Báo cáo Mối quan hệ giữa phân tích tài chính doanh nghiệp và đầu tư chứng khoán trên Thị trường chứng khoán Việt Nam

Chương I: Khái quát chung về bCTC doanh nghiệp và phân tích BCTC doanh nghiệp trong đầu tư chứng khoán I. Báo cáo tài chính doanh nghiệp Cho đến giữa thế kỷ 19 quy mô của các doanh nghiệp còn nhỏ và hầu như không có sự tài trợ vốn từ các đối tượng khác ngoài chủ sở hữu doanh nghiệp. Khi cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ, quy mô của các doanh nghiệp ngày càng được mở rộng với sự xuất hiện của nhiều tập đoàn lớn. Các cổ đông, chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng đã tài trợ vốn cho doanh

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1581 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Mối quan hệ giữa phân tích tài chính doanh nghiệp và đầu tư chứng khoán trên Thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp và yêu cầu các doanh nghiệp phải cung cấp thông tin để họ có thể đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Đó cũng chính là thời điểm BCTC doanh nghiệp ra đời. BCTC doanh nghiệp đóng một vai trò rất quan trọng đối với hoạt động SXKD. Nó diễn giải các nghiệp vụ kinh tế vô cùng phong phú dưới dạng những số liệu nhằm cung cấp thông tin về tình hình hoạt động, rủi ro và triển vọng của doanh nghiệp. ở chương này chúng ta sẽ xem xét khái quát chung về BCTC doanh nghiệp và phân tích BCTC doanh nghiệp để có thông tin phục vụ cho việc ra quyết định đầu tư trên TTCK. 1. Khái niệm Theo giáo trình "Lập, đọc, kiểm tra và phân tích BCTC" của TS. Nguyễn Năng Phúc-Nguyễn Văn Công-Trần Quý Liên, NXB Tài Chính năm 2001, "BCTC doanh nghiệp là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, vốn và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp". Khái niệm này đã nêu một cách khá chính xác nội hàm của khái niệm "BCTC doanh nghiệp". BCTC doanh nghiệp (sau đây gọi là BCTC) là những báo cáo được lập dựa vào phương pháp tổng hợp số liệu từ các sổ sách kế toán theo các chỉ tiêu tài chính phát sinh tại những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định. Chính vì thế, BCTC phản ánh một cách hệ thống, đồng bộ, trung thực, chính xác tình hình tài sản của đơn vị tại những thời điểm; kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình sử dụng vốn trong những thời kỳ nhất định. Đồng thời BCTC được giải trình, giúp cho đối tượng sử dụng thông tin nhận biết được thực trạng tài chính, tình hình SXKD của doanh nghiệp để ra các quyết định phù hợp. Các loại BCTC BCTC bao gồm 3 loại phổ biến nhất là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ. 2.1. Bảng cân đối kế toán "Bảng cân đối kế toán là một bản BCTC tổng hợp, phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định (thời điểm lập báo cáo)". Trích từ giáo trình "Lập, đọc, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính" của TS. Nguyễn Năng Phúc- Nguyễn Văn Công-Trần Quý Liên, NXB Tài Chính năm 2001. Như vậy, số liệu trên bảng cân đối kế toán cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp theo cơ cấu của tài sản và nguồn hình thành tài sản đó. Bảng cân đối kế toán được trình bày làm 2 phần: phần tài sản và phần nguồn vốn. - Phần tài sản: Phần tài sản phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại của tài sản trong quá trình hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Tài sản được phân chia thành tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn (TSLĐ&ĐTNH) và tài sản cố định và đầu tư dài hạn (TSCĐ&ĐTDH). Trong đó: Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn (gọi chung là vốn lưu động): bao gồm tiền, đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho và các TSLĐ khác hình thành nên vốn lưu động của doanh nghiệp. Do các tài sản này đều được sử dụng hay chuyển thành tiền trong tương lai gần nên chúng được gọi là TSLĐ. Các tài sản thuộc TSLĐ được sắp xếp theo tính thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) giảm dần. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn (gọi chung là vốn cố định): bao gồm TSCĐ như nhà xưởng, thiết bị,... và các khoản đầu tư tài chính dài hạn. Tuy nhiên đây không phải là toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp bởi một số tài sản đáng giá nhất có thể là tài sản vô hình, ví dụ như bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, danh tiếng của doanh nghiệp, khả năng quản lý chuyên nghiệp và lực lượng lao động có trình độ cao. Những loại tài sản này thường không được đưa vào bảng cân đối kế toán trừ phi chúng có thể được xác định rõ về mặt giá trị. Ngoài ra, vốn cố định còn bao gồm chi phí xây dựng cơ bản dở dang và các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn. - Phần nguồn vốn: Phần nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Các chỉ tiêu nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với tài sản đang quản lý và sử dụng ở doanh nghiệp. Nguồn vốn được chia ra thành nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu. Trong đó: Nợ phải trả: bao gồm nợ ngắn hạn, nợ dài hạn và nợ khác. Nợ ngắn hạn bao gồm những khoản vay và khoản phải trả được thanh toán trong vòng một năm. Chênh lệch giữa vốn lưu động và nợ ngắn hạn là vốn lưu động ròng - đây được coi là nguồn dự trữ tiền mặt tiềm năng của doanh nghiệp. Nợ dài hạn bao gồm những khoản nợ sẽ đáo hạn sau một năm. Nguồn vốn chủ sở hữu: là phần chênh lệch giữa tổng nguồn vốn và nợ phải trả. Nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm giá trị mệnh giá của các cổ phiếu thường đang lưu hành, thặng dư vốn góp và thu nhập giữ lại tích luỹ từ phần lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được trước đó. Bảng cân đối kế toán cho phép đối tượng sử dụng đánh giá khái quát thực trạng tài chính của doanh nghiệp, năng lực trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế tài chính của doanh nghiệp . 2.2. báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh "Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là BCTC tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp". Trích từ giáo trình "Lập, đọc, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính" của TS. Nguyễn Năng Phúc- Nguyễn Văn Công-Trần Quý Liên, NXB Tài Chính năm 2001. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh được chi tiết theo hoá theo hoạt động SXKD chính, hoạt động tài chính và hoạt động bất thường; tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại và được giảm. Loại báo cáo này gồm 3 phần chính, tuy nhiên theo mục đích nghiên cứu của đề tài nên chỉ đề cập đến phần lãi lỗ. Phần này phản ánh tình hình và kết quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp, bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau: Tổng doanh thu, Doanh thu thuần, Lợi nhuận gộp, Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh, Lợi nhuận thuần từ hoạt động tài chính, Lợi nhuận bất thường, Tổng lợi nhuận trước thuế, Lợi nhuận sau thuế. 2.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ "Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là BCTC tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp." Trích từ giáo trình "Lập, đọc, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính" của TS. Nguyễn Năng Phúc- Nguyễn Văn Công-Trần Quý Liên, NXB Tài Chính năm 2001. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ gồm 3 phần: Phần I: Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động SXKD Phần II: Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư Phần III: Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính Dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ người sử dụng có thể đánh giá được khả năng tạo ra tiền, sự biến động tài sản thuần của doanh nghiệp, khả năng thanh toán của doanh nghiệp và dự đoán được luồng tiền trong kỳ tiếp theo. 3. Chế độ BCTC doanh nghiệp Chế độ BCTC doanh nghiệp ban hành theo Quyết định số 167/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế trong cả nước, bao gồm 4 biểu mẫu báo cáo: Bảng cân đối kế toán, Kết quả hoạt động kinh doanh, Lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh BCTC. Ngoài ra, để phục vụ yêu cầu quản lý kinh tế tài chính, yêu cầu chỉ đạo điều hành, các ngành, các tổng công ty, các tập đoàn sản xuất, liên hiệp các xí nghiệp, các công ty liên doanh... có thể quy định thêm các báo cáo chi tiết khác có tính chất hướng dẫn như: Báo cáo giá thành sản phẩm, dịch vụ; Báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh; Báo cáo chi tiết chi phí sản xuất; Báo cáo chi tiết chi phí bảo hành; Báo cáo chi tiết chi phí quản lý doanh nghiệp; Báo cáo chi tiết công nợ... Nội dung, phương pháp tính toán, hình thức trình bày các chỉ tiêu trong từng báo cáo quy định chế độ này được áp dụng thống nhất trong phạm vi cả nước. Trong quá trình áp dụng nếu thấy cần thiết có thể sửa đổi bổ sung hoặc chi tiết các chỉ tiêu cho phù hợp với đặc điểm hoạt động SXKD của doanh nghiệp nhưng phải được Bộ Tài Chính chấp thuận bằng văn bản. Các tổ chức niêm yết Trong khoá luận, các thuật ngữ tổ chức niêm yết, doanh nghiệp niêm yết và công ty niêm yết được sử dụng với ý nghĩa như nhau. trên TTCK là chủ thể của nền kinh tế nên cũng phải tuân thủ nghiêm chỉnh quy định nêu trên của Bộ Tài Chính. Bên cạnh đó Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) có những quy định riêng đối với chế độ BCTC của các chủ thể này. Một trong những yêu cầu bắt buộc của cơ quan quản lý TTCK của bất kỳ quốc gia nào nói chung và UBCKNN của Việt Nam nói riêng đối với tổ chức có chứng khoán đã niêm yết và phát hành là phải công khai tài chính hàng năm và một số định kỳ khác. Việc công khai tài chính định kỳ được thực hiện qua các BCTC doanh nghiệp, do đó đây là nguồn thông tin rất quan trọng đối với các đối tượng sử dụng BCTC. Theo Nghị định số 48/1998/NĐ-CP, Thông tư 02/2001/TT-UBCK và Quyết định 79/2000/QĐ-UBCK, vấn đề công khai hoá thông tin tài chính được quy định như sau: Hàng năm tổ chức niêm yết phải gửi UBCKNN BCTC, bao gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh BCTC theo mẫu quy định hiện hành. BCTC phải được công bố tại trụ sở chính của tổ chức phát hành để người đầu tư tham khảo. Yêu cầu đối với BCTC: phải tuân thủ chế độ kế toán hiện hành của Nhà nước BCTC năm phải có xác nhận của một tổ chức kiểm toán được chấp thuận BCTC năm được lập và gửi cho UBCKNN chậm nhất là 90 ngày kể từ khi kết thúc niên độ kế toán Trường hợp tổ chức phát hành sở hữu từ 50% cổ phần trở lên của một tổ chức khác thì tổ chức phát hành phải gửi kèm theo BCTC của tổ chức đó Ngoài ra, tổ chức niêm yết phải báo cáo Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK), UBCKNN về kết quả hoạt động kinh doanh, vốn, tài sản, doanh thu, lợi nhuận, thuế... hàng quý và 6 tháng trong vòng 15 ngày đầu của quý, tháng tiếp theo. Như vậy, trong các văn bản này nghĩa vụ công bố thông tin được quy định khá rõ ràng và chi tiết đối với tổ chức niêm yết. Việc xác lập nghĩa vụ công khai tài chính của các tổ chức nhằm đảm bảo thông tin mọi mặt về hoạt động của tổ chức này trước và sau khi niêm yết phải được cung cấp một cách thường xuyên, liên tục và tức thời đến các cổ đông của doanh nghiệp và công chúng đầu tư. Khác với doanh nghiệp chưa niêm yết, doanh nghiệp niêm yết phải công khai hoá tài chính và những thông tin có thể ảnh hưởng đến giá cả cổ phiếu, các thông tin về những xung đột lợi ích của thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban giám đốc, các cổ đông lớn với lợi ích của tổng thể doanh nghiệp. Đồng thời các văn bản pháp quy trên TTCK đã có những quy định nhằm nâng cao chất lượng BCTC của tổ chức niêm yết. Đó là các BCTC phải được kiểm toán trước khi được công bố ra công chúng. Các công ty kiểm toán và kiểm toán viên độc lập thực hiện kiểm toán cho tổ chức niêm yết cũng phải được UBCKNN chấp thuận trước khi thực hiện công tác kiểm toán. Phần tiếp theo sẽ đi sâu vào phân tích vai trò của BCTC đối với một số đối tượng sử dụng trong nhóm đối tượng bên trong doanh nghiệp và nhóm đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. 4. Vai trò của BCTC doanh nghiệp BCTC không những cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo mà còn cho thấy kết quả hoạt động mà doanh nghiệp đạt được trong hoàn cảnh đó. Chính vì thế, BCTC là phương tiện cung cấp thông tin cần thiết cho các đối tượng sử dụng thông tin tài chính để ra các quyết định phù hợp. Trong nền kinh tế thị trường, đối tượng sử dụng thông tin tài chính rất rộng. Căn cứ vào mức độ liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp, có thể phân chia như sau: Nhóm đối tượng bên trong doanh nghiệp (Internal users): là các nhà quản lý doanh nghiệp (ban giám đốc), hội đồng quản trị doanh nghiệp, những người lao động... Nhóm đối tượng bên ngoài doanh nghiệp (External users) là các cơ quan quản lý Nhà nước, các cổ đông nhỏ, chủ nợ, các khách hàng chính, nhân viên Ngân hàng, các cơ quan bảo hiểm, các đại lý...Đối với nhóm đối tượng này BCTC là nguồn chủ yếu cung cấp cho họ thông tin về tình hình hoạt động và tài chính của doanh nghiệp. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể vai trò của BCTC đối với các đối tượng cụ thể sau: 4.1. Đối với nhà quản lý doanh nghiệp Mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận và khả năng trả nợ. Cho dù doanh nghiệp có thể có nhiều mục tiêu khác như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường.... nhưng doanh nghiệp chỉ đạt các mục tiêu này nếu đáp ứng được hai thử thách sống còn là kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ. Một doanh nghiệp thua lỗ liên miên rút cuộc sẽ bị cạn kiệt nguồn lực và buộc phải đóng cửa. Mặt khác, nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ đến hạn cũng dẫn đến bị phá sản. Như vậy hơn ai hết các nhà quản trị doanh nghiệp cần có đầy đủ thông tin và hiểu rõ doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính đã qua, thực hiện cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, sinh lợi, rủi ro và dự đoán tình hình tài chính nhằm đề ra quyết định đúng, thực hiện có hiệu quả mục tiêu doanh nghiệp. 4.2. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước BCTC là cơ sở để các cơ quan quản lý Nhà nước phân tích, đánh giá, kiểm tra và kiểm soát hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có đúng với chính sách, chế độ và luật pháp không; tình hình hạch toán chi phí, giá thành; tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và khách hàng... Đối với chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng Mối quan tâm của nhóm đối tượng sử dụng BCTC này chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp. Ngoài ra, họ cũng rất quan tâm đến số lượng vốn của chủ sở hữu bởi vì đây là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro, nói cách khác đó là cơ sở của việc hoàn trả vốn và lãi vay. BCTC là phương tiện khá đắc lực giúp chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng có được những thông tin đó. Đối với nhà đầu tư chứng khoán Các nhà đầu tư chứng khoán (sau đây gọi tắt là các nhà đầu tư) bao gồm các nhà đầu tư hiện tại hay tương lai của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư hiện tại cần BCTC để quyết định xem có nên tiếp tục đầu tư vào doanh nghiệp hay bán cổ phiếu ra thị trường. Còn các nhà đầu tư chứng khoán tương lai cần thông tin để lựa chọn mua loại cổ phiếu của doanh nghiệp nào. Tuy vậy, mối quan tâm chung của nhóm đối tượng này hướng vào lợi nhuận do doanh nghiệp tạo ra trong tương lai và sự an toàn vốn. Vì vậy, họ cần những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh, rủi ro và các tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Đồng thời, họ cũng quan tâm tới việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả của công tác quản lý nhằm đảm bảo tính hiệu quả và sự an toàn cho các khoản đầu tư. Cụ thể, BCTC sẽ cung cấp cho họ thông tin về các vấn đề sau: Thành tích hoạt động của doanh nghiệp trong quá khứ, kỳ vọng tương lai của doanh nghiệp ra sao? Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp có ổn định về thu nhập và mức tăng trưởng không? Dòng tiền tệ của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như thế nào? Mức độ rủi ro tiềm ẩn trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp? Mức độ thu nhập mong đợi trong điều kiện hoạt động sắp tới của doanh nghiệp? Doanh nghiệp đã cạnh tranh như thế nào trong thị trường ngành hàng của mình? Trong tương lai doanh nghiệp sẽ có vị trí nào và sức cạnh tranh ra sao trong thị trường? Các nhà đầu tư cũng sẽ sử dụng các dữ liệu tài chính trong kỳ đã qua để dự đoán các xu hướng trong tương lai của doanh nghiệp và quyết định xem mục tiêu đề ra của doanh nghiệp có vững chắc và khả thi không? Một điều cần nhấn mạnh ở đây là theo quy định của các nước trên thế giới cũng như của Việt Nam, BCTC của tổ chức niêm yết được kiểm toán bởi một doanh nghiệp kiểm toán được chấp thuận. Cơ quan kiểm toán có vai trò đưa ra ý kiến về chất lượng thông tin của BCTC dựa trên việc phân tích, kiểm tra lại nguồn gốc những thông tin đã được trình bày nhằm đảm bảo lợi ích cho tất cả các bên sử dụng BCTC. Chính vì lí do này, BCTC do các doanh nghiệp niêm yết cung cấp có độ tin cậy khá cao. Hơn nữa, cơ quan kiểm toán hoạt động trên phạm vi vĩ mô toàn ngành, toàn nền kinh tế, cung cấp những thông tin đầu vào có chất lượng tốt, từ đó có tác dụng tích cực trong việc xử lý các thông tin để hình thành quyết định của nhà đầu tư chứng khoán. Phân tích BCTC doanh nghiệp Phân tích BCTC là một trọng tâm của phân tích cơ bản, nhằm vào việc phân tích cụ thể hoạt động kinh doanh của tổ chức niêm yết. Thường thì các công ty chứng khoán bao giờ cũng có một bộ phận riêng biệt theo dõi số liệu thống kê của tổ chức niêm yết. Họ tiến hành phân tích tài chính để đánh giá triển vọng của các tổ chức này trên cơ sở các BCTC mà các tổ chức cung cấp. Từ đó, họ định giá được chính xác giá cổ phiếu của tổ chức niêm yết. Cơ quan quản lý TTCK thu thập số liệu tài chính và phân tích tài chính tổ chức niêm yết để đánh giá thực trạng của tổ chức niêm yết nhằm đưa ra các thông tin cần thiết giúp công chúng hiểu thực chất các cổ phiếu mình đang hoặc sẽ nắm giữ. Dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể khái niệm, phương pháp, nội dung và mối quan hệ giữa phân tích BCTC và đầu tư chứng khoán. 1. Khái niệm "Phân tích BCTC là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu hiện hành với quá khứ nhằm đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai". Trích từ giáo trình "Lập, đọc, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính" của TS. Nguyễn Năng Phúc- Nguyễn Văn Công-Trần Quý Liên, NXB Tài Chính năm 2001. Phân tích BCTC thông qua hệ thống các phương pháp, công cụ và kỹ thuật giúp người sử dụng thông tin từ các góc độ khác nhau vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính của doanh nghiệp để nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra quyết định tài chính, tài trợ và đầu tư phù hợp. Phương pháp phân tích Phương pháp phân tích bao gồm một hệ thống các công cụ, biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp. Về lý thuyết có nhiều phương pháp phân tích BCTC nhưng trên thực tế người ta thường sử dụng phương pháp so sánh và phương pháp phân tích hệ số như sau: Phương pháp so sánh Để áp dụng phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so sánh được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán...). Nội dung so sánh bao gồm: so sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp, từ đó đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp so sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của doanh nghiệp so sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số lượng tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua nhiều niên độ kế toán liên tiếp so sánh số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình ngành và số liệu của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt hay xấu, được hay chưa được. Việc phân tích BCTC đặc biệt có ý nghĩa khi có một số chuẩn mực để có thể so sánh với các hệ số tài chính của một doanh nghiệp. Các nhà đầu tư không chỉ muốn xem khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, tình trạng nợ và các mối quan hệ hoạt động của một doanh nghiệp là cao hay thấp, và các yếu tố này được cải thiện hay xấu đi. Họ còn muốn xác định mức độ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh khác, so với ngành hay với doanh nghiệp hoạt động tốt nhất trong ngành. Phương pháp phân tích hệ số Một hệ số biểu hiện mối quan hệ toán học giữa hai đại lượng. Mặc dù các hệ số chỉ là kết quả của việc tính toán toán học đơn giản nhưng chúng lại mang nhiều ý nghĩa. Khi một hệ số tài chính thay đổi có nghĩa là các đại lượng tài chính có biến động. Hệ thống các hệ số này thể hiện mối tương quan giữa các chỉ tiêu trong từng BCTC và giữa các BCTC (mặc dù báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một bộ phận cấu thành quan trọng của BCTC nhưng do điều kiện hạn chế về lý luận và thực tiễn nên phân tích BCTC chỉ bao gồm phân tích bảng cân đối kế toán và báo cáo hoạt động kinh doanh). Các hệ số này là công cụ khá hữu ích giúp phân tích các BCTC bởi chúng tóm tắt các dữ liệu dưới một hình thức dễ hiểu và dễ diễn dịch. Các hệ số giúp chúng ta đưa ra những câu hỏi đúng để từ đó đi sâu vào phân tích, tìm ra bản chất thực của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chứ không giải đáp tức thời các câu hỏi mà người sử dụng thông tin từ BCTC mong muốn tìm hiểu. Về nguyên tắc, để có thể áp dụng phương pháp phân tích hệ số cần phải đạt được các yêu cầu sau: đảm bảo rằng các số liệu được sử dụng phải hoàn toàn chính xác, thống nhất và đồng bộ thu thập được những thông tin khác bên ngoài BCTC như tình hình hoạt động SXKD của doanh nghiệp, đội ngũ quản lý doanh nghiệp, phương pháp kế toán áp dụng tại doanh nghiệp, thông tin về ngành và nền kinh tế... xác định được các ngưỡng, các định mức để đánh giá nhận xét tình hình tài chính của doanh nghiệp, trên cơ sở đó so sánh các hệ số của doanh nghiệp với giá trị của các hệ số tham chiếu. Các hệ số tài chính không có ý nghĩa nếu đứng riêng mà chỉ có thể được diễn giải trong mối quan hệ với các hệ số khác, với các chuẩn mực đã được xác định trước và với các hệ số của các đối thủ cạnh tranh. Trong phân tích BCTC, các hệ số tài chính được phân thành các nhóm hệ số đặc trưng phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm hệ số về khả năng thanh toán, đòn bẩy tài chính, năng lực hoạt động kinh doanh và khả năng sinh lời. Mỗi nhóm hệ số bao gồm nhiều hệ số phản ánh riêng lẻ từng bộ phận của hoạt động tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau. Xét trên giác độ của nhà đầu tư chứng khoán trên TTCK Việt Nam thì những hệ số được lựa chọn là các hệ số đặc trưng nhất, phổ biến nhất và dễ dàng thu thập được từ các BCTC theo mẫu do Bộ Tài Chính quy định và phù hợp với thực tiễn TTCK Việt Nam là chưa có đầu tư trái phiếu doanh nghiệp. Đồng thời, các hệ số dễ hiểu không chỉ đối với nhà quản lý mà còn đối với công chúng đầu tư do việc tính toán tương đối dễ dàng. Tuy nhiên, do đặc thù từng ngành, từng doanh nghiệp, khi phân tích cần sử dụng các hệ số này một cách linh hoạt. 3. Nội dung phân tích Nội dung phân tích BCTC nói chung và trong đầu tư chứng khoán nói riêng bao gồm 2 nội dung cơ bản: phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp phân tích các hệ số tài chính của doanh nghiệp phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn Phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn là xem xét và đánh giá sự biến động các chỉ tiêu cuối kỳ so với đầu kỳ trên bảng cân đối kế toán về nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của doanh nghiệp. Hầu hết các khoản vốn được lấy từ các nguồn như lợi nhuận, khấu hao, vốn góp và nợ dài hạn. Doanh nghiệp chủ yếu sử dụng các nguồn vốn này vào việc tăng khoản phải thu, tích luỹ chứng khoán khả mại và TSCĐ. Nội dung phân tích này cho biết trong một kỳ kinh doanh nguồn vốn tăng (giảm) bao nhiêu? tình hình sử dụng vốn như thế nào? những chỉ tiêu nào là chủ yếu ảnh hưởng đến sự biến động nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp? Việc phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn có thể giúp các nhà quản lý tài chính xác định xem liệu việc công ty huy động và phân phối các khoản vốn có rơi vào tình trạng mất cân bằng hay không? Doanh nghiệp nên dựa vào các nguồn vốn nội bộ hay huy động các nguồn vốn bên ngoài để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình. Qua đó, các nhà quản lý xác định hiệu quả cơ cấu vốn từ hai nguồn bên trong và bên ngoài, từ đó đưa ra quyết định đúng đắn hơn trong việc huy động vốn với chi phí thấp hơn, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Xét trên phương diện của nhà đầu tư, việc phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì các nhà đầu tư luôn quan tâm đến tính hiệu quả của việc sử dụng vốn và chỉ khi vốn được sử dụng một cách hiệu quả thì thu nhập của nhà đầu tư mới được đảm bảo. Tuy nhiên việc phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn mới chỉ đem đến cho người phân tích đánh giá khái quát về tình hình vốn và nguồn vốn, tình hình thu chi trong doanh nghiệp. Để có cái nhìn sâu sắc hơn các nhà đầu tư cần xem xét các hệ số tài chính doanh nghiệp dưới đây. Phân tích hệ số tài chính Đối với các nhà đầu tư muốn đầu tư lâu dài vào doanh nghiệp, họ luôn quan tâm đến xu hướng cũng như mức độ trong hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Một trong những cách để xác định hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời của doanh nghiệp là phân tích các hệ số tài chính. Việc phân tích này giúp họ thấy được điều kiện tài chính chung của doanh nghiệp. Cụ thể, nó giúp nhà đầu tư xác định được liệu một công ty có đang trong tình trạng rủi ro mất khả năng thanh toán không, công ty này có làm ăn tốt không khi so với công ty khác cùng ngành hoặc đối thủ cạnh tranh. Đồng thời, các nhà đầu tư nhìn vào các hệ số để đánh giá hoạt động và sự tăng trưởng của doanh nghiệp. Các hệ số tài chính tồi có nghĩa là mức chi phí tài trợ cao, trong khi các hệ số tốt sẽ được các nhà đầu tư hưởng ứng vì họ mong muốn cấp vốn cho doanh nghiệp với chi phí rẻ. Mặc dù có một loạt các hệ số quan trọng khác nhau để phân tích BCTC nhưng tựu trung lại có 4 nhóm chủ yếu sau: Hệ số khả năng thanh toán (Liquidity Ratios) Hệ số đòn bẩy tài chính (Financial Leverage Ratios) Hệ số hoạt động (Asset Utilization Ratios hoặc Turnover Ratios) Hệ số khả năng sinh lời (Profitability Ratios) Dưới đây chúng ta sẽ đi vào phân tích từng nhóm hệ số cụ thể, xem xét mỗi nhóm bao gồm các hệ số nào, các hệ số đó phản ánh cái gì và có ý nghĩa như thế nào đối với các nhà đầu tư chứng khoán. Hệ số khả năng thanh toán (Liquidity Ratios) Tính thanh khoản của tài sản phụ thuộc và mức độ dễ dàng chuyển đổi tài sản thành tiền mặt mà không phát sinh thua lỗ lớn. Xác định khả năng thanh toán là vô cùng quan trọng vì nếu doanh nghiệp mất khả năng thanh toán hay khả năng thanh toán thấp đồng nghĩa với việc doanh nghiệp mất uy tín trên thị trường. Có thể xác định khả năng thanh toán thông qua nhóm hệ số khả năng thanh toán - nhóm hệ số phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Hai hệ số thông dụng để xác định khả năng thanh toán của doanh nghiệp bao gồm khả năng thanh toán hiện hành (Current Ratio - CR) và khả năng thanh toán nhanh (Quick Ratio - QR) hay còn gọi là hệ số thử Acid (Acid Test Ratio - ATR). Hệ số khả năng thanh toán hiện hành (CR) Tổng TSLĐ và đầu tư ngắn hạn Tổng nợ ngắn hạn CR = CR cho biết cứ một đồng nợ ngắn hạn sẽ được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng TSLĐ&ĐTNH, hay nói cách khác doanh nghiệp có bao nhiêu TSLĐ&ĐTNH có thể chuyển đổi nhanh chóng thành tiền mặt để đáp ứng việc thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, doanh nghiệp có thể có mức tồn kho lớn hoặc hàng hoá tồn kho là những loại hàng hoá khó bán nên doanh nghiệp khó biến chúng thành tiền để trả nợ. Trong trường hợp đó, chúng ta phải xét tới một hệ số có độ chính xác cao hơn khi loại bỏ đi hàng tồn kho - yếu tố kém tính thanh khoản nhất trong TSLĐ là hệ số khả năng thanh toán nhanh (Quick Ratio - QR) hay hệ số thử Acid (Acid Test Ratio - ATR). Hệ số khả năng thanh toán nhanh (QR) Tổng TSLĐ - hàng tồn kho Tổng TSLĐ - hàng tồn kho Tổng nợ ngắn hạn QR = QR chỉ ra doanh nghiệp có bao nhiêu đồng để sẵn sàng đáp ứng cho một đồng nợ ngắn hạn. QR phản ánh khả năng thanh toán thật sự của doanh nghiệp và được tính toán dựa trên các TSLĐ có thể chuyển đổi nhanh thành tiền mặt nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán trong ngắn hạn (3 ngày đến một tháng). QR thường chính xác hơn CR do đã loại trừ giá trị không chắc chắn của hàng tồn kho - loại TSLĐ thường có tính thanh khoản thấp nhất, nhất là trong tình trạng suy thoái, doanh nghiệp hoặc chủ nợ có thể không thu được nhiều tiền mặt từ bán hàng tồn kho. Thông thường, hệ số này lớn hơn hoặc bằng 1 được coi là hợp lý, doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán, tình hình tài chính lành mạnh. Nói chung, giá trị của hệ số thanh toán quá thấp so trung bình ngành nghĩa là khả năng thanh khoản thấp do doanh nghiệp không thể chuyển TSLĐ&ĐTNH để thanh toán công nợ phải trả, thay vào đó doanh nghiệp phải trông đợi vào thu nhập từ các hoạt động trong kỳ tới hay tài trợ từ bên ngoài. Điều này cũng chứng tỏ khả năng trả nợ của doanh nghiệp yếu và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn tài chính tiềm tàng. Ngược lại, nếu hệ số này quá lớn có thể coi doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào TSLĐ, nhưng sử dụng không hiệu quả TSLĐ do có quá nhiều tiền mặt nhàn rỗi hay có quá nhiều nợ phải đòi, do vậy có thể làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư chứng khoán đặc biệt quan tâm đến hai hệ số này bởi vì đây là cơ sở để đánh giá rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán. Tiền mặt và những tài sản gần tiền mặt là những nguồn cần thiết giúp doanh nghiệp đối phó với các loại rủi ro khác nhau. Nếu những TSLĐ có thể chuyển đổi nhanh chóng thành tiền thì có thể tạo cho doanh nghiệp một sự linh hoạt tài chính. Ngược lại, doanh nghiệp có khả năng vỡ nợ và nhà đầu tư có thể bị mất toàn bộ vốn. Hệ số đòn bẩy tài chính (Financial Leverage Ratios) Một doanh nghiệp có thể vay tiền cho các mục đích ngắn hạn (chủ yếu để bổ sung cho vốn lưu động) hoặc cho các mục đích dài hạn (chủ yếu để đầu tư vào nhà xưởng và thiết bị). Động cơ đầu tiên của doanh nghiệp trong việc sử dụng nợ để tài trợ cho hoạt động của mình là khả năng doanh nghiệp có thể giảm được chi phí. Nếu như thời hạn trả nợ càng dài và điều kiện thanh toán càng ít khắt khe thì doanh nghiệp càng có điều kiện tận dụng nguồn vốn tài trợ từ bên ngoài. Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn phải trả nợ gốc và lãi vào thời điểm nhất định bất kể tình hình tài chính của doanh nghiệp lúc đó như thế nào. Khi tỉ lệ nợ trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp càng lớn thì doanh nghiệp phải cam kết thanh toán các khoản cố định càng lớn và điều này làm tăng rủi ro doanh nghiệp không trả được nợ gốc và lãi khi đến hạn (ví dụ như do khả năng quản lý yếu kém, sự biến động của giá cả và sự nhanh chóng lạc hậu về công nghệ...). Hơn nữa, nợ quá nhiều sẽ làm hạn chế sự linh hoạt của doanh ng._.hiệp để theo đuổi các cơ hội có được lợi nhuận cao hơn. Như vậy, việc doanh nghiệp vay nợ làm gia tăng khả năng tạo ra lợi nhuận, đồng thời cũng làm gia tăng rủi ro cho doanh nghiệp. Chính vì lí do này mà các hệ số đòn bẩy tài chính - các hệ số xem xét khả năng lâu dài của doanh nghiệp để thoả mãn các món nợ có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với bản thân doanh nghiệp mà còn đối với chủ nợ và công chúng đầu tư. Nhóm hệ số đòn bẩy tài chính đôi khi còn được gọi là hệ số đòn cân nợ, bao gồm 2 hệ số phổ biến nhất là hệ số nợ trên tổng tài sản (Debt to Assets - D/A) và hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu (Debt to Equity - D/E). Hệ số nợ trên tổng tài sản ( D/A) Tổng nợ Tổng tài sản D/A = D/A phản ánh trong một đồng vốn hiện doanh nghiệp đang sử dụng có bao nhiêu phần là vốn vay hay phần trăm tổng tài sản được tài trợ bằng nợ. Hệ số này càng thấp thì hiệu ứng đòn bẩy tài chính càng ít và ngược lại. Tuy nhiên cần có sự tính toán giữa thu nhập và chi phí của việc tài trợ tài sản bằng nợ. Thông thường trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế D/A được coi là lý tưởng thường ở mức (tổng nợ : tổng tài sản) = (4:1) Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu ( D/E) Tổng nợ Vốn chủ sở hữu D/E = Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu phản ánh mối tương quan giữa tổng nợ và vốn cổ phần. Khi phân tích, đánh giá về tình hình tài chính doanh nghiệp, các nhà cho vay và các nhà đầu tư thường rất quan tâm đến chỉ tiêu D/A và D/E. Đối với các nhà cho vay, 2 hệ số trên càng thấp càng tốt vì 2 hệ số này báo hiệu tình trạng nợ của doanh nghiệp là thấp so với vốn cổ đông và tổng tài sản của doanh nghiệp, do đó mức độ rủi ro mất khả năng thanh toán thấp hơn. Trên quan điểm của các cổ đông, nếu 2 hệ số này thấp thì rủi ro đối với cổ đông cũng thấp. Tuy nhiên tình trạng nợ của doanh nghiệp được coi như là một đòn bẩy tài chính rất quan trọng: nguồn vốn vay nợ của doanh nghiệp càng cao so với vốn cổ đông thì thu nhập của cổ đông sẽ tăng lên khi lợi nhuận từ vốn vay cao hơn chi phí vay. Chính vì vậy, nhiều nhà đầu tư mạo hiểm thích hệ số đòn cân nợ cao mặc dù khi doanh nghiệp gặp khó khăn, lợi nhuận doanh nghiệp không đủ bù đắp vào chi phí lãi vay thì tình trạng nợ cao đồng nghĩa khả năng phá sản cao. Hệ số hoạt động (Turnover ratios hay Assets Utilization) Các hệ số hoạt động dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp bằng cách so sánh doanh thu với việc bỏ vốn vào kinh doanh dưới các loại tài sản khác nhau. Các hệ số này còn được gọi là hiệu suất sử dụng tài sản. Nhóm hệ số này bao gồm: hiệu suất sử dụng tổng tài sản (Total Assets Utilization - TAU), hiệu suất sử dụng vốn cố định (Fixed Assets Utilization - FAU), hiệu suất sử dụng vốn lưu động (Current Assets Utilization - CAU, vòng quay hàng tồn kho (Inventory Turnover - IT), vòng quay các khoản phải thu (Receivables Turnover - RT), vòng quay các khoản phải trả (Payables Turnover - PT). Hiệu suất sử dụng tổng tài sản ( TAU) Thông thường người ta quan niệm rằng một công ty càng có nhiều tài sản thì càng tốt nhưng thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Tài sản đơn thuần chỉ là công cụ cần thiết để tạo ra lợi nhuận. Thực chất, một doanh nghiệp lý tưởng là doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận mà không cần sử dụng bất cứ tài sản nào. Lượng tài sản doanh nghiệp cần để tạo ra lượng doanh thu càng bé thì vòng quay tài sản càng lớn, hay doanh nghiệp sử dụng tài sản càng hiệu quả. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản phản ánh một đồng đầu tư vào tài sản tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần và được tính bằng công thức sau: Doanh thu thuần Tổng tài sản TAU = Hiệu suất sử dụng tổng tài sản đo lường khả năng kiểm soát đầu tư tài sản trên một mức doanh thu nhất định. Đặc thù ngành nghề và chiến lược cạnh tranh là những nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới hệ số này, tuy nhiên khả năng kiểm soát đầu tư tài sản cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Khi các doanh nghiệp trong cùng ngành có sử dụng công nghệ như nhau thì khả năng kiểm soát tài sản chính là nhân tố đem lại sự thành công hay thất bại cho doanh nghiệp. Việc kiểm soát đầu tư tài sản rất quan trọng cho nên cần phân tích mỗi dạng tài sản riêng biệt để xem xét. Dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứ hiệu suất sử dụng hai dạng tài sản là hiệu suất sử dụng vốn cố định và hiệu suất sử dụng vốn lưu động. Do TSLĐ là loại tài sản rất đặc biệt nên cần nghiên cứu cụ thể hơn với 3 hệ số tài chính khác là vòng quay hàng tồn kho, vòng quay các khoản phải thu và vòng quay các khoản phải trả. Hiệu suất sử dụng vốn cố định ( FAU) Doanh thu thuần Vốn cố định bình quân FAU = Hệ số này phản ánh việc đầu tư bình quân một đồng vào vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. FAU cao phản ánh tình hình hoạt động tốt của doanh nghiệp đã tạo ra mức doanh thu thuần cao hơn vốn cố định. Ngược lại, nếu hệ số này thấp hơn so bình quân ngành thì doanh nghiệp cần phân loại các TSCĐ để đánh giá hiệu quả sử dụng của từng loại tài sản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng. Chính vì ý nghĩa này mà một số nhà đầu tư cho rằng hệ số FAU rất hữu ích trong việc so sánh tính chất hoạt động SXKD của các doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên, cần lưu ý trong diễn giải hệ số hiệu quả sử dụng vốn cố định. Các doanh nghiệp thường đầu tư vào vốn cố định nhiều kỳ trước khi tài sản tạo ra doanh thu từ sản phẩm được sản xuất ra. Hệ số thấp hoặc giảm có thể cho thấy doanh nghiệp đang mở rộng sản xuất, mặt khác hệ số cao có thể do doanh nghiệp dự đoán suy giảm doanh thu nên đã cắt giảm chi phí vốn cho sản phẩm. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động ( CAU) Giá vốn hàng bán Vốn lưu động bình quân CAU = Hiệu suất sử dụng vốn lưu động phản ánh trong kỳ vốn lưu động quay được mấy vòng, hay đầu tư một đồng vào vốn lưu động bình quân trong kỳ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Cũng giống như hệ số FAU, hệ số CAU cũng đo lường khả năng kiểm soát đầu tư vốn lưu động. Khả năng kiểm soát vốn lưu động có ý nghĩa đặc biệt. Ví dụ như, không giống TSCĐ, TSLĐ có thể trở thành tiền mặt khi doanh nghiệp suy thoái. Một doanh nghiệp làm ăn tốt thì TSLĐ có tính linh hoạt rất cao và đây chính là điểm thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư hơn. Họ cho rằng doanh nghiệp có khả năng "tự tài trợ" (self-liquidating), tức là trong giai đoạn hưng thịnh của chu kỳ SXKD, việc tăng TSLĐ cũng đồng nghĩa với việc gia tăng các khoản nợ, còn trong giai đoạn suy thoái việc giảm đầu tư vào TSLĐ sẽ cung cấp lượng tiền mặt lớn để thanh toán các khoản nợ. Vòng quay hàng tồn kho ( IT) Do TSLĐ đặc biệt là hàng tồn kho và các khoản phải thu có ý nghĩa rất lớn trong kiểm soát đầu tư vào tổng tài sản, do đó khi xem xét các hệ số hoạt động người ta còn xem xét cụ thể các hệ số vòng quay hàng tồn kho (Inventory Turnover - IT) và vòng quay các khoản phải thu (Receivables Turnover - RT). Vòng quay hàng tồn kho là số lần hàng hoá tồn kho bình quân luân chuyển trong kỳ và được tính bằng công thức sau: Giá vốn hàng bán Hàng tồn kho bình quân IT = Số vòng quay càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt (vì doanh nghiệp chỉ đầu tư cho hàng tồn kho thấp nhưng vẫn đạt được doanh số cao). Nhưng nếu hệ số này rất cao lại cho thấy việc lập kế hoạch hay quản lý hàng tồn kho tồi do có quá ít hàng tồn kho thì không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, đặc biệt đối với những mặt hàng thời vụ. Nếu hệ số này quá thấp so trung bình ngành thì cần phải xem xét tại sao hàng tồn kho lại luân chuyển quá chậm dẫn đến giá trị hàng tồn kho quá cao so với giá vốn hàng bán. Vòng quay các khoản phải thu (RT) Doanh thu thuần Số dư bình quân các khoản phải thu RT = Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt của doanh nghiệp, hay nói cách khác hệ số này cho biết hiệu quả của việc đi thu hồi nợ của doanh nghiệp. Nếu vòng quay càng thấp có thể cho rằng thời hạn tín dụng lớn, khách hàng không có khả năng thanh toán hay khả năng thu hồi nợ kém. Vòng quay càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu nhanh, doanh nghiệp ít bị chiếm dụng vốn. Điều này nói chung là tốt do doanh nghiệp không phải đầu tư nhiều vào các khoản phải thu. Tuy nhiên, nếu số vòng quay quá cao tức là doanh nghiệp không muốn hay không có khả năng mở rộng thời hạn tín dụng hoặc là doanh nghiệp áp dụng phương thức tín dụng quá chặt chẽ. Phương thức tín dụng như vậy sẽ có ảnh hưởng không tốt tới khối lượng tiêu thụ của doanh nghiệp. Tuy nhiên cần xem xét mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp để đưa ra kết luận. Vòng quay các khoản phải trả (PT) Doanh thu thuần Số dư bình quân các khoản phải trả PT = Vòng quay các khoản phải trả phản ánh trong kỳ kinh doanh các khoản phải trả quay được mấy vòng. Hệ số này cho biết mức hợp lý của số dư các khoản phải trả và hiệu quả của việc thanh toán nợ. Nếu số vòng luân chuyển các khoản phải trả lớn, doanh nghiệp thanh toán hàng kịp thời, ít đi chiếm dụng vốn và có thể được hưởng chiết khấu thanh toán. Nhưng nếu số vòng quay quá lớn thì điều này lại ảnh hưởng đến kết quả hoạt động SXKD trong kỳ của doanh nghiệp do phải huy động mọi nguồn vốn để trả nợ, kể cả đi vay hoặc bán rẻ hàng hoá, dịch vụ. hệ số khả năng sinh lời (Profitability Ratios) Ngoài việc xem xét hiệu quả kinh doanh của vốn dưới góc độ sử dụng tổng tài sản, vốn cố định và vốn lưu động, các đối tượng sử dụng BCTC cũng cần xem xét hiệu quả sử dụng vốn dưới góc độ sinh lợi. Đây cũng là một trong những nội dung phân tích được các nhà đầu tư, các nhà cho vay tín dụng và các cổ đông đặc biệt quan tâm vì nó gắn liền lợi ích của họ cả về hiện tại và tương lai. Thông qua việc sử dụng các hệ số tài chính này, họ có thể đánh giá kết quả hoạt động SXKD trong một kỳ nhất định để từ đó ra quyết định. Dưới đây là các hệ số được biết đến và được sử dụng nhiều nhất để đánh giá khả năng sinh lợi của vốn: hệ số lợi nhuận gộp (Gross Profit - GR), lợi nhuận ròng (Profit Margin - PM), thu nhập trên vốn chủ sở hữu (Return on Equity - ROE), thu nhập trên tài sản (Return on Assets - ROA), thu nhập trên mỗi cổ phiếu thường (Earning Per Share - EPS) và chỉ số giá trên thu nhập của cổ phiếu (Price to Earning - P/E). hệ số lợi nhuận gộp (GR) Lợi nhuận gộp Doanh thu thuần GR = Hệ số lợi nhuận gộp cho biết một đồng doanh thu thuần có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận gộp. Hệ số này xác định đòn bẩy hoạt động mà doanh nghiệp đạt được trong hoạt động kinh doanh, cho biết doanh nghiệp đã thành công như thế nào trong việc tạo lợi nhuận từ hoạt động của doanh nghiệp. Nhà đầu tư quan tâm đến hệ số này vì nó phản ánh tổng quát kết quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp, trên cơ sở đó xem xét hiệu quả quản trị chi phí. hệ số lợi nhuận ròng (PM) Đây là hệ số lợi nhuận từ mọi giai đoạn kinh doanh. Hệ số này khác với hệ số lợi nhuận gộp là tử số bao gồm cả thu nhập thuần từ hoạt động tài chính và thu nhập từ hoạt động bất thường trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính vì thế hệ số lợi nhuận ròng đo lường kết quả kinh doanh thực tế của doanh nghiệp, cụ thể là: Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần PM = PM cho biết cứ một đồng doanh thu thuần thì có bao nhiêu đồng lãi thuần thu được. Thông thường, một doanh nghiệp quản lý tốt sẽ có khả năng kiểm soát tốt chi phí liên quan doanh thu và chi phí thấp dẫn đến tăng lợi nhuận từ một mức doanh thu nào đó, từ đó làm tăng hệ số lợi nhuận ròng. Nhà đầu tư có xu hướng lựa chọn các doanh nghiệp có mức lợi nhuận ròng lớn hơn trung bình ngành và có thể liên tục tăng hoặc một doanh nghiệp có khả năng giảm chi phí một cách hiệu quả ở bất kỳ doanh số nào. hệ số thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE) Lợi nhuận sau thuế Nguồn vốn chủ sở hữu ROE = ROE cho biết cứ một đồng vốn chủ sở hữu thì tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận, từ đó cho biết khả năng thu nhập mà nhà đầu tư có thể nhận được nếu họ đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Như vậy, ROE là thước đo hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu, xem xét doanh nghiệp có cân đối một cách hài hoà giữa đồng vốn cổ đông với đồng vốn vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình không. Có thể phân tích hệ số này cụ thể hơn như sau: X Tổng tài sản Doanh thu thuần X Lợi nhuận sau thuế Nguồn vốn CSH Tổng tài sản Doanh thu thuần ROE = ] Tổng nợ Nguồn VCSH = Hệ số lợi nhuận ròng x Hiệu suất sử dụng tổng tài sản x [1+ = PM x TAU x (1 + D/E) Như vậy có 3 yếu tố ảnh hưởng đến ROE là hệ số lợi nhuận ròng (PM); hiệu suất sử dụng tổng tài sản (TAU) và hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu (D/E). PM khái quát được báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh còn TAU và D/E tương ứng khái quát hai phần của bảng cân đối kế toán. Vì vậy mặc dù khá đơn giản nhưng hệ số này đã bao quát được những nhân tố chính trong hoạt động tài chính của một doanh nghiệp. Hệ số thu nhập trên tài sản ( ROA) Để đơn giản hoá hệ số này chúng ta sử dụng công thức sau: Lợi nhuận sau thuế Tổng tài sản ROA = = hệ số lợi nhuận ròng x hiệu suất sử dụng tài sản = PM x TAU Đây là công cụ cơ bản đo lường hiệu quả của doanh nghiệp trong việc phân bổ và quản trị các nguồn lực. ROA cho biết bình quân một đồng vốn (cả vốn cổ đông lẫn vốn nợ) tham gia vào quá trình kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Mẫu số của hệ số này là số tiền đầu tư của các cổ đông và chủ nợ so với mẫu số của hệ số ROE chỉ đơn thuần là số tiền đầu tư của vốn chủ sở hữu. Hệ số này càng lớn càng thể hiện xu hướng tích cực. ROA có thể được phân tích thành tích của hai hệ số PM và TAU. Doanh nghiệp có ROA cao phụ thuộc vào hiệu quả của việc kết hợp giữa hệ số PM và TAU do doanh nghiệp có PM cao sẽ có xu hướng có TAU thấp và ngược lại. Trong trường hợp lý tưởng doanh nghiệp có thể đạt được PM và TAU cao (do tốc độ tăng chi phí nhỏ hơn tốc độ tăng doanh thu) nhưng sẽ phải đương đầu với sự cạnh tranh rất khốc liệt. Do có sự cạnh tranh đó mà thông thường các doanh nghiệp phải có sự lựa chọn giữa TAU và PM. Hệ số thu nhập trên mỗi cổ phiếu thường (EPS) Lợi nhuận sau thuế - cổ tức ưu đãi Số lượng cổ phiếu thường EPS = EPS cho biết mỗi cổ phiếu thường trong quá trình kinh doanh được hưởng bao nhiêu đồng thu nhập. EPS đánh giá hoàn toàn nội tại của doanh nghiệp về khả năng tạo ra lợi nhuận ròng (lợi nhuận có thể dùng chi trả cho cổ đông) trên một cổ phần mà cổ đông đóng góp chứ không đánh giá từ việc lên hay xuống giá cổ phiếu trên thị trường. Chính vì vậy, EPS cao thu hút sự đầu tư lớn do tạo thu nhập cho cổ đông càng lớn. Các nhà đầu tư thường so sánh hệ số này với lãi suất tiền gửi ngân hàng. Trong trường hợp EPS cao hơn, nhà đầu tư có xu hướng lựa chọn đầu tư cổ phiếu và ngược lại. Nếu EPS bằng lãi suất tiền gửi ngân hàng thì nhà đầu tư có thể xem xét các yếu tố như trong thời gian tới lợi nhuận của doanh nghiệp có thể tăng mạnh do nhiều lý do như mở rộng thị trường, tung sản phẩm mới ra thị trường, nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý... hay cổ phiếu của doanh nghiệp có được ưa chuộng trên TTCK do có ngành nghề kinh doanh hợp thời không. Việc xem xét các yếu tố này giúp nhà đầu tư đi đến quyết định mua cổ phiếu của doanh nghiệp thay vì gửi tiền vào ngân hàng do nhà đầu tư kỳ vọng sẽ có khoản thu nhập tương lai lớn hơn so với lãi thu được từ tiền gửi vào ngân hàng. ở Việt Nam, EPS dao động trong khoảng 15% đến 35% là tương đối phổ biến, phản ánh tính ổn định trong hoạt động kinh doanh và giá vốn chấp nhận được của thị trường vốn. Hệ số giá trên thu nhập (P/E) Thị giá cổ phiếu thường EPS P/E = Theo định nghĩa chính xác của P/E thì phải lấy giá cổ phiếu năm nay chia cho thu nhập năm trước. Hệ số P/E được tính cho từng cổ phiếu một và tính trung bình cho tất cả các cổ phiếu. Đây là hệ số được sử dụng rất phổ biến do hệ số này có thể dễ dàng tính toán được và tương đối dễ hiểu. P/E phản ánh thị giá gấp bao nhiêu lần thu nhập trên mỗi cổ phiếu, hay nói cách khác là thị trường sẵn sàng trả bao nhiêu cho mỗi đồng thu nhập từ việc đầu tư vào cổ phiếu. Như vậy ở một mức độ nhất định hệ số P/E phản ánh tiềm năng phát triển của doanh nghiệp và sự đánh giá của thị trường đối với thu nhập của nó. Đây cũng là tiêu chuẩn đánh giá giá trị cổ phiếu để nhà đầu tư xem xét mình mua chứng khoán rẻ hay đắt. Giả sử ngày 10/11/2002 giá giao dịch của cổ phiếu thường của công ty XYZ trên TTCK là 23.000 đồng/cổ phiếu. Thu nhập trên mỗi cổ phiếu này là 2.250 VNĐ/cổ phiếu. Hệ số P/E của cổ phiếu XYZ là 23.000/2250 = 10,222 tức là giá cổ phiếu XYZ hiện tại cao gấp 10,222 lần thu nhập từ cổ phiếu đó, hay nhà đầu tư sẵn sàng trả 10,222 đồng cho một đồng thu nhập từ cổ phiếu thường. Vậy nhà đầu tư mua chứng khoán rẻ hay đắt có nghĩa là như thế nào? Nếu giả định tốc độ tăng đều đặn hàng năm của cổ tức dự đoán là g thì giá cổ phiếu hiện tại P0 sẽ là: DIV1 r - g P0 = Trong đó: DIV1: là cổ tức dự đoán trả năm sau r: là tỷ suất vốn hoá thị trường tức là tỷ suất lợi nhuận nhà đầu tư yêu cầu phải thu được nếu đầu tư vào những khoản mục tương tự g: là tốc độ tăng dự kiến của cổ tức Chia công thức trên cho thu nhập dự kiến trên một cổ tức vào năm sau (EPS1) chúng ta sẽ có: 1 Po DIV1 r - g x EPS1 EPS1 = Như vậy, khi P/E cao có thể do một hay các nguyên nhân sau: Nhà đầu tư dự kiến rằng cổ phiếu sẽ có tốc độ tăng trưởng cổ tức cao (r) Cổ phiếu có rủi ro thấp do đó nhà đầu tư bằng lòng với tỷ suất vốn hoá thị trường thấp (g) Nhà đầu tư dự đoán doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng trung bình và sẽ trả tỷ lệ cổ tức cao (DIV1/EPS1) Giá cả cổ phiếu tại các TTCK phát triển thường cao, phản ánh trình độ và thu nhập cao của nền công nghiệp hiện đại, nên hệ số P/E thường lớn hơn 20. Trong thời kỳ giá bất động sản tăng mạnh và TTCK cũng đang trong thời kỳ tăng trưởng thì P/E có thể đạt tới 45-50. Hệ số này thường có giá trị tương đối ổn định đối với từng ngành kinh tế và đặc trưng cho điều kiện hoạt động của ngành kinh tế đó. Hiện tại P/E ở thị trường Việt Nam dao động từ 8 đến 15 lần. Đối với lĩnh vực Ngân hàng hay các công ty có uy tín thì P/E thường ở khoảng 10-15 lần, còn trong các lĩnh vực khác thì P/E thường nhỏ hơn 10 lần. Tóm lại, 4 nhóm hệ số tài chính kể trên là cơ sở quan trọng nhất cho việc đánh giá doanh nghiệp. Tuy nhiên, các hệ số tài chính cần được sử dụng linh hoạt tuỳ đặc thù mỗi doanh nghiệp. 4. Mối quan hệ giữa phân tích BCTC doanh nghiệp và đầu tư chứng khoán Để hình thành quyết định đầu tư, nhà đầu tư chứng khoán cần có thông tin ở 3 mức khác nhau: thông tin về nền kinh tế, thông tin về ngành hoạt động và nội tại doanh nghiệp. BCTC là thông tin quan trọng nhất về nội tại doanh nghiệp. Đây là công cụ chủ yếu để trao đổi thông tin giữa công ty và nhà đầu tư cũng như người có quyền lợi liên quan đến công ty. Tại các nước OECD, BCTC đã kiểm toán vẫn là nguồn thông tin được sử dụng rộng rãi và quan trọng nhất. Theo thông lệ hiện nay thì BCTC phải đáp ứng được hai nguyên tắc chính là đảm bảo rằng hoạt động giám sát đã được tiến hành một cách hợp lí và cung cấp thông tin để đánh giá chứng khoán. Phân tích BCTC doanh nghiệp là công cụ phân tích cơ bản giúp nhà đầu tư đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp (khả năng thanh toán, tình trạng nợ, hoạt động và khả năng sinh lời), khả năng phát triển, những rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải....là những yếu tố tài chính ảnh hưởng tới giá trị thực của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng tới giá cả chứng khoán của doanh nghiệp đó. Mặc dù việc phân tích được tiến hành dựa trên số liệu quá khứ trên các BCTC nhưng do hoạt động SXKD của doanh nghiệp là một quá trình liên tục nên việc phân tích BCTC một cách thường xuyên sẽ cho các nhà đầu tư biết được xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Trong binh pháp Tôn Tử có nói "dĩ bất biến ứng vạn biến". Kinh tế thị trường nói chung và lĩnh vực chứng khoán nói riêng chịu chi phối rất nhiều yếu tố ngoại cảnh, tạm gọi đây là cái "vạn biến". Mục tiêu của nhà đầu tư phải là yếu tố "bất biến" tức là tiềm năng của công ty niêm yết, lợi nhuận kỳ vọng và mức rủi ro chấp nhận được. Hay nói cách khác, cái gốc của khoản đầu tư phải là các công ty niêm yết. Để có cái "bất biến" đó rõ ràng nhà đầu tư phải thông qua các kỹ năng phân tích đầu tư chứng khoán và cụ thể là phân tích các BCTC đã được kiểm toán của các công ty niêm yết. Trên cơ sở thông tin nhận được, nhà đầu tư chứng khoán sẽ đưa ra kết luận về những vấn đề sau: đối chiếu với những đánh giá của ban lãnh đạo doanh nghiệp niêm yết, đặt ra những câu hỏi với doanh nghiệp khi phát hiện có những dấu hiệu không bình thường ... doanh nghiệp có triển vọng phát triển không, từ đó quyết định có đầu tư hay tiếp tục đầu tư vào doanh nghiệp xác định được tính ưu việt của doanh nghiệp này so với doanh nghiệp khác, từ đó xem xét mua hay bán loại chứng khoán nào. Hiện nay trên thế giới, để đáp ứng yêu cầu thông tin sâu rộng hơn của công chúng đầu tư về nhiều mặt hoạt động của tổ chức niêm yết, yêu cầu mới về các BCTC bao gồm báo cáo về những thay đổi quan trọng trong vị thế tài chính, cảnh báo về lợi nhuận, công bố những dự tính, lợi ích của việc sáp nhập và xung đột về lợi ích cũng như các báo cáo về đạo đức nghề nghiệp... Chính vì thế phân tích BCTC càng có vai trò quan trọng hơn, trở thành kỹ năng không thể thiếu của các nhà đầu tư chứng khoán. Hơn nữa, việc phân tích BCTC phải là hoạt động thường xuyên liên tục vì TTCK là thị trường khá nhạy cảm đối với các luồng thông tin. Phân tích BCTC chỉ là một trong những kỹ năng của các nhà đầu tư. Tuy nhiên đây là một công cụ rất quan trọng giúp nhà đầu tư đạt được hai mục tiêu lớn nhất trong đầu tư chứng khoán là tìm kiếm cổ phiếu có khả năng mang lại lợi nhuận và an toàn vốn cao nhất. 5. Hạn chế của việc phân tích BCTC trong việc ra quyết định đầu tư chứng khoán Mặc dù phân tích BCTC có ý nghĩa rất quan trọng trong việc ra quyết định kinh tế nói chung và đầu tư chứng khoán nói riêng nhưng phương pháp này cũng có một số hạn chế sau: Phân tích BCTC chỉ cung cấp một phần thông tin cần thiết để đánh giá tình hình hoạt động và hiệu quả chung của doanh nghiệp, chứ không cho biết bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính của doanh nghiệp như yếu tố về rủi ro, những tiềm năng chưa được khai thác...Trong khi những thông tin này lại rất có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư chứng khoán vì họ đầu tư nhằm thu được lợi ích lớn hơn trong tương lai. Phân tích BCTC dựa hoàn toàn vào những con số được hạch toán từ báo cáo hoạt động kinh doanh và bảng cân đối kế toán, trong khi thực tế các khoản mục của các báo cáo này có thể chịu ảnh hưởng rất lớn của cách tính mang nặng hình thức. Cách tính này có thể che đậy được giá trị thật của hệ số tài chính (Hệ số khả năng thanh toán hiện thời và khả năng thanh toán nhanh có thể phản ánh không chính xác do vào thời điểm báo cáo các doanh nghiệp có thể tạo thay đổi đáng kể để tăng giá trị hệ số. Ví dụ, đến gần cuối năm tài chính, một doanh nghiệp có thể chặt chẽ hơn trong việc thu hồi các khoản phải thu, giảm hàng tồn kho xuống dưới mức thông thường.... Những điều này sẽ làm tăng hệ số thanh toán và các nhà phân tích gọi cách xoay xở này là "nghệ thuật trang trí cửa sổ" (window dressing)). Hơn nữa, các hệ số có thể không chính xác do sự khác biệt giữa sổ sách kế toán và giá trị thị trường của các loại tài sản và trái quyền trên các tài sản. Điều này có thể dẫn tới kết quả phân tích không chính xác, làm ảnh hưởng tới việc lượng hoá giá trị cổ phiếu. Khi so sánh các hệ số giữa các kỳ cho cùng một công ty phải chú ý tới các điều kiện đã thay đổi giứa các kỳ so sánh (ví dụ sự khác biệt về điều kiện kinh tế, giá cả, nguyên tắc kế toán, hay quyết định chia tách hoặc sáp nhập công ty....) Khi so sánh các hệ số của một công ty với một công ty tương tự còn phải chú ý đến sự khác biệt giữa các công ty (ví dụ việc sử dụng các phương pháp kế toán khác nhau, sự khác nhau trong cách thức hoạt động và huy động vốn...) Tóm lại, phân tích BCTC có những hạn chế nhất định nên khi trước khi quyết định các nhà đầu tư cần phải tham khảo các thông tin ngoài BCTC (ví dụ như đội ngũ quản trị công ty, kế hoạch sử dụng vốn, kế hoạch giới thiệu sản phẩm mới của các đối thủ cạnh tranh...) để hiểu rõ về khả năng sinh lời và rủi ro của công ty trong tương lai. Ngoài ra nhà đầu tư cũng cần quyết định xem giá trị hiện tại của công ty có hấp dẫn không, khả năng chấp nhận rủi ro, thời điểm đầu tư,... * * * Phân tích đầu tư chứng khoán là một công việc rất khó khăn và phức tạp. Theo đánh giá của bản thân tôi, trong bối cảnh TTCK Việt Nam hiện nay, các nhà đầu tư chưa thể có đủ trình độ để sử dụng phương pháp phân tích kỹ thuật để đánh giá sự biến động trên thị trường. Chính vì vậy, mặc dù có những hạn chế nhất định, phân tích BCTC là một kỹ năng khả dĩ nhất khi quyết định đầu tư trên TTCK Việt Nam. Chúng ta sẽ xem xét cụ thể điều đó trong chương II dưới đây. Chương II: áp dụng phân tích BCTC doanh nghiệp để ra quyết định đầu tư trên ttck Việt Nam Giới thiệu chung về TTCK việt Nam Tính đến nay, TTCK Việt Nam đã hoạt động được hơn 2 năm. Đây là một khoảng thời gian không dài đối với lịch sử của một TTCK nhưng 2 năm cũng đã đủ để định hình một thị trường với những biến động, phân khúc, những thăng trầm qua từng giai đoạn phát triển. Cho đến cuối tháng 7 năm 2002, UBCKNN đã cấp phép phát hành cho 19 Công ty cổ phần với tổng giá trị vốn điều lệ là 1.016 tỷ đồng. Qua 2 năm hoạt động đã cho thấy các công ty niêm yết đều là những doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Hiện nay hoạt động kinh doanh của các công ty này đều có chiều hướng tốt, thể hiện qua doanh thu và lợi nhuận không ngừng tăng lên, đời sống cán bộ công nhân viên được cải thiện đáng kể, hình ảnh và uy tín của công ty ngày càng nâng cao trên thị trường. Hai năm trước đây khi chưa có TTCK, việc chào bán cổ phiếu của các doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá hoặc thành lập mới rất khó khăn. Thời gian chào bán phải mất hàng năm, nhưng cổ phiếu nhiều khi vẫn bị tồn đọng. Khi xuất hiện TTCK thì tình hình ngược lại, cổ phiếu của các doanh nghiệp đang được công chúng đầu tư săn lùng trên cả thị trường chính thức (TTGDCK) và thị trường tự do (OTC - mặc dù thị trường này ở Việt Nam chưa được công nhận và quản lý). Rõ ràng, TTCK đã tạo ra môi trường thuận lợi giúp các doanh nghiệp thu hút vốn nhằm mở rộng SXKD. Số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường ngày càng gia tăng. Chỉ với 1.800 tài khoản giao dịch ban đầu đến nay đã có hơn 13.000 tài khoản cá nhân người Việt Nam (chiếm 98,92%); 97 tài khoản của tổ chức Việt Nam (chiếm 0,81%); 33 tài khoản của các nhà đầu tư là các tổ chức, cá nhân nước ngoài (chiếm 0,28%). Trình độ và kiến thức của công chúng đầu tư ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, vì mới ở giai đoạn đầu nên TTCK Việt Nam đang phải trải qua những giai đoạn thăng trầm. Các công ty niêm yết sản xuất những mặt hàng thông thường, quy mô nhỏ, giá trị giao dịch chiếm tỷ lệ rất thấp trong GDP nên khi giá cả cổ phiếu của các công ty này lên hay xuống thì nền kinh tế cũng không bị ảnh hưởng. Chính vì lí do này mà TTCK Việt Nam được ít người quan tâm. Thực tế, TTCK Việt Nam còn quá nhỏ bé, với tổng giá trị thị trường chỉ chiếm 0,37% GDP, chưa có một vị thế xứng đáng trong hệ thống tài chính với vai trò là kênh huy động vốn trực tiếp cho nền kinh tế. Thời gian gần đây sức mua TTCK xuống thấp, mỗi phiên giao dịch đạt doanh số khoảng 1,2 tỷ đồng. Con số này chỉ bằng doanh số bán lẻ của vài ba siêu thị ở thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều người cho rằng, thời kỳ đầu do mới lạ, cung ít cầu nhiều nên các nhà đầu tư phải xếp hàng tranh mua, làm cho giá cổ phiếu tăng mạnh. Đến ngày 25/6/2001, chỉ số VN Index đạt mức cao nhất 571,04 điểm. Cổ phiếu tăng nhanh tạo sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư nhưng lại ẩn chứa phát triển ảo và dễ dàng tụt xuống nhanh. Trong phiên giao dịch 1/11/2002, chỉ số VN Index đã giảm xuống chỉ còn 177,35 điểm, giảm gần 70% so với lúc cao nhất. Giá cổ phiếu lên nhanh, rồi xuống dốc chưa có điểm dừng, làm cho nhiều nhà đầu tư nản lòng vì thua lỗ nặng. Cơ hội lớn nhưng thách thức đặt ra cho TTCK Việt Nam cũng không phải là nhỏ. Quy mô của thị trường nhỏ, tính ổn định kém, luật lệ chưa đầy đủ.... là những cản trở đối khiến các nhà đầu tư trong và ngoài nước ngại rót tiền vào đầu tư. Tuy nhiên, trước những biến động của thị trường cộng với những thách thức của TTCK buổi ban đầu, nhà đầu tư vẫn có thể thành công nếu có khả năng lựa chọn cổ phiếu có chất lượng và kiên trì với chiến lược đầu tư của mình. Việc xác định cổ phiếu có chất lượng có thể được tiến hành bằng cách tìm kiếm thông tin về giá trị của cổ phiếu thông qua phân tích BCTC của công ty có cổ phiếu niêm yết. Dưới đây chúng ta sẽ đi vào phân tích BCTC Công ty cổ phần cơ điện lạnh để đánh giá tình hình tài chính công ty đó, từ đó liên hệ với tình hình biến động giá cả cổ phiếu REE để xem thực tế nhà đầu tư đánh giá và ra quyết định như thế nào với cổ phiếu của Công ty. phân tích báo cáo tài chính đánh giá công ty cổ phần cơ điện lạnh và liên hệ với sự biến động giá cả cổ phiếu ree trên thị trường Công ty cổ phần cơ điện lạnh Giới thiệu chung về công ty Cổ phần cơ điện lạnh - REE Công ty cổ phần cơ điện lạnh (Tên giao dịch quốc tế là REFRIGERATION ELECTRICAL ENGINEERING, tên viết tắt là REE) tiền thân là Xí nghiệp Quốc doanh Cơ điện lạnh được thành lập từ năm 1977. Ngày 25/12/1993 Xí nghiệp Quốc doanh cơ điện lạnh được cổ phần hoá, chuyển thể từ doanh nghiệp quốc doanh thành Công ty cổ phần và đổi tên thành Công ty cổ phần cơ điện lạnh hiện nay. Từ sau khi cổ phần hoá, Công ty đã chuyển từ sản xuất theo kế hoạch tập trung sang SXKD theo cơ chế thị trường. Trong tình hình cạnh tranh chuyên ngành ngày càng gay gắt, Công ty đã khẳng định, đứng vững và phát triển, nhất là trong lĩnh vực thầu cơ điện lạnh, thi công các công trình quốc tế. Uy tín của Công ty ngày càng được nâng cao. Tổng vốn đầu tư năm 1993 là 28,9 tỷ, trong đó vốn chủ sở hữu là 16 tỷ (chiếm 55% vốn đầu tư), vốn điều lệ ban đầu là 16 tỷ. Năm 2001 tổng vốn đầu tư lên tới 343,18 tỷ, vốn chủ sở hữu là 256,21 tỷ (chiếm 74,8%), vốn điều lệ là 150 tỷ. Hiện nay do nhu cầu mở rộng SXKD, nên Công ty đã nâng vốn điều lệ lên 225 tỷ (tháng 8 năm 2002). Doanh thu từ 45,4 tỷ vào năm 1993 đã tăng lên 322,45 tỷ vào năm 2001 và 190,47 tỷ vào 6 tháng đầu năm 2002. Hoạt động SXKD và các sản phẩm chính của Công ty được tập trung vào hai lĩnh vực chủ yếu: Lĩnh vực nhà thầu và lắp đặt hệ thống Cơ và Điện (M&E): trong lĩnh vực này REE cung cấp và lắp đặt hệ điện, hệ điề._.ệp của lĩnh vực kế toán, văn bản này cần coi hoạt động kế toán là một nghiệp vụ độc lập, theo đó người hành nghề, tổ chức dịch vụ hành nghề phải tuân theo các quy định về hành nghề kế toán. Ba là, để nâng cao trách nhiệm trong việc công khai hoá tài chính, một điều đặc biệt quan trọng là các văn bản này cần quy định bắt buộc tất cả loại hình doanh nghiệp phải công khai BCTC với sự xác nhận của kiểm toán độc lập; các quy định về BCTC cần phải chặt chẽ về nội dung, thời gian, căn cứ, yêu cầu, nguyên tắc và trách nhiệm lập báo cáo. Bốn là, quy định về cách thức và hình thức lập BCTC của chế độ kế toán Việt Nam cũng còn rất nhiều điểm cần phải được cải tiến. Các khoản mục trong bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doah, báo cáo luồng tiền mặt và thuyết minh BCTC cần phải được quy định chi tiết hơn. Bộ Tài Chính và UBCKNN có thể phối hợp để soạn thảo và áp dụng thí điểm việc thay đổi một số vấn đề liên quan đến chế độ hạch toán và kế toán đối với các công ty đang niêm yết để mang lại cho các nhà đầu tư trên thị trường những thông tin chính xác hơn. Năm là, giảm bớt yêu cầu báo cáo những thông tin kế toán không cần thiết nhằm đơn giản hoá thủ tục lập BCTC và tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các công ty cổ phần thực thi trách nhiệm báo cáo của mình. Về chế độ kiểm toán Hiện nay Bộ Tài Chính chưa xây dựng và ban hành đầy đủ các chuẩn mực kiểm toán. Căn cứ pháp lý cao nhất trong lĩnh vực kiểm toán là Nghị định số 07/CP ngày 29/1/1994 của Chính phủ ban hành Quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy, hiệu lực pháp lý của công tác kiểm toán chưa cao. Chúng ta mới chỉ ban hành 6 chuẩn mực kiểm toán. Hoạt động kiểm toán BCTC doanh nghiệp ở nước ta hiện nay được coi là một nhân tố quan trọng tạo ra môi trường lành mạnh cho sự phát triển kinh tế vững chắc của đất nước nói chung và TTCK nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động này còn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tạo được niềm tin cho những người sử dụng thông tin trên BCTC doanh nghiệp. Việc công bố thông tin tài chính của doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào quy định tại Luật kiểm toán và chuẩn mực kiểm toán. Hiện nay, chưa có Luật kiểm toán nên công tác kiểm toán định kỳ của doanh nghiệp chưa được quy định chặt chẽ. Việc doanh nghiệp có kiểm toán hay không là điều kiện không bắt buộc ngoại trừ các doanh nghiệp cổ phần niêm yết tại TTGDCK. Đây cũng là sự thua thiệt cho các công ty niêm yết. Mặt khác, nó cũng dẫn tới sự mất bình đẳng trong các quy định của quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần tiến hành các biện pháp cụ thể sau: Một là, cần sớm ban hành Luật kiểm toán, hệ thống chuẩn mực kiểm toán đầy đủ phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời đảm bảo công bằng trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp niêm yết và doanh nghiệp chưa niêm yết. Hai là, thiết lập một cơ chế kiểm soát chặt chẽ chất lượng hoạt động kiểm toán thông qua hình thức nội kiểm và ngoại kiểm. Đối với hoạt động kiểm toán BCTC doanh nghiệp, việc phát triển hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp sẽ giúp nâng cao hiệu quả kiểm toán, giảm rủi ro kiểm toán. Đặc biệt trong điều kiện tin học hoá công tác kế toán đang diễn ra nhanh chóng như hiện nay, cần có qui định riêng về kiểm soát nội bộ trong môi trường xử lí thông tin bằng máy tính. Điều này sẽ giúp cho kiểm toán viên có cơ sở để đánh giá mức độ đạt được của các thủ tục kiểm soát nội bộ tại đơn vị so với yêu cầu, từ đó có thể xác định mức độ tin cậy để đi đến lựa chọn cách tiếp cận kiểm toán thông qua máy tính nhằm nâng cao hiệu quả kiểm toán. Ba là, tăng cường tính độc lập của các tổ chức kiểm toán. Hiện nay, có khoảng 34 công ty kiểm toán độc lập hoạt động tại Việt Nam, trong đó khoảng gần 10 công ty được UBCKNN chấp thuận được kiểm toán cho tổ chức niêm yết. Với vai trò là người đánh giá chất lượng thông tin tài chính, để TTCK phát triển đồng bộ và hiệu quả cần có sự phối hợp và nỗ lực từ phía cơ quan Nhà nước cũng như từng công ty kiểm toán trong việc nâng cao vai trò và chất lượng kiểm toán độc lập. Ngoài ra, cần mở cửa thông thoáng hơn cho phép các công ty kiểm toán nước ngoài được hoạt động bình đẳng với công ty kiểm toán trong nước. Như vậy sẽ tạo được môi trường cạnh tranh, tạo động cơ cho các công ty trong nước nâng cao chất lượng và tạo điều kiện để các công ty này tiếp cận với kinh nghiệm cũng như kỹ năng của kiểm toán quốc tế để có thể nhanh chóng hội nhập với hoạt động kiểm toán quốc tế. Bốn là, tích cực đào tạo nâng cao chất lượng và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ kiểm toán viên. Chất lượng kiểm toán là vấn đề hệ trọng, có liên quan đến hiện tượng "sức khoẻ" của các doanh nghiệp được kiểm toán và ảnh hưởng đến các quyết định của nhà đầu tư. Cũng cần phải khẳng định rằng, năng lực, trình độ và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên là những yếu tố mang tính chất quyết định đến chất lượng kiểm toán. Hiện nay, theo số liệu của Bộ Tài Chính, chỉ có 1/5 trong tổng số gần 3000 kiểm toán viên đang hành nghề tại Việt Nam có chứng chỉ kiểm toán, số còn lại chỉ được đào tạo qua loa và hoạt động "chui" do không có chứng chỉ hành nghề. Chủ trương của Bộ Tài Chính là trong thời gian tới sẽ áp đụng chế độ kế toán và kiểm toán theo các chuẩn mực quốc tế. Hiện tại, Vụ Chế độ kế toán thuộc Bộ Tài Chính đang kết hợp với Hiệp hội ACCA, một tổ chức quốc tế của Anh chuyên kiểm tra và cấp bằng xác nhận chất lượng chuyên môn của các kế toán và kiểm toán viên, tổ chức đào tạo và thi cấp bằng cho các kiểm toán viên trong nước dựa trên các giáo trình và chuẩn mực của ACCA. Hy vọng rằng, qua chương trình hợp tác này, chất lượng kiểm toán tại Việt Nam sẽ nâng cao trong thời gian tới. Đồng thời, cần kết hợp chặt chẽ với việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ kiểm toán viên, nhằm đảm bảo chất lượng của các BCTC được kiểm toán. Thị trường kiểm toán ở Việt Nam được đánh giá là thị trường tiềm năng do các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp niêm yết nói riêng đang ngày càng nhận thức được vai trò của công tác kiểm toán. Mặt khác, trước yêu cầu phải có kết quả kiểm toán để đánh giá thực chất hoạt động của doanh nghiệp và báo cáo với cổ đông và công chúng đầu tư, cần phối hợp đồng bộ các biện pháp nêu trên để nâng cao chất lượng kiểm toán trong thời gian tới. Chỉnh sửa pháp luật về chứng khoán và TTCK Tại Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK, các quy định về quản lý niêm yết và quản lý công bố thông tin của tổ chức niêm yết trên thị trường chưa được đề cập. Trong khi đó, theo Quyết định 127/1998 về việc thành lập TTGDCK của Thủ tướng Chính phủ, TTGDCK chỉ có chức năng quản lý các hoạt động giao dịch chứng khoán chứ không có chức năng quản lý tổ chức niêm yết. ở các công ty cổ phần, Hội đồng quản trị là cơ quan cao nhất, có đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ để thực hiện các quyền nhân danh công ty, ngoại trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội cổ đông. Về nguyên tắc, Hội đồng quản trị sẽ phải chịu trách nhiệm trước cổ đông về hiệu quả quản trị doanh nghiệp của mình, song việc giám sát công tác quản lý của tổ chức niêm yết hiện vẫn chưa có một "cơ quan thứ ba" nào đứng ra đảm trách. Ngay tại Nghị định 75/1996/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 1996 về thành lập UBCKNN cũng không đề cập đến Vụ chuyên trách về quản lý niêm yết (Vụ Quản lý niêm yết). Rõ ràng về mặt pháp lý, TTCK nước ta hiện nay đang trống mảng pháp luật điều chỉnh việc quản lý niêm yết và quản lý công bố thông tin của tổ chức niêm yết trên thị trường, đồng thời thiếu vắng một cơ quan quản lý niêm yết. Trong khi đó, việc lập báo cáo thông tin của các tổ chức niêm yết dường như chỉ giao cho một nhân viên, không có sự cam kết của giám đốc nên khi có sự cố xảy ra không biết quy trách nhiệm cho ai. Đây là vấn đề cần khắc phục để quản lý tốt các công ty niêm yết. Sự lỏng lẻo trong công tác quản lý của Bibica và Halong Canfoco, dẫn đến những hệ quả không tốt trong thời gian gần đây hay những vụ bê bối của các Tập đoàn lớn trên thế giới như Enron hay Worldcom là tiếng chuông cảnh tỉnh cho tất cả những công ty đã, đang và sẽ niêm yết về công tác quản lý doanh nghiệp. Hơn bao giờ hết quản lý doanh nghiệp là vấn đề hệ trọng đối với các công ty niêm yết. Chính vì vậy, hệ thống luật pháp về chứng khoán và TTCK cần hoàn thiện để tạo điều kiện phát triển thị trường vốn hiệu quả và có tính cạnh tranh, là một nhân tố hết sức quan trọng trong việc tăng cường khả năng quản lý các công ty niêm yết. Khi thị trường vốn năng động, các ban quản lý công ty buộc lòng phải thực hiện tốt và quản trị tốt công ty, nếu không sẽ bị đào thải. Luật pháp trên TTCK cũng yêu cầu việc công khai thông tin, qua đó, tăng cường khả năng giám sát của các cổ đông, đặc biệt là các cổ đông nhỏ đối với hoạt động quản trị của công ty niêm yết. Ngoài ra, khi cơ quan quản lý chứng khoán có khả năng giám sát được hoạt động của các công ty có chứng khoán phát hành ra công chúng thì việc tăng cường quản trị công ty không chỉ dừng lại ở các công ty niêm yết mà còn bao trùm lên cả các công ty cổ phần nói chung. Hiện nay văn bản pháp luật về lĩnh vực chứng khoán và TTCK cao nhất là Nghị đinh 48/NĐ-CP. Do hiệu lực pháp lý của văn bản này chưa cao nên còn tồn tại nhiều vấn đề chưa được giải quyết, nhất là những vấn đề quản trị công ty như nêu trên đây. Hiện nay Nghị định này đã được thay thế bằng một Nghị định khác nhưng thiết nghĩ, để khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới cần nâng cấp Nghị định này thành Pháp lệnh và dài hạn hơn là Luật chứng khoán, trong đó cần: đưa ra các chuẩn mực, tiêu chuẩn chi tiết hơn về chế độ công bố thông tin, áp dụng chung cho tất cả các công ty đại chúng chứ không chỉ riêng công ty niêm yết . tạo cơ chế thông thoáng hơn cho việc thành lập và phát triển các quỹ đầu tư; khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài. quy định rõ ràng và nâng cao vai trò của hội đồng quản trị trong công tác giám sát và bảo vệ quyền lợi của các cổ đông. Cần quy định phải có sự tách biệt giữa vai trò giám sát và điều hành công ty của Hội đồng quản trị; quy định bắt buộc Hội đồng quản trị phải có một số thành viên độc lập đại diện cho cổ đông bên ngoài. 2. Đối với UBCKNN Chuẩn hoá các quy định hướng dẫn quy trình công bố thông tin tài chính doanh nghiệp UBCKNN đóng vai trò trung tâm trong việc quản lý chế độ báo cáo ở Việt Nam. UBCKNN cần cụ thể hoá các văn bản pháp quy, đưa ra những quy định rõ ràng, thống nhất, phù hợp thông lệ quốc tế nhằm chuẩn hoá quy trình công bố thông tin tài chính doanh nghiệp đối với các công ty niêm yết. UBCKNN có thể yêu cầu các công ty niêm yết áp dụng điều lệ mẫu trong chế độ báo cáo. Mục tiêu của bản điều lệ này là bảo vệ quyền lợi của các cổ đông hiện tại cũng như các cổ đông tiềm năng và duy trì hoạt động ổn định của công ty theo đúng pháp luật hiện hành. Hiện nay Tổ chức quốc tế các Uỷ Ban Chứng Khoán (IOSCO) đã công bố 30 chuẩn mực kế toán quốc tế chờ thông qua để tạo điều kiện cho việc phát hành chứng khoán tại các thị trường nước ngoài. UBCKNN cần bám sát các tiêu chuẩn này để "chuẩn hoá" và "quốc tế hoá" các quy định về kế toán, phục vụ cho công cuộc hội nhập. Tăng cường giám sát và xử lý vi phạm nghĩa vụ công khai tài chính doanh nghiệp Pháp luật về chứng khoán và TTCK hiện đang có và sẽ có những quy định chặt chẽ liên quan đến những nguyên tắc quản trị công ty như nghĩa vụ công khai BCTC và các thông tin của công ty, việc bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và cổ đông công ty đối với công ty hiện đang niêm yết trên thị trường. Tuy nhiên, việc thực hiện những quy định này qua hai năm hoạt động của thị trường đang còn không ít những vấn đề bất cập. Các nhà đầu tư trên thị trường luôn ở trong tình trạng không có thông tin. Một số công ty vi phạm chế độ công bố thông tin ở các mức độ khác nhau vẫn chưa bị xử lý một cách nghiêm khắc. Để khắc phục những vấn đề này, công tác thanh tra và giám sát thị trường cần phải được tiến hành mạnh mẽ hơn nữa. UBCKNN cần xây dựng một quy chế về việc thẩm định, thanh tra và giám sát việc tuân thủ chế độ báo cáo của doanh nghiệp, đề ra các biện pháp thưởng phạt nghiêm minh nhằm khuyến khích áp dụng và ngăn chặn những hành vi vi phạm. Công tác thanh tra, giám sát cần phải được thực hiện theo chế độ định kỳ và bất thường song song với việc áp dụng chế độ báo cáo nghiêm ngặt. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng thông tin liên quan đến các công ty niêm yết, những thông tin quan trọng như các dự báo về kế hoạch SXKD của các công ty phát hành và niêm yết cũng cần phải được các công ty kiểm toán độc lập xem xét và cho ý kiến trước khi công bố ra công chúng. Các văn bản pháp quy liên quan đến việc xử lý những trường hợp vi phạm chế độ công bố thông tin và vi phạm quyền lợi của các nhà đầu tư cùng cần phải được chỉnh sửa và chi tiết hoá để tạo tiền đề pháp lý cho việc xử lý việc vi phạm những nguyên tắc quản trị công ty của các công ty niêm yết trên thị trường. Một ví dụ là mới đây, Vụ trưởng phụ trách Thanh tra của UBCKNN đã ký Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối cới Công ty cổ phần Đồ hộp Hạ Long (Halong Canfoco) với mức tiền phạt là 10 triệu đồng vì đơn vị này đã vi phạm quy chế công bố thông tin trên TTCK. Cụ thể là Halong Canfoco đã không công bố thông tin việc công ty này đã bán khống hoá đơn cho các doanh nghiệp khác trong năm 2001 và việc Công an Hải Phòng đã có quyết định khởi tố vụ án liên quan đến thuế giá trị gia tăng tại Halong Canfoco vào tháng 9 năm 2002. Đồng thời, trong tháng 11 vừa qua, Chủ tịch UBCKNN đã ký quyết định xử phạt đối với công ty kiểm toán AASC, đơn vị kiểm toán cho Halong Canfoco. Theo đó, đình chỉ hoạt động kiểm toán của AASC đối với BCTC năm 2002 của Halong Canfoco, đình chỉ tư cách kiểm toán viên được chấp thuận đối với một kiểm toán viên của AASC trong 2 kỳ kiểm toán năm 2002 và 2003. Đây là những biện pháp xử lý nghiêm minh có tác dụng rất tích cực trong việc ngăn chặn những vi phạm công khai tài chính của các công ty niêm yết trong thời gian tới. Khuyến khích thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm dưới hình thức liên doanh với các tổ chức định mức tín nhiệm nước ngoài có uy tín TTCK đã qua hai năm đi vào hoạt động và các tổ chức phát hành tiến tới sẽ huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu ra TTCK, nhưng vẫn chưa mở ra cơ hội cho việc thành lập các tổ chức xếp hạng rủi ro tín dụng độc lập (còn gọi là các tổ chức định mức tín nhiệm độc lập) nhằm tạo lập lòng tin cho các nhà đầu tư. Theo các chuyên gia chứng khoán, hạn chế nêu trên làm cho toàn bộ việc phát hành, mua bán chứng khoán... của các công ty và nhà đầu tư trên TTCK đều diễn ra theo nhận định chủ quan. Các tổ chức định mức tín nhiệm rất cần thiết cho hoạt động của TTCK trong việc đánh giá chất lượng hoạt động của tổ chức phát hành và đưa ra các kết quả định mức tín nhiệm của mình, qua đó có tác dụng hướng dẫn các nhà đầu tư, các tổ chức có liên quan trong việc đưa ra các quyết định đầu tư chứng khoán. ở các nước trên thế giới, việc hình thành các tổ chức định mức tín nhiệm là một nhu cầu tất yếu của TTCK. Dựa trên các tiêu chí như mức độ rủi ro, nghĩa vụ pháp lý, khả năng hoàn trả đúng hạn số tiền gốc và lãi suất chứng khoán của tổ chức phát hành... mà các tổ chức định mức tín nhiệm đưa ra các xếp hạng chứng khoán cụ thể. Điều này đã làm giảm bớt những rủi ro về "đạo đức" phát sinh bởi những nguồn thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác gây ra, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư có được các quyết sách đầu tư đúng đắn. Việc đánh giá mức độ tín nhiệm của chứng khoán ở các nước có TTCK phát triển thường được thực hiện theo yêu cầu của các tổ chức phát hành, thậm chí ở một số nước đây là yêu cầu bắt buộc. Các tổ chức định mức tín nhiệm bị gắn trách nhiệm pháp lý khi các tổ chức phát hành không trả được nợ vay hoặc phá sản. Có thể kể ra một số tổ chức định mức tín nhiệm có tên tuổi trên thế giới hiện nay như Moody's; Standard & Poors; Fitch and Duff&Phelps... Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng, sự có mặt của các công ty kế toán, kiểm toán độc lập hiện nay ở Việt Nam có thể bù đắp được sự thiếu vắng của các tổ chức định mức tín nhiệm. Mặc dù vậy, thực tế là khả năng độc lập phản ánh thông tin về rủi ro và tình hình tài chính doanh nghiệp của các tổ chức kế toán, kiểm toán độc lập ở Việt Nam chưa cao. Chính vì thế, để có được các thông tin tài chính minh bạch đánh giá doanh nghiệp thì cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa tài liệu kiểm toán độc lập với đánh giá định mức tín nhiệm của các công ty xếp hạng rủi ro tín dụng độc lập. Hiện nay, tổ chức định mức tín nhiệm là loại hình dịch vụ tài chính trung gian của TTCK chưa từng xuất hiện ở Việt Nam. Vì vậy, việc xem xét cho ra đời loại hình dịch vụ này trong thời gian tới nên có sự tham gia của các tổ chức nước ngoài của TTCK phát triển để cung cấp sự trợ giúp về chuyên môn. Ngoài ra, điều này còn giúp tạo uy tín cần thiết ban đầu để chiếm được lòng tin của các nhà đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn cả vào thời điểm này là cần sớm có sự thừa nhận về mặt địa vị pháp lý của tổ chức định mức tín nhiệm bởi lẽ cho đến nay trong các văn bản pháp lý về chứng khoán và TTCK Việt Nam chưa thấy đề cập tới khái niệm về tổ chức định mức tín nhiệm. Nâng cao chất lượng tuyên truyền và đào tạo chứng khoán và TTCK Hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam chịu sự điều hành và quản lý của UBCKNN, do vậy mọi hoạt động tuyên truyền đều phải phục vụ cho công tác quản lý, điều hành sự phát triển của thị trường. Công tác tuyên truyền luôn phải đi trước hoạt động của thị trường, có tính chất định hướng cho hoạt động của thị trường, tạo lòng tin của công chúng đầu tư đối với thị trường, đồng thời cảnh báo đối với những hoạt động đầu cơ, lũng đoạn thị trường. Trong từng thời điểm khác nhau, nội dung phương pháp tuyên truyền cũng khác nhau, nhưng luôn đảm bảo mục tiêu là thoả mãn nhu cầu thông tin của công chúng đối với lĩnh vực chứng khoán, đồng thời định hướng cho hoạt động của thị trường. Đồng thời, công tác tuyên truyền phải gắn với hoạt động đào tạo. Để nâng cao dân trí, nâng cao sự hiểu biết của công chúng đối với lĩnh vực chứng khoán và TTCK thì việc tuyên truyền không chưa đủ mà phải gắn với đào tạo nghiệp vụ chứng khoán. Đào tạo sẽ giúp nhà đầu tư có kiến thức về chứng khoán và TTCK, các kỹ năng phân tích đầu tư chứng khoán bao gồm phân tích BCTC. Hoạt động đào tạo cũng phải được tuyên truyền quảng cáo, làm cho công chúng thấy được lợi ích của việc tham gia thị trường. Kiến nghị ở tầm vi mô Đối với công ty chứng khoán Các công ty chứng khoán chính là những đơn vị tìm kiếm và giúp các doanh nghiệp thực hiện phát hành và niêm yết trên TTCK thông qua các nghiệp vụ chính như tư vấn cổ phần hoá, tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn niêm yết, tư vấn và bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán. Với trình độ chuyên môn cao và khả năng nắm sát thông tin thị trường bao gồm những thông tin liên quan tới tổ chức phát hành, các nhà đầu tư, cùng những biến động giá cả hàng ngày, các công ty chứng khoán phải đóng vai trò tích cực hơn trong việc phân tích đầu tư chứng khoán và định hướng đầu tư. Các công ty chứng khoán - cơ quan phát triển TTCK cần củng cố và phát triển hơn nữa thông qua việc nâng cấp quy mô vốn và mở rộng hoạt động nghiệp vụ đặc biệt là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán. Các công ty chứng khoán nên mở rộng mạng lưới dịch vụ chi nhánh, đại lý nhận lệnh. Bên cạnh đó, một yếu tố rất quan trọng là phải hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty chứng khoán, hiện đại hoá hệ thống thông tin nối mạng giữa công ty chứng khoán với TTGDCK và nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư khi tham gia vào thị trường. Đối với các công ty niêm yết Chấp hành đúng nghĩa vụ công khai tài chính, thông tin công bố phải trung thực và được kiểm toán đúng quy định Công ty niêm yết, nơi cung cấp hàng hoá cho thị trường là nơi đầu tiên biết và nắm được các thông tin về hoạt động kinh doanh và tài chính của công ty. Việc yêu cầu cung cấp thông tin của các công ty niêm yết là đòi hỏi chính đáng của cổ đông nói riêng và nhà đầu tư nói chung. Các công ty niêm yết cần phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các thông tin định kì, tức thời và theo yêu cầu. BCTC định kỳ là dạng phổ biến nhất và ít tốn kém nhất để công bố thông tin doanh nghiệp. Các BCTC định kì nên thực hiện theo đúng qui định của Bộ Tài Chính và UBCKNN về thời gian, tránh chậm trễ sẽ gây ra tình trạng mất tin tưởng hoặc hoang mang cho nhà đầu tư. Trong một số trường hợp như công ty niêm yết chậm công bố thông tin, cần công bố lí do cụ thể gây ra tình trạng chậm trễ này nhằm hạn chế những tác động bất lợi cho công ty niêm yết. Công ty niêm yết cũng phải chú trọng tới việc cung cấp thông tin tức thời và theo yêu cầu. Trong đó, thông tin tức thời là quan trọng nhất vì có tác dụng trực tiếp đến giá chứng khoán trên thị trường. Thông tin tức thời bao gồm các thông tin tốt và không tốt của tổ chức niêm yết. Đồng thời chấp hành đúng nghĩa vụ kiểm toán theo quy định. Không chỉ thực hiện kiểm toán đối với các BCTC định kỳ mà những thông tin quan trọng như các dự báo về kế hoạch SXKD của các công ty phát hành và niêm yết cũng cần phải được các công ty kiểm toán độc lập xem xét và cho ý kiến trước khi công bố ra công chúng Lập bộ phận chuyên trách, chuẩn mực hoá chức vụ, tiêu chuẩn của nguời chịu trách nhiệm công khai tài chính Các công ty niêm yết cần lập ra bộ phận chuyên trách công bố thông tin. Các cán bộ phụ trách công bố thông tin cần phải là người có thẩm quyền trong công ty, được chuẩn mực hoá chức vụ và tiêu chuẩn. Điều này đòi hỏi trình độ quản lý và phương cách thể hiện của doanh nghiệp hay nói khác hơn là sự chuyên nghiệp hoá trong công tác công bố thông tin. Tính chuyên nghiệp trong công bố thông tin phải hội đủ các yếu tố chính xác, đầy đủ và kịp thời. Điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp không chỉ công bố những thông tin tốt mà còn cả những thông tin bất lợi cho doanh nghiệp. Có chương trình công bố thông tin tài chính định kỳ, thường xuyên và tự nguyện Các công ty niêm yết nên có chương trình công bố thông tin tài chính theo định kỳ, thường xuyên và tự nguyện. Việc công bố các thông tin định kì và thường xuyên sẽ tránh được hậu quả do ảnh hưởng của những thông tin sai lệch về các công ty. Người đầu tư thường xuyên tiếp nhận thông tin công bố chính thức sẽ có những cơ sở để nhận định được đúng hoặc sai khi thị trường xuất hiện những thông tin không chính thức, gây bất lợi cho các công ty niêm yết. Bên cạnh những thông tin về tổ chức niêm yết phải công bố theo qui định, tổ chức niêm yết có thể tiến hành công bố thông tin tự nguyện. Công bố thông tin tự nguyện là việc tổ chức niêm yết tự nguyện công bố những thông tin không thuộc những vấn đề phải công bố. Tổ chức niêm yết có thể vận dụng công bố thông tin tự nguyện vừa góp phần cung cấp thông tin cho thị trường, vừa là một hình thức quảng cáo cho chính mình. Cụ thể là, bên cạnh các thông tin về kết quả đạt được, các công ty niêm yết nên công bố kế hoạch hoạt động trong tương lai, những thay đổi về chiến lược kinh doanh, các dự án sẽ thực hiện,...trong các buổi gặp gỡ trực tiếp các nhà đầu tư để họ có nhận thức tương đối về hoạt động của công ty trong thời gian tới. Đồng thời, các công ty niêm yết nên thiết lập Website riêng để tạo mối liên hệ trực tiếp với công chúng đầu tư và qua đó nhà đầu tư có thể tiếp cận thông tin dễ dàng hơn. ở các nước trên thế giới, việc công bố thông tin đã trở thành một thứ văn hoá kinh doanh vì cổ đông và những người có quyền lợi liên quan đến công ty cần được cung cấp thông tin kịp thời và chính xác về tình hình tài chính, hoạt động SXKD và tình hình quản lý, điều hành công ty. Những thông tin này phải đáng tin cậy và được phổ biến rộng rãi cho công chúng đầu tư một cách kịp thời và công bằng. Đó là điều kiện để những người sử dụng thông tin ra quyết định đúng đắn về công ty, trong đó có việc mua bán chứng khoán. Thực vậy, TTCK là nơi thực hiện việc xã hội hoá đầu tư, qua đó thể hiện sự đánh giá của xã hội đối với giá trị công ty nên chất lượng công bố thông tin sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành giá cả chứng khoán một cách hợp lý hay lệch lac. Công bố thông tin là yếu tố quyết định sự phát triển lành mạnh của TTCK, góp phần tạo nên môi trường kinh doanh lành mạnh và sự hấp dẫn của một nền kinh tế trước con mắt nhà đầu tư trong và ngoài nước. 3. Đối với công chúng đầu tư Đầu tư vào cổ phiếu đi kèm với khả năng mang lại thu nhập cao là mức độ rủi ro tương đối lớn. Bởi lẽ nhà đầu tư lâu dài vào công ty để hưởng cổ tức không trực tiếp quản lý kinh doanh bằng tiền đầu tư của mình mà họ chỉ đặt lòng tin vào khả năng sinh lời của công ty sử dụng khoản tiền đầu tư này. Chính vì vậy, từ phía các nhà đầu tư cũng cần có những biện pháp nhằm tối thiểu hoá rủi ro có thể mang lại. Nâng cao trình độ hiểu biết và kỹ năng đầu tư đặc biệt là kỹ năng phân tích BCTC trong đầu tư chứng khoán Các nhà đầu tư là những người thực sự tâm huyết và đặt rủi ro đầu tư lên trên đồng tiền "xương máu" của mình. Khi mới tham gia thị trường, nhà đầu tư vì nhiều lý do chưa có điều kiện chuẩn bị tốt cho hành trang của mình về kiến thức cũng như tâm lý. Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả đầu tư các nhà đầu tư cần tích luỹ thêm kiến thức chuyên sâu. Hiểu biết về chứng khoán và kỹ năng phân tích BCTC là những điều kiện tối thiểu mà nhà đầu tư cần phải có khi tham gia vào thị trường. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cần cân nhắc mỗi khi ra quyết định mua hay bán chứng khoán và kiên định hơn với chiến lược đầu tư của mình. Nhà đầu tư đến thị trường để tìm kiếm lợi nhuận, do đó họ có quyền rời bỏ thị trường nếu như họ nhận thấy việc kiếm lời là quá khó khăn. Tuy nhiên nhà đầu tư cũng phải biết kiên trì vượt qua giai đoạn ảm đạm chờ cơ hội đến. Trong giai đoạn giá cổ phiếu đã xuống mức thấp, mức cầu giảm thì các nhà đầu tư nên ưu tiên cho phương hướng đầu tư dài hạn bằng cách tìm hiểu kỹ nguồn thông tin về các công ty niêm yết, chọn các loại cổ phiếu đầu tư có kỳ vọng đem lại hiệu quả cao nhất để có thể tìm được cả hai nguồn lợi nhuận là cổ tức và chênh lệch giá do giá cả cổ phiếu tăng. Điểm mấu chốt mà nhiều nhà đầu tư nổi tiếng trên TTCK thế giới thường khuyên mọi người là từng nhà đầu tư cần phải có những phân tích, suy xét của riêng mình trước khi đưa ra quyết định mua hay bán, tránh bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tâm lý trên thị trường. Có như vậy thì từng nhà đầu tư mới có thể tìm kiếm được cho mình những cơ hội đầu tư sinh lời bất kể tình hình giá cả trên thị trường biến động lên hay xuống. Tăng cường giám sát bên ngoài Đối với những nhà đầu tư hiện thời của các công ty niêm yết (hay là các cổ đông), việc tăng cường sự giám sát của cổ đông đối với hoạt động của công ty cần phải được thực hiện đồng thời với biện pháp đào tạo và phổ biến kiến thức cho các cổ đông. Có thể nói việc tăng cường giám sát bên ngoài là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để nhà đầu tư hiểu biết và đánh giá đúng công ty niêm yết để ra quyết định có tiếp tục đầu tư không. Việc giám sát của cổ đông chỉ có thể thực hiện được và thực hiện tốt khi chính các cổ đông hiểu và đứng lên bảo vệ quyền lợi của chính mình. Do vậy, để thúc đẩy việc giám sát của các cổ đông đối với hoạt động của các công ty thì công tác đào tạo và phổ biến kiến thức cần phải được thực hiện một cách toàn diện hơn nữa. Cụ thể là: giúp các cổ đông hiểu rõ hơn quyền lợi và những thủ tục của Đại hội đồng cổ đông-phương tiện chủ yếu để các cổ đông thực thi các quyền của mình cho phép các cổ đông tham dự vào các Đại hội cổ đông nhiều hơn thông qua việc sử dụng những phương tiện thông tin liên lạc điện tử và cung cấp các báo cáo cũng nhưng các thông tin khác cho cổ đông bằng phương tiện điện tử. Đầu tư chứng khoán qua quỹ đầu tư tập thể Khi đầu tư ai cũng muốn kiếm lời nhưng để tạo ra tiền lời đó theo nguyên tắc "đầu tư có mục đích và lâu dài" thì không phải nhà đầu tư nào cũng làm được, nhất là các nhà đầu tư nhỏ. Cho nên việc cho ra đời các quỹ đầu tư, với tư cách là các định chế chuyên nghiệp để giúp các nhà đầu tư không chuyên nghiệp thực hiện đầu tư tốt nhất vào TTCK là yêu cầu cấp bách. Các quỹ đầu tư là những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, có khả năng tập hợp rộng và tạo ra nguồn vốn mới cho thị trường. Các quỹ này sẽ chịu trách nhiệm lựa chọn danh mục đầu tư và giúp những nhà đầu tư cá nhân riêng lẻ tìm kiếm lợi nhuận. Các quỹ đầu tư sẽ đóng vai trò là chiếc cầu nối các nhà đầu tư cá thể với TTCK thông qua các công ty môi giới chứng khoán. Đây là một trong những cách tốt nhất để nhà đầu tư làm quen với TTCK, và do đó rất thích hợp với tình hình kinh tế và thói quen của người dân Việt Nam. Nó giúp cho nhà đầu tư tiết kiệm chi phí, tận dụng kiến thức của các chuyên gia đồng thời đa dạng hoá danh mục đầu tư chứng khoán từ đó phân tán rủi ro. Đầu tư của các cá nhân vào TTCK thông qua các quỹ đầu tư chuyên nghiệp sẽ góp phần tạo lập và duy trì lòng tin của công chúng vào thị trường, tạo điều kiện quan trọng cho TTCK phát triển trong tường lai. * * * Tính đến thời điểm đầu tháng 12 năm 2002 thì TTCK đang có dấu hiệu phục hồi. Chỉ số VN-Index đã vượt lên trên 180 điểm. Nhiều người cho rằng đến cuối năm nay chỉ số VN-Index sẽ đạt được 200 điểm. Qua thực tế kinh doanh, các nhà đầu tư ngày càng tích luỹ được kiến thức, kinh nghiệm và "độ nhạy" với thị trường. Chế độ công khai tài chính, cho dù còn nhiều điểm cần bàn nhưng rõ ràng trong tình hình hiện nay ở Việt Nam, các công ty niêm yết trên TTCK đã thể hiện một sự minh bạch hơn hẳn, có hành lang pháp lý tương đối rõ ràng. Các công ty niêm yết đang là các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao trong thị trường của Việt Nam. Hơn nữa, BCTC, các kế hoạch phát triển kinh doanh trong tương lai, việc chia lợi nhuận của công ty tới các nhà đầu tư đã phần nào tạo sự an tâm hơn về mặt tâm lý, khuyến khích các nhà đầu tư mới tham gia thị trường. Chính từ những triển vọng đó của các công ty niêm yết và của TTCK sẽ dẫn tới các nhà đầu tư ngày càng nâng cao nhận thức về vai trò của phân tích các BCTC. Nhà đầu tư sẽ có quyết định đúng đắn hơn, mang lại hiệu quả kinh tế cao thông qua sự hiểu biết và đánh giá đúng tiềm năng phát triển của các công ty niêm yết. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van.doc
  • xlsBC§KT & BCHD.xls
  • docBia.doc
  • docDanh muc tai lieu tham khao.doc
  • docKi hieu viet tat.doc
  • docKÕt luËn.doc
  • docLêi më ®Çu.doc
  • docMôc lôc chÝnh thøc.doc
  • docPhô lôc.doc
Tài liệu liên quan