lời nói đầu
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH do vậy việc tạo nền tảng cơ sở là vấn đề then chốt. Đảng và Nhà nước đã nhận thức rõ điều này và đề ra chiến lược CNH - HĐH đất nước một cách toàn diện sâu sắc nhằm “xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” (NQ ĐN9).
Trong các “Viên gạch” xây nên móng này, ngành xây dựng cơ bản đóng vị trí hết sức quan trọng là động lực thúc đẩy các ngành khác phát triển. Việc ưu tiên cho xây dựng cơ bản phát
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác lập nghiên cứu khả thi tại Công ty tư vấn xây dựng Sông Đà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển trước một bước là điều dễ hiểu, điểm vạch ra “phát triển ngành xây dựng đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước và có nguồn lực đấu thầu công trình xây dựng ở nước ngoài. Phát triển các hoạt động tư vấn và các doanh nghiệp xây dựng trong đó chú trọng theo từng lĩnh vực thuỷ điện, thuỷ điện, cảng, cầu đường...”
Với tư cách là cơ quan tư vấn duy nhất thuộc Tổng công ty xây dựng Sông Đà (Tổng công ty lớn nhất Việt Nam ngành xây dựng), công ty tư vấn xây dựng Sông Đà giúp tổng công ty và các công ty thành viên xây dựng hồ sơ dự thầu, đấu thầu... đặc biệt là các báo cáo nghiên cứu khả thi (là bộ phận tiên quyết định tới sự thành bại của công trình). Để đảm nhận trọng trách to lớn này công ty phải không ngừng nâng cao hiệu quả, chất lượng sản phẩm của mình, góp phần khôngnhỏ thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế của ngành cũng như quốc gia.
Nhận thức vấn đề này, em chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác lập báo cáo nghiên cứu khả thi tại công ty tư vấn xây dựng Sông Đà”. Đề tài gồm 3 chương
Chương 1: Khái luận chung về đầu tư, báo cáo khả thi và công tác lập báo cáo khả thi ngành xây dựng.
Chương 2: Thực trạng lập báo cáo nghiên cứu khả thi tại công ty TVXD Sông Đà
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác lập báo cáo nghiên cứu khả thi tại công ty.
chương I:
khái luận chung về đầu tư, báo cáo khả thi và công tác lập báo cáo khả thi ngành
xây dựng
I. Lý luận chung về đầu tư phát triển.
1. Khái niệm về đầu tư:
1.1. Khái niệm.
Thuật ngữ “Đầu tư” có thể được hiểu trên nhiều góc độ , khía cạnh khác nhau nhưng đều cùng mục đích nhằm giải thích nó.
- Trên góc độ tài chính, đầu tư là một chuỗi hoạt động chỉ tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu, nhằm hoàn vốn và sinh lời
- Trên góc độ tiêu dùng, đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện đại để thu được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai.
- Trên góc độ nền kinh tế, đầu tư là sự hi sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra rài sản mới cho nền kinh tế.
- Trên góc độ chung, đầu tư có thể hiểu là sự bỏ ra, hi sinh các nguồn lực ở hiện tại nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.
Nguồn lực dành cho đầu tư có thể là vốn, tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động, trí tuệ, con người... xét về thơi gian các nguồn lực này được bỏ ra ở hiện tại để thu về kết quả trong tương lai. Những kết quả đạt được có thể là các mục tiêu kinh tế như lợi nhuận, sự tăng lên của tài sản tài chính, tài sản vật chất, có thể là các mục tiêu chính trị văn hoá, xã hội như sự gia tăng tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực cho nền kinh tế.
Tuỳ thuộc vào từng chủ thể và đối tượng đầu tư cụ thể mà các mục tiêu đầu tư được trú trọng khác nhau và trong một điều kiện cụ thể thì các chủ thể đầu tư khác nhau sẽ chọn các phương pháp đầu tư khác nhau nhằm đạt được mục tiêu cao nhất có thể.
Như đã nói, hiệu quả của hoạt động đầu tư là rất phong phú và đa dạng đối với từng cá nhân, đơn vị, đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vị. Đối với nền kinh tế, đầu tư quyết định sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là chìa khoá của sự tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu xem xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải mọi sự bỏ vốn để tiến hành các hoạt động nhằm thu lợi đều được co là đầu tư, chỉ những hoạt động bỏ vốn ra tiến hành các hoạt động đầu tư và tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mới được gọi là đầu tư phát triển. Nhưng xét trên một tổng thể với những mối quan hệ tương tác thì đầu tư phát triển giúp các loại đầu tư khác vận động và tồn tại còn các loại đầu tư khác lại có tác động thúc đẩy đầu tư phát triển.
Do đó, khái niệm chung nhất về đầu tư là sự chi tiêu vốn cùng với các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó ( tạo ra hoặc khai thác...) nhằm thu về các kết quả có lợi trong tươnglai, lớn hơn chi phí đã bỏ ra.
1.2. Phân loại.
Để đáp ứng các nhu cầu quản lý và nghiên cứu khác nhau, các nhà kinh tế đã phân loại hoạt động đầu tư theo nhiều tiêu thức.
Theo bản chất của các đối tượng đầu tư chia thành đầu tư cho các đối tượng vật chất, đầu tư cho các đối tượng tài chính và đầu tư cho các đối tượng phi vật chất.
Theo cơ cấu tái sản xuất có thể phân loại thành đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng. Đầu tư chiều rộng làm tăng quy mô sản xuất, còn đầu tư chiều sâu gắn liền với việc đổi mới công nghệ và kỹ thuật.
Theo phân cấp quản lý phân thành ba nhóm A, B, C tuỳ theo tính chất và quy mô của dự án, trong đó nhóm A do thủ tướng chính phủ quyết định, nhóm B và nhóm C do Bộ trưởn g, Thủ tướng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định.
Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư có thể phân thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư chia thành đầu tư cơ bản và đầu tư vận hành. Đầu tư cơ bản nhằm sản xuất các tài sản cố định, còn đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng.
Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội có thể phân thành đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. Đầu tư thương mại là loại đầu tư ngắn hạn, vốn vận động quay vòng nhanh, độ rủi ro thấp. đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn, vốn đầu tư lớn thu hồi vốn chậm, thời gian thực hiện đầu tư dài, độ mạo hiểm cao vì có tính kỹ thuật phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố bất định.
Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi vốn đã bỏ ra của các kết quả đầu tư có thể chia thành đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn.
Theo quan hệ quản lý của chủ, đầu tư được phân thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp được phân thành đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển.
Theo nguồn vốn đầu tư có thể chia thành đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước sử dụng vốn huy động trong nước, gồm vốn tích luỹ của ngân sách của doanh nghiệp và tiết kiệm của dân cư. Đầu tư nước ngoài sử dụng vốn huy động trong nước gồm vốn tích lũy của ngân sách, của doanh nghiệp và tiết kiệm của doanh thu của dân cư. Dầu tư nước ngoài sử dụng vốn huy động cuả nước ngoài gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp.
Theo vùng lãnh thổ, đầu tư được chia thành từng tỉnh, thành phố và theo vùng kinh tế của đất nước.
Ngoài ra, trong thực tế tuỳ theo những nhu cầu và mục đích cụ thể người ta còn chia đầu tư theo quan hệ sở hữu, theo quy mô và theo các tiêu thức khác nữa. Tuy nhiên, về bản chất, nhình chung có 3 loại đầu tư là đầu tư thương mại, đầu tư tài chính và đầu tư phát triển. Cả 3 loại đầu tư này có quan hệ tương tác, giúp đỡ lẫn nhau, trong đó đầu tư phát triển có tính chất quyết định.
2. Đầu tư phát triển và vai trò của nó.
2.1. Hoạt động đầu tư phát triển - vốn đầu tư phát triển.
2.1.1. Hoạt động đầu tư phát triển.
Hoạt động dr phát triển hay hoạt động đầu tư vốn là quá trình sử dụng vốn đầu tư sản xuất giản đơn và tái sản xuất các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của địa phương của ngành hoặc của các cơ sỏ sản xuất - kinh doanh dịchvụ nói riêng.
Hoạt động đầu tư vốn còn được hiểu là quá trình chuyển hoá từ tiền thành các cơ sở vật chất, các yếu tố của quá trình sản xuất thông qua các hoạt động như xây dựng, mua sắm, lắp đặt, chi phí xây dựng cơ bản khác và thực hiện các chi phí với tài sản cố định vừa tạo ra.
Như vậy quá trình đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn đã được tích luỹ trong quá khứ vào quá trình sản xuất kinh doanh, quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm nâng cao đời sống của mọi người trong xã hội.
2.1.2. Vốn đầu tư phát triển.
Vốn đầu tư phát triển là tiền tích luỹ của xã hội của các tổ chức sản xuất , kinh doanh, dịch vụ tiền tiết kọm của dân, vốn huy động từ nước ngoài và các nguồn khác được sử dụng để tái sản xuất mở rộng nhằm duy trì và nâng cao tiềm lực kinh tế cho các đơn vị và cho nền sản xuất xã hội.
Vốn đầu tư được sử dụng để tái sản xuất giản đơn và mở rộng các tài sản cố định, tạo ra các tài sản lưu động để duy trì và phát triển các tài sản cố định mới tăng thêm.
Nguồn vốn đầu tư gồm hai nguồn cơ bản là nguồn huy động trong nước và nguồn huy động nước ngoài. Nguồn vốn trong nước đa dạng, bao gồm vốn tích luỹ từ ngân sách từ các doanh nghiệp và huy động vốn tiết kiệm của dân cư. Nguồn vốn nước ngoài cũng khá quan trọng và phong phú, gồm vốn đầu tư trực tiếp, và vốn đầu tư gián tiếp, trong đó gồm việc trợ không hoàn lại việc trợ có hoàn lại, cho vay với lãi xuất ưu đãi hoặc thông thường.
2.2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển.
Hoạt động đầu tư phát triển được phân bịệt rõ ràng so với các hoạt động khác chính nhờ các hoạt động khác biệt của nó.
Thứ nhất nguồn lực cần thiết cho một hoạt động đầu tư là rất lớn. Do đó có thể dẫn đếntình trạng nhiều dự án không có đủ vốn và nguồn lực thực hiện đồng thời sau mỗi dự án có số lao động khá lớn không được giải quyết công ăn việc làm còn gọi là “bện dự án” hay “hậu dự án”.
Thứ hai, thơi gian cần thiết thực hiện một công cuộc đầu tư thường kéo dài do nhiều hạng mục công trình với tính chất kỹ thuật phức tạp. Thơi gian thực hiện dài đồng thời với lượng vốn lớn vì vậy nếu quản lý không chặt chẽ có thể dẫn đến cơ cấu vốn đầu tư k chính quyền Nhà nước có thẩm quyền thực hiện một số hoạt động
áp dụng pháp luật nhất định.
+ được tiến hành theo ý chí đơn phương của chính quyền Nhà nước, người có thẩm quyền,hông hợp lý, sử dụng vốn không hiệu quả có lúc thiếu vốn song có vốn lại bị ứ đọng.
Thứ ba, thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài, nhiều khi là vĩnh viễn, do đó nếu trong quá trình vận hành mà kết quả đó gây ra hiệu ứng tiêu cực cho môi trường, xã hội thì toàn xã hội sẽ phải gánh chịu hậu quả lâu dài. Mặt khác thời hạn vận hành dài nên phải có tỷ lệ khấu hao hợp lý để có thể hoàn vốn, trả nợ và thu được lợi nhuận.
Thứ tư, các công trình đầu tư đựoc tạo ra ở vị trí cố định, chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, tự nhiên xj của vùng đó, do vậy trong quá trình chuẩn bị đầu tư cần phải có quy hoạch, kế hoạch phù hợp với phong tục tập quán, chính trị tại nơi đó.
Thứ năm, đầu tư phát triển có độ rủi ro cao do thời gian vận hành fài vốn đầu tư lớn... phải chịu nhiều yếu tố bất định, do đó cần phải có những biện pháp phòng tránh rủi ro giảm bớt thiệt hại nếu xảy ra.
Thứ sáu, đầu tư phát triển có độ trễ thời gian, vốn đầu tư được thực hiện ở kỳ này nhưng không có tác dụng ngay, mà đến khi kết quả đầu tư được tạo ra đầu tư lúc này đầu tư phát triển mới có tác dụng, có thể là ở các kỳ sau nắm được đặc điểm này để có những tính toán chính xác nhằm đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp.
2.3. Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển.
2.3.1. Vai trò đối với nền kinh tế.
Có thể nói đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng của mỗi quốc gia.
Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế.
- Về tổng cầu: Cùng với chỉ tiêu của dân cư, chính phủ giá trị xuất nhập khẩu, đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn, trong khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư bằng tăng từ Q0 đến Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ P0 - P1 điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 đến E1.
- Về tổng cung: khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên (đường AS dịch chuyển sang AS,,) kéo theo sản lượng tiềm năng từ Q1 đến Q2 và giá sản phẩm giảm từ P1 đến P2, do đó tiêu dùng có thể tăng, tiêu dùng gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động nâng cao đời sống dân cư.
- Dầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế.
Sự tác động không đồng thời về mặt thơi gian của đầu tư với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếi tố phá vỡ sự ổn định kinh tế mọi quốc gia.
Đầu tư có tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế: thông qua quan hệ só ICOR(hệ số gia tăng vốn - sản lượng) người ta có thể xác định được mức độ ảnh hưởng của vốn đầu tư đến tốc độ tăng trưởng.
Vốn đầu tư
ICOR =
Mức tăng GDP
Từ đó suy ra:
Vốn đầu tư
Mức tăng GDP = ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Do vậy, ở nhiều quốc gia, đầu tư đóng vai trò như một “cú huých” tưạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế, và phát triển về bản chất được coi là vốn để đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt đựơc một số tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến.
Đầu tư ảnh hưởng đến việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế của nền kinh tế, đầu tư làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật phát triển, với chiến lược phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới, cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ, đối với các ngành nônglâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khă năng sinh học, để đạt đựơc tốc độ tăng trưởng cao là rất khó, như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Đầu tư còn taọ ra sự cần bằng trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, giữa các ngành, đầu tư tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh của từng ngành vùng.
Đầu tư ảnh hưởng đến trình độ phát triển khoa học công nghệ của đất nước.
Công nghệ là trung tâm công nghiệp hoá, và đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khă năng công nghệ cho đất nước, thực hiện tốt công cuộc công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước.
Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và chuyển giao thông công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài, đều cần phải có tiền, có vốn đầu tư, mọi phương án đổi mới công nghệ mà không gắn liền với nguồn đầu tư sẽ là phương án không khả thi.
2.3.2. Vai trò đối với các cơ sở sản xuất - kinh doanh dịch vụ:
Đầu tư quyết định sự ra đời tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở, không chỉ đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ mờ đối với cả những đơn vị vô vụ lợi.
Để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm, lắp đặt máy móc, thiết bị, thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất mới tạo ra, các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư cho sự ra đời và tồn tại của cơ sở, đơn vị đó.
Sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở, đơn vị đang tồn tại sẽ bị hư hỏng, hao mòn, để duy trì được hoạt động bình thường cần tiến hành sửa chữa thay mới, mặt khác để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho nền sản xuất xã hội cũng như thích ứng với điều kiện phát triển khoa học công nghệ, cần phải mua sắm các trang thiết bị , công nghệ mới hiện đại hơn và như vậy cũng cần phải có hoạt động đầu tư.
2.4 Quá trình hình thành và thực hiện một dự án đầu tư.
Quá trình hình thành và thực hiện một dự án đầu tư trải qua ba giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư.
Nội dung các bước công việc ở mỗi giai đoạn của các dự án không giống nhau, tuỳ thuộc vào lĩnh vực đầu tư (sản xuất kinh doanh hay kết cấu hạ tầng, sản xuất công nghiệp hay nông nghiệp...), vào tính chất tái sản xuất (đầu tư chiều rộng hay chiều sâu), đầu tư dài hay ngắn hạn... Trong tất cả các loại hình hoạt động đầu tư, dự án đầu tư chiều rộng phát triển sản xuất công nghiệp nói chung có nội dung phức tạp hơn, khối lượng tính toán nhiều hơn, mức độ chính xác của các kết quả nghiên cứu có ảnh hưởng lớn đến sự thành bại trong hoạt động sau này của dự án. Các nội dung và các bước công việc được trình bày trong chương này thuộc loại dự án đầu t chiều rộng phát triển sản xuất công nghiệp. Từ những vấn đề về phương pháp luận ở đây, khi vận dụng cho các dự án thuộc các ngành, các lĩnh vực khác có thể lược bớt hoặc bổ xung một số nội dung.
Các bước công việc của các giai đoạn hình thành và thực hiện một dự án đầu tư sản xuất công nghiệp có thể được minh hoạ tóm tắt trong bảng 1.
Các bước công việc, các nội dung nghiên cứu ở các giai đoạn được tiến hành tuần tự nhưng không biệt lập mà Đảng xen gối đầu cho nhau, bổ xung cho nhau nhằm nâng cao dần mức độ chính xác của các kết quả nghiên cứu vàc tạo thuận lợi cho việc tiến hành nghiên cứu ở các bước kế tiếp.
Các bước công việc của một dự án đầu tư.
Chuẩn bị đầu tư
Thực hiện đầu tư
Vận hành kết quả đầu tư (SX, KD, DV)
Nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư
Nghiên cứu tiền khả thi sơ bộ lựa chọn dự án
Nghiên cứu khả thi (lập dự án LCKTKKT)
Đánh giá à quyết định (thẩm định dự án)
Hoàn tất các thủ tục để triển khai thực hiện đầu tư
Thiết kế và lập dự toán thi công xây lắp công trình
Thi công xây lắp công trình
Chạy thử và nghiệm thu sử dụng
Sử dụng chưa hết công suất
Sử dụng công suất ở mức cao nhất
Công xuất giảm dần và thanh lý
Trong 3 giai đoạn trên đây, giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở hai giai đoạn sau, đặc biệt là đối với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Chẳng hạn, đối với các dự án có thể gây ô nhiễm môi trường (sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu..), khi chọn địa điểm nếu đặt ở gần khu dân cư đông đúc, đến lúc đưa dự án vào hoạt động mới phát hiện và phải xử lý ô nhiễm quá tốn kém, đưa chi phí đầu tư vượt quá dự kiến ban đầu có khi rất lớn. Nếu không có vốn bổ xung, buộc phải đình chỉ hoạt động.
Tổng chi phí cho giai đoạn chuẩn bị đầu tư chiếm từ 0,5-15% vốn đầu tư của dự án. Làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư sẽ tạo tiền đề cho việc sử dụng tốt 85-99% vốn đầu tư của dự án ở giai đoạn thực hiện đầu tư (đúng tiến độ, không phải phá đi làm lại, tránh được những chi phí không cần thiết khác....).Điều này cũng tạo cơ sở cho quá trình hoạt động của dự án được thuận lợi, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư và có lãi (đối với các dự án sản xuất kinh doanh), nhanh chóng phát huy hết năng lực phục vụ dự kiến (đối với các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng và dịch vụ xã hội ).
Trong giai đoạn thứ 2, vấn đề thời gian là quan trọng hơn cả. ở giai đoạn này, 85 –99 % vốn đầu tư của dự án được chia ra nằm khê đọng trong suốt những năm thực hiện đầu tư. Đây là những năm vốn không sinh lời. Thời gian thực hiện đầu tư càng kéo dài, vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn. Lại thêm những tổn thất do thời tiết gây ra đối với vật tư thiết bị chưa hoặc đang được thi công, đối với các công trình đang được xây dựng dở dang. Đến lượt mình, thời gian thực hiện đầu tư lại phụ thuộc nhiều vào chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư, vào việc quản lý thực hiện những hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến các kết quả của quá trình thực hiện đầu tư đã được xem xét trong dự án đầu tư.
Giai đoạn 3: Vận hành, các kết quả của giai đoạn thực hiện đầu tư (giai đoạn sản xuất kinh doanh dịch vụ ) nhằm đạt được các mục tiêu của dự án. Nếu các kết quả do giai đoạn thực hiện đầu tư tạo ra đảm bảo tính đồng bộ, giá thành thấp, chất lượng tốt, đúng tiến độ, tại địa điểm thích hợp, với quy mô tối ưu thì hiệu quả trong hoạt động của các kết quả này và mục tiêu của dự án chỉ còn phụ thuộc trực tiếp vào quá trình tổ chức quản lý hoạt động các kết quả đầu tư. Làm tốt các công việc của giai đoạn chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư tạo thuận lợi cho quá trình tổ chức quản lý phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chính là đời (kinh tế ) của dự án, nó gắn với đời sống của sản phẩm (do dự án tạo ra) trên thị trường.
3. Lý luận về Báo cáo nghiên cứu khả thi (dự án đầu tư ).
3.1. Khái niệm.
Xét về mặt hình thức: Dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống về các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được các kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Xét về mặt nội dung: Dự án đầu tư là tổng thể các hoạt động dự kiến và các chi phí cần thiết được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch thời gian và địa điểm xác định để tạo mới, mở rộng hay cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Xét về mặt quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ để quản lý việc sử dụng vốn, vật tư,lao động nhằm tạo ra các kết quả kinh tế, tài chính trong một thời gian dài.
Xét trên góc độ kế hoạch hoá: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một khu vực đầu tư.
Như vậy, một dự án đầu tư phải bao gồm 4 yếu tố sau:
* Các mục tiêu:
+ Mục tiêu phát triển: Thể hiện sự đóng góp của dự án đối với sự phát triển của nền kinh tế như GDP, giải quyết việc làm, lượng ngoại tệ thu được, nộp ngân sách.
+ Mục tiêu trước mắt: là những mục đích cụ thể, cần đạt được của việc thực hiện dự án của chủ đầu tư nhưng không được đối lập với mục tiêu phát triển chung.
* Các kết quả: Là những kết quả cụ thể, có thể định lượng, được tạo ra từ những hoạt động khác nhau của dự án và là điều kiện để thực hiện các mục tiêu của dự án.
* Các hoạt động: Là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện trong dự án để tạo ra các kết quả của dự án. Các hoạt động này cùng với một định biểu thực hiện sự phân công trách nhiệm giữa các bộ phận thực hiện dự án tạo thành kế hoạch làm việc của dự án.
* Nguồn lực: Bao gồm vật chất, tài chính, con người cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án và giá trị của các nguồn lực này chính là vốn đầu tư của dự án.
* Thời gian: Là độ dài cần thiết để thực hiện mục tiêu cũng như các hoạt động của dự án.
3.2. Sự cần thiết phải tiến hành lập dự án đầu tư.
* Đối với nhà nước:
về phía Nhà nước, dự án đầu tư là cơ sở thẩm định, ra quyết định đầu tư, tài trợ cho dự án, cấp hoặc cho vay vốn, quản lý vốn, sản phẩm... để có kế hoạch điều tiết và cân đối quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân.
* Đối với chủ đầu tư.
Dự án đầu tư được lập là cơ sở để xin cấp giấy phép đầu tư - kinh doanh từ cơ quan có thẩm quyền thông qua việc xem xét lợi ích của việc thực hiện dự án đối với nền kinh tế. Dự án đầu tư cũng đồng thời là cơ sở để chủ đầu tư vay vốn và gọi vốn từ bên ngoài để tiến hành thực hiện dự án. Đặc biệt đối với những dự án vay vốn của các Ngân hàng, các công ty tài chính WB, IMF... thì việc lập dự án lại càng phải được thực hiện một cách đầy đủ và chi tiết.
Bên cạnh đó, ngay cả khi dự án được phê duyệt và cấp vốn, việc thực hiện dự án không phải lúc nào cũng luôn suôn sẻ mà thường gặp rất nhiều khó khăn do quá trình thực hiện dự án phục thuộc rất nhiều vào các yếu tố bên ngoài, kể cả những yếu tố mà dự án không lường tới. Chính vì vậy, quá trình thực hiện dự án đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ của chủ đầu tư và phải đi theo một trình tự hợp lý để có thể đảm bảo tiến độ thực hiện, đảm bảo chất lượng công trình với chi phí nhỏ nhất, giảm thiểu những rủi ro và đạt được hiệu quả cao nhất. Muốn vậy, dự án đầu tư phải được lập một cách chi tiết, đúng đắn và đảm bảo tính hiệu quả.
3.3. Các bước lập dự án đầu tư.
3.3.1 Nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư
Mục đích của bước nghiên cứu này là xác định một cách nhanh chóng về các cơ hội đầu tư. Nội dung của việc nghiên cứu là xem xét các nhu cầu và khả năng cho việc tiến hành các công cuộc đầu tư, các kết quả và hiệu quả sẽ đạt được nếu thực hiện đầu tư. Việc nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư phải xuất phát từ các căn cứ sau:
+ Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước hoặc chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ của ngành, cơ sở. Đây là những định hơnứg lâu dài cho sự phát triển của đất nước và của các cơ sở. Mọi công cuộc đầu tư không xuất phát từ những căn cứ này sẽ khong có tương lai và tất nhiên không được chấp nhận.
+ Nhu cầu trong và ngoài nước về những mặt hàng, hoạt động dịch vụ cụ thể. Đây là yếu tố quyết định sự hình thành và hoạt động của các dự án đầu tư. Không có nhu cầu thì sự hoạt động của các dự án không để làm gì mà chỉ dẫn đến sự lãng phí tiền và công sức của xã hội, ảnh hưởng không tốt đến sự hình thành và hoạt động của dư án có nhu cầu.
+ Tình hình cung cấp những mặt hàng, hoạt động dịch vụ đó trong và ngoài nước có chỗ trống để doanh nghiệp chếm lĩnh trong một thời gian dài? Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là điều tất nhiên. Tuy nhiên, ở những lĩnh vực hoạt động cung chưa đáp ứng cầu thì sự cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm và tiến hành các hoạt động dịch vụ không là vấn đề phải quan tâm nhiều. Do đó, tìm chỗ trống trên thị trường để tiến hành các hoạt động đầu tư sẽ đảm bảo khả năng tiêu thụ sản phẩm không gặp phải sự cạnh tranh gay gắt với các cơ sở khác. Điều này cho phép giảm chi phí tiêu thụ sản phẩm, tăng năng xuất lao động, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư. Một điều cần lưu ý là do vốn chi phí cho một công cuộc đầu tư phát triển thường rất lớn, các thành quả của các công cuộc đầu tư cần phải hoạt động trong một thời gian dài mới thu hồi đủ vốn đã bỏ ra. Vì vậy, “chỗ trống” trong thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án đầu tư cũng phải tồn tại trong một thời gian dài đủ để dự án hoạt động hết đời và chủ đầu tư tiêu thụ hết sản phẩm của dự án.
+ Tiềm năng sẵn có cần và có thể khai thác về vốn, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động để thực hiện dự án của đất nước, của địa phương, của ngành hoặc của các cơ sở. Những lợi thế so sánh nếu thực hiện đầu tư so với nước khác, điạ phương khác hoặc cơ sở khác.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, có lợi thế so sánh sẽ đảm bảo cho dự án có khả năng cạnh tranh cao. Vì vậy, khi dự kiến tiến hành các công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận, không thể không chú ý đến vấn đề lợi thế so sánh. Nếu tự nó không có lợi thế so sánh (tài nguyên khan hiếm, lao động rẻ, vị trí thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm...) thì phải dự kiến phương án tạo ra lợi thế so sánh như đầu tư sang nơi khác có nhiều lợi thế so sánh hơn hoặc đề ra biện pháp để tạo lợi thế so sánh như sử dụng vật liệu mới, vật liệu khai thác tại chỗ để giảm chi phí đầu vào, tận dụng lao động dư thừa giá rẻ của địa phương để khai thác nguyên vật liệu tại chỗ vừa làm chi phí công nhân vừa giảm chi phí vận chuyển các đầu vào thường xuyên.
+ Những kết quả và hiệu quả sẽ đạt được nếu thực hiện đầu tư. Đây là tiêu chuẩn tổng hợp để đánh giá khả thi của toàn bộ dự án đầu tư. Những kết quả này và hiệu quả này phải lớn hơn hoặc chí ít cũng phải bằng nếu đầu tư vào dự án khác hoặc bằng định mức thì cơ hội đầu tư mới được chấp nhận để chuyển sang tiếp giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi.
Về cơ bản, việc nghiên cứu cơ hội đầu tư khá sơ lược. Việc xác định đầu vào, đầu ra và hiệu quả kinh tế – xã hội, tài chính của cơ hội đầu tư dựa vào các ước tính tổng hợp hoặc các dự án tương tự và đang hoạt động trong hay ngoài nước.
3.3.2. Nghiên cứu tiền khả thi.
Đây là bước nghiên cứu tiếp theo của các cơ hội đầu tư có nhiều triển vọng đã được lựa chọn có quy mô đầu tư lớn, phức tạp về mặt kỹ thuật, thời gian thu hồi vốn lâu, chịu ảnh hưởng của nó nhiều yếu tố bất định. Bước này nghiên cứu sâu hơn các khía cạnh mà khi xem xét cơ hội đầu tư còn thấy phân vân chưa chắc chắn nhằm tiếp tục lựa chọn, sàng lọc các cơ hội đầu tư hoặc để khẳng định lại cơ hội đầu tư đã được lựa chọn có đảm bảo tính khả thi hay không.
Đối với cơ hội đầu tư quy mô nhỏ, không phức tạp về kỹ thuật và triển vọng đem lại hiệu qủa rõ ràng thì có thể bỏ qua giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi.
Nội dung nghiên cứu tiền khả th bao gồm các vấn đề sau:
- Nghiên cứu các khía cạnh kinh tế – xã hội, pháp lý có ảnh hưởng đến việc thực hiện đầu tư và hoạt động của dự án sau này như: điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, lao động, thị trường tiêu thụ, kế hoạch, quy hoạch, chính sách...... của vùng, ngành để khẳng định được sự cần thiết phải tiến hành đầu tư.
- Nghiên cứu về thị trường sản phẩm, dịch vụ đầu tư và dự án phục vụ.
- Phân tích khía cạnh kỹ thuật của dự án: xem xét hình thức đầu tư có hiệu quả, phương án dự tính sản xuất, khả năng đầu vào và các giải pháp cung cấp đầu vào, địa điểm và quy trình công nghệ thích hợp.
- Phân tích khía cạnh tài chính của dự án: ước tính tổng vốn đầu tư, nguồn huy động và điều kiện huy động vốn, tính toán một số chỉ tiêu về hiệu quả của dự án như: thời gian thu hồi vốn, giá trị hiện tại (tương lai) ròng của dự án, hệ số hoàn vốn nội tại, hệ số lợi ích, chi phí....
- Nghiên cứu lợi ích kinh tế – xã hội của dự án: dự tính khối lượng đóng góp vào GDP, nộp Ngân sách, số lượng ngoại tệ thu về, tạo việc làm....
- Quản lý và bố trí lao động cho dự án: Số lượng nhân sự, tổ chức các phòng ban, đào tạo lao động....
Đặc điểm nghiên cứu các vấn đề ở giai đoạn này là chưa chi tiết, vẫn đừng lại ở trạng thái tĩnh, ở mức độ trung bình mọi đầu vào, đầu ra, mọi khía cạnh kỹ thuật, tài chính kinh tế của cơ hội đầu tư và toàn bộ quá trình thực hiện đầu tư vận hành kết quả đầu tư. Do đó độ chính xác chưa cao.
Sản phẩm cuối cùng của nghiên cứu tiền khả thi là luận chứng tiền khả thi. Nội dung của luận chứng tiền khả thi bao gôm các vấn đề sau:
Giới thiệu chung về cơ hội đầu tư theo các nội dung nghiên cứu tiền khả ở trên.
Chứng minh cơ hội đầu tư có nhiều triển vọng đến mức có thể quyết định cho đầu tư. Các thông tin đưa ra để chứng minh phải đủ sức thuyết phục các nhà đầu tư.
Những khía cạnh gây khó khăn cho thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả của đầu tư sau này đòi hỏi phải tổ chức các nghiên cứu chức năng hoặc nghiên cứu hỗ trợ. Nội dung của nghiên cứu hỗ trợ đối với các dự án khác nhau thường khác nhau tuỳ thuộc vào những đặc điểm về mặt kỹ thuật của dự án, về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm do dự án cung cấp, tình hình phát triển kinh t._.ế và khoa học kỹ thuật trong và ngoài nước. Các nghiên cứu hỗ trợ có thể được tiến hành song song với nghiên cứu khả thi hoặc cũng có thể tiến hành sau nghiên cứu khả thi tuỳ thuộc thời điểm phát hiện các khía cạnh cần phải tổ chức nghiên cứu sâu hơn. Chi phí cho nghiên cứu hỗ trợ nằm trong nghiên cứu khả thi
3.3.3.Nghiên cứu khả thi
Đây là bước nghiên cứu cuối cùng để lựa chọn dự án tối ưu. ở giai đoạn này phải khẳng định cơ hội đầu tư có khả thi hay không? có vững chắc hay không và có hiệu quả hay không?
ở bước nghiên cứu này, nội dung nghiên cứu cũng tương tự như nghiên cứu tiền khả thi, nhưng khác nhau ở mức độ chi tiết hơn chính xác hơn. Mọi khía cạnh nghiên cứu đều được xem xét ở trạng thái động, tức là có tính đến các yếu tố bất định có thể xảy ra theo từng nội dung nghiên cứu. Xem xét sự vững chắc hay không của dự án trong điều kiện có sự tác động của các yếu tố này hoặc cần có các biện pháp tác động đến đảm bảo cho dự án có hiệu quả.
Nội dung nghiên cứu.
* Xem xét tình hình kinh tế tổng quát có liên quan đến dự án đầu tư.
+ Điều kiện về địa lý tự nhiên (địa hình, khí hậu, địa chất, thuỷ văn....) có liên quan đến việc lựa chọn, thực hiện và phát huy hiệu quả của dự án.
+ Điều kiện dân số và lao động có liên quan đến nhu cầu và khuynh hướng tiêu thụ sản phẩm, đến nguồn lao động cung cấp cho dự án, nhất là đối với dự án xây dựng thì dân số và lao động cần phải được nghiên cứu kỹ càng.
+ Tình hình chính trị và các căn cứ pháp lý.
+ Các đặc điểm về quy hoạch, kế hoạch phát triển.
+ Tình hình ngoại hối (cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tệ, nợ nần và tình hình thanh toán nợ.....)
* Nghiên cứu thị trường.
Thị trường là nhân tố quyết định việc lựa chọn mục tiêu và quy mô của dự án. Mục tiêu của nghiên cứu thị trường ở đây là nhằm xác định thị trường cung cầu sản phẩm hoặc dịch vụ của dự án hiện tại, tiềm năng phát triển của thị trường này trong tương lai, các yếu tố kinh tế và phi kinh tế tác động đến nhu cầu của sản phẩm. Mặt khác phải đưa ra được các thông tin về nhu cầu hiện đại và tương lai, đối tượng tiêu thụ chính, nhu cầu hiện tại đã đáp ứng ra sao và thiếu hụt bao nhiêu.
* Nghiên cứu kỹ thuật.
Tuỳ thuộc vào lĩnh vực hoạt động của các dự án thuộc các ngành kinh tế khác nhau, do nhiều bộ chuyên ngành quản lý mà việc nghiên cứu kỹ thuật của dự án cũng khác nhau.
Lựa chọn công suất.
Công suất lý thuyết: là công suất lớn nhất mà dự án có thể đạt được trong điều kiện sản xuất lý thuyết (máy móc thiết bị chạy suốt 24h/ngày và 365 ngày/năm).
Công suất thiết kế: là công suất mà dự án có thể đạt được trong điều kiện sản xuất bình thường (máy móc thiết bị hoạt động theo đúng quy trình công nghệ không bị gián đoạn vì những lý do không được dự tính trước và các đầu vào được đảm bảo đầy đủ)
Công xuất thực tế: Trên thực tế, ta khó có thể đảm bảo dự án được thực hiện trong điều kiện bình thường vì không thể lường trước hết được những ảnh hưởng của các yếu tố bất định đến dự án và do đó công suất thiết kế mặc dù đã thực tế hơn nhưng vẫn khó đạt được. Thông thường khi lập dự án, người ta dự tính công suất thực hiện như sau:
Năm 1: Công suất thực tế lấy khoảng 50% công suất thiết kế.
Năm 2: Công suất thực tế lấy khoảng 75% công suất thiết kế.
Năm 3: Công suất thực tế lấy khoảng 90% công suất thiết kế.
Nghiên cứu nhu cầu và khả năng cung ứng đầu vào.
Nguồn và khả năng ung ứng đầu vào nhất là những đầu vào chủ yếu phải đảm bảo cho dự án hoạt động bình thường trong suất thời gian đầu tư. Nhu cầu nguyên vật liệu phải được lập thành bảng ghi rõ chủng loại, số lượng hàng năm.... Cần xác định nguồn điện, hệ thống cung cấp và thoát nước ổn định cho sản xuất và sinh hoạt. Lao động cần được phân ra thành lao động trực tiếp và lao động gián tiếp, trình độ, tay nghề đòi hỏi đối với từng khối lượng công việc cụ thể, nguồn cung cấp lao động ở địa phương hay nơi khác đến cùng với các yêu cầu đào tạo bao gồm các chi phí tuyển dụng và đào tạo, các khoản lương cho lao động trong các thời gian hoạt động của dự án và định ra kế hoạch và hình thức trả lương. Ngoài ra còn cần phải nghiên cứu về hệ thống, thông tin liên lạc, công tác phòng cháy chữa cháy....
* Chọn địa điểm thực hiện dự án.
Để chọn địa điểm thuận lợi cho việc thực hiện dự án, người ta thường dựa vào một số căn cứ cơ bản sau:
- Địa điểm nên gần nguồn cung cấp nguyên vật liệu.
- Có kết cấu hạ tầng thuận lợi, nhất là về hệ thống điện nước, giao thông vận tải và thông tin liên lạc....
- Có điều kiện địa hình, khí hậu thuận lợi, có mặt bằng đủ rộng, bố trí dễ dàng các bộ phận.
- Phù hợp với quy hoạch chung.
- Bảo đảm an ninh.
- Không gây ô nhiễm môi trường.
- Trình độ phát triển kinh tế xã hội của khu vực, trình độ dân trí, lao động....
- Ngoài ra các chi phí cho việc giải phóng mặt bằng, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất cũng là các yếu tố cần được xem xét khi nghiên cứu địa điểm thực hiện dự án.
* Kỹ thuật xây dựng công trình của dự án.
khi bố trí xây dựng công trình cần chú ý đến các nguyên tắc sau:
- Phải phù hợp với công nghệ, thiết bị được chọn.
- Đảm bảo điều kiện vệ sinh, an toàn lao động.
- Đảm bảo độ bền công trình phù hợp với cấp công trình.
Đảm bảo yêu cầu phòng cháy chữa cháy, xử lý chất thải.
- Cần tính toán diện tích, xây dựng, đặc điểm kiến trúc, quy mô của các hạng mục công trình từ đó ước tính chi phí xây dựng.
- Bố trí văn phòng, xưởng sản xuất, kho bãi tiện lợi, hợp lý.
* Lựa chọn công nghệ và máy móc thiết bị.
Nhiệm vụ của người lập dự án là phải lựa chọn được công nghệ thích hợp trên cơ sở khả năng về vốn và lao động nhằm đảm bảo công suất, tiến độ thực hiện của dự án, đảm bảo chất lượng của công trình, sản phẩm ở mức độ yêu cầu của dự án, chi phí thực hiện không quá cao. Công nghệ lựa chọn phải đồng bộ, nguyên nhiên vật liệu được sử dụng và phụ tùng có thể thay thế được nhất là phải phù hợp với khả năng vận hanh và quản lý của lực lượng lao động.
* Phân tích tài chính của dự án.
Dự án tổng vốn đầu tư cần cho dự án theo từng loại công việc trong từng giai đoạn của quá trình thực hiện đầu tư.
xác định vốn đầu tư cần thực hiện từng năm và toàn bộ đời dự án trên cơ sở kế hoạch tiến độ thực hiện đầu tư dự kiến, tính tổng vốn từng năm để xem xét mức độ cung cấp vốn cần thiết từ đó có biện pháp huy động vốn thích hợp và phân bổ nguồn vốn đầu tư cho từng năm cho từng danh mục công việc cụ thể.
* Thành phần vốn.
- Vốn cố định (đầu tư cơ bản) bao gồm:
- Tài sản cố định hiện có (đã đầu tư).
Đầu tư mới.
+ Vốn xây dựng các công trình dân dụng: bao gồm các công trình dân dụng, công nghiệp và các công trình cơ sở hạ tầng của mỏ như nhà cửa, đường sá, bến bãi, trạm điện, trạm nghiền sàng, khối lượng tạo mặt bằng khai thác đầu tiên....
+ Vốn mua sắm thiết bị bao gồm cả vận chuyển, bảo quản và xây lắp.
+ Chi phí khác như chi phí vận chuyển, bảo quản và xây lắp.
+ Chi phí khác như chi phí chuẩn bị đầu tư (bao gồm chi phí thăm dò, khảo sát, lập và thẩm định dự án ), chi phí chuẩn bị xây dựng (bao gồm các khoản đền bù, giải phóng mặt bằng, chuyền quyền sử dụng đất), chi phí khảo sát thiết kế, lập và thẩm định thiết kế, tổng dự toán, chi phí đấu thầu, hoàn tất các thủ tục đầu tư, chi phí xây dựng đường điện, nước thi công (nếu có).Chi phí quản lý giám sát thực hiện đầu tư, chi phí sản xuất thử và nghiệm thu bàn giao.
+ Chi phí dự phòng.
+ Chi phí huy động vốn: Các khoản lãi vay vốn đầu tư đối với dự án sử dụng vốn vay và các chi phí phải trả trong thời gian thực hiện đầu tư.
- Vốn lưu động bao gồm: vốn sản xuất (tiền nguyên vật liệu, điện nước, phụ tùng...) và vốn lưu thông (sản phẩm dở dang tồn khi, thành phầm tồn kho, hàng hoá mua bán chịu, vốn bằng tiền, chi phí tiếp thị...)
* Xem xét các nguồn tài trợ cho dự án, khả năng đảm bảo vốn từ các nguồn vốn số lượng và tiến độ.
Các nguồn tài trợ cho dự án có thể là Ngân sách cấp, vốn góp (công ty cổ phần, công ty liên doanh), vốn tự có hay vốn từ các nguồn khác. việc xem xét nguồn vốn của dự án không chỉ xem xét về mặt số lượng mà còn phải tính đến thời điểm nhận được vốn từ các nguồn này để đảm bảo thực hiện công việc theo đúng tiến độ của dự án. Cần phải tiến hành so sánh nhu cầu về vốn với khả năng đảm bảo vốn cho dự án về cả số lượng và tiến độ. Nếu không đáp ứng được về nguồn vốn thì phải giảm quy mô của dự án hoặc xem xét lại khía cạnh lao động, kỹ thuật để đảm bảo tính đồng bộ của dự án.
* Lập báo cáo tài chính dự kiến cho từng năm hoặc từng giai đoạn của đời dự án.
* Tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế trực tiếp của dự án.
Hiệu quả kinh tế của dự án được xem xét trước hết là hiệu quả trực tiếp của dự án do đầu tư mang lại. Trình tự đánh giá hiệu quả trực tiếp của dự án được tiến hành thông qua việc phân tích các chỉ tiêu hiệu quả dưới đây.
* Lợi nhuận:
Lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng, nó thể hiện tổng số tiền lãi (lỗ) hàng năm của dự án trong thời gian thực hiện hoặc sản xuất –kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận trước thuế lợi tức thu được hàng năm từ dự án được tính theo công thức.
P = D – Z – F ++ - C41 - (TTN + Td)
+ Các khoản thu (D): bao gồm doanh thu bán các sản phẩm chính, phụ, cung cấp các dịch vụ cho bên ngoài và các khoản thu nhập khác do dự án mang lại.
+ Giá thành sản phẩm (Z): Được lập căn cứ vào các văn bản, hướng dẫn của Nhà nước, của Bộ cho phép hạch toán các khoản chi phí vào giá thành theo định mức tiêu chuẩn được duyệt với mặt bằng giá trên thị trường ở thời điểm tính toán. Giá thành sản phẩm được tính theo các khoản mục, yếu tố, từng công đoạn của quy trình công nghệ sản xuất như: Khoan sâu, bóc đất, vận chuyển, khai thác, sàng tuyển..... và tổng hợp chung cho giá thành 1 tấn than sạch.
Giá thành sản phẩm than bao gồm các khoản chi phí sau: chi phí vật liệu, nhiên liệu, động lực, tiền lương, chi phí bảo hiểm xã hội, chi phí khấu hao tài sản cố định và các chi phí khác.
+ Chi phí: Chi phí tiêu thụ (Ftt), chi phí quản lý doanh nghiệp (Cql)
+ Thuế các loại: thuế tài nguyên (Ttn), đất (Td).
+ Lợi nhuận ròng (Pn): là nl hàng năm của doanh nghiệp trong thời gian thực hiện hoặc lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp sau khi đã trả lãi vay (Tv) và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (Tdn). Lợi nhuận ròng chỉ đạt hiệu quả quan trọng dễ hiểu. Nó sét đến hiệu quả của từng năm khi dự án đi vào hoạt động, giúp cho các nhà quản lý phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh kịp thời và có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp.
Pn = P - Tdn - Tv
* Tỷ suất nl (S)
tỷ xuất lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả cho biết giá trị lợi nhuận thu được trong một năm thực hiện dự án trên một đồng vốn đầu tư ban đầu (bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu thông). Vì chỉ tiêu này chỉ xem xét đến lợi nhuận của một năm bình thường khi thực hiện dự án chứ không xét đến toàn bộ thời gian tồn tại của dự án, không xét tới yếu tố thời gian của lợi nhuận và chi phí trong quá trình hoạt động của dự án nên thường chỉ dùng để đánh giá nhanh hiệu quả kinh tế vốn đầu tư nhất là đối với những dự án có thời gian hoạt động tương đối ngắn.
* Giá trị hiện tại thuần (NPV)
giá trị hiện tại thuần hay lợi ích thực của một dự án đầu tư là tổng các khoản chênh lệch giữa thu và chi hàng năm trong suốt thời gian tồn tại của dự án đã được chiết khấu về một thời điểm ban đầu.
NPV = (CI t - CO t ). a t
Trong đó: Clt : Các khoản thu năm t
COt : Các khoản chi năm t
at : Hệ số chiết khấu năm t (a = 1/1+rt)
R : Suất chiết khấu.
Là chỉ tiêu hiệu quả xem xét tới cả quá trình tồn tại của dự án nên rất hay được sử dụng trong lựa chọn phương án đầu tư. Phương án đầu tư được chấp nhận là dự án có giá trị NPV (> 0) lớn nhất.
* Tỷ suất giá trị hiện thực (R)
Tỷ suất giá trị hiện tại thực là chỉ tiêu hiệu quả cho biết giá trị hiện tại của một đồng vốn đầu tư bỏ ra thu được bao nhiêu giá trị hiện tại thực hay lợi ích thực của dự án (NVP). Nó được tính bằng tỷ lệ giữa giá trị hiện tại thuần (NVP) và giá trị hiện tại vốn của đầu tư (NPI), trong đó, NPI được tính bằng tổng số vốn đầu tư trong những năm tồn tại của dự án đã được chiết khấu về thời điểm ban đầu.
R = NPV/ NPI
Tỷ suất hiện tại thực là chỉ tiêu hiệu quả so sánh bổ xung cho chỉ tiêu NPV và được sử dụng làm tiêu chuẩn để so sánh lựa chọn dự án đầu tư. Khi so sánh nên chọn dự án có tỷ suất R cao nhất.
* Hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR)
Hệ số hoàn vốn nội bộ là suất chiết khấu (r) mà tại đó giá trị hiện tại của các khoản thu, chi bằng nhau hay NPV = 0 và được xác định.
IRR
NPV1
NPV2
0
A
B
r1
r2
re
NRR = r1 + NPV1 . (r2 – r1)
Trong đó: r1 < r2
r2 – r1 [ 5%
NPV1 (ứng với r1) > 0 và gần 0
NPV2 (ứng với r2) > 0 và gần 0
Dự án có IRR ] rđ/m và lớn nhất hay khả năng thu lợi nhuận của dự án càng cao sẽ được chọn. Rđ/m có thể là lãi suất đi vay nếu phải vay vốn để đầu tư, có thể là tỷ suất lợi nhuận định mức do nhà nước quy định nếu vốn do Ngân sách cấp và cũng có thể là mức chi phí cơ hội nếu sử dụng vốn tự có để đầu tư.
* Thời gian hoàn vốn (T)
thời gian hoàn vốn là khoảng thời gian mà các kết quả của quá trình đầu tư cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra bằng những khoản lợi nhuận thuần dự án thu được.
thời gian hoàn vốn là chỉ tiêu hiệu quả thường dùng để so sánh lựa chọn dự án nhất là đối với trường hợp dự án có nhiều rủi ro và thị trường vốn tưong đối khan hiếm. Thời gian hoàn vốn chỉ tính ở dạng tiềm năng còn trên thực tế chỉ có khấu hao TSCĐ và một phần lợi nhuận ròng được dùng để thanh toán vốn đầu tư ban đầu.
Nếu thời gian hoàn vốn T< Tg – thời gian có gióa hạn do các nhà đầu tư chọn thi dự án có thể chấp nhận được. trường hợp so sánh lựa chọn dự án thì dự án có thời gian hoàn vốn T nhỏ nhất sẽ được chọn.
* Phân tích khả năng biến động của dự án.
Trên thực tế, những tính toán ban đầu khi xây dựng dự án không phải bao giờ cũng đạt được như dự kiến.
- Nguồn vốn cố định và vốn lưu động có thể bị thiếu hụt, tình trạng thâm hụt về tài chính có thể trở nên căng thẳng.
- Thời gian thi công, xây dựng và chạy thử có thể bị kéo dài.
- Năng lực sản xuất (công suất thiết kế) dự kiến ban đầu có thể không thực hiện được.
Hơn nữa, khó có thể lường hết được những biến động của thị trường, nền kinh tế như: ảnh hưởng của lạm phát, những biến động thay đổi về tương quan giá cả, những biến động về công nghệ tiên tiến... Ngoài ra, còn có những nguyên nhân chủ quan do trình độ quản lý của các nhà doanh nghiệp và những biện pháp điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh có thể chưa phù hợp với những biến động của thị trường. Do đó cần phải tiến hành phân tích khả năng biến động của dự án để đánh giá khả năng thực hiện của dự án cũng như để cho các nhà doanh nghiệp lường trước những khó khăn khi thực hiện dự án và đề xuất những biện pháp quản lý kinh doanh thích hợp.
* Phân tích hoà vốn.
Phân tích hoà vốn được tiến hành nhằm xác định mức sản xuất hoặc doanh thu tối tiểu mà dự án có thể vận hành và không gây nguy hiểm tới khả năng tồn tại của dự án về mặt tài chính.
Phân tích hoà vốn thực chất là tìm điểm hoà vốn (BEP – Break event point) mà tại đó doanh thu bán sản phẩm bằng tổng sản phẩm sản xuất hay nói cách khác là tìm mức vận hành mà tại đó hàng năm dự án không thu được lãi nhưng cũng không bị lỗ.
Điểm hoà vốn (BEP) càng thấp, cơ hội của dự án thu lợi càng cao, rủi ro thua lỗ càng thấp. Điểm hoà vốn có thể được thể hiện bằng kll sản phẩm tối tiểu, tỷ lệ đạt công suất tối thiểu hoặc giá trị doanh thu tối thiểu. Nó cũng có thể được thể hiện qua giá bán tối thiêu, giá thành đơn vị sản phẩm cho phép.
* Phân tích độ nhạy.
Phân tích độ nhạy cho biết sự biến động của các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế như: lợi nhuận (P), NPV, IRR, thời gian hoàn vốn (T)... khi thay đổi các thông số đầu vào như: giá bán sản phẩm, sản lượng than tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu, doanh thu, vốn đầu tư, chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo chiều hướng lạc quan hay bi quan.
Phân tích độ nhạy của dự án có thể được tiến hành thay đổi một hoặc một vài biến số cùng một lúc. Biến số có thể thay đổi theo chuỗi số liệu hoặc theo tỷ lệ % tăng hay giảm so với số liệu ban đâù. Nếu các chỉ tiêu hiệu quả quan trọng của dự án nhạy cảm với sự thay đổi của các thông số cơ bản mang ý nghĩa sống còn đối với dự án thì dự án được coi là tỷ lệ rủi ro cao và khi đó cần phải áp dụng các điều kiện nghiêm ngặt để thẩm tra xét duyệt dự án.
Phân tích độ nhạy cho phép hiểu rõ hơn các biến số cơ bản. Việc phân tích này sẽ rất có ích cho những nhà quản lý khi tiến hành thực hiện dự án.
* Phân tích hiệu quả kinh tế xã hội.
Một dự án đầu tư nếu được thực hiện ít nhiều cũng ảnh hưởng tới tình hình kinh tế, xã hội, môi trường của một vùng, khu vực hoặc cả nền kinh tế quốc dân. Trên góc độ nhà đầu tư các doanh nghiệp, mục đích cụ thể của việc thực hiện dự án có thể có nhiều nhưng quy tụ lại là lợi nhuận. Khả năng sinh lời của dự án là thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận một việc làm mạo hiểm của nhà đầu tư. Khả năng sinh lời càng cao thì càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Tuy nhiên, không phải mọi hoạt động đầu tư có khả năng sinh lời cao đều tạo ra những ảnh hưởng tối đối với nền kinh tế và xã hội. Do đó, trên góc độ quản lý vĩ mô, phải xem xét những lợi ích kinh tế và xã hội. Do thực hiện dự án đem lại hay so sánh giữa cái giá mà mà xã hội phải trả cho việc sử dụng các nguồn lực sẵn có (tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất... )và lợi ích do đầu tư tạo ra cho toàn bộ nền kinh tế như đáp ứng mục tiêu sản phẩm nền kinh tế, phục vụ việc thực hiện các chủ trương chính sách của nhà nước,góp phần phát triển điạ phương, và các ngành khác, góp phần chống ô nhiễm môi trường, cải tạo môi sinh (định tính....) hay định hương tăng thu ngân sách, gia tăng số người có việc làm, tăng thu ngoại tệ.... điều này giữ vai trò quyết định để các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép đầu tư, các chế địnhtài chính quốc tế, các cơ quan viện trợ song phương và đa phương tài trợ cho hoạt động đầu tư. Chính vì vậy, nhiệm vụ của nhà lập dự án đầu tư là chỉ ra được sự đóng góp của dự án vào tất cả các mục tiêu phát triển của đất nước.
Trình tự phân tích, đánh giá ảnh hưởng của dự án tới nền kinh tế quốc dân được tiến hành thông qua các chỉ tiêu dưới đây:
Giá trị gia tăng (VA- Value Added).
Giá trị gia tăng (VA) là sự đóng góp của dự án cho tổng trong nước (GDP – Gross Domesitc Product).
VA = D – Ci
Trong đó:
+D: Giá trị sản xuất là giá trị các khoản đầu ra của dự án bao gồm giá trị sản phẩm vật chất và hoạt động dịch vụ phi vật chất.
+ Ci: chi phí trung gian chi phí vật chất của tất cả đầu vào để đạt được đầu ra bao gồm (chi phí nguyên – nhiên – vật liệu, động lực, chi phí dịch vụ, vận tải, ngân hàng, bảo dưỡng) và không bao gồm chi phí tiền lương và khấu hao TSCĐ.
* Giá trị gia tăng quốc tế dân ròng (NNVA).
Giá trị gia tăng quốc dân ròng là thể hiện sự đóng góp của dự án cho thu nhập quốc gia (NDI – National Disposable Income).
NNVA = D – (Ci + l + Rp)
Trong đó:
+ L : Giá trị vốn đầu tư (tính cho cả đời dự án ) hoặc giá trị khấu hao TSCĐ của một năm tính toán.
+ Rp: giá trị các khoản chuyển trả ra nước ngoài có liên quan tới dự án bao gồm: tiền trả kỳ vụ, tiền bảo hiểm, tiền thuê, tiền lãi vay và lợi nhuận ròng của vốn nước ngoài cũng như tiền lương của nhân viên nước ngoài.
Giá trị gia tăng quốc dân ròng tính toàn bộ cho cả đời dự án thể hiện sự đóng góp của toàn bộ dự án cho nền kinh tế quốc dân đã quy đổi giá trị quốc dân ròng về một thời điểm ban đầu theo hệ số chiết khấu xã hội.
* Giá trị thặng dư xã hội (M)
giá trị thặng dư xã hội (M) là tiêu chuẩn hiệu quả tuyệt đối của dự án, đó là khoản chênh lệch giữa giá trị gia tăng quốc dân ròng với tổng tiền lương hàng năm (V)
M = NNVA – V = D – (Ci + I + Rp) - V
Giá trị thặng dư xã hội thực (Mn) tính cho toàn bộ thời gian tồn tại dự án thể hiện sau khi đã bù đắp cho người lao động, dự án có thặng dư xã hội để nâng cao mức sống hiện tại và tiếp tục phát triển nền kinh tế hay không?
Mn = NNVA . at - Vt.at
Trong đó: SVt.at – Tổng giá trị tiền lương cả đời dự án đã được quy đổi về thời điểm ban đầu.
Dự án có được chọn sẽ là dự án có giá trị thặng dư xã hội thực Mn (] 0) lớn nhất.
4. Công tác tư vấn ngành xây dựng.
4.1. Khái niệm.
Cho đến nay, có nhiều cách diễn đạt khác nhau về tư vấn như:
+ Tư vấn là việc cung cấp những lời khuyên nghề nghiệp.
+ Tư vấn là việc chuyển giao năng lực giải quyết vấn đề.
+ Tư vấn là hoạt động trong đó các chuyên gia cung cấp các thông tin, tri thức, giải thích thích hợp cho những ai cần được giúp đỡ về những thứ đó để đạt được mục tiêu nhất định trong những hoạt động thực tiễn xác định.
+ Tư vấn là hoạt động trong đó các chuyên gia có trình độ và phẩm chất nhất định tiến hành một cách có phương pháp, việc chuyển giao đến từng địa chỉ có nhu cầu các thông tin, kiến thức, giải pháp, kỹ năng đã được xử lý, thích nghi hoá để giúp ích cho từng trường hợp cụ thể.
Tuy nhiên, chung quy lại ta có thể hiểu: Tư vấn là một dịch vụ: “chất xám”, trong đó các chuyên gia có năng lực và phẩm chất thích hợp tiến hành theo thoả thuận việc cập nhật xử lý thông tin – Kiến thức; phát hiện và phân tích vấn đề, lựa chọn giải pháp tối ưu cho từng trường hợp cụ thể và chuyển giao chúng đến đúng người có nhu cầu vào đúng lúc, đúng thời điểm và theo đúgn cách cần thiết để đạt mục tiêu, hiệu quả cao nhất.
Riêng về lĩnh vực tư vấn, thiết kế, nếu sản phẩm được duyệt thì được coi là sản phẩm pháp lý và phải được thực hiện theo thiết kế.
4.2. Vai trò cảu tư vấn.
+ Giúp các chủ đầu tư quyết định chủ trương đầu tư thông qua các dự án nghiên cứu tiền khả thi, khả thi.
+ Cầu nối giữa nhà đầu tư, sản xuất kinh doanh với nhau và với khu vực nghiên cứu – Phát triển (R & D) và Đào tạo.
+ Yếu tố thúc đẩy ngoại thương và đầu tư nước ngoài, phát triển kinh tế đối ngoại.
+ Kênh thông tin hai chiều giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản lý Nhà nước giúp tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước và hỗ trợ cải cách hành chính.
4.3. Công tác lập dự án đầu tư ngành xây dựng.
Công tác tư vấn lập dự án đầu tư ngành xây dựng cũng như các ngành kinh tế khác đều phải tuân thủ theo đúng các văn kiện quản lý XDCB của Nhà nước. Thông thường khi tiến hành đầu tư trong lĩnh vực XDCB đòi hỏi số vốn khá lớn nhất là đối với các công trình thuỷ điện có số vốn rất lớn (VD: Nhà máy Thuỷ điện Sơn La có tổng vốn đầu tư lên tới 10 tỷ USD) là sản phẩm chủ đạo của công ty xây dựng Sông Đà các dự án đầu tư công trình thuỷ lợi thường nằm ở vùng núi cao, xa các trung tâm dân cư. Để khai thác được chủ đầu tư còn phải đầu tư vào các công trình hạ tầng cơ sở và phúc lợi công cộng, di dân giải phóng mặt bằng tái định cư, bệnh viện, trường học.
Dự án đầu tư trong linh vực XDCB mang tính tổng hợp của nhiều dự án kinh tế khác nhau như xây dựng dân dụng, xây dựng giao thông vận tải, thuỷ điện, xây dựng công nghiệp...
Từ những đặc điểm trên ta thấy vai trò của cơ quan tư vấn là hết sức quan trọng nó đòi hỏi cơ quan tư vấn phải có trình độ sâu rộng mới tương xứng với quy mô dự án, ngoài ra cơ quan tư vấn cũng cần được đầu tư thích hợp cả về thời gian và chi phí mới đảm bảo tạo ra các dự án chính xác, hiệu quả.
chương ii: thực trạng công tác lập dự án tại công ty tư vấn xây dựng sông đà
1. Đặc điểm chức năng nhiệm vụ của công ty.
1.1. Sự hình thành phát triển của công ty.
Công ty từ vấn đề xây dựng Sông Đà trực thuộc tổng công ty xây dựng Sông Đà - bộ xây dựng.
Tiền thân là: Trung tâm thiết kế Sông Đà.
Ngày thành lập: 24/1/1986 theo Quyết định số 97/BXD - TCCB của bộ trưởng bộ xây dựng.
Địa điểm cũ tại: Phường Tân Thịnh: Thị xã Hoà Bình - Tỉnh Hoà Bình.
Quyết định số 995/BXD - TCCB ngày 22/11/1996 của bộ trưởng bộ xây dựng sông Đà thành công tư vấn xây dựng Sông Đà.
Tổng số cán bộ công nhân hiện có là 324 người.
1.2. Chức năng nhiệm vụ của công ty.
- Khảo sát đại hình, địa chất các công ty xây dựng.
- Thí nghiệm xác định các chỉ tiêu kỹ thuật của đất đá nền móng, vật liệu xây dựng các công trình xây dựng.
- Lập dự án đầu tư các công trình dân dụng, kỹ thuật hạ tầng, đô thị nhóm B, C, các công trình giao thông đường bộ ( riêng cầu: loại bỏ) và các công trình trên sông nhóm B, C các công trình thuỷ lợi , thuỷ điện.
- Thiết kế và lập tổng dự đoán các công trình dân dụng đến cấp II phần xây dựng các công nghiệp các công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị nhóm B, C và các hạng mục nhóm A các công trình thuỷ lợi thuỷ điện nhiệm vụ của công ty là làm công tác thiết kế, quy hoạch nhà ở, khu phụ trợ, nhà làm việc của công ty thuỷ điện Hoà Bình.
Thiết kế quy hoạch nhà ở phụ trợ, nhà làm việc khu dân cư các công trình thuỷ điện Vĩnh Sơn, Thuỷ Điện Yaly.
- Thiết kế kỹ thuật, thiết kế tổ chức thi công và tư vấn lắp đặt thiết bị công trình nhà máy thủy điệm RyNinh, thuỷ điện cần đơn theo hình thức BOT.
Tư vấn thiết kế, giám sát các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp, giao thông đường bộ như nhà máy cán thép hưng yên , nhà máy xi măng Hạ Long, đường Hồ Chí Minh và một số công trình khác.
- Quy hoạch các công trình, nhà ở công trình làm việc tại Hà nội của tổng công ty xây dựng Sông Đà.
- Thẩm định phần xây dựng thiết kế kỹ thuật các công trình dân dụng đến cấp II các công trình công nghiệp, kỹ thuật hạ tầng đô thị, nhóm B, C và hạng mục nhóm A.
- Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp , kỹ thuật hạ tầng, đô thị nhóm B,C
- Xác định hiện trạng đánh giá nguyên nhân sự cố các công trình xây dựng - nhóm B, C.
- Lập hồ sơ mời thầu. Tư vấn đấu thầu và hợp đồng kinh tế về thiết kế, quản lý dự án đầu tư xây dựng, xây lắp các công trình dân dụng, công nghiệp kỹ thuật hạ tầng đô thị.
- Thực hiện các dịch vụ tư vấn xây dựng khác như công trình khu công nghiệp Đình Tràm tỉnh Bắc giang.
- Thiết kế cải tạo đường dây điện có cấp điện áp 35 Kv đường Plây cu- Plây mun tại Gia lai.
- Địa bàn hoạt động: Trên phạm vi toàn cả nước.
* Một số nét tiêu biểu trong quá trình phát triển;
- Từ khi thành lập, nhiệm vụ của công ty là làm công tác thiết kế, quy họach nhờ ở, khu phụ trợ, nhà làm việc của công trình thuỷ điện Hoà Bình.
- Thiết kế quy hoạch nhà ở, khu phụ trợ, nhà làm việc khu dân cư các công trình thuỷ điện Vĩnh Sơn, Thuỷ điện Yaly.
* Thiết kế kỹ thuật, thiết kế tổ chức thi công và tư vấn lắp đặt thiết bị công trình nhà máy thuỷ điện RyNinh I và II thuỷ điện Cần Đơn theo hình thức BOT tạo nhiều công việc làm cho cán bộ công nhân viên.
- Tư vấn thiết kế, giám sát các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp, giao thông đường bộ như Nhà máy cán thép Hưng yên, Nhà máy xi măng Hạ Long, đường Hồ Chí Minh và một số công trình khác.
- Quy hoạch các công trình, nhà ở công trình làm việc tại Hà Nội của tổng công ty xây dựng Sông đà.
* Những khó khăn;
- Số cán bộ làm chuyên ngành thiết kế số còn trẻ, trong nhiều năm qua ít được quan tâm đào tạo quy hoạch các cán bộ dầu đàn giỏi theo các chuyên ngành để làm công tác tư vấn đủ mạnh tạo ra nhiều sản phẩm trí tuệ cho công ty và tổng công ty.
- Điều kiện làm việc của công ty do có đặc thù riêng, nên đa số cán bộ công nhân bị phân tán rải ra trên 10 tỉnh thành cả nước.
- Các điều kiện đầu tư về trang thiết bị máy vi tính còn ít, điều kiện làm việc còn chưa đủ các máy tính.
* Thuận lợi hiện nay.
- Được sự quan tâm đúng mức của Đảng uỷ tổng công ty, lãnh đạo tổng công ty hoạch định chiến lược phát triển 5 năm và 10 năm cho công ty.
- Tăng cường số cán bộ có chuyên môn và kinh nghiệm về làm việc tại công ty đã cải tiến tổ chức sản xuất. sắp xếp, lại các phòng ban, xây dựng nền nếp làm việc đáp ứng được yêu cầu của sản xuất.
- Các cán bộ công nhân viên đều đoàn kết trên dưới một lòng xây dựng công ty thành một công ty mạnh theo nghị quyết của Đảng uỷ tổng công ty và công ty đề ra.
- Số cán bộ khoa học kỹ thuật và nghiệp vụ là 231 người.
- Công nhân kỹ thuật là 93 người.
- Tổ chức chính quyền có 17 đầu mối phòng, ban, trung tâm, chi nhánh, xí nghiệp 1 giám đốc . 6 phó giám đốc.
- Đảng bộ có ban chấp hành Đảng bộ gồm 7 đồng chí Đảng uỷ viên và chi bộ trực thuộc 47 Đảng viên.
- Công đoàn có Ban chấp hành công đoàn công ty và 17 công đoàn bộ phận gồm 324 đoàn viên luôn cố gắng hòan thành nhiệm vụ.
- Có ban chấp hành Đoàn công ty 6 điều chỉnh tổ chức có 8 chi đoàn với 92 đoàn viên.
+ Đã được khen thưởng qua các năm.
Hình thức khen
- Bằng khen của Bộ Xây dựng
- Giấy khen của Tổng công ty xây dựng Sông Đà.
* Thành tích công tác đạt được
+ Thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch.
+ Giá trị tổng sản lượng ( thực hiện / kế hoạch)
Năm 1999 7.541 triệu/7.837 triệu, đạt tỷ lệ 96,2%
Năm 2000 9.323 triệu/ 9.000triệu, đạt tỷ lệ 130%
Năm 2001 11.550 triệu/13.000 triệu, đạt tỷ lệ 113%
9 tháng đầu năm 9.329 triệu/ 13.000triệu đạt tỷlệ 84%
+ Chất lượng sản phẩm tốt, năng xuất lao động được nânglên.
+ Thu nhập bình quân hàng tháng của mỗi cán bộ công nhân viên 1 triệu 300 nghìn đồng /tháng.
+ Các khoản nộp ngân sách Nhà nước.
Thuế:
Năm 1999: 178.432.701đ
Năm 2000 274.717.870đ
9 tháng đầu năm 574.844.538đ
Nộp BHXH:
Năm 1999 210.000.000đ
Năm 2000 268.000.000đ
9 tháng đầu năm 325.000.000đ
Những biện pháp khắc phục khó khăn để đạt được năng suất, chất lượng.
- Hiện đại hoá các điều kiện làm việc của các kỹ sư thiết kế theo các chương trình phần mềm ứng dụng cho từng loại công việc chuyên môn nghiệp vụ.
- Cải tiến tổ chức và các quy trình làm việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001 - 2000.
- Khoán sản phẩm từng công việc cho người lao động.
+ Hiệu quả trong đổi mới.
- Nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng uỷ, tổng giám đốc tổng công ty và lãnh đạo công ty nên công ty luôn có việc làm, tạo nhiều sản phẩm trí tuệ cho công ty đảm bảo chất lượng dành được sự tin cậy của khách hàng.
- Nhờ vào cơ chế quản lý năng động, phân cấp quản lý khoản sản phẩm công việc cho mỗi đơn vị đến từng người lao động đã nâng cao tinh thần trách nhiệm cá nhân, phát huy năng lực tín độc lập, chủ động, sáng tạo cho cán bộ công nhân viên để hoàn thành nhiệm vụ. Giá trị tổng sản lượng đạt được kế hoạch đề ra, năm sau cao hơn năm trước thu nhập bình quân hàng tháng của mỗi cán bộ nhân viên được cải thiện .
+ phong trào thi đua, đã đẩy mạnh trong năm.
- Phong trào thi đua hoàn thành các công trình chống lũ tại công trình xây dựng thủy điện Cần Đơn.
- Phong trào thi đua lao động trên công trình trọng điểm đường Hồ Chí Minh.
+ Kết quả đạt được
-Đảm bảo nguồn thu nhập chính cho người l._.hầu, lập hồ sơ đấu thầu, thẩm định hồ sơ thiết kế các công trình xây dựng trong và ngoài tổng công ty. Xây dựng và thực hiện quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 đảm bảo mức tăng trưởng giá trị sản lượng hàng năm từ 10-15%.
Song để việc đầu tư có hiệu quả nhằm đáp ứng các yêu cầu khắt khe của công việc tư vấn thiết kế công ty cần có giải pháp cụ thể
II. Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác lập dự án đầu tư tại công ty tư vấn xây dựng Sông Đà
Với chức năng tư vấn thiết kế xây dựng và giám sát, Công ty phải có những biện pháp, chiến lược đúng đắn và hợp lý; phải không ngừng đối mới và tự hoàn thiện chính mình nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn mà trước hết là chất lượng, hiệu quả của các công trình XDCB do cơ quan lập, kết hợp với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả chính bản thân công ty.
1. Đảm bảo tính độc lập của cơ quan tư vấn trong việc xác lập chủ trương cũng như các giải pháp kỹ thuật của dự án.
Một thực trạng đã tồn tại khá lâu và khá phổ biến là việc xác định chủ trương đầu tư cũng như lựa chọn các giải pháp công nghệ chủ yếu của các dự án phụ thuộc rất nhiều vào ý kiến chỉ đạo chủ quan của các cấp lãnh đạo (từ nhà nước đến chủ đầu tư...) do vậy đã có nhiều công trình được duyệt, được tiến hành thi công xây dựng nhưng không có hiệu quả, không đáp ứng được nhu cầu hoặc phải đình chỉ hoặc đóng cửa....
Hiện nay hầu hết các cơ quan tư vấn thiết kế đều là các đơn vị thành viên của các công ty hoặc Tổng công ty mặc dù về lĩnh vực XDCB, nhà nước đã có nhiều quy định, chế độ để nâng cao hiệu lực công tác quản lý XDCB như công tác thẩm định, đấu thầu.... các tổng công ty và các bộ chuyên ngành còn có các tổ chức tư vấn như Hội đồng khoa học kỹ thuật như cơ quan tư vấn cũng phải đi theo những quyết định của chủ đầu tư (mặc dầu có thể những quy định đó chưa thực phù hợp). Chính vì vậy, đề nghị cần phải xem xét đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao tính độc lập của cơ quan tư vấn thiết kế. Nên chăng, các công ty này hoặc trực thuộc các Bộ chủ quản hoặc từng bước cổ phần hoá, tư nhân hoá.
2. Lấy cạnh tranh làm động lực phát triển.
Trong tương lại không xa còn có nhiều đơn vị thiết kế trong và ngoài nước tham gia vào lĩnh vực này. Do vậy cạnh tranh sẽ ngày càng trở nên gay gắt đòi hỏi công ty phảii không ngừng đổi mới, hoàn thiện mình, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và lấy đó làm lợi thế cạnh tranh với các công ty khác, tiếp tục giữ vững và phát huy vai trò đầu ngành trong lĩnh vực tư vấn thiết kế.
3. Tiếp tục củng cố bộ máy điều hành và tổ chức sản xuất các phòng ban của công ty.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng một số đề án được lập tại Công ty trong những năm qua chưa được thực sự tốt là bộ máy quản lý điều hành và tổ chức sản xuất giữa các phòng ban còn lỏng lẻo, chưa kiên quyết, thậm chí là thiếu tinh thần trách nhiệm. Việc giao lưu yêu cầu thường thụ động, không đúng kế hoạch hoặc không bàn bạc giữa bên giao và bên nhận dẫn đến tình trạng yêu cầu giao chậm, không đủ cơ sở để thực hiện, thậm chí sai hoặc không phù hợp với phương hướng kỹ thuật đã được duyệt. Các phòng ban có chức năng kiểm tra đôn đốc như phòng kỹ thuật, kế hoạch, không kịp thời phát hiện những sai sót, chưa đề xuất kịp thời các biện pháp xử lý. Nhiều cán bộ kiểm tra sản phẩm của phòng, kể cả trưởng, phó phòng trước khi duyệt sản phẩm hoặc yêu cầu thiết kế thông tin không xem xét đầy đủ, thậm chí không kiểm tra vẫn ký vào các văn bản thiết kế để kịp kế hoạch do còn ỷ lại vào sự kiểm tra của phòng kỹ thuật và phó giám đốc kỹ thuật...Chính vì vậy, để củng cố bộ máy quản lý điều hành và tổ chức sản xuất của Công ty cần.
- Định rõ và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, chức năng và quyền hạn của mỗi phòng ban, cá nhân phụ trách các đơn vị, các chủ nhiệm đề án, theíet kế chính, các nhân viên nghiệp vụ.
- Điều chỉnh, sắp xếp lại biên chế khối nghiệp vụ thiết kế để bộ máy quản lý và thực hiện kế hoạch gọn nhẹ và có hiệu quả.
4. Chấn chỉnh và tăng cường khâu quản lý kinh tế - kỹ thuật.
Mặc dù quy trình triển khai lập dự án đã được thực hiện từ lâu nhưng nhiều chủ nhiệm đề án ở nhiều công trình do ỷ vào kinh nghiệm và thiếu nghiêm túc nên đã không chấp hành một cách nghiêm chỉnh các bước đi, đặc biệt là chưa đầu tư thích đáng vào các công việc quan trọng như:
- Lập phương hướng, điều kiện kinh tế kỹ thuật.
Nhiều dự án mặc dù phương hướng và điều kiện kỹ thuật đã được lập nhưng chưa tranh thủ ý kiến của các chuyên gia trong ngành hoặc của chủ đầu tư nên khi triển khai không đạt yêu cầu phải sửa lại. Đây là bước đi đầu tiên quan trọng của dự án do vậy cần đặc biệt lưu ý và kiên quyết thực hiện đúng quy trình. Nên xem xét bổ xung vào quy trình thiết kế bước thông qua phương hướng và điều kiện kỹ thuật.
- Việc nghiên cứu và thu thập tài liệu tại thực địa ở nhiều dự án không được thực hiện đầy đủ, kỹ càng cũng như không đúng theo quy định của Công ty.
Do địa hình phức tạp, xa trung tâm dân cư, nhiều cán bộ ngại khó, nên nhiều giải pháp đề xuất không phù hợp với thực tế. Nhiều tài liệu thu thập được, các cá nhân không xử lý, thập vào hồ sơ lưu trữ công trình (sử dụng làm tài liệu cá nhân) gây ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện lập dự án. Do vậy cần chỉ đạo việc thu thập tài liệu hiện trạng một cách đầu đủ, chi tiết, xử lý và nhập vào các kho lưu trữ các tài liệu trên một cách nghiêm túc.
- Việc xét duyệt phương án công nghệ còn thiếu thận trọng và còn nhiều thiếu xót.
Lãnh đạo và các cán bộ chủ chốt của Công ty đều nhận thức tầm quan trọng của giải pháp công nghệ vì nó quyết định đến năng lực công nghệ, quy mô và chi phí công trình. Quy trình và tinh thần chỉ đạo của công ty cũng luôn quan tâm đến việc xem xét duyệt phương án công nghệ. Tuy nhiên trong thực tế, còn nhiều thiếu xót. Do vậy phải điều chỉnh hoặc làm lại phần công nghệ và các phần phụ trợ. Chính vì vậy, trong chỉ đạo cần phải đặc biệt quan tâm một cách đầy đủ đến vấn đề này.
- Công tác tìm hiểu và cập nhật thông tin một cách có hệ thống về các yếu tố có liên quan đến hiệu quả của dự án.
Đây là một công tác có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hiệu qủa của các đự án được thiết lập.Chính vì vậy, công ty cần bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác thông tin tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm tổng kết đánh giá những thành tựu của cômh ty cũng như những cơ sở sản xuất trong ngành.Thường xuyên tìm hiểu, cập nhật có hệ thống các thông tin về tiến bộ khoa học –công nghệ, tình hình sản xuất giá cả các vật tư trong nước và trên thế giới cần thiết cho ngành cũng như các chỉ tiêu có liên quan khác như:định mức giá cả, thị trường, kế hoạch, chính sách phát triển của nhà nước... để có thể giới thiệu,đề xuất các giải pháp ứng dụng có năng xuất và hiệu quả cao.
Ngoài ra, Phòng kỹ thuật chủ yếu đảm nhận được chức năng thẩm tra các yêu cầu và sản phẩm thiết kế, chưa tiến hành thường xuyên việc trao đổi và hướng dẫn kỹ thuật cho các phòng thiết kế, chưa thực hiện tốt chức năng chủ trì công tác biên soạn và hướng dẫn quy trình quy phạm, thông báo các tiến bộ khoa học kỹ thuật cho các phòng trực tiếp thiết kế. Do vậy, nhiều dự án sau khi đã thiết kế xong phần công nghệ lại phải sửa chữa, làm lại do sai sót về mặt kỹ thuật, không phù hợp với điều kiện thực tế. Chính vì vậy bên cạnh việc bổ xung cán bộ cho phòng kỹ thuật, cần có các giải pháp hỗ trợ khác nhau như thuê chuyên gia thẩm định từ các cơ quan khác, các các bộ có kinh nghiệm đã nghỉ chế độ hoặc lấy các cán bộ kỹ thuật chủ chốt của các phòng thiết kế thực hiện nhiệm vụ trong thời gian ngắn; đào tạo nâng cao trình độ của các cán bộ; tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ tiếp nhận thông tin khoa học công nghệ tiên tiến... để phòng thực sự đóng góp vai trò tham mưu kỹ thuật đối với Công ty và Tổng công ty, góp phần nâng cao chất lượng các đa được lập, rút ngắn thời gian và chi phí thiết kế, nâng cao uy tín của Công ty đối với khách hàng....
5. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý điều độ kế hoạch.
Về xây dựng kế hoạch.
Trong nhiều năm qua, phòng kế hoạch mới chỉ đảm nhận được việc xây dựng kế hoạch năm, quý, tháng; chuẩn bị thủ tục, hồ sơ ký kết hợp đồng với các khách hàng (chủ yếu là khách hàng truyền thống, các hợp đồng do cấp trên giao, các công việc do ban giám đốc và các cán bộ thiết kế tìm được) mà chưa làm được nhiều công tác tìm kiếm mở rộng thị trường.
* Về điều độ thực hiện kế hoạch:
Việc nhiều dự án chậm tiến độ và không đảm bảo chất lượng một phần do thiếu xót của công tác điều độ.
Do vậy nên bố trí cán bộ điều độ là một CNĐA mới có điều kiện đánh giá về chất lượng và mức độ hoành thành sản phẩm của các phòng chuyên môn.
6. Phân công lao động cho phù hợp, đào tạo và đào tạo nguồn nhân lực.
Con người luôn là trung tâm, là yếu tố quyết định đến kết quả và hiệu quả của mọi hoạt động và cụ thể ở đây là hiệu quả của công tác lập dự án. Một kế hoạch sản xuất kinh doanh tuyệt hảo cũng chỉ vô nghĩa nếu người thực hiện không ý thức được nó, không có khả năng thực hiện được và đồng thời cũng không cố gắng để đạt được mục tiêu. Chính vì vậy, tập trung vào nguồn nhân lực chính là biện pháp, chiến lược hàng đầu nhằm nâng cao hiệu quả của công tác lập dự án. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để có thể phát huy tối đa năng lực của mỗi người khi tham gia vào quá trình lập dự án.
* Đào tạo và đào tạo nguồn nhân lực.
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà nhịp độ phát triển trên tất cả các lĩnh vực diễn ra một cách chóng mặt, đó là thời đại bùng nổ công nghệ, bùng nổ thông tin. Điều này đã tác động đến dây chuyền sản xuất, đến cung cách quản lý, đến nếp sống và suy nghĩ của mọi người trong công ty đòi hỏi các cấp lãnh đạo phải trang bị cho moị người đầy đủ kiến thức và kỹ năng để theo kịp với sự thay đổi này. Nhu cầu đào tạo và phát triển phải đặt ra đối với mọi người trong Công ty, từ cấp quản lý cao nhất đến công nhân trong Công ty để có thể có được một đội ngũ có năng lực, quản lý, có trình độ tay nghề cao thích ứng được với môi trường đầy biến động của nền kinh tế.
Với tư cách là một nhà quản lý, để có thể nâng cao chất lượng sản phẩm của bất kỳ một hoạt động sản xuất –kinh doanh nào, trong bất kỳ nền kinh tế nào cũng đòi hỏi phải có một đôi ngũ lao động có trình độ, có kỹ năng và giàu kinh nghiệm. Đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để có thể nâng cao uy tín đối với khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh với các đối thủ, đối với hoạt động tư vấn đầu tư như của công ty, trong đó có công tác lập dự án đầu tư thì việc phát huy nhân tố con người, đặc biệt là đào tạo nguồn nhân lực lại càng phải được đặt nên hàng đầu.
Như vậy, nhìn chung trình độ của đội ngũ lao động là tương đối cao song đối với một công ty tư vấn đầu tư- một loại hình hoạt động kinh doanh đòi hỏi phải có một đội ngũ chuyên gia có trình độ học vấn, nghiệp vụ chuyên môn và dày dặn kinh nghiệm thì vẫn chưa đạt yêu cầu,đòi hỏi phải có biện pháp đào tạo và đào tạo lại bên cạnh công tác tuyển dụng lao động có năng lực, có trình độ cao.
- Tiếp tục tổ chức đào tạo và đào tạo lại cho các cán bộ công nhân viên trong Công ty để bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn phục vụ cho công tác tư vấn thiết kế (kể cả việc đào tạo kiến thức quản trị kinh doanh, nghiệp vụ quản lý cho đội ngũ lãnh đạo) ngay tại cơ quan hoặc cử đi học ở cá trường đại học... với kinh phí đi học do công ty tài trợ. Bên cạnh đó, công ty cũng cần có biện pháp trả lương tích hợp đối với những đối tượng này.
- Tăng cường công tác phổ cập tin học cho toàn cán bộ, nhân viên trong công ty, nhất là các cán bộ trực tiếp làm công tác khảo sát, thiết kế phải sử dụng thành thạo các phần mềm và điều hành mạng để có thể trao đổi, giao dịch thông tin và dữ liệu trên mạng Internet góp phần đẩy nhanh việc tiến tới thực hiện tư vấn thiết kế hoàn toàn bằng mạng máy tính.
- Trong những năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn song Công ty đã thực hiện tốt chủ trương trích 2% quỹ lương hàng tháng lập quỹ đào tạo. Trong điều kiện nền kế toán thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, không còn cơ chế xin – cho, Công ty cần phải duy trì và cố gắng nâng dần tỷ lệ này lên 3-4% để dành cho công tác đào tạo lại nguồn nhân lực của mình, nâng cao trình độ năng lực cũng như nghiệp vụ chuyên môn của mỗi thành viên, đặc biệt là các chủ nhiệm đề án, những người trực tiếp tham gia tư vấn thiết kế, lập dự án....
- Thường xuyên tổ chức các cuộc trao đổi, thảo luận về chuyên môn nghiệp vụ về công tác quản lý và thiết kế giữa các phòng ban trong Công ty để học hỏi những kinh nghiệm trong phương pháp làm việc và kiểm soát công việc.
- Cần giao trách nhiệm cho các cán bộ phụ trách công tác giám sát thiết kế tại các công trình xây dựng, tổng kết các ưu khuyết điểm do cơ quan thiết lập, các kinh nghiệm thực tế xây lắp. Hàng quý báo cáo để cán bộ thiết kế ưu khuyết điểm của mình kết hợp với việc luôn phiên cử các cán bộ thiết kế xuống để sản xuất để nâng cao năng lực thiết kế.
- Hàng năm, nên tổ chức các cuộc thi, kiểm tra trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học... từ đó có căn cứ bố trí công việc,giải quyết chế độ lương thưởng cũng như có kế hoạch đào tạo phù hợp.....
- Mở rộng quan hệ hợp tác để tránh thủ tục hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức nước ngoài nhằm thu thập thông tin, kinh nghiệm về quản lý và kỹ thuật cũng như gửi các cán bộ tham quan khảo sát, mở rông tầm nhìn, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Bên cạnh đó, để có được đội ngũ lao động có trình độ, trong những năm qua, công tác tuyển dụng của Công ty khá chặt chẽ và khoa học song vẫn còn một số vấn đề cần quan tâm.
- Vẫn còn nhiều ưu tiên đối với con em cán bộ trong công ty cũng như trong ngành.
- Số lượng lao động được tuyển dụng vẫn chưa tương xứng với số người về hưu.
chính vì vậy cần có biện pháp nới lỏng những điều kiện quá cao để có thể tuyển dụng người có năng lực, trình độ.
*Phân công lại lao động cho phù hợp.
Bên cạnh việc đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực, bố trí, phân công lao động sao cho hợp lý cũng phải được đảm bảo. Bố trí lao động hợp lý ở đây không có nghĩa là chỉ bố trí lực lượng lao động cho phù hợp với trình độ, kinh nghiệm năng lực của mỗi người mà còn phải đảm bảo cho cơ cấu tổ chức quản lý, thực hiện công tác tư vấn đầu tư nói chung và lập dự án nói riêng được gọn nhẹ, đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất cao giúp cho công tác tư vấn được thực hiện thônng suốt, chính xác và nhanh chóng, phát huy tối đa năng lực, trình độ, của mỗi người.
- Cần điều chỉnh lại cơ cấu lao động giữa các phòng ban cho hợp lý tránh tình trạng phòng thì quá nhiều lần dẫn đến người lao động không làm việc hết sức so với mức mình có thể, phòng lại qua ít người không thực hiện tốt đầy đủ chức năng nhiệm vụ của mình.
- Một số cán bộ, công nhân viên tuy đã làm việc lâu năm nhưng năng lực hạn chế nên được bố trí vào các công việc khác cho phù hợp và thay thế bằng những cán bộ, nhân viên mới có năng lực phù hợp hơn.
- Công ty nên dành quỹ lương dự phòng để trả cho các cán bộ thuộc các phòng trong tháng thiếu việt làm thực hiện những nhiệm vụ chung của Công ty như công tác biên soạn, thu thập tài liệu...
- Đối với công trình có yêu cầu khẩn trương, nên mở rộng hình thức tổ chức sản xuất tập trung theo nhóm công trình do CNĐA hoặc Giám đốc trực tiếp điều hành (rút các cán bộ của các phòng thiết kế tập trung thực hiện).
7. Điều chỉnh thu nhập, xây dựng cơ chế thưởng phạt hợp lý, nâng cao năng xuất lao động.
* Điều chỉnh thu nhập.
Lương bổng là một trong những động lực mạnh mẽ kích thích con người làm việc hăng hái, năng xuất nhưng đồng thời cũng là một trong những nguyên nhân gây trì trệ, bất mãn và thậm chí là từ bỏ Công ty ra đi. Một thực tế không chỉ phủ nhận và hiện đang trở nên rất phổ biến là tình trạng ngày càng có nhiều người xin chuyển từ cơ quan nhà nước sang các công ty nước ngoài để có mức thu nhập cao hơn. Chính vì vậy, việc kích thích người lao động bằng lương bổng càng trở nên quan trọng, đòi hỏi người lãnh đạo phải có một chính sách phân chia thu nhập hợp lý và công bằng vừa tương ứng với công sức người lao động đã bỏ ra, vừa điều chỉnh mức thu nhập hợp lý giữa các thành viên khác nhau tránh tình trạng tỵ nạnh, tranh cãi, tranh chấp giữa các thành viên gây mất đoàn kết, chán nản, không nhiệt tình với công việc...
Trong những năm gần đây, để đảm bảo tiền lương được trả đúng đối tượng, khuyến khích người lao động, Công ty quy định các nguyên tắc phân phối tiền lương cho các phòng sản xuất như sau:
+ Tiền lương được trả theo mức đóng góp vào khối lượng công việc đảm nhiệm thực hiện trong tháng. Các phòng sản xuất xây dựng quy chế chia lương của phòng mình theo nguyên tắc trên thông qua phòng Tổ chức hành chính Giám đốc công ty phê duyệt.
+ Phần lương cứng (lương điều hoà) được chi trả cho toàn thể cán bộ công nhân viên làm việc tại công ty được xác định theo bảng chấm công hàng tháng..... Phần lương mềm (lương khoán) được chia như sau:
- Lương cho ban Giám đốc:
Lương cho Ban giám đốc
=
Mức lương mềm của khối trực tiếp sản xuất
x
Hệ số cấp bậc của từng người
x
Hệ số cường độ
Hệ số cường độ (K = 0,8 –1,2) do Giám đốc trực tiếp quyết định cho từng người trong tháng. Song tiền lương của người cao nhất tối đa không vượt quá 2,5 lần mức lương bình quân của công ty.
- Lương các chuyên viên kỹ thuật và công nghệ tin học.
Lương của các chuyên viên kỹ thuật và công nghệ tin học
=
Mức lương mềm bình quân khối trực tiếp sản xuất
x
Hệ số cấp bậc của từng người
x
Hệ số cường độ
Hệ số cường độ (K = 0,8 –1,1) do Giám đốc quyết định cho từng người.
- Lương cho khối nghiệp vụ: tính theo ngày công và lương cấp bậc nhân với mức lương mềm bình quân theo định biên.
- Lương cho giám sát thiết kế.
Lương cho giám sát thiết kế
=
Mức lương mềm bình quân khối trực tiếp sản xuất
x
Hệ số cấp bậc của từng người
x
Hệ số công việc trong tháng
- Lương cho bộ phận can in xuất bản và có tổ cơ sở dữ liệu: được tính theo sản phẩm thực hiện trong tháng nhân với đơn giá được duyệt.
- Lương cho khối trực tiếp sản xuất; xác định theo lương khoán các công trình công việc do chủ nhiệm đề án đề xuất (có tham khảo ý kiến của phòng kế hoạch, kỹ thuật) được các trưởng phòng thiết kế chấp thuận. Hàng tháng, trên cơ sở tổng mức lương của mình được chia theo khối lượng công việc phòng thực hiện, mỗi phòng tự phân chia theo quy chế của phòng.
Nhìn chung, việc thực hiện cơ chế thu nhập theo lương cứng và mềm như trên đã góp phần kích thích, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động, tạo lòng tin cho mọi người yên tâm thực hiện công việc được giao. Tuy nhiên việc phân phối thu nhập tại Công ty vẫn còn là vấn đề phức tạp nhiều năm chưa giải quyết được do.
- Khi phân phối quỹ lương công trình. Chủ nhiệm đề án và các trưởng phòng thường chỉ dựa vào kinh nghiệm mà chưa xây dựng kế hoạch thật chi tiết. Do vậy việc phân chia quỹ lương thường rất phức tạp (nhiều khi phải thông qua nhiều cuộc họp, cá biệt khi không thoả thuận được, phải chờ quyết định của Giám đốc).
- Một số sản phẩm thiết kế ít có căn cứ để xác định một cách chính xác chi phí thực hiện.
- Khối lượng công việc giữa các phòng khác nhau.
Chính vì vậy gây tình trạng cãi về sự chênh lệch quỹ lương giữa các phòng cũng như cá nhân thực hiện lập dự án. Để giải quyết vấn đề này, trong những năm tới, Công ty cần thực hiện một số biện pháp cơ bản sau:
- Các Trưởng phòng thiết kế phải dự tính một cách tương đối chính xác khối lượng công việc, số công lao động cần thiết các các chi phí khác để có thể bảo vệ tỷ lệ quỹ lương của phòng mình trong tổng quỹ lương công trình trước khi đi vào thực hiện.
- Giải quyết rõ ràng, thống nhất với nhau về cách phân biệt chia thu nhập giữa các cá nhân trong phòng tham gia thực hiện đề án.
- Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế khoán công việc, công trình đến từng đối tượng thực hiện nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của người thực hiện đối với phần công việc mình phải thực hiện.
Việc tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế khoán là cần thiết để nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ, công nhân viên và cũng là để nâng cao chất lượng và đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn thiết kế của công ty. Tuy nhiên, ngay trong việc giao khoán cũng phải có biện pháp hợp lý. Mặc dù để nâng cao chất lượng của sản phẩm thiết kế, đòi hỏi người thực hiện phải có năng lực, trình độ chuyên môn, dày dặn kinh nghiệm, và muốn có được việc làm tốt và ổn định, bản thân mỗi người đều phải tự học hỏi, tự nâng dần trình độ nghiệp vụ chuyên môn cũng như năng lực của mình để thực hiện tốt công việc được giao. Song không vì thế mà trưởng phòng giao hết việc cho một số người có trình độ, năng lực, kinh nghiệm trong khi một số người khác tạo lòng tin cho mọi người yên tâm thực hiện công việc đực giao. Tuy nhiên việc phân phối thu nhập tại Công ty vẫn còn là vấn đề phức tạp nhiều năm chưa giải quyết được do:
- Khi phân phối quỹ lương công trình. Chủ nhiệm đề án và các Trưởng phòng thường chỉ dựa vào kinh nghiệm mà chưa xây dựng kế hoạch thật chi tiêt. Do vậy việc phân chia quỹ lương thường rất phức tạp (nhiều khi phải thông qua nhiều cuộc họp, cá biệt khi không thoả thuận được, phải chờ quyết định của giám đốc).
- Một số sản phẩm thiết kế ít có căn cứ để xác định một cách chính xác chi phí thực hiện.
- Khối lượng công việc giữa các phòng khác nhau.
Chính vì vậy gây tình trạng cãi về sự chênh lệch quỹ lương giữa các phòng cũng như cá nhân thực hiện lập dự án. Để giải quyết vấn đề này, trong những năm tới, Công ty cần thực hiện một số biện pháp cơ bản sau:
- Các Trưởng phòng thiết kế phải dự tính một cách tương đối chính xác khối lượng công việc, số công lao động cần thiết và các chi phí khác để có thể bảo vệ tỷ lệ quỹ lương của phòng mình trong tổng quỹ lương công trình trước khi đi vào thực hiện.
- Giải quyết rõ ràng, thống nhất với nhau về cách phân chia thu nhập giữa các cá nhân trong phòng tham gia thực hiện đề án.
- Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế khoán công việc, công trình đến từng đối tượng thực hiện nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của người thực hiện đối với phanà công việc mình phải thực hiện.
Việc tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế khoán là cần thiết để nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ, công nhân viên và cũng là để nâng cao chất lượng và đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn thiết kế của công ty. Tuy nhiên, ngay trong việc giao khoán cũng phải có biện pháp hợp lý. Mặc dù để nâng cao chất lượng của sản phẩm thiết kế, đòi hỏi người thực hiện phải có năng lực, trình độ chuyên môn, dày dặn kinh nghiệm, và muốn có được việc làm tốt và ổn định, bản thân mỗi người đều phải tự học hỏi, tự nâng dần trình độ nghiệp vụ chuyên môn cũng như năng lực của mình để thực hiện tốt công việc được giao. Song không vì thế mà Trưởng phòng giao hết việc cho một số người có trình độ, năng lực, kinh nghiệm trọng khi một số người khác do chưa đủ nghiệp vụ chuyên môn cũng như chưa phát huy được năng lực của mình hay do bất kỳ một lý do nào khác lại không có việc để làm. Điều này vừa gây tranh chấp, mất đoàn kết ngay trong nội bộ công ty nhưng đồng thời cũng gây ảnh hưởng đến chất lượng của đề án được lập bởi người được giao thực hiện cũng khó có thể ôm nổi, cáng đáng hết mọi việc được giao nên khó đi sâu, sát vào mọi điểm lại làm chậm tiến độ thực hiện.
- Công ty cần điều tiết, sử dụng lao động dư thừa trong tháng kế hoạch hợp lý để tránh tình trạng chênh lệnh quá nhiều về thu nhập giữa cá phòng, cá nhân tham gia thết kế.
* xây dựng quy chế thưởng phạt hợp lý.
Trong những năm qua, để đưa công tác thi đua khen thưởng trở thành một động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, động viên, khuyến khích cán bộ công nhân viên chức phát huy tinh thần sáng tạo, khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ được giao, từng bước nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, đem lại nhiều lợi nhuận, góp phần cải thiện đời sống của người lao động và phát triển công ty bền vững, tổng kết phong trào thi đua hàng năm, giám đốc thống nhất với công đoàn xét và đề nghị Tổng công ty khen thưởng cho những tập thể và cá nhân có đủ tiêu chuẩn. quyết định tặng danh hiệu “Lao động giỏi”, “Tập thể lao động giỏi”, “Chiến sĩ thi đua toàn ngành, toàn quốc” “Anh hùng lao động”... Bên cạnh đó, Công ty cũng có phần thưởng riêng cho cá nhân tập thể thực hiện tốt kế hoạch, có ý kiến sáng tạo....
Việc công ty áp dụng quy chế khen thưởng có tác dụng khuyến khích người lao động tha thiết hơn với công việc, phát huy sáng kiến cải tiến trong công việc. Tuy nhiên, hình thức áp dụng khen thưởng vẫn còn ít và chưa đa dạng, chủ yếu mang tính chất hình thức, cần phải kết hợp giữa việc khen thưởng bằng tinh thần với khen thưởng bằng vật chất, xem xét nâng bậc lương trước thời hạn, bố trí vào các vị trí then chốt.... để có thể phát huy được tối đa năng lực của mỗi người trong công việc.
Nên xem xét việc lập quỹ khen thưởng trong quỹ lương công trình và cơ chế sử dụng hợp lý. trong quá trình điều hành, Giám đốc được quyền khen thưởng, phạt đột xuất (không cần qua hội đồng thi đua) các cá nhân tập thể theo quy chế.
Bên cạnh việc khen thưởng, cũng cần xây dựng nội quy lao động, nội lệ thiết kế chặt chẽ và hợp lý để đưa cán bộ công nhân viên thực hiện đúng các chuẩn mực mà công ty quy định, đảm bảo đúng kỷ cương và trật tự trong công việc. Đưa ra hình thức kỷ luật và xử lý vi phạm đối với các trường hợp không hoàn thành kế hoạch, không đảm bảo chất lượng công trình, không tuân thủ nghiêm túc các quy trình quy định của công ty.
8. Hiện đại hoá công tác tư vấn, ứng dụng công nghệ tin học vào công tác tư vấn thiết kế đảm bảo chất lượng........
Trong những năm tới, để đẩy nhanh việc sử dụng toàn bộ công nghệ tin học vào trong công tác tư vấn và lập dự án, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất, đảm bảo về thời gian thiết kế cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty cần nhanh chóng thực hiện một số biện pháp sau:
- Tiếp tục đầu tư cho việc nâng cấp, đồng bộ hoá mạng máy vi tính phục vụ cho công tác thiết kế trong Công ty.
- Đầu tư cho việc hiện đại hoá các thiết bị phục vụ thiết kế như: bán số hoá A3 và A0, máy Scanner, máy chiếu và các thiết bị khác.
- Ngoài ra cần có chiến lược đầu tư hợp lý cho việc hỗ trợ phát triển phần mềm chuyên dụng phục vụ cho công tác thiết kế.
9. Mở rộng việc áp dụng sơ đồ mạng vào xây dựng và quản lý tiến độ.
Công tác tư vấn đầu tư mà cụ thể ở đây là công tác lập dự án đầu tư khong giống như những hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường lặp đi lặp lại nhiều lần mà thay đổi thường xuyên tuỳ theo đặc điểm của từng dự án được lập. Chính vì vậy, công tác quản lý tiến độ và sự thay đổi với các dự án giữ vị trí rất quan trọng. Để có thể liên kết tất cả các hoạt động cần thực hiện của dự án, tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên hệ giữa Công ty (chủ nhiệm đề án) với khách hàng, tăng cường sự hơp tác hài hoà giữa các bộ phận, phòng ban thực hiện, phát hiện sớm và giải quyết nhanh chóng những khó khăn vướng mắc nảy sinh, rút ngắn thời gian và giảm bớt chi phí thực hiện, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao hơn, chủ nhiệm đề án cần thiết lập sơ đồ mạng công việc một cách đầy đủ và chi tiết. Sơ đồ mạng công việc cũng như thời gian sẽ hoàn thành công tác lập dự án để từ đó các cán bộ quản lý điều hành tập trung giải quyết các công việc có liên quan đến việc kéo dài hoặc rút ngắn đường Gantt va có biện pháp chỉ đạo, điều chỉnh cho hợp lý với điều kiện thực tế.
10. Thực hiện tiết kiệm chi phí.
Chi phí cho công tác lập dự án chủ yếu là chi phí về quỹ lương (bao gồm cả chi phí chuyên gia), thông thường chiếm khoảng 45-50%. Để nâng cao hiệu quả cần phải quan tâm đặc biệt đến việc giảm chi phí công trình, tập trung vào hai đối tượng chủ yếu: Lương và chi phí điều tra cơ bản (chiếm 65-75% giá thành).Các yếu tố làm tăng chi phí trên thường tập trung ở một số:
- Các đề án không đảm bảo chất lượng và thời gian (do thay đổi về chủ đầu tư, thay đổi các yếu tố đầu vào, không được phê duyệt hoặc phải điều chỉnh nhiều lần.... làm tăng chi phí tiền lương, công tác phí, vật tư...... nhiều khi lên gấp đôi giá dự toán).
- Trong quá trình thu thập tài liệu cơ sở và hiện trạng, việc thoả thuận các điều kiện và giải pháp kỹ thuật với các cơ sở làm không đầy đủ do vậy phải tổ chức lại nhiều lần công tác trên gây nhiều tốn kém về công tác phí và tiền lương.
11. Tăng cường khâu giám sát thi công, tiếp nhận thông tin phản hồi từ phía chủ đầu tư và bên thi công.
Đối với bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, tiếp nhận thông tin phản hồi từ phía khách hàng luôn là vấn đề được xem trọng có thể coi như chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Về phía công ty, với vai trò tư vấn giúp chủ đầu tư giám sát thi công và tiếp nhận thông tin phản hồi càng đòi hỏi phải được tăng cường. Thông qua những kết quả ghi nhận được từ thực tế sản xuất và ý kiến của bên thi công, chủ đầu tư và cũng như ý kiến của các cấp, ngành.... để có thể:
- Xử lý kịp thời những thiếu sót của giải pháp thiết kế.
- Xem xét, đề xuất các giải pháp và bổ xung các bản vẽ, dự đoán theo yêu cầu của chủ đầu tư và bên thi công nếu xét thấy hợp lý (như việc thay thế thiết bị, vật tư tương đương theo đơn hàng)
- Có những đánh giá đúng đắn về khối lượng công việc mình đã thực hiện và từ đó có biện pháp tự hoàn thiện mình, tránh những sai lầm trước đây mắc phải à phát huy những ưu điểm của mình, làm cơ sở cho việc đánh gía, nghiệm thu và quyết toán công trình.
tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế Đầu Tư - Bộ môn kinh tế đầu tư - Đại học KTQD
Giáo trình Lập dự án đầu tư - Bộ môn KTĐT.
Giáo trình Lập và quản lý dự án - GS.TS Nguyễn Ngọc Mai - ĐHKTQD
Nghị định số 52/1999/NĐ-CP, ngày 08/07/1999
Nghị định số 51/1999/NĐ-CP,ngày 08/07/1999
Quyết định số 165/QĐ-TCLĐ của giám đốc Công ty về việc quy định chức năng nhiệm vụ của các phòng bản trong Công ty.
Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty tư vấn xây dựng Sông Đà các năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001.
Định hướng phát triển 10 năm (2001-2010) của Công ty tư vấn xây dựng Sông Đà và kế hoạch sản xuất kinh doanh 5 năm 2001-2005.
Hướng dẫn lập hồ sơ thuyết minh dự án và tư vấn đáu thầu của Công ty.
Báo cáo nghiên cứu khả thi các dự án: Thuỷ điện Cần Đơn, Ryninh2, Nahang...
Tạp chí Xây dựng số 5 năm 2001.
Thời báo kinh tế Việt Nam số 3,8,12 năm 2000.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29828.doc