Lời mở đầu
Vốn là một trong những yếu tố không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Kinh tế thị trường càng phát triển thì nhu cầu hình thành một thị trường vốn tập trung, hoạt động có hiệu quả trong việc giúp doanh nghiệp huy động được những nguồn vốn lớn, ổn định, lâu dài càng trở nên cấp thiết. Thực tế hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong hơn một năm qua cho thấy: mặc dù còn nhiều bất cập nhưng những tiềm năng của thị trường này đối với việc
29 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1547 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Kiểm toán tài chính cho các Công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huy động các nguồn vốn cho phát triển kinh tế nước ta là rất lớn, cần phải tiếp tục được củng cố và phát huy.
Tuy nhiên, để cho thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả, trở thành nơi công chúng yên tâm đầu tư các nguồn vốn nhàn rỗi của mình thì việc công khai một cách trung thực và chính xác các số liệu về thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh tại các Công ty cổ phần được niêm yết trên các báo cáo tài chính là vô cùng cần thiết. Công việc này chỉ có thể thực hiện được với sự tham gia của kiểm toán viên và các Công ty kiểm toán trong việc kiểm toán các báo cáo tài chính của những đơn vị này. Đây là một vấn đề còn khá mới mẻ trong hoạt động của các Công ty kiểm toán hiện nay nhưng lại đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong thời gian tới. Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài: " Kiểm toán báo cáo tài chính cho các Công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay".
Trong phạm vi của đề tài, ngoài phần mở đầu và kết luận, tôi chỉ xin tập trung nghiên cứu những vấn đề chủ yếu sau:
Phần I: Lý luận chung.
Phần II: Thực trạng kiểm toán báo cáo tài chính tại các Công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán hiện nay.
Phần III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng của kiểm toán báo cáo tài chính tại các Công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán trong thời gian tới.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng dưới góc độ nghiên cứu của một sinh viên, bài viết của tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong được sự đống góp, chỉ bảo của thầy cô và các bạn để tôi có thêm những kinh nghiệm trong việc hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp sau này.
Phần I
khái quát chung về kiểm toán báo cáo tài chính
trên thị trường chứng khoán.
I/ khái quát về kiểm toán báo cáo tài chính.
Khái niệm và bản chất của kiểm toán báo cáo tài chính.
Kiểm toán phát triển từ những năm 30 ở Bắc Mỹ, vào Tâu Âu từ những năm 60... và hiện nay đã phổ biến trên toàn thế giới. Tuy nhiên, do hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội, địa vị pháp lý khác nhau ở mỗi khu vực, mỗi quố gia nên có nhiều định nghĩa khác nhau về kiểm toán. Trong hoàn cảnh đó, kiểm toán báo cáo tài chính có 3 quan điểm phổ biến sau:
Quan điểm của Vương quốc Anh: Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và sự bày tỏ ý kiến về những bảng khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan (trích theo lời mở đầu "giải thích về các chuẩn mực kiểm toán" của Vương quốc Anh).
Quan điểm của các chuyên gia kiểm toán Hoa Kỳ: Kiểm toán là một quá trình mà theo đó một cá nhân độc lập, có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin số lượng có liên quan đến một tổ chức kinh tế cụ thể nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa các thông tin số lượng đó vơí chuẩn mực đã được xây dựng (trích AUDITING - Alvin, James).
Quan điểm của Cộng hoà Pháp: Kiểm toán là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là một kiểm toán viên tiến hành để khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh đúng đắn tình hình tài chính thực tế không che dấu sự gian lận và chúng được trình bày theo mẫu chính thức của luật định (trích L AUDIT OPERATIONNEL - Jean, Fenand, Didier).
Các định nghĩa này đều bao hàm các yếu tố bản chất như sau:
- Chức năng của kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến. Đây là yếu tố chi phối quá trình tổ chức kiểm toán.
- Đối tượng trực tiếp của kiểm toán là các bảng khai tài chính của một tổ chức hay thực thể kinh tế. Trong đó, bộ phận quan trọng nhất của bảng khai tài chính là các báo cáo tài chính với 4 biểu mẫu chủ yếu sau:
+ Bảng cân đối kế toán: là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ giá trị tài sản hiện có và các nguồn hình thành tài sản đó của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định.
+ Bảng kết quả hoạt động kinh doanh: là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ kế toán (thường là một năm), chi tiết theo hoạt động kinh doanh chính và các hoạt động khác; tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác.
+ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp.
+ Bảng thuyết minh báo cáo tài chính: là báo cáo được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các báo cáo tài chính khác không thể trình bày rõ ràng và chi tiết được.
- Khách thể kiểm toán: là một thực thể kinh tế hay một tổ chức, thậm chí là một cá nhân sử dụng ngân sách...
- Người thực hiện kiểm toán: là những kiểm toán viên độc lập và có nghiệp vụ. Độc lập có nghĩa là không phụ thuộc về kinh tế đối với khách thể kiểm toán. Có nghiệp vụ nghĩa là có khả năng thực hiện nhiệm vụ được giao với trình độ văn bằng tương xứng và thâm niên công tác.
- Chuẩn mực kiểm toán: là những luật định hay những quy định chung được chấp nhận phổ biến. Chuẩn mực kiểm toán được giải thích rộng trong nhiều lĩnh vực kế toán và kiểm toán.
- Kết quả kiểm toán: thường được trình bày dưới dạng báo cáo, trong đó chúng thông tin cho người sử dụng một mức tin cậy nhất định giữa thông tin được lượng hoá trong báo cáo và chuẩn mực đã được thiết lập.
Vai trò của kiểm toán báo cáo tài chính.
Sự phát triển của sản xuất hàng hóa dẫn tới sự đa phương hoá loại hình sở hữu, đa dạng hoá loại hình đơn vị sản xuất kinh doanh và sự phức tạp ngày càng tăng trong việc phản ánh thực trạng sản xuất kinh doanh vào trong sổ sách kế toán. Do đó, kiểm toán báo cáo tài chính ra đời như một tất yếu khách quan nhằm phục vụ cho yêu cầu quản lý và xuất phát từ bản thân của yêu cầu quản lý. Có thể xem xét tác dụng của kiểm toán báo cáo tài chính trên những mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, tạo niềm tin cho những "người quan tâm".
Trong cơ chế thị trường, có nhiều người quan tâm tới tình hình tài chính và sự phản ánh của nó trong tài liệu kế toán. Thế giới "người quan tâm" bao gồm những đối tượng chủ yếu sau:
- Các cơ quan Nhà nước.
- Các nhà đầu tư.
- Các nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà quản lý khác.
- Người lao động.
- Khách hàng, nhà cung cấp và những người quan tâm khác.
Có thể nói, việc tạo niềm tin cho những người quan tâm là yếu tố quyết định cho sự ra đời và phát triển của kiểm toán với tư cách là một hoạt động độc lập.
Thứ hai, kiểm toán báo cáo tài chính góp phần hướng dẫn nghiệp vụ kế toán và củng cố nền nếp tài chính kế toán nói riêng, hoạt động của đơn vị được kiểm toán nói chung.
Thứ ba, kiểm toán báo cáo tài chính góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý. Có thể thấy rõ tác dụng của chức năng tư vấn này trong những năm gần đây với sự nảy sinh của kiểm toán hiệu năng và hiệu quả quản lý cũng như trong bản thân hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính đơn thuần.
Từ tất cả những điều trình bày trên, có thể thấy rõ kiểm toán có ý nghĩa lớn trên nhiều mặt. Đó là "quan toà công minh của quá khứ", "người dẫn dắt cho hiện tại" và "người cố vấn sáng suốt cho tương lai".
Riêng đối với thị trường chứng khoán, nơi mà hệ thống công khai hóa thông tin đóng một vai trò quyết định đối với sự tồn sinh của các tổ chức phát hành chứng khoán nói riêng, thị trường vốn nói chung thì vai trò của hệ thống kế toán và kiểm toán lại càng có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì, một trong những tiền đề cơ bản trong các quy định về chứng khoán là trước khi quyết định mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, người đầu tư phải có những thông tin đầy đủ và kịp thời về mọi hoạt động của nhà phát hành. Yêu cầu trên chỉ có thể được đáp ứng trên cơ sở các báo cáo tài chính đã được kiểm toán để phân tích tình hình tài chính và kết quả hoạt động của các tổ chức này.
Có thể nói, với chức năng cung cấp các quy tắc và nền tảng buộc mọi chủ thể phát hành và kinh doanh chứng khoán phải tuân theo từ việc lập các chứng từ, chuẩn bị các báo cáo tài chính theo các chuẩn mực kế toán chung, hệ thống kế toán và kiểm toán đã góp phần bảo đảm độ tin cậy của những thông tin công bố trên thị trường chứng khoán, đảm bảo cho giao dịch chứng khoán công bằng, minh bạch và ngăn ngừa các hành động gian lận trong giao dịch. Sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua các kênh huy động để cung ứng vốn dài hạn cho nền kinh tế chỉ có thể hoạt động có hiệu quả khi nó hội tụ đủ các điều kiện tất yếu trong đó đổi mới, hoàn thiện và phát huy vai trò của hệ thống kế toán và kiểm toán có một ý nghĩa hết sức to lớn.
Trách nhiệm của kiểm toán viên và Công ty kiểm toán đối với kết quả của kiểm toán báo cáo tài chính (báo cáo kiểm toán).
Tại Việt Nam, điều 15 Quy chế kiểm toán độc lập quy định là kiểm toán viên độc lập: "... chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước tổ chức kiểm toán độc lập và trước khách hàng về kết quả kiểm toán và ý kiến nhận xét trong báo cáo kiểm toán... Kiểm toán viên vi phạm quy chế này, vi phạm pháp luật có thể bị thu hồi chứng chỉ kiểm toán viên và bị xử lý theo pháp luật; nếu gây thiệt hại vật chất cho khách hàng thì phải bồi thường".
Và điều 19 Quy chế nêu thêm: "Tổ chức kiểm toán độc lập... chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước khách hàng về những vi phạm quy chế hành nghề của tổ chức kiểm toán và kiểm toán viên, phải chịu trách nhiệm bồi thường mọi thiệt hại gây ra cho khách hàng".
Như vậy, cũng tương tự như ở các nước khác, ở Việt Nam thì kiểm toán viên và tổ chức kiểm toán độc lập cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý về công việc của mình. Thế nhưng quy chế trên của Việt Nam vẫn chưa cụ thể nên nếu có phát sinh tranh chấp thì việc xét xử sẽ hết sức khó khăn.
Tuy nhiên, theo thông thường thì kiểm toán viên và tổ chức kiểm toán sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý trước những đối tượng sau:
- Chịu trách nhiệm trước khách hàng là người thuê kiểm toán báo cáo tài chính.
- Chịu trách nhiệm đối với người khác có quyền lợi tương đương như khách hàng (ví dụ như ngân hàng cho khách thể kiểm toán vay tiền)
- Chịu trách nhiệm trước những người sở hữu chứng khoán của các Công ty cổ phần.
II. Những vấn đề cơ bản trong việc niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.
Cơ sở pháp lý cao nhất cho đến nay điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam là Nghị định số 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán và Thông tư số 01/1998/TT-UBCK ngày 13 tháng 10 năm 1998 của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước hướng dẫn chi tiết Nghị định nói trên.
Trong hai văn bản pháp lý này, có nêu lên những nội dung cơ bản liên quan đến tổ chức phát hành cổ phiếu, trái phiếu lần đầu tiên ra công chúng như sau:
- Điều kiện các Công ty niêm yết:
+ Vốn điều lệ: 10 tỷ VNĐ trở lên
+ 2 năm hoạt động gần đây nhất có lãi liên tục.
+ Tối thiểu20% vốn cổ phần hoặc 20% tổng giá trị trái phiếu xin phép phát hành phải bán cho trên 100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành.
- Các báo cáo tài chính phải được kiểm toán hàng năm và công khai cho các đối tượng: Nhà nước, các ngân hàng, những nhà đầu tư...
- Số lượng cổ phiếu Nhà nước nắm giữ tối đa: không vượt quá 50% tổng số lượng cổ phiếu phát hành.
Cho đến nay, ở Việt Nam có 7 Công ty chính thức được niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung, bao gồm:
+ Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE).
+ Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (LAFOOCO).
+ Công ty cổ phần kho vận giao nhận ngoại thương thành phố Hồ Chí Minh (TRANSIMEX).
+ Công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO).
+ Công ty cổ phần cáp và vật liệu Viễn thông (SACOM).
+ Công ty cổ phần khách sạn Sài Gòn (SGH).
+ Công ty cổ phần đồ hộp (CANFOCO).
III/ Một số quy định về việc lựa chọn tổ chức kiểm toán độc lập cho các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán.
Việc lựa chọn tổ chức kiểm toán độc lập cho các tổ chức phát hành chứng khoán và các tổ chức kinh doanh chứng khoán được thực hiện theo Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán và Uỷ ban chứng khoán Nhà nước có quy định cụ thể như sau:
Các tổ chức kiểm toán độc lập được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước chấp thuận kiểm toán các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán là các tổ chức kiểm toán được quy định tại Điều 4 Chương I Quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo Nghị định số 07/CP ngày 29/1/1994 của Chính phủ và thông tư hướng dẫn số 22-TC/CĐKT ngày 19/3/1994 của Bộ tài chính. Ngoài ra, phải có thêm các điều kiện quy định cụ thể như sau:
- Đang hoạt động hợp pháp theo các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.
- Có mức vốn điều lệ hoặc vốn chủ sở hữu từ 2 tỷ đồng trở lên đối với tổ chức kiểm toán trong nước, 300000 USD trở lên đối với tổ chức kiểm toán nước ngoài hoặc liên doanh.
- Có đội ngũ kiểm toán viên được cấp giấy phép hành nghề kiểm toán tại Việt nam từ 10 người trở lên và đáp ứng đủ một số điều kiện sau:
+ Có giấy phép hành nghề kiểm toán (còn thời hạn) do Bộ tài chính Việt Nam cấp và đang đăng ký hành nghề tại một tổ chức kiểm toán độc lập hợp pháp tại Việt Nam.
+ Kiểm toán viên Việt Nam phải là kiểm toán viên chuyên nghiệp có ít nhất 2 năm kinh nghiệm hành nghề kiểm toán tại các tổ chức kiểm toán độc lập.
+ Kiểm toán viên người nước ngoài đã được Bộ tài chính cấp giấy phép hành nghề, phải có ít nhất 5 năm kinh nghiệm hành nghề kiểm toán tại Việt Nam.
+ Không phải là cổ đông hoặc người đại diện hợp pháp cho cổ đông có quyền bỏ phiếu của Tổ chức phát hành hoặc Công ty kinh doanh chứng khoán được kiểm toán.
+ Không phải là thành viên Ban điều hành của Tổ chức phát hành hoặc Công ty kinh doanh chứng khoán được kiểm toán.
+ Không phải là khách hàng đang hưởng những điều kiện ưu đãi của Tổ chức phát hành hoặc Công ty kinh doanh chứng khoán được kiểm toán.
+ Không có quan hệ họ hàng thân thuộc như bố, mẹ, vợ, chồng, con cái, anh chị em ruột với những người trong bộ máy quản lý, Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, trưởng phó phòng và những người có chức vụ tương đương trong Tổ chức phát hành hoặc Công ty kinh doanh chứng khoán được kiểm toán.
- Có kinh nghiệm hoạt động kiểm toán tại Việt nam tối thiểu là 5 năm tính đến ngày nộp đơn tham gia kiểm toán
- Có số lượng khách hàng kiểm toán hàng năm tối thiểu là 50 đơn vị
- Phải nộp đủ hồ sơ đăng ký tham gia kiểm toán và được sự chấp thuận của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước.
Theo những quy định này, hiện nay ở Việt Nam có Công ty kiểm toán độc lập được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cho phép kiểm toán đối với các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán, bao gồm:
+ Công ty kiểm toán Việt Nam (VACO).
+ Công ty kiểm toán và dịch vụ tin học (AISC).
+ Công ty kiểm toán và tư vấn (AASC).
+ Công ty kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán Sài Gòn (AFC).
+ Công ty kiểm toán và tư vấn A&C (A&C).
Phần II
Thực trạng kiểm toán báo cáo tài chính
tại các Công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam hiện nay
I/ Những nhân tố ảnh hưởng đến việc kiểm toán báo cáo tài chính tại các Công ty niêm yết.
Thuận lợi.
Ngay từ trước khi thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam ra đời, các cơ quan, ban ngành, các đơn vị, tổ chức có liên quan đã có sự chuẩn bị rất chu đáo trong việc nghiên cứu, ban hành các chủ trương, chính sách làm cơ sở cho sự hoạt động vững chắc và có hiệu quả của thị trường này.Có thể sơ qua một số nét cơ bản sau:
- Nhà nước luôn cố gắng tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động của thị trường: tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức phát hành và Công ty kinh doanh chứng khoán hoạt động, kịp thời ban hành các quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch, các chuẩn mực về chế độ kế toán chứng khoán...
- Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp thời gian vừa qua tuy chưa đạt mục tiêu đề ra nhưng được đánh giá là thành công, tạo điều kiện cho các đơn vị, tổ chức tích cực nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phấn đấu trở thành đơn vị được niêm yết trên thị trường chứng khoán.
- Các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài ngày càng quan tâm đến sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán.
- Hoạt động kiểm toán trải qua hơn 10 năm tồn tại và phát triển ngày càng khẳng định được vị trí của mình với tư cách là một công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế.
- Các Công ty kiểm toán ngày càng quan tâm hơn đến thị trường chứng khoán, phấn đấu trở thành tổ chức được phép kiểm toán trên thị trường chứng khoán.
- Trình độ của kiểm toán viên ngày càng được nâng cao.
- Chất lượng kiểm toán ngày càng được nâng cao, giá trị các kết quả kiểm toán của kiểm toán viên và Công ty kiểm toán (báo cáo kiểm toán) dần dần được ghi nhận và khẳng định.
Khó khăn.
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, việc kiểm toán báo cáo tài chính tại các Công ty niêm yết còn có những vướng mắc sau:
- Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng Nhà nước ta vẫn chưa ban hành được một hệ thống các văn bản pháp quy thống nhất trong tổ chức và hoạt động của thị trường, gây khó khăn cho các Công ty được niêm yết trong việc ổn định, mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động phát hành cổ phiếu..., từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến công tác kiểm toán các báo cáo tài chính.
- Hiện nay chỉ có 6 tổ chức kiểm toán độc lập được phép của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước thực hiện kiểm toán trên thị trường chứng khoán (chủ yếu là các Công ty kiểm toán trong nước) với số lượng kiểm toán viên còn quá ít ỏi so với số lượng các Công ty cổ phần hoá đầy tiềm năng được niêm yết.
- Trình độ nghiệp vụ của các kiểm toán viên còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu kiểm toán tại các Công ty có quy mô lớn, từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của công chúng đầu tư khi sử dụng các kết quả kiểm toán.
- Chưa có sự thống nhất trong việc áp dụng các chuẩn mực về chế độ kế toán tại các Công ty niêm yết đẫn tới việc các số liệu kiểm toán dù có được trình bày trung thực thì vẫn gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc phân tích, so sánh tình hình tài chính của doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc ra các quyết định đầu tư.
- Phần lớn các nhà đầu tư chưa hiểu biết thế nào là kiểm toán báo cáo tài chính và không nhận thức được hết những lợi ích mà kiểm toán báo cáo tài chính mang lại.
II/ Thực tế về kiểm toán báo cáo tài chính tại Các Công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Thực trạng môi trường thông tin.
Đối với thị trường chứng khoán, việc công khai hoá các báo cáo tài chính của các Công ty và tổ chức niêm yết là yếu tố rất quan trọng, quyết định đến sự vận hành của thị trường chứng khoán. Vì khác với những hàng hoá thông thường khác, hàng hoá trên thị trường chứng khoán có tính chất đặc thù riêng là không thể dùng thử trước khi mua nên khi quyết định mua hay bán các chứng khoán, yêu cầu đầu tiên của các nhà đầu tư là phải có đầy đủ các yếu tố thông tin cần thiết. Riêng với Việt nam, khi mà thị trường mới đang ở trong giai đoạn chập chững những bước đi đầu thì ý nghĩa của việc công khai hoá thông tin lại càng trở nên cấp thiết.
Từ những ý nghĩa như vậy, có thể thấy bên cạnh việc hoàn thiện công tác kế toán, việc xây dựng một môi trường thông tin đầy đủ có ý nghĩa sống còn đối với sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán nước ta. Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam lại tồn tại một điều trái ngược với mong muốn nói trên. Đó là thực trạng cổ phần hoá nội bộ, tâm lý e ngại công khai hoá các thông tin tài chính, ít tiếp xúc và không muốn cung cấp đầy đủ các thông tin cho các Công ty kiểm toán. Đó đang là những vấn đề hết sức nghiêm trọng, làm tăng khoảng cách giữa những đơn vị sử dụng vốn với công chúng đầu tư trực tiếp đầu tư vào thị trường. Thêm vào đó, hành lang pháp lý chưa chặt chẽ rõ ràng làm cho sự thiệt thòi nghiêng về phía những người sử dụng thông tin.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc cung cấp các quy tắc và nền tảng buộc mọi chủ thể phát hành chứng khoán phải tuân theo (từ việc lập các chứng từ, chuẩn bị các báo cáo tài chính theo các nguyên tắc kế toán chung), áp dụng các kỹ thuật và phương pháp kiểm toán hiện đại đảm bảo độ tin cậy của thông tin công bố và uy tín của mình đối với các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán, hệ thống kế toán và kiểm toán vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của nhu cầu thị trường. Theo một số chuyên gia tài chính, mức độ xã hội hoá của thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất thấp, người dân Việt Nam còn quá thờ ơ với thị trường chứng khoán. Lý do đơn giản là những thông tin tới tay người dân đa số là vắn tắt và rất khó hiểu. Vì vậy, mặc dù báo cáo tài chính của các Công ty niêm yết được các Công ty kiểm toán có tiếng như AASC, VACO... thực hiện, các nhà đầu tư vẫn không thể hiểu rõ về hoạt động của các Công ty này dẫn đến việc họ không chấp nhận và nghiên cứu báo cáo tài chính đã được kiểm toán là lẽ dĩ nhiên. Một lý do nữa khiến cho tình hình "mất đối xứng" trầm trọng trong hệ thống thông tin hiện nay ở nước ta là sự khúc mắc trong giải trình các số liệu không thống nhất giữa chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt nam trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính tại các Công ty niêm yết chứng khoán. Đây là vấn đề tưởng như đơn giản nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ của các nhà đầu tư bởi việc đọc các báo cáo tài chính đã được kiểm toán theo một chế độ kế toán nhất định đã khó, việc xem xét, so sánh trên hai chế độ kế toán khác nhau lại càng phức tạp hơn. Đó là về phía các nhà đầu tư còn đối với các cơ quan Nhà nước, sẽ là rất khó cho họ để ra các quyết định quản lý phù hợp.
Nhận thức được tầm quan trọng này, trong phần II của bài viết, tôi xin tập trung trình bày vào thực trạng kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE), một Công ty trong thời gian vừa qua đã cùng một lúc được kiểm toán theo hai chuẩn mực kế toán khác nhau.
2. Thực trạng kiểm toán báo cáo tài chính chính tại Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE).
a/ Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty REE.
Phần I: Lãi và lỗ
Ngàn ĐVN
Mã số
Chỉ tiêu
Thuyết minh
Năm trước
Năm nay
01
Tổng doanh thu
3.9
187.456.981
231.781.031
02
Trong đó: Doanh thu hàng xuất khẩu
-
-
03
Các khoản giảm trừ
-
-
04
Triết khẩu
-
-
05
Giảm giá
-
-
06
Giá trị hàng bán bị trả lại
(63.314)
(11.265)
07
Thuế xuất khẩu/Thuế môn bài
-
-
08
Thuế tiêu thụ đặc biệt
(2.011.893)
(6.587.948)
10
Doanh thu thuần
185.381.774
225.181.818
11
Giá vốn hàng bán
(140.529.878)
(164.453.425)
20
Lợi nhuận gộp
44.851.896
60.728.393
21
Chi phí bán hàng
3.10
(3.772.537)
(5.584.968)
22
Chi phí quản lý doanh nghiệp
3.11
(15.302.557)
(24.133.336)
30
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
25.776.802
31.010.089
31
Thu nhập hoạt động tài chính
3.12
6.498.593
3.763.566
32
Chi phí hoạt động tài chính
(95.308)
(151.820)
40
Lợi nhuận thuần từ hoạt động tài chính
6.403.285
3.611.746
41
Các khoản thu nhập bất thường
3.13
1.818
2.684.990
42
Chi phí bất thường
(1.220)
(68.807)
50
Lợi nhuận bất thường
598
2.616.183
60
Tổng lợi nhuận trước thuế
32.180.685
37.238.018
70
Thuế thu nhập doanh nghiệp
3.14
(9.385.049)
(6.382.982)
75
Phần hùn thiểu số
222.540
(52.675)
80
Tổng lợi nhuận thuần sau thuế
23.018.176
30.802.361
Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.
Ngàn ĐVN
Mã số
Chỉ tiêu
Số dư đầu kỳ
Số phát sinh trong năm
Số dư cuối kỳ
Phải nộp
Đã nộp
10
I. Thuế
9.357.547
47.842.935
36.196.753
21.003.729
11
1. Thuế GTGT
2.501.811
14.462.366
13.155.285
3.808.892
12
Trong đó thuế GTGT hàng NK
213.392
4.430.491
4.646.221
(2.338)
13
2. Thuế tiêu thụ đặc biệt
432.718
8.729.766
5.799.772
3.362.712
14
3. Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
819.395
17.355.949
13.989.894
4.185.450
15
4. Thuế thu nhập doanh nghiệp
5.091.378
6.382.982
2.286.871
9.187.489
16
5. Thuế trên vốn
-
-
-
-
17
6. Thuế tài nguyên
-
-
-
-
18
7. Thuế nhà đất
-
78.966
78.966
-
19
8. Tiền thuê đất
-
-
-
-
20
9. Các loại thuế khác
512.245
832.906
885.965
459.186
30
II. Các khoản phải nộp khác
(93.424)
110.244
16.820
-
31
1. Các khoản phụ thu
-
-
-
-
32
2. Các khoản phí, lệ phí
-
-
-
-
33
3. Các khoản phải nộp khác
(93.424)
110.244
16.820
-
40
Tổng cộng
9.264.123
47.953.179
36.213.573
21.003.729
Phần III: Thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại và được miễn giảm.
Ngàn ĐVN
Mã số
Chỉ tiêu
Năm nay
I. Thuế GTGT được khấu trừ
10
1. Số thuế GTGT còn được khấu trừ còn được hoàn lại đầu kỳ
-
11
2. Số thuế GTGT được khấu trừ phát sinh
9.744.795
12
3. Số thuế GTGT đã được khấu trừ, đã được hoàn lại trong kỳ
9.744.795
Trong đó:
13
a. Số thuế GTGT đã khấu trừ.
8.234.511
14
b. Số thuế GTGT đã hoàn lại
-
15
c. Số thuế GTGT không được khấu trừ
1.510.284
16
4. Số thuế GTGT còn được khấu trừ, còn được hoàn lại cuối kỳ.
-
II. Thuế GTGT được hoàn lại
-
20
1. Số thuế GTGT được hoàn lại đầu kỳ.
-
21
2. Số thuế GTGT được hoàn lại.
-
22
3. Số thuế GTGT đã hoàn lại.
-
23
4. Số thuế GTGT còn được hoàn lại cuối kỳ.
-
III. Thuế GTGT được miễn giảm.
30
1. Số thuế GTGT còn được miễn giảm đầu kỳ.
-
31
2. Số thuế GTGT được miễn giảm.
-
32
3. Số thuế GTGT đã được miễn giảm.
-
33
4. Số thuế GTGT còn được miễn giảm cuối kỳ.
Saigon Riverside Office Center
2A - 4A Ton Duc Thang
District 1
Ho Chi Minh city
S.R.of Vietnam
Phone: 84-8-824 5252
Fax: 84-8-824-5252
Báo cáo kiểm toán
Các báo cáo tài chính hợp nhất của Công ty cổ phần cơ điện lạnh cho năm kết thúc ngày 31 tháng 12 năm 2000
Chúng tôi đã kiểm toán bảng cân đối kế toán hợp nhất của Công ty cổ phần Điện cơ lạnh ("Công ty") và công ty trực thuộc ("Nhóm Công ty") vào ngày 31 tháng 12 năm 2000, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất và báo cáo lưu chuyển tiền tệ hợp nhất có liên quan cho năm kết thúc cùng ngày từ trang 4 đến trang 26. Các báo cáo tài chính này thuộc trách nhiệm của Hội đồng Quản trị của Nhóm công ty trách nhiệm của chúng tôi là đưa ra ý kiến đối với các báo cáo tài chính hợp nhất này dựa trên việc kiểm toán của chúng tôi.
Chúng tôi đã tiến hành kiểm toán theo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và Quốc tế. Các chuẩn mực này quy định chúng tôi phải lập kế hoạch và thực hiện việc kiểm toán để thu được mức tin cậy hợp lý về việc các báo cáo tài chính không có những sai sót trọng yếu. Việc kiểm toán bao gồm việc kiểm tra theo phương pháp chọn mẫu, các bằng chứng về số liệu và thuyết minh trên các báo cáo tài chính hợp nhất. Việc kiểm toán cũng bao gồm việc đánh giá các nguyên tắc kế toán đã được áp dụng và các ước tính và xét đoán quan trọng của Hội đồng Quản trị cũng như đánh giá việc trình bày tổng quát các báo cáo tài chính. Chúng tôi tin rằng công việc kiểm toán của chúng tôi cung cấp cơ sở hợp lý cho ý kiến kiểm toán.
Như được trình bày trong Thuyết minh số 2, các báo cáo tài chính hợp nhất kèm theo không nhằm trình bày tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình lưu chuyển tiền tệ theo các thông lệ và các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi ở các nước và các khu vực khác bên ngoài Việt Nam.
Theo ý kiến của chúng tôi, các báo cáo tài chính hợp nhất phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính của Nhóm công ty vào ngày 31 tháng 12 năm 2000, kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình lưu chuyển tiền tệ cho năm kết thúc cùng ngày phù hợp với Hệ thống kế toán Việt Nam và tuân thủ các quy định có liên quan.
Gérard Holtzer
Giám đốc
Kiểm toán viên Công chứng
Số đăng ký: N.0246/KTV
Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày 15 tháng 3 năm 2001
Tô Quang Tùng
Kiểm toán viên Phụ trách
Kiểm toán viên Công chứng
Số đăng ký: 0270/KTV
b/ Giải trình chênh lệch số liệu trong báo cáo tài chính năm 1999 theo chuẩn mực kế toán quốc tế và hệ thống kế toán Việt Nam của Công ty REE.
Ngày 9/8/2001, Công ty REE đã gửi Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh công văn số 688/CĐL giải trình về việc chênh lệch số dư cuối kỳ năm 1999 và số dư đầu kỳ năm 2000 của báo cáo tài chính hợp nhất năm 2000 của Công ty REE. Chi tiết các khoản chênh lệch giữa chuẩn mực kế toán quốc tế và hệ thống kế toán Việt Nam được trình bày cụ thể trong bảng kê sau đây:
So Sánh báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất
( Cho năm tài chính kết thúc ngày 31 tháng 12 năm 1999)
Đơn vị: ngàn đồng VN
Mã số
Chỉ tiêu
Theo HTKTVN
Theo CMKTQT
Chênh lệch
01
Tổng doanh thu
187456981
182579728
(4877253)
02
Doanh thu hàng xuất khẩu
-
-
-
03
Các khoản giảm trừ
-
-
-
04
Chiết khấu
-
-
-
05
Giảm giá
-
-
-
06
Giá trị hàng bán trả lại
(63314)
(63624)
(310)
07
Thuế xuất khẩu/thuế môn bài
-
-
-
08
Thuế tiêu thụ đặc biệt
(2011893)
(2011893)
-
10
Doanh thu thuần
185381744
180504210
(4877564)
11
Giá vốn hàng bán
(140529878)
(140783053)
(253175)
20
Lợi nhuận gộp
44851896
39721157
(5130738)
21
Chi phí bán hàng
(3772537)
(2047464)
1725073
22
Chi phí quản lý doanh nghiệp
(15302557)
(26528140)
(11225583)
30
Lợi nhuận thuần từ HĐKD
25776802
11145553
(14631249)
31
Thu nhập hoạt động tài chính
6498593
7123395
624802
32
Chi phí hoạt động tài chính
(95308)
(199793)
(104485)
40
Lợi nhuận thuần từ HĐTC
6403285
6923602
520317
41
Các khoản thu nhập bất thường
1818
688000
686182
42
Chi phí bất thường
(1220)
(1220)
-
50
Lợi nhuận bất thường
598
686780
686182
60
Tổng lợi nhuận trước thuế
32180685
18755935
(13424750)
70
Thuế thu nhập doanh nghiệp
(9385049)
(11016839)
(1631790)
75
Phần hùn thiểu số
222540
222540
-
80
Tổng lợi nhuận sau thuế
23018176
7961636
(15056539)
Trước khi niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ năm 1993 đến 1999, Công ty REE đã đề nghị Công ty kiểm toán quốc tế ernst&Young kiểm toán các báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán quốc tế (CMKTQT) với mục đích để cho các nhà đầu tư nước ngoài tham khảo. Đối với các cơ quan chức năng, quản lý Nhà nước về thuế và tài chính, Công ty REE vẫn lập và gửi các báo tcáo tài chính theo đúng quy định của hệ thống kế toán Việt Nam (HTKTVN).
Sau khi niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, căn cứ khoản 5 điều 38 Nghị định 48/1998/NĐ-CP và khoản 3 điều 32 Quyết định 79/2000/QĐ -UBCK, Công ty REE đã đề nghị Công ty ernst&Young tiến hành kiểm toán các._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35128.doc