tụ trái tim Nga, bản dịch trong Sáng tác của Dostoevsky những tiếp cận từ nhiều phía. 66 3. M.Bakhtin (1993), “Những vấn đề thi pháp Dostoevsky” (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch), NXB Giáo dục, Hà Nội. 4. Belov S. (1998), “Mối tình cuối cùng của Dostoevsky”, Hoàng Cầm dịch, NXB Văn hóa, Hà Nội. 5. Berdiaer N.A (2003), Tâm hồn Nga, đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài, số 6. 6. Đỗ Hồng Chương & Nhiều tác giả (2009), Lịch sử văn học Nga, NXB Giáo dục, Hà Nội. 7. L.Grossman (1998), Dostoevsky cuộc đời và sự nghiệp, NXB Văn hóa, Hà Nội. 8. Thành Đức Hồng Hà (2017), Biểu tượng màu sắc trong Tội ác và hình phạt của Dostoevsky, đăngtrên tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 6. 9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), “Từ điển thuật ngữ văn học”, NXB Giáo dục. 10. Nguyễn Thị Hoàn (2020), Sự chuyển dịch tư tưởng của Raskolnikov qua các bản dịch (viết bằng tiếng Nga), đăng trên tạp chí Khoa học Ngoại ngữ số 61. 11. Đỗ Thị Hường (2020), Giải mã không gian trong Tội ác và hình phạt của Dostoevsky, đăng trên trang web của Khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 12. KHRAPCHENKO M.B (1972), Dostoevsky và di sản văn học của ông” (“Dostoevski I ego literaturnoe nasledie"), bản dịch trong Sáng tác của Dostoevsky những tiếp cận từ nhiều phía. 13. Nhiều tác giả (2012), “Lịch sử văn học Nga”, phần “F.M.Dostoevsky” (Nguyễn Kim Đính viết), NXB Giáo dục Việt Nam 14. Trần Thị Nâu (2015), Cái đẹp sẽ cứu thế giới - Cảm thức tôn giáo trong sáng tác của Dostoevsky, đăngtrên tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 2. 15. Đỗ Hải Phong (2015), Giáo trình văn học Nga, NXB Giáo dục. 67 16. Lê Sơn (chủ biên) (2000), Sáng tác của Dostoevsky những tiếp cận từ nhiều phía, trung tâm KHXH&NV quốc gia, Viện thông tin KHXH, Hà Nội. 17. Stanton E. Samenow, Tâm lý học tội phạm (2 tập), NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Huy Nguyễn (dịch). 18. Đoàn Thị Tươi (2011), Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ Văn, “Peterburg trong ‘Chàng thiếu niên’ của F.M.Dostoevsky” (người hướng dẫn: PGS.TS Đỗ Hải Phong), Hà Nội. 19. Tài liệu Tâm lý học tội phạm lưu hành nội bộ tại Viện Kiểm sát Nhân dân. 68

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbao_cao_nghien_cuu_khoa_hoc_toi_ac_va_hinh_phat_cua_dostoevs.pdf
Tài liệu liên quan