Báo cáo Kiểm toán chu trình bán hàng - Thu tiền trong kiểm toán tài chính do AASC thực hiện

Lời nói đầu Trong mỗi tổ chức , báo cáo tài chính hàng năm là đối tượng quan tâm cua rất nhiều người : Các chủ doanh nghiệp , các nhà đầu tư, các cơ quan chủ quản của Nhà nước , nhân viên trong doanh nghiệp… Do đó, để có được các thông tin chính xác và tin cậy là điều rất quan trọng và cần thiết. Để làm được điều đó thì cần phải có một bên thứ ba độc lập được thừa nhận rộng rãi thực hiện kiểm tra và đưa ra các kết luận về Báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Các công việc này được các Công ty k

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1357 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Kiểm toán chu trình bán hàng - Thu tiền trong kiểm toán tài chính do AASC thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểm toán thực hiện và đưa ra các ý kiến tin cậy về Báo cáo tài chính của khách hàng được lập có chính xác không, xét trên các khía cạnh trọng yếu. Kiểm toán Báo cáo tài chính được thực hiện với từng chu trình trong chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp . Các chu trình này có mối liên quan trực tiếp với nhau, đầu ra của chu trình này lại là đầu vào cho chu trình tiếp theo, vì vậy chúng như là những mắt xích trong một sợi dây, không thể thiếu một chu trình nào, nếu không chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị đứt đoạn và doanh nghiệp ngừng hoạt động. Chu trình bán hàng - thu tiền là một mắt xích trong sợi dây quan trọng đó. Chu trình bán hàng - thu tiền càng quan trọng hơn khi kết quả của nó thể hiện hàng loạt các khoản mục quan trọng trên Báo cáo tài chính và là đối tượng quan tâm của rất nhiều người. Nhận thức được tầm quan trọng của chu trình, trong thời gian thực tập tại Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán (AASC) em đã chọn đề tài : “Kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền trong kiểm toán Báo cáo tài chính do AASC thực hiện” Đề tài được chia làm ba phần : Phần I : Cơ sở lý luận của kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền trong kiểm toán Báo cáo tài chính. Phần II : Thực trạng kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính tại AASC. Phần III : Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn hoạt động của AASC và kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện chu trình bán hàng thu tiền do AASC thực hiện. Trong quá trình nghiên cứu, do những hạn chế chủ quan và khách quan, đề tài của em không thể tránh khỏi sai sót. Vì vậy, em mong được sự góp ý của thầy giáo , cô giáo và các cô chú anh chị tại AASC để em có thể hoàn thiện đề tài tốt hơn. Em xin gửi lời cảm ơn tới thầy giáo Ngô Trí Tuệ- Thầy giáo hướng dẫn em trong thời gian thực tập và ban lãnh đạo AASC đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề. Phần I Cơ sở lý luận của kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính I. Chu trình bán hàng - thu tiền trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1. Đặc điểm của chu trình bán hàng - thu tiền. Trong doanh nghiệp sản xuất, để tồn tại và duy trì các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì quá trình kinh doanh của doanh nghiệp phải nối tiếp liên tục và lặp đi lặp lại tạo thành những chu kỳ sản xuất. Thực tế chu kỳ sản xuất bao gồm các chuỗi nghiệp vụ có liên quan chặt chẽ với nhau toạ thành chu kỳ nghiệp vụ cơ bản. chu kỳ kinh doanh tại một doanh nghiệp thường bắt đầu từ khi doanh nghiệp tạo vốn có thể bằng vốn tự có hoặc nguồn vốn vay mượn để phục vụ cho sản xuất, kết thúc giai đoạn sản xuất thì công đoạn cuối cùng của chu kỳ kinh doanh là việc tiêu thụ sản phẩm đồng thời là quá trình thu tiền từ hoạt động bán hàng để thu hồi lại vốn kinh doanh. Chu trình hoạt động bán hàng - thu tiền chấm dứt một quá trình kinh doanh để bắt đầu quá trình kinh doanh tiếp theo . Như vậy, quá trình kinh doanh bao gồm các chu kỳ diễn ra liên tục, đều đặn và mỗi chu kỳ đều là mắt xích quan trọng không thể thiếu được. Trong đó kết quả của chu trình bán hàng - thu tiền không chỉ phản ánh riêng kết quả của chu trình mà còn phản ánh toàn bộ kết quả quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Bán hàng và thu tiền là quá trình chuyển đổi quyền sở hữu của hàng hoá qua quá trình trao đổi hàng tiền. Với ý nghĩa như vậy, quá trình này bắt đầu từ yêu cầu mua của khách hàng và kết thúc bằng việc chuyển đổi hàng hoá thành tiền. Trong trường hợp này, hàng hoá và tiền tệ được xác định theo bản chất kinh tế của chúng. Hàng hoá là những tài sản hay dịch vụ chứa đựng giá trị và có thể bán được : tiền tệ là phương tiện thanh toán nhờ đó mọi người quan hệ giao dịch được giải quyết tức thời. Tuy nhiên ranh giới của bán hàng - thu tiền được thể chế hoá trong từng thời kỳ và từng đối tượng cụ thể khác nhau. Theo chế độ kế toán hiện hành của Việt Nam, quá trình tiêu thụ được thực hiện khi hàng hoá, dịch vụ đã được chuyển giao cho người mua và người mua trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán. về bản chất, bán hàng - thu tiền là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đồng thời tạo vốn để tái sản xuất mở rông. Thực hiện tốt quá trình nay, doanh nghiệp mới có thể thu hồi vốn và có lãi -một nguồn thu quan trọng để tích luỹ và ngân sách và các quỹ của doanh nghiệp nhằm mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao đời sống người lao động. Dưới góc độ kiểm toán, chu trình bán hàng - thu tiền liên quan đến nhiều chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh. Đây là những chỉ tiêu cơ bản mà những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp dùng để phân tích khả năng thanh toán, hiệu quả kinh doanh , triển vọng phát triển cũng như rủi ro tiềm tàng trong tương lai, vì thế các chỉ tiêu này thường bị phản ánh sai lệch. Để có thể có được những hiểu biết sâu sắc về chu trình thì trước hết phải nắm được các đặc điểm của chu trình. Các đặc điểm của chu trình bán hàng - thu tiền gồm có : - Mật độ phát sinh của các nghiệp vụ là tương đối lớn. - Có liên quan đến các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. - Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của quy luật cung - cầu. - Các chỉ tiêu dễ bị phản ánh sai lệch. - Các quan hệ thanh toán trong mua bán rất phức tạp, chiếm dụng vốn của nhau công nợ dây dưa khó đòi. Tuy nhiên, việc lập dự phòng khó đòi lại mang tính chủ quan và thường dựa vào ước đoán của ban giám đốc nên rất khó kiểm tra và thường bị lợi dụng để ghi tăng chi phí. - Rủi ro đối với các khoản mục trong chu kỳ xảy ra theo nhiều chiều hướng khác nhau có thể ghi tăng , ghi giảm hoặc vừa ghi tăng vừa ghi giảm theo ý đồ của doanh nghiệp hoặc một số cá nhân. Vì thế việc kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền tương đối tốn kém và mất thời gian. Với chức năng xác minh và các thông tin về chu trình nói riêng thì kiểm toan viên không thể không xem xét những đặc điểm của chu trình và ảnh hưởng của nó tới phương pháp kiểm toán. 2. Chức năng của chu trình bán hàng - thu tiền. Để thực hiện tốt chu trình bán hàng - thu tiền , trong doanh nghiệp có các bộ phận chức năng khác nhau thực hiện các công việc khác nhau. Quá trình được bắt đầu từ việc phát sinh nhu cầu mua hàng từ giá khách hàng đến khâu tiếp theo như việc phê chuẩn các phương thức bán hàng , cách thức thanh toán và việc tiêu thụ hàng hoá sản phẩm. Thông thường chu trình bán hàng - thu tiền thực hiện 7 chức năng cơ bản sau: (1) Xử lý đơn đặt hàng của khách hàng: khi nhận được đơn đặt hàng của khách hàng gửi đến thì doanh nghiệp phải thực xem xét có nhất trí việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng không. Việc chấp nhận hay không là tuỳ thuộc vào nhu cầu hàng hoá của khách hàng và khả năng cung cấp của doanh nghiệp và các yếu tố khác như giá cả, phương thức thanh toán. (2) Xét duyệt bán chịu : Đối với phương thức bán chịu cho khách, hàng sẽ được chuyển đi sau khi có sự phê chuẩn của người có thẩm quyền trong doanh nghiệp . Việc phê chuẩn phương thức bán chịu được thực hiện tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp quản lý tốt các khoản nợ phải thu. (3) Chuyển giao hàng : Khi hàng hoá được chuyển đi thì chứng từ vận chuyển sẽ được lập, đấy là điều cần thiết cho việc tính tiền đúng số hàng chuyển giao. (4) Gửi hoá đơn cho khách hàng và ghi rõ nghiệp vụ bán hàng . Hoá đơn phải được lập ngay sau khi giao hàng, hoá đơn là phương thức chỉ rõ cho khách hàng số tiền và thời hạn thanh toán đồng thời là căn cứ ghi sổ nhật ký bán hàng và theo dõi các khoản phải thu. (5) Xử lý và ghi số các khoản thu tiền : Sau khi thực hiện các chức năng về bán hàng cùng ghi sổ kế toán các khoản này cần phải thực hiện các chức năng thu tiền cả trong điều kiện bình thường và không bình thường. Trong mọi trường hợp đều cần xử lý và ghi sổ các khoản thông thường về thu tiền bán hàng. (6) Xử lý và ghi sổ các khoản hàng bán bị trả lại và bớt giá . Tất cả các khoản này phải trả được phê chuẩn đúng đắn bởi những người có trách nhiệm và phải được ghi số kế toán một cachs chính xác và nhanh chóng. (7) Dự phòng nợ khó đòi và xoá sổ các khoản phải thu không thu hồi được: Trước khi khoá sổ các tài khoản và chuẩn bị lập BCTC phải tiến hành đánh giá phí tồn kho cho các khoản phải thu không có khả năng thu hồi được qua đó tiến hành lập dự phòng cho các khoản đó. Còn những khoản không thể thu hồi được thì phải xoá sổ kế toán cho các khoản này. 3. Tổ chức kế toán bán hàng - thu tiền. Bán hàng - thu tiền là một giai đoạn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Là giai đoạn thứ hai sau quá trình mua hàng và thanh toán đối với doanh nghiệp thương mại và là giai đoạn tiếp theo giai đoạn sản xuất đối vơi các doanh nghiệp sản xuất. Do vậy, cũng giống như các giai đoạn khác, tổ chức kế toán bán hàng - thu tiền gồm các nội dung sau : (1) Tổ chức chứng từ kế toán : Đó là quá trình thiết kế khối lượng chứng từ và quy trình hạch toán trên chứng từ theo chỉ tiêu hạch tán và đơn vị hạch toán cơ sở. Tổ chức chứng từ kế toán cho chu trình bán hàng - thu tiền được chia làm hai trường hợp : Nhu cầu bán hàng Lưu trữ Bộ phận cung ứng Thủ trưởng, KTT Bộ phận quản lý hàng Kế toán thanh toán Lập chứng từ bán hàng Ký duyệt hoá đơn Giao nhận hàng Ghi sổ và theo dõi thanh toán Trường hợp 1 : Hàng hoá bán ra là sản phẩm vật chất Nhu cầu giao hàng Lưu trữ Bộ phận kinh doanh KTT Thủ quỹ Bộ phận cung cấp Lập hoạt động C2 d vụ Ký duyệt hoá đơn Thu tiền Cung cấp dịch vụ Kế toán bán hàng Ghi sổ doanh thu * Trường hợp 2 : Hàng hoá bán ra là sản phẩm phi vật chất (2) Các tài khoản sử dụng Bộ tài khoản đó bao gồm các tài khoản sau : TK511 : Doanh thu bán hàng TK512 : Doanh thu bán hàng nội bộ TK531 : Hàng bán bị trả lại TK532 : Giảm giá hàng bán TK131 : Phải thu khách hàng TK3387 : Doanh thu nhận trước TK139 : Dự phòng phải thu khó đòi TK641 : Chi phí bán hàng TK642 : Chi phí quản lý doanh nghiệp TK3331 : Thuế VAT đầu ra TK111 : Tiền mặt tại quỹ TK112 : Tiền gửi ngân hàng TK004 : Nợ khó đòi đã xử lý (3) Hệ thống sổ sách sử dụng Trong trường hợp doanh nghiệp áp dụng hình thức sổ nhật ký chung thì hệ thống sổ sách gồm có - Sổ nhật ký chung - Sổ nhật ký thu tiền - Sổ các khoản phải thu - Sổ chi tiết khách hàng nợ - Sổ chi tiết doanh thu bán hàng TK333 TK511,512 TK111,112,131 Thuế XK, tiêu thụ Doanh thu áp dụng phương pháp tính thuế VAT trực tiếp (tổng giá thanh toán) Đvị áp dụng pp VAT khấu trừ TK3331 VAT đầu ra TK531,532 TK3387 Dthu hàng bán Cuối kỳ K/c Doanh thu Doanh thu ghi bị trả lại DT Dthu hàng bán Kỳ này nhận trước giảm giá bị trả lại hoặc giảm giá phát sinh trong TK131,136 TK642 Doanh thu chưa Xoá nợ phải thu TK911 thu tiền khó đòi Cuối kỳ K/c TK004 doanh thu thuần đồng thời ghi TK139 Trình lập dự phòng Hoàn nhập Phải thu khó đòi Dự phòng phải thu khó đòi Khi hàng bán bị trả lại hoặc giảm giá hàng bán phát sinh Dthu bán hàng phát sinh (4) Quy trình hạch toán kế toán chu trình bán hàng -thu tiền 4. Hệ thống kiểm toán nội bộ với chu trình bán hàng - Thu tiền Trong mỗi doanh nghiệp, hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ là khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc điểm và quy mô của doanh nghiệp đó. Với mục đích chung của các doanh nghiệp khi tổ chức, xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm để phục vụ cho công tác kiểm toán kiểm soát và qua đó có thể cung cấp những nguồn thông tin nhanh chóng và đáng tin cậy, giúp cho các nhà quản lý có thể chỉ đạo tốt hoạt động của đơn vị mình đem lại thành công trong công việc. Hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống chính sách, các thủ tục kiểm soát do đơn vị lập nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đề ra của đơn vị. - Bảo vệ tài sản của đơn vị - Bảo đảm độ tin cậy các thông tin - Bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý - Bảo đảm hiệu quả hoạt động và năng lực quản lý Hệ thống kiểm soát nội bộ có vai trò rất quan trọng đối với các hoạt động của Công ty. Cũng như vậy đối với chu trình bán hàng và thu tiền, hệ thống kiểm soát nội bộ giúp cho việc đềiu hành giám sát và hoàn thiện các hoạt động của chu trình. Hệ thống kiểm soát nội bộ gồm 4 yếu tố cấu thành chính : - Môi trường kiểm soát - Hệ thống kế toán - Các thủ tục kiểm soát - Kiểm toán nội bộ Chính vì vậy, việc xây dựng và điều hành tốt hệ thống kiểm soát nội bộ sẽ giúp cho nhà lãnh đạo thành công trong việc điều hành các hoạt động của đơn vị mình. II. Kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính 1.Mục tiêu kiểm toán chu trình bán hàng thu tiền : Trong việc thực hiện kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền của kiểm toán báo cáo tai chính phải xác định rõ phạm vi công việc và mục tiêu của cuộc kiểm toán. Với chu trình bán hàng - thu tiền cũng vậy, phải xác định rõ mục tiêu và phạm vi công việc để làm cơ sở cho việc thu thập bằng chứng kiểm toán để làm cơ sở đưa ra ý kiến của mình về báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán theo chuẩn mực kiểm toán số 200 thì “mục tiêu kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhạan có tuân thủ pháp luật và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không ? Các mục tiêu của kiểm toán có mối quan hệ với những xác nhận của ban quản trị. Do đó, để thực hiện tốt cuộc kiểm toán cần phải hiểu được những xác nhận đó. Năm loại xác nhận của kiểm toán chu trình bán hàng thu tiền gồm : - Xác nhận về sự hiện hữu : Doanh thu trên báo cáo tài chính phản ánh quá trình trao đổi về hàng hoá và dịch vụ thực tế đã xảy ra các khoản phải thu trong bảng cân đối là có thực vào ngày lập các cân đối kế toán. - Xác nhận về tính đầy đủ : Tất cả doanh thu về dịch vụ, hàng hoá, các khoản thu và đã thu đều được ghi sổ và đưa vào báo cáo tài chính. - Xác nhận về quyền sở hữu : Hàng hoá và các khoản phải thu của doanh nghiệp vào ngày lập bảng cân đối tài sản đều thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. - Xác nhận về sự đánh giá và phân loại : Các khoản phải thu khoản doanh thu được phân loại đúng bản chất và được tính đúng đắn. - Xác nhận về sự trình bày : Doanh thu và các khoản phải thu được trình bày trung thực và đúng đắn trên bảng cân đối tài sản hay trên báo cáo tài chính theo đúng hệ thống kế toán của doanh nghiệp và theo các quy định kế toán hiện hành. Bên cạnh các xác nhận của ban quản trị của doanh nghiệp thì các mục tiêu chung và mục tiêu đặc thù của kiểm toán cần phải được xem xét. Mục tiêu chung gồm 2 loại : - Mục tiêu hợp lý chung : Mục tiêu này giúp kiểm toán viên đánh giá số liệu trên các số dư trên tài khoản phải thu khách hàng… có hợp lý hay không xét theo tất cả các thông tin mà kiểm toán viên có được về công việc kinh doanh khách hàng. - Các mục tiêu chung khác bao gồm : + Có căn cứ hợp lý : Số tiền ghi sổ và ghi trên báo cáo tài chính thực sự là số tiền phát sinh trong quá trình xảy ra nghiệp vụ bán hàng và các nghiệp vụ có liên quan. + Tính đầy đủ : Tất cả các nghiệp vụ phát sinh đều được ghi sổ + Quyền sở hữu : Số tiền hoặc tài sản được ghi thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp tại ngày lập báo cáo tài chính. + Sự đánh giá : Tiền và tài sản của doanh nghiệp phải được đánh giá đúng đắn phù hợp với giá trị hiện tại trên thị trường và được ghi trên hoá đơn và trên sổ sách chính xác hợp lý theo từng kỳ. + Sự phân loại : Số tiền được ghi trên sổ phải được phản ánh đúng đắn ghi đúng nội dung tài khoản và các tài khoản phải được trình bày đúng đắn trên báo cáo tài chính. + Ghi chép đúng kỳ: Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều được ghi chép đúng thời gian phát sinh nghiệp vụ, tránh mọi hiện tượng báo cáo thừa hoặc thiếu. + Mục tiêu đặc thù của chu trình bán hàng -thu tiền bao gồm : + Có căn cứ hợp lý: Doanh thu tiền mặt và các khoản phải thu đều phải hiện hữu vào ngày lập báo cáo tài chính. - Tính đầy đủ : Các khoản doanh thu và các khoản phải thu hiện có được tính và ghi vào tài khoản có liên quan. + Quyền sở hữu : Doanh nghiệp có quyền sở hữu đối với các khoản doanh thu, thu nhập khác và các khoản phải thu phát sinh trong kỳ. + Sự đánh giá: Tính giữa đơn giá và số lượng hàng hoá phải được tính đúng và số liệu trên các sổ chi tiết phải được cộng dồn chính xác. + Chính sách chiết khấu phù hợp : Doanh thu và các khoản phải thu thực tế phát sinh phù hợp với các chính sách chiết khấu của đơn vị đề ra. + Sự phân loại : Doanh thu phải được phân loại đúng đắn thành các loại doanh thu bán ra và doanh thu nội bộ, doanh thu hàng bán bị trả lại doanh thu nhận trước. Các khoản phải thu nội bộ và các khoản phải thu khác… + Tính đúng kỳ : Doanh thu và các khoản phải thu được ghi chép đúng kỳ, không có hiện tượng ghi giảm doanh thu và ghi tăng các khoản phải thu và ngược lại. + Trình bày và thể hiện : Doanh thu tiền mặt và các khoản phải thu được trình bày chính xác và hợp lý trên các báo cáo tài chính theo đúng chế độ. 2. Quy trình kiểm toán chu trình bán hàng thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính Sau khi kiểm toán viên đã hoàn thành việc xác định các mục tiêu kiểm toán đặc thù cho chu trình bán hàng thu tiền, yếu tố cấu thành của báo cáo tài chính thì kiểm toán viên bắt đầu các giai đoạn kiểm toán cụ thể. Do chu trình bán hàng - thu tiền có những khoản mục là yếu tố cấu thành báo cáo tài chính nên khi tiến hành kiểm toán cũng phải tuân thủ theo quy trình kiểm toán chung của một cuộc kiểm toán để đảm bảo tính thống nhất. Quy trình kiểm toán là một hệ thống phương pháp rõ ràng của tổ chức một cuộc kiểm toán nhằm giúp cho kiểm toán viên hoàn thành công việc của mình theo đúng các mục tiêu đề ra.  Giai đoạn 1 Giai đoạn 3 Giai đoạn 2 Hoàn tất công tác kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán Thực hiện kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền Lập kế hoạch thiết kế phương pháp kiểm toán của chu trình bán hàng - thu tiền Quy trình kiểm toán gồm 3 giai đoạn : Giai đoạn 1: Lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế phương pháp kiểm toán (1) Lập kế hoạch kiểm toán : Kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền là một chu trình của kiểm toán tài chính. Vì vậy, nhiệm vụ chung của kiểm toán chu trình là triển khai các chức năng kiểm toán thông qua việc vận dụng các phương pháp kiểm toán thích hợp với đặc thù của phần hành này thông qua các bước trong quy trình kiểm toán. Để cso kế hoạch kiểm toán cụ thể cho một khách hàng nói chung và kế hoạch kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền nói riêng, kiểm toán viên thường thực hiện các bước sau : Bước 1 : Chuẩn bị kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền: Trong bước này phải thực hiện các công việc sau: - Thứ nhất, phải xác định mục tiêu và phạm vi kiểm toán. Mục tiêu và phạm vi kiểm toán cần phải xác định cụ thể đối với từng mục kiểm toán . Mục tiêu kiểm toán là cái đích cần đạt tới đồng thời là thước đo kết quả kiểm toán cho mỗi chu trình kiểm toán cụ thể. Mục tiêu chung phải gắn với mục tiêu riêng yêu cầu của quản lý. Do vậy, mục tiêu của kiểm toán phải tuỳ thuộc vào quan hệ giữa chủ thể và khách thể kiểm toán, tuỳ thuộc vào loại hình cụ thể. Phạm vi kiểm toán là sự giới hạn về không gian và thời gian của đối tượng kiểm toán, thường được xác định đồng thời với mục tiêu kiểm toán và là một hướng cụ thể xác định mục tiêu này với một khách thể kiểm toán cần xác định rõ đối tượng cụ thể của kiểm toán : Bảng cân đối tài sản hay toàn bộ các bảng khai tài chính… - Thứ hai, chỉ định người phụ trách công việc kiểm toán và chuẩn bị các điều kiện vật chất cơ bản. Để thực hiện tốt và có hiệu quả cuộc kiểm toán báo cáo tài chính thì lãnh đạo công ty kiểm toán cần bố trí đội ngũ nhân viên có trình độ nghề nghiệp tuỳ thuộc vào nhu cầu của cuộc kiểm toán, hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của cuộc kiểm toán đó. - Thứ ba, lập hợp đồng kiểm toán. Sau khi thực hiện xong các bước công việc trên thì Công ty kiểm toán và khách hàng sẽ lập hợp đồng kiểm toán. Hợp đồng kiểm toán là tài liệu nêu rõ trách nhiệm của Công ty kiểm toán, trách nhiệm của Công ty khách hàng, thời gian tiến hành cuộc kiểm toán , giá phí kiểm toán hay phạm vi cuộc kiểm toán. - Thứ tư, thu thập những thông tin phục vụ cho việc kiểm toán: Để thực hiện tốt công việc kiểm toán nói chung và kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền nói riêng thì kiểm toán viên cần phải có những hiểu biết về công việc kinh doanh của khách hàng và kiến thức về lĩnh vực kinh doanh của Công ty khách hàng. Khi tiến hành kiểm toán có rất nhiều cách khác nhau để thu thập thông tin cơ sở. Thông thường thông tin cơ sở được thu thập dưới các hình thức sau : Qua tìm hiểu về doanh nghiệp: kiểm toán viên tiến hành tìm hiểu về doanh nghiệp để thu thập những thông tin về cơ cấu tổ chức, loại hình kinh doanh hat phương pháp kế toán áp dụng tại doanh nghiệp. Qua tham quan nhà xưởng: Tất cả những thông tin thu thập được qua tìm hiểu doanh nghiệp chủ yếu trên giấy tờ, tài liệu ở văn phòng của Công ty. Do đó, tham quan nhà xưởng sẽ giúp cho kiểm toán viên có cách nhìn thực tế hơn về các phương tiện vật chất, giúp cho việc hiểu biết được công tác bảo vệ tài sản và giúp cho việc thuyết minh số liệu kế toán bằng cách đưa ra một khung tham gia qua đó hình dung ra những tài sản này như: sản phẩm đang chế tạo và máy móc thiết bị, phân xưởng để chế tạo ra hàng hoá . Xem xét qua các chính sách của Công ty: Nhiều chính sách của Công ty được phản ánh trên báo cáo tài chính là một phần của cơ cấu kiểm soát nội bộ. Qua phỏng vấn : Kiểm toán viên có thể thu được những thông tin cơ sở qua việc phỏng vấn trong nôi bộ Công ty hoặc bên ngoài. Thu thập những thông tin về trách nhiệm pháp lý của khách hàng để làm cơ sở phục vụ cho kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền. Các thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng được trình bày trên các tài liệu như : + Hồ sơ thành lập : Đây là tài liệu về thông tin của doanh nghiệp về quá trình thành lập Công ty khách hàng, về vốn thành lập cơ cấu của bộ máy quản lý. + Biên bản các cuộc họp : Biên bản sẽ cung cấp những thông tin quan trọng để xác định xem các báo cáo tài chính đó có thật đúng không? + Hợp đồng : Đây là những tài liệu cung cấp những thông tin về nghĩa vụ pháp lý của Công ty khách hàng trong việc thực hiện công việc kinh doanh, việc cung cấp các dịch vụ, hàng hoá mà Công ty khách hàng đã ký kết với bạn hàng của họ, đây cũng là bằng chứng thiết thực nói lên quá trình kinh doanh của đơn vị có được ổn định và phát triển qua các thời kỳ kế toán hay không. Bước 2: Đánh giá trọng yếu và rủi ro trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính nói chung và kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền nói riêng: Nếu ở các bước trên, kiểm toán vien mới chỉ thu thập thông tin mang tính khách quan về khách hàng thì ở bước này, kiểm toán viên sẽ căn cứ vào các thông tin đã thu thập để đánh giá, nhận xét nhằm đưa ra một kế hoạch kiểm toán phù hợp. * Đánh giá tính trọng yếu: Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ (hay quy mô) và bản chất của các sai phạm (kể cả bỏ sót) của các thông tin tài chính hoặc đơn lẻ, hoặc là từng nhóm mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì không thể chính xác hoặc là sẽ rút ra kết luận sai lầm. Kiểm toán viên cần đánh giá mức trọng yếu cho toàn bộ báo cáo tài chính và phân bổ mức đánh giá này cho từng khoản mục trên báo cáo tài chính. - Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu : Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà kiểm toán viên tin rằng ở mức đó các báo cáo tài chính có thể sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định cuả người sử dụng thông tin tài chính. Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu giúp cho kiểm toán viên lập kế hoạch thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp. Tuy nhiên để xây dựng được các ước lượng ban đầu không phải là điều dễ dàng mà đòi hỏi phải có những phán xét xác đáng về chuyên môn: Cho nên khi tiến hành công việc này, những kiểm toán viên có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cao thường được chủ định thực hiện. Khi xây dựng mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu, kiểm toán viên cần lưu ý những yếu tố ảnh hưởng sau: + Tính trọng yếu là một khái niệm tương đối hơn là một khái niệm tuyệt đối, nó gắn liền với quy mô của Công ty khách hàng. Do vậy, viêc xác định và chỉ dẫn ra một mức giá trị cụ thể bằng tiền cho sự ước lượng ban đầu về tính trọng yếu áp dụng cho tất cả khách hàng là điều không thể làm được. + Yếu tố định lượng của tính trọng yếu: Quy mô sai phạm là một yếu tố quan trọng để xem xét liệu các sai phạm có trọng yếu hay không. Tuy nhiên do trọng yếu mang tính chất tương đối nên việc có đươck các cơ sở để quyết định xem một quy mô của sai phạm nào có là trọng yếu hay không là một điều cần thiết. + Yếu tố định tính của tính trọng yếu : Trong thực tế, để đánh giá một sai phạm có trọng yếu hay không, kiểm toán viên phải đánh giá cả về mặt quy mô và bản chất. Một hành vi gian lận luôn được coi là trọng yếu bất kể quy mô. - Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục: Sau khi kiểm toán viên đã có được ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho toàn bộ báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần phân bổ mức ước lượng này cho từng khoản mục trên báo cáo tài chính. Đó cũng chính là sai số có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục. Mục đích của việc phân bổ này là để giúp kiểm toán viên xác định được số lượng bằng chứng kiểm toán thích hợp phải thu thập đối với từng tài khoản ở mức chi phí thấp nhất mà vẫn có thể đảm bảo công việc. * Đánh giá rủi ro: Trong giai đoạn lập kế hoạch, kiểm toán viên và Công ty kiểm toán phải xác định mức độ rủi ro kiểm toán có thể xảy ra là cao hay thấp bao gồm đánh giá rủi ro tiềm tàng (rủi ro cố hữu), rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Rủi ro kiểm toán (AR) là rủi ro do Công ty kiểm toán và kiểm toán viên đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm rủi ro cố hữu, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Rủi ro cố hữu (IR) là khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính có chứa đựng sai soát trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thông kiểm soát nội bộ. Để đánh giá rủi ro cố hữu kiểm toán viên dựa vào các yếu tố ảnh hưởng sau: - Bản chất kinh doanh của khách hàng - Tính trung thực của ban giám đốc - Kết quả các lần kiểm toán trước - Hợp đồng kiểm toán lần đầu và hợp đồng kiểm toán dài hạn - Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên - Các ước tính kế toán - Quy mô của các số dư tài khoản. Như vậy, kiểm toán viên cần đánh giá lần lượt các yếu tố trên và quyết định mức rủi ro cố hữu thích hợp đối với từng khoản mục trên báo cáo tài chính. Rủi ro kiểm soát (CR): là khả năng xảy ra các sai phạm trọng yếu do hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị khách hàng không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu qủa do đó đã không phát hiện và ngăn chặn các sai phạm nay. Rủi ro kiểm soát là cao trong các trường hợp : - Hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ không được áp dụng đúng - Việc đánh giá sự áp dụng của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ được xem là không đủ. Rủi ro phát hiện (DR): Là khả năng xảy ra các sai soát hoặc gian lận trên báo cáo tài chính mà không được ngăn chặn hay phát hiện bởi hệ thống kiểm soát nội bộ và cũng không được kiểm toán viên phát hiện trong quá trình kiểm toán. Trong quá trình kiểm toán, rủi ro phát hiện phát sinh do ảnh hưởng của các nhân tố sau: + Các bước kiểm toán không thích hợp + Phát hiện ra bằng chứng nhưng không nhận thức được sai sót + Kiểm toán viên hoàn toàn không phát hiện ra sai phạm do có sự thông đồng, gian lập giữa các cấp. - Mối quan hệ giữa các loại rủi ro : Giữa rủi ro kiểm toán với rủi ro phát hiện, rủi ro cố hữu, rủi ro kiểm soát có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ được thể hiện qua công thức : AR = IR x DR x CR Ngoài ra , rủi ro phát hiện, rủi ro cố hữu và rủi ro kiểm soát cũng có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện qua bảng dưới đây: Đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro kiểm soát Đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro tiềm tàng (rủi ro cố hữu) Cao (1) (2) (3) Trung bình (2) (3) (4) Thấp (3) (4) (5) Sự biến đổi của rủi ro phát hiện thông qua đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro cố hữu và rủi ro kiểm soát được thể hiện bằng con số (từ (1) đ (5) ) ở bảng trên. Rủi ro phát hiện có 5 mức: (1) Thấp nhất (2) Thấp (3) Trung bình (4) Cao (5) Cao nhất Như vậy mức độ rủi ro phát hiện tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. * Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán: Mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ ngược chiều nhau nghĩa là nếu mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. Kiểm toán viên phải quan tâm đến mối quan hệ này khi xác định bản chất thời gian, phạm vi của thủ tục kiểm toán cần thực hiện. Bước 3: Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng và đánh giá rủi ro kiểm soát. Trong kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần phải đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và rủi ro kiểm soát không chỉ để xác minh tính hữu hiệu của kiểm soát nội bộ mà còn làm cơ sở cho việc xác định phạm vi thực hiện các thử nghiệm cơ bản trên số dư và nghiệp vụ của đơn vị. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 cũng quy định “Kiểm toán viên” phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế toán và kiểm toán nội bộ của khách hàng để lập kế hoạch kiểm toán và xây dựng cách tiếp cận kiểm toán có hiệu quả”. Việc tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng và đánh giá rủi ro kiểm soát được thực hiện như sau: * Tìm hiểu hệ thông kiểm soát nội bộ của khách hàng: Trong công việc này, kiểm toán viên cần tìm hiểu về kiểm soát nội bộ của khách hàng trên 2 mặt chủ yếu sau : Thiết kế kiểm soát nội bộ hoạt động liên tục và có hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ. Cũng giống như việc tìm hiểu hoạt động kinh doanh của khách hàng, các phương pháp kiểm toán viên thường áp dụng là: - Dựa vào kinh nghiệm trước đây của kiểm toán viên với khách hàng - Thẩm vấn nhân viên của Công ty khách hàng - Xem xét sổ tay về thủ tục và chế độ của Công ty khách hàng. - Kiểm tra các chứng từ và sổ sách đã hoàn tất - Quan sát các mặt hoạt động và quá trình hoạt động của Công ty khách hàng. * Đánh giá rủi ro kiểm soát: Dựa trên sự hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ khách hàng, kiểm toán ._.viên cần phải đánh giá rủi ro kiểm soát đối với cơ sở dẫn liệu cho từng số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu. Kiểm toán viên thường đánh giá rủi ro kiểm soát là cao đối với cơ sở dẫn liệu của BCTC trong trường hợp : - Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không đầy đủ - Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không hiệu quả - Kiểm toán viên không được cung cấp đầy đủ cơ sở để đánh giá sự đầy đủ và hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng. Qua ba bước trên, sau khi đã thu nhập đủ thông tin kiểm toán viên sẽ xây dựng kế toán kiểm toán tổng quát. Trong bước tiếp theo của giai đoạn này, dựa vào các yếu tố đã xác định trong kế hoạch kiểm toán tổng quát. Kiểm toán viên sẽ thiết kế phương pháp kiểm toán. (2) Thiết kế phương pháp kiểm toán và thủ tục kiểm toán chu trình bán hàng thu tiền. Phương pháp kiểm toán là cách thức mà kiểm toán viên sẽ đưa ra để thu nhập và đánh giá bằng chứng thu được trong kiểm toán chu trình bán hàng thu tiền để chứng minh cho ý kiến đưa ra trong báo cáo kiểm toán. Các phương pháp kiểm toán được vận dụng theo các phép trắc nghiệm - Trắc nghiệm đạt yêu cầu của công việc : Là trình tự và soát các thủ tục kế toán hay thủ tục quản lý có liên quan đến đối tượng quản lý. - Trắc nghiệm độ vững chãi của công việc : Là trình tự rà soát các thông tin về giá trị trong trình tự kế toán. - Trắc nghiệm trực tiếp số dư : Là cách thức kết hợp các phương pháp cân đối, phân tích, đối chiếu trực tiếp với kiểm kê và điều tra thực tế để xác minh độ tin cậy của các số dư cuối kỳ (hoặc tổng số phát sinh) ở sổ cái ghi vào bảng cân đối tài sản hoặc vào báo cáo kết quả kinh doanh. - Trắc nghiệm phân tích : Là cách thức xem xét các mối quan hệ kinh tế và xu hướng biến động của các chỉ tiêu kinh tế thông qua việc kết hợp giữa đối chiếu trực tiếp, đối chiếu logic…giữa các trị số (bằng tiền) của các chỉ tiêu hoặc của các bộ phận cấu thành chỉ tiêu. Việc thiết kế các loại hình trắc nghiệm kiểm toán trên đầu gồm bốn nội dung : - Xác định các thủ tục kiểm toán : các thủ tục kiểm toán cần được sử dụng là những hướng dẫn chi tiết về quá trình thu thập một loại bằng chứng kiểm toán cá biệt ở một thời điểm kiểm toán nào đó trong khi tiến hành kiểm toán. - Quy mô mẫu chọn : Kiểm toán viên phải tiến hành chọn mẫu theo phương pháp khoa học để chọn mẫu có tính đại diện, phản ánh đặc trưng cơ bản của tổng thể. - Khoản mục được chọn : Khi quyết định số lượng mẫu chọn thì phải chọn được mẫu có tính đại diện. - Thời gian thực hiện : Xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc các thủ tục kiểm toán đề ra. Phương pháp kiểm toán thường được thiết kế cho từng chu trình hoặc từng khoản mục nhằm đáp ứng mục tiêu kiểm toán. Tuy nhiên trong thực tế, phương pháp kiểm toán có thể không cần lập mà sẽ sử dụng ngay phương pháp kiểm toán mẫu do công ty kiểm toán lập ra. Giai đoạn 2 : Kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền (1) Khảo sát nghiệp vụ bán hàng Qua tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ và các mục tiêu kiểm soát có thể nhận thấy trong các chu trình khác nhau thì mật độ phát sinh các nghiệp vụ trong các chu trình là khác nhau. Do đó việc tiến hành khảo sát các nghiệp vụ trong các chu trình khác nhau là không giống nhau. Thông thường thủ tục kiểm soát các nghiệp vụ bản hàng gồm : - Phân chia trách nhiệm theo nguyên tắc bất kiêm nhiệm : Đây là cách phân chia trách nhiệm khi thực hiện nghiệp vụ. Theo nguyên tắc này phải có sự phân định rõ ràng giữa các nhân viên và thủ quỹ hay ở các khâu phê duyệt. Như việc phân chia giữa kế toán tiền mặt, kế toán công nợ, kế toán bán hàng độc lập với thủ quỹ, nhân viên thu tiền và đồng thời kế toán sẽ không đảm nhận các công việc như phê duyệt các nghiệp vụ bán hàng. Định kỳ phải thực hiện việc đối chiếu giữa thủ quỹ với kế toán…nếu làm tốt việc phân chia trách nhiệm sẽ hạn chế và ngăn ngừa những gian lận và sai sót xảy ra. Các nghiệp vụ bán hàng được phê chuẩn đúng đắn : Trong khi thực hiện tiêu thụ sản phẩm các doanh nghiệp thường sử dụng hình thức tiêu thụ khác nhau. Nhưng dù cho việc tiêu thụ được thực hiện theo bất kỳ phương thức nào cũng đòi hỏi được phê chuẩn một cách đúng đắn. Như việc phê chuẩn phương thức tiêu thụ, phê chuẩn phương thức thanh toán và phê chuẩn các khoản chiết khấu, giảm giá, hàng bán bị trả lại… Để xem xét các nghiệp vụ đó có được phê chuẩn hay không thì kiểm toán viên sẽ thực hiện kiểm tra hoá đơn, chứng từ bán hàng xem có đầy đủ chữ ký hay không, có đầy đủ sự phê chuẩn không. Ngoài ra kiểm toán viên cần phải xem xét đến các chính sách bán hàng được phê chuẩn của doanh nghiệp. - Chứng từ, sổ sách đầy đủ : Các chứng từ, số sách của chu trình là sổ nhật ký hàng ngày, các hoá đơn bán hàng, sổ nhật ký chung, chứng từ vận chuyển và hợp đồng ký kết với khách hàng. Thông qua hệ số sổ sách và chứng từ được sử dụng trong chu trình này kiểm toán viên có thể biết được việc thực hiện các công việc kế toán trong doanh nghiệp khách hàng và qua đó phát hiện ra những gian lận và sai sót. Thủ tục kiểm toán cần thực hiện là xem xét từng bộ chứng từ về tính đầy đủ của chúng. - Các chứng từ phải được đánh số trước : Kiểm toán viên căn cứ vào số thức tự của các chứng từ để kiểm tra qua đó phát hiện ra việc ghi sổ trùng lặp hay ghi sổ thiếu. Thủ tục kiểm toán là kiểm tra tính liên tục của hoá đơn, chứng từ. (2) Khảo sát nghiệp vụ chiết khấu, giảm giá hàng bán và hàng bán bị trả lại. Các nghiệp vụ chiết khấu, giảm giá và hàng bán bị trả lại khi phát sinh có liên quan đến giảm giá trị tài sản của các doanh nghiệp. Các nghiệp vụ này thường không thường xuyên phát sinh nên khi phát sinh nghiệp vụ phải có sự phê chuẩn bởi người có thẩm quyền trong doanh nghiệp và các nghiệp vụ này chỉ xảy ra khi : + Nghiệp vụ chiết khấu được thực hiện khi khách hàng thực hiện thanh toán các khoản tiền mua hàng trước hoặc trong thời hạn thanh toán như đã thoả thuận với doanh nghiệp . + Nghiệp vụ giảm giá hàng bán sẽ được áp dụng với những khách hàng mua hàng với số lượng lớn hoặc với những khách hàng mua hàng hoá của doanh nghiệp mà hàng hoá không đúng phẩm chất, mẫu mã như đã thoả thuận trong hợp đồng và sau khi kiểm tra thấy thực đúng. + Nghiệp vụ hàng bán bị trả lại phát sinh khi khách hàng mua phải hàng kém chất lượng , không đúng quy cách. Khi phát sinh nghiệp vụ này phải có sự phê chuẩn của trưởng phòng kinh doanh hoặc người có thẩm quyền về lý do trả lại hàng. Khi tiến hành kiểm toán, kiểm toán viên tiến hành chọn một số các nghiệp vụ phát sinh trong kỳ đem so sánh với mức giảm gía, chiết khấu trên hoá đơn với mức tính thực tế cho khách hàng trên cơ sở Nhật ký bán hàng và sổ các khoản phải thu. Với hàng bán bị trả lại, kiểm toán viên tiến hành kiểm tra sự phê duyệt bằng cách đối chiếu số lượng trên hoá đơn của hàng bị trả lại với phiếu nhập kho của hàng bị trả lại hoặc trên số hàng gửi bán. Đối chiếu số tiền của khách hàng bán bị trả lại với bên có của tài sản phải thu khách hàng (nếu khách hàng mua hàng chưa thanh toán.) Trong khi tiến hành kiểm toán, nếu các khoản này quá nhỏ (có thể coi là không trọng yếu) thì kiểm toán viên có thể bỏ qua. (3) Thử nghiệm tuân thủ và thử nghiệm cơ bản đối với tài khoản doanh thu. Thực hiện hai loại thử nghiệm này đối với tài khoản doanh thu nhằm thoả mãn các mục tiêu của kiểm toán : - Doanh thu bán hàng được ghi sổ là có thật : Để xem doanh thu được ghi sổ là có thật hay không thì kiểm toán viên cần quan tâm đến hai loại sai sót có thể xảy ra đó là doanh thu được ghi sổ nhưng không được thực hiện gửi hàng và doanh thu được ghi sổ nhưng không được thực hiện gửi hàng và doanh thu được ghi sổ khi hàng gửi đi cho khách hàng là không có thật. Khi thực hiện kiểm toán các kiểm toán viên tiến hành chọn một số nghiệp vụ bán hàng để đối chiếu giữa việc ghi sổ, hoá đơn bán hàng và các chứng từ khác kèm theo (chứng từ vận chuyển, phiếu xuất kho…) kiểm toán viên có thể thực hiện tính lại số tiền xem có đúng không . Trong quá trình kiểm toán, nếu như kiểm toán viên nghi nghờ những khách hàng không có thật thì kiểm toán viên thực hiện đối chiếu sổ sách nhật ký chung với những hoá đơn được phê chuẩn và có thể đối chiếu với tài khoản 131 “Phải thu khách hàng” với nguồn phát sinh những nghiệp vụ đó… Tất cả công việc trên kiểm sẽ thực hiện khi họ nhận định hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ là kém hiệu quả. - Doanh thu được phê chuẩn đúng đắn, khảo sát bằng các thủ tục chính thức để xem liệu các chế độ tín dụng, chế độ giao hàng và định giá của Công ty có được thực hiện một cách đúng đắn, trong các hoạt động thường ngày hay không là rất quan trọng, đặc biệt với việc định giá bán. Công việc kiểm toán được thực hiện bằng cách so sánh giá thực tế cho các sản phẩm khác nhau kể cả cước vận chuyển và phương thức thanh toán với thanh toán với danh sách đã được bản quản trị phê duyệt. Các nghiệp vụ bán hàng trong kỳ phát sinh rất nhiều, để xem xét doanh thu có ghi giảm hay không thì kiểm toán viên thường thực hiện các thủ tục phân tích. Trước tiên kiểm tra viên thực hiện so sánh tỷ suất doanh thu của năm nay so với năm trước xem xét biến động lớn hay không . Nếu như doanh thu năm nay giảm nhiều so với năm trước thì kiểm toán viên cần tăng thêm số mẫu được chọn để kiểm tra. Trên cơ sở các hoá đơn, chứng từ vận chuyển và sổ sách kế toán, kiểm toán viên thực hiện đối chiếu để phát hiện ra gian lận và sai sót. - Doanh thu được tính toán đúng đắn và ghi sổ chính xác : Thực hiện khảo sát nghiệp vụ này nhằm mục đích kiểm tra cơ sở dữ liệu đã tính toán và đánh giá doanh thu. Thông thường khảo sát này được tiến hành trong mọi cuộc kiểm toán. Khảo sát nghiệp vụ này được tiến hành theo 4 bước sau : + Tính toán lại số liệu trên hoá đơn bán hàng + Đối chiếu giá bán trên hoá đơn và giá bán mà doanh nghiệp phê chuẩn xem có khớp đúng hay không. + Đối chiếu sổ nhật ký bán hàng với hoá đơn bán hàng. + Đối chiếu hoá đơn bán hàng với chứng từ vận chuyển và với đơn đặt hàng của khách hàng (nếu có) - Doanh thu bán hàng được ghi sổ và đánh giá đúng đắn : Để khảo sát được nghiệp vụ này kiểm toán viên tiến hành chọn một số bút toán trên nhật ký bán hàng mà so sánh với tổng cộng của nghiệp vụ được chọn với các số phụ các khoản phải thu và bản sao các hoá đơn bán hàng. Đối chiếu giá trên bản sao hoá đơn bán hàng với giá đã được phê chuẩn xem có khớp đúng hay không. Ngoài ra kiểm toán viên thực hiện đối chiếu hàng hoá trên hoá đơn với giá hàng hoá đã được phê chuẩn xem có khớp đúng hay không và kiểm toán viên thực hện đối chiếu hàng hoá trên hoá đơn bán hàng với đơn đặt hàng của khách hàng xem có phù hợp không. Với những doanh nghiệp có hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá là hoạt động có hiệu quả thì kiểm toán sẽ giảm bớt quy mô khảo sát nghiệp vụ do đó giảm được chi phí thực hiện kiểm toán : - Doanh thu bán hàng được phân loại đúng đắn: Việc phân loại doanh thu một cách đúng đắn sẽ xác định được nghĩa vụ của doanh nghiệp . Trong một số doanh nghiệp thường có ý trốn thuế thông qua việc chuyển doanh thu của mặt hàng có thuế suất cao thành doanh thu của mặt hàng có thuế suất thấp hơn. Hay việc phân chia doanh thu thành doanh thu bán hàng nội bộ và doanh thu bán hàng trả góp, doanh thu từ bên thứ ba. Để khảo sát nghiệp vụ này thì kiểm toán viên sẽ thực hiện chọn một vài chứng từ để xác định cách phân loại đúng đắn của một vài nghiệp vụ nhất định và so sánh với tài khoản thực hiện được phân bổ vào. - Doanh thu bán hàng được ghi chép đúng kỳ: Doanh thu bán hàng là chỉ tiêu quan trọng có ảnh hưởng lớn tới báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh . Trên thực tế một số doanh nghiệp khai tăng doanh thu trong kỳ bằng cách ghi nhận trước một số hoá đơn bán hàng nhằm phô trương thanh thế của doanh nghiệp. Nhưng lại có một số doanh nghiệp thực hiện ghi giảm doanh thu nhằm mục đích trốn thuế. Để khảo sát nghiệp vụ này, kiểm soát viên sẽ thực hiện so sánh tỷ suất lãi gộp , tỷ suất hiệu quả kinh doanh để phát hiện ra những biến động bất thường. Ngoài ra kiểm toán viên có thể lựa chọn một số hoá đơn bán hàng , chứng từ vận chuyển để so sánh thời gian ghi trên hoá đơn với thời gian ghi trên sổ nghiệp vụ đã phát hiện ra liệu doanh thu có được hạch toán đúng kỳ hay chuyển sang kỳ sau. Khi chọn mẫu kiểm toán , kiểm toán viên cần lựa chọn những nghiệp vụ bán hàng, hay những hoá đơn bán hàng có giá trị lớn và phát sinh phần cuối niên độ kế toán. (4) Kiểm toán chi tiết số dư tài khoản phải thu : * Các nghiệp vụ bán chịu có ảnh hưởng lớn đến kết qủa hoạt động của doanh nghiệp và có ảnh hưởng lớn đến nhiều tài khoản trên bảng cân đối kế toán. Do đó, việc theo dõi các khoản phải thu khách hàng hay việc lập và xử lý các khoản dự phòng phải thu khó đòi là điều cần thiế . Một doanh nghiệp có hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động có hiệu quả đòi hỏi các nghiệp vụ phát sinh phải có sự phê chuẩn và được hạch toán chính xác. Cụ thể như trước khi phê chuẩn của người có thẩm quyền trong doanh nghiệp như : Giám đốc, trưởng phòng kinh doanh hay những người được uỷ quyền . Khi thực hiện thử nghiệm tuân thủ với nghiệp vụ này, kiểm toán viên có thể phỏng vấn nhân viên trong doanh nghiệp hay xem xét sự hiện hữu của việc phê chuẩn trên hoá đơn. Khi đã tiến hành các thử nghiệm tuân thủ, kiểm toán viên tiến hành các thủ tục phân tích, phương pháp thường được sử dụng khi tiến hành thủ tục phân tích với khoản phải thu là đem so sánh tỷ suất giữa các năm và các thủ tục đó được thể hiện như sau : Các thủ tục phân tích tài khoản phải thu khách hàng: Thủ tục phân tích Sai sót có thể xảy ra 1. So sánh doanh thu bán chịu năm nay với năm trước 2. So sánh số dư tài khoản phải thu và tài khoản doanh thu với năm trước Tăng hay giảm các khoản phải thu Tăng hay giảm các khoản thu được thu từ khách hàng. Ngoài ra, kiểm tra cần xem xét những khách hàng có số dư lớn hoặc số dư kéo dài trong nhiều năm để thực hiện điều tra. Qua các thủ tục phân tích kiểm toán viên cần kiểm tra chi tiết để thiết kế cuộc khảo sát chi tiết số dư cho thích hợp nhằm thoả mãn cac mục tiêu kiểm toán đối với khoản phải thu. - Các khoản phải thu chính xác về mặt kỹ thuật: Các cuộc khảo sát các khoản phải thu dựa trên bảng cân đối thử theo thời gian. Thông qua việc khảo sát bảng cân đối thử theo thời gian để đảm bảo với kiểm toán viên rằng tổng thể đang được khảo sát phù hợp với sổ cái . Kiểm toán viên có thể chọn một số mẫu bao gồm số dư tài khoản cá biệt và thực hiện đối chiếu với sổ chi tiết các khoản phải thu để kiểm tra tính đúng đắn và tên khách hàng, số dư và thời hạn nợ. Sau đó kiểm toán viên lập bảng phân tích tuổi nợ theo nhóm tuổi. Bảng phân tích công nợ (khoản phải thu theo nhóm tuổi) Tên khách hàng Nợ hiện còn Nợ trung hạn Nợ qúa hạn 1- 30 ngày Nợ qúa hạn từ 30-60 ngày Nợ quá hạn từ 60-90 ngày Nợ quá hạn từ 91-120 ngày Nợ trên 120 ngày A B … Cộng - Các khoản phải thu là có thật : Kiểm toán viên yêu cầu Công ty khách hàng cung cấp bảng kê khách nợ và tiến hành chọn mẫu, gửi thư xác nhận việc chọn mẫu khách hàn tuỳ thuộc vào: + Tính trọng yếu của các khoản phải thu : nếu thực sự các khoản phải thu là trọng yếu theo đánh giá của kiểm toán viên thì cần phải có số lượng mẫu lớn hơn. + Số lượng các khoản phải thu. + Kết quả của việc tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp khách hàng và việc thực hiện các thủ tục phân tích. + Kết quả xác nhậnc của năm trước. Sau khi tiến hành chọn những khách hàng để thực hiện xác minh các khoản phải thu, kiểm toán viên có thể yêu cầu Công ty khách hàng gửi thư xác nhận dưới sự kiểm soát của kiểm toán viên hoặc do kiểm toán viên tự tiến hành. - Các khoản phải thu hiện hữu đều phải được ghi sổ. Để thực hiện khảo sát thì chỉ cần chọn một số hoá đơn bán hàng đối chiếu với sổ chi tiết và sổ caí để khẳng định rằng các khoản phải thu đều được ghi sổ đầy đủ. - Các khoản phải thu được ghi đúng kỳ : Việc ghi chép các khoản phải thu luôn gắn liền với việc ghi sổ doanh thu . Do đó tiến hành khảo sát mục tiêu này cho các khoản phải thu được thực hiện khi khảo sát cho các khoản doanh thu . Sau khi đã hoàn thành các cuộc khảo sát cho chu trình để thu thập bằng chứng kiểm toán, kiểm toán viên thực hiện tổng hợp công việc đã thực hiện trên giấy làm việc để phát hiện những sai soát và đánh giá kết qủa kiểm toán. Kiểm toán viên thực hiện đưa ra các bút toán điều chỉnh đối với những chênh lệch mà kiểm toán viên phát hiện ra và đề nghị khách hàng điều chỉnh theo số liệu kiểm toán. Giai đoạn 3 : Kết thúc kiểm toán (1) Soát xét lại các sự kiện sau ngày lập báo cáo tài chính : Trong các cuộc kiểm toán thời gian từ khi lập bảng cân đối tài sản đến khi kiểm toán viên ký báo cáo kiểm toán có thể có những sự kiện xảy ra ảnh hưởng đến báo cáo tài chính của doanh nghiệp . Do đó kiểm toán viên phải có nhiệm vụ xem xét lại các sự kiện đó. Thông thường có hai loại sự kiện sau : - Những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới các báo cáo tài chính . Những sự kiện này cung cấp bằng chứng cụ bổ sung về các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ và có ảnh hưởng trực tiếp đến các đánh giá trong quá trình lập báo cáo tài chính. Theo chuẩn mực kế toán thì phải điều chỉnh lại số dư các tài khoản trên bảng cân đối tài sản khi các nghiệp vụ này phát sinh. Đó là những nghiệp vụ như : + Khách hàng mua hàng chưa thanh toán và không có khả năng thanh toán trong khi doanh nghiệp lại chưa lập dự phòng vì cho rằng khách hàng có khả năng thanh toán. + Chuyển nhượng thiết bị không sử dụng với giá thấp hơn giá trị sổ hiện hành. + Bán các khoản đầu tư với giá thấp hơn giá trị ghi sổ hiện hành. + Phải bồi thường cho các vụ kiện thực tế xảy ra lớn hơn giá trị ghi sổ. - Những sự kiện không ảnh hưởng trực tiếp tới báo cáo tài chính: + Việc phát hành trái phiếu hay cổ phần hoá doanh nghiệp. + Những nguyên nhân khách quan bất khả kháng (hoả hoạn , thiên tai…) gây thiệt hại về tài sản cho doanh nghiệp. Để xem xét các sự kện sau ngày lập báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần tiến hành một số thủ tục như : thực hiện kiểm tra tính đúng kỳ, kiểm tra chi tiết các số dư, xem xét biên bản họp hội đồng quản trị, của ban giám đốc sau ngày lập bảng cân đối tài sản… (2) Báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán là loại báo cáo băng văn bản do kiểm toán viên và Công ty kiểm toán lập và công bố để nêu rõ ý kến chính thức của mình về báo cáo tài chính của khách hàng. Báo cáo kiểm toán có thể đưa ra một trong bốn nội dung ý kiến sau: A/ ý kiến chấp nhận toàn phần : ý kiến này được đưa ra trong Báo cáo kiểm toán trong trường hợp kiểm toán viên và Công ty kiểm toán cho rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán và phù hợp vơí chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc được chấp nhận) B/ ý kiến chấp nhận từng phần : Là ý kiến được trình bày trong trường hợp kiểm toán viên và Công ty kiểm toán cho rằng báo cáo tài chính chỉ phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị , nếu không bị ảnh hưởng bởi yếu tố tuỳ thuộc (hoặc ngoại trừ) mà kiểm toán viên đã nêu trong Báo cáo kiểm toán. C/ ý kiến từ chối : Là ý kiến được đưa ra trong trường hợp hậu quả của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng hoặc thiếu thông tin liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục tới mức mà kiểm toán viên không thể thu nhập đầy đủ và thích hợp các bằng chứng kiểm toán để có thể cho ý kiến về Báo cáo kiểm toán. D/ ý kiến không chấp nhận : Được đưa ra trong trường hợp các vấn đề không thống nhất với ban giám đốc là quan trọng hoặc liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục đến mức độ mà kiểm toán viên cho rằng ý kiến chấp nhận từng phần là chưa đủ để thể hiện tính chất và mức độ sai sót trọng yếu của Báo cáo tài chính. Phần II : Thực trạng kiểm toán chu trình bán hàng thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán (AASC) I . Lịch sử hình thành và phát triển của AASC. Trong những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ XX, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã phát triển mạnh. Nhiều tập đoàn, công ty lớn trên thế giới đã có mặt tại Việt Nam. Nhiều dịch vụ đã xuất hiện tại Việt Nam, trong đó có dịch vụ kiểm toán và dịch vụ tư vấn, tài chính, kế toán …Trước sự đòi hỏi của nền kinh tế hoạt động kiểm toán đã được cong nhận tại Việt Nam với các quyết định thành lập các công ty kiểm toán. Với chủ trương đa dạng các loại hình sở hữu và đa phương hoá đầu tư đã đặt ra những đòi hỏi cấp thiết của kiểm toán độc lập. Trước đòi hỏi đó, ngày 13/5/1991 theo giấy phép số 957 PPLT của Thủ tướng chính phủ, Bộ tài chính đã ký hai quyết định thành lập công ty: Công ty Dịch vụ Kế toán Việt Nam với tên giao dịch là ASC ( quyết định 164 TC/QĐ/TTCB ngày 13/51991 ) sau đổi tên là Công ty Dịch Vụ Tư Vấn Tài Chính Kế Toán và Kiểm toán với tên giao dịch là AASC ( quyết định 639 TC/QĐ/TCCB ngày 14/9/1993) và quyết định 165TC/QĐ/TCCB ngày 13/5/1991 thành lập công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO). Như vậy AASC là một trong những công ty hợp pháp đầu tiên và lớn nhất Việt Nam. Là một công ty đầu ngành AASC đã ra sức phát triển công ty, mở rộng phạm vi hoạt động và loại hình dịch vụ cung cấp với chất lượng ngày một tốt hơn góp phần phát triển nền kiểm toán Việt Nam. Trong những năm đầu hoạt động Công ty AASC cung cấp duy nhất một dịch vụ đó là dịch vụ kế toán cụ thể: Hướng dẫn các đơn vị đăng ký chế độ kế toán, lập sổ sách kế toán, so sánh đối chiếu các loại sổ, lập các báo cáo kế toán. Sau hai năm hoạt động ban lãnh đạo công ty nhận thấy nhu cầu ngày càng lớn của thị trường tài chính nên đã quyết định đề nghị Bộ tài chính bổ sung thêm một số loại hình dịch vụ theo quyết định số 639 TC/QĐ/TCCB của bộ tài chính ra ngày 14/09/1993cho phép công ty được mở thêm các: Tư vấn tài chính, kế toán và kiểm toán, dịch vụ công nghệ thông tin, dịch vụ đào tạo. Do nhiệm vụ đã đa dạng hơn do đó công ty đã đổi tên thành Công ty Dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán - AASC. Với trụ sở chính đặt tại số 1 Lê Phụng Hiểu Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội Để mở rộng phạm vi hoạt động đáp ứng nhu cầu của thị trường và đảm bảo chất lượng dịch vụ thống nhất trong toàn công ty. AASC đã thành lập các chi nhánh và vắn phòng đại diện tại các thành phố, trung tâm kính tế của cả nước. Tháng 3-1992, Công ty thành lập chi nhánh đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh. Trước sự lớn mạnh của chi nhánh và đòi hỏi của thực tế, được phép của Bộ Tài chính , tháng 3-1995 chi nhánh này tách khỏi AASC thành lập công ty Kiểm toán Sài Gòn (AFC). Tháng 4-1995, Công ty chính thức nhận giấy phép thành lập và đưa vào hoạt động chi nhánh tại Thành Phố Thanh Hoá. Ngày 2-2-1996, Công ty thành lập chi nhánh tại Thành phố Hạ Long- Quảng Ninh và hai năm sau văn phòng đại diện tại Hải Phòng được thành lập Ngày 13-3-1997, Cong ty tái lập văn phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cho tới tháng 5-1998 công ty nâng cấp từ văn phòng đại diện lên thành chi nhánh lớn nhất của công ty. Như vậy sau hơn 10 năm hoạt động với số vốn ban đầu được cấp là trên 300 triệu đồng và tổng số nhân viên 7 người do Bộ tài chính bổ nhiệm, hiện nay công ty đã phát triển với một trụ sở chính taih Hà Nội, năm chi nhánh trên mọi mièn đất nước, cụ thể: *Trụ sở chính tại số 1- Lê Phụng Hiểu – Hoàn Kiếm - Hà Nội * Chi nhánh Thành Phố Hồ Chí Minh: Số 29 đường Võ Thị Sáu –Thành phố Hồ Chí Minh * Chi Nhánh Thành phố Vũng Tàu: Địa chỉ số 42 đường Thống Nhất Thành phố Vũng Tàu * Chi nhánh Thanh Hoá: Địa chỉ số 25 đường Phan Chu Trinh Thành phố Thanh Hoá. * Chi nhánh Quảng Ninh: Địa chỉ : Tầng 2 – Công ty Vàng Bạc Đá Quý đường Trần Hưng Đạo Thành phố Hạ Long. * Chi Nhánh tại Hải Phòng: Địa chỉ số 22 đường Trần Phú Thành Phố Hải Phòng. Trong suốt quá trình ra đời và phát triển đến nay AASC hoạt động theo nguyên tắc “Tuân thủ pháp luật của nàh nước Việt Nam, đảm bảo tính trung thực khách quan và công bằng; tuân thủ các chuẩn mực kế toán, kiểm toán hiện hành của Việt Nam, và các chuẩn mực kiểm toán, kế toán quốc tế phổ biến được chấp nhận tại Việt Nam.” II. Các dịch vụ cung cấp và định hướng phát triển của công ty AASC. Hiện nay AASC đã và đang cung cấp cho khách hàng nhiều loại dịch vụ có giá trị cao: Kiểm toán Công nghệ thông tin Dịch vụ chuyên ngành Dịch vụ kiểm toán Xác định giá trị DN và tư vấn CPH Tư vấn thuế, tài chính Đào tạo, hỗ trợ, tuyển dụng và dịch vụ khác Kiểm toán: Kiểm toán báo cáo tài chính Kiểm toán hoạt động các dự án Kiểm toán báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản Kiểm toán xác định vốn góp liên doan Giám định tài liệu kế toán, tài chính Kế toán Hướng dẫn áp dụng chế độ kế toán tài chính Xây dựng các mô hình tổ chức bộ máy, tổ chức công tác kế toán Mở ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính Lập hồ sơ đăng ký chế độ kế toán Tư vấn Tư vấn về thuế Hướng dẫn thủ tục đăng ký kinh doanh Tư vấn về giá tài sản Soạn thảo các phương án đầu tư Tư vấn cổ phần hoá, sáp nhập và giả thể doanh nghiệp Đào tạo cán bộ và ứng dụng tin học Tổ chức các khoá học bồi dưỡng kế toán trưởng, bồi dưỡng nghiệp vụ kế toán,kiểm toán nội bộ, quản trị kinh doanh, ứng dụng tin học trong hành chính sự nghiệp. Cung cấp văn bản pháp quy, các thông tin kinh tế, tài chính, sổ sách, biểu mẫu, chứng từ. Hỗ trợ tuyển dụng nhân viên. Trong số các lĩnh vực hoạt động trên, công ty đặc biệt có thế mạnh trong việc cung cấp dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán quyết toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản, tư vấn đào tạo, dịch vụ kế toán, dịch vụ tin học. Hiện nay hoạt động của AASC đã mở rộng và thâm nhập vào các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt AASC luôn nhận được sự ủng hộ, lựa chọn từ phía khách hàng bởi AASC luôn có một số điểm nổi bật: Dịch vụ có chất lượng cao: Như rà soát tài chính, tái cơ cấu doanh nghiệp trên quy mô lớn. Kiến thức sâu sắc về doanh nghiệp nhà nước và công cuộc đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, đội ngũ cán bộ có trình độ và năng lực… * Hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp. Đây là lĩnh vực hoạt động chính của công ty. Hoạt động này đã có sự phát triển không ngừng cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay trong lĩnh vực này, AASC có hơn 100 cán bộ, chuyên gia với kinh nghiệm chuyên sâu về tài chính kế toán và kiểm toán, tín dụng, thuế… thực hiện trong đó có 70 kiểm toán viên cấp nhà nước. Hàng năm, đội ngũ này đã thực hiện kiểm toán trên 400 cuộc kiểm toán BCTC cho các doanh nghiệp, các dự án tài trợ vay vốn của các tổ chức quốc tế. Trong đó có hơn 150 doanh nghiệp nàh nước, trên 15 ngân hàng thương mại, trên 100 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thông qua hoạt động kiểm toán và hoạt động tư vấn, hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ từ đó nâng cao chất lượng quản lý và điều hành doanh nghiệp. * Hoạt động dịch vụ kế toán. Đây là một trong các lĩnh vực mà AASC có đầy đủ các khả năng và nguồn lực để thực hiện tốt. AASC đã cung cấp cho khách hàng những dịch vụ kế toán bao gồm: - Xây dựng các mô hình tổ chức bộ máy kế toán cho các doanh nghiệp mới thành lập xây dựng hệ thống thông tin kinh tế nội bộ phục vụ cho công tác quản trị nội bộ doanh nghiệp. - Rà soát, phân tích, hợp lý hoá, bộ máy kế toán, tài chính đã có sẵn. - Tư vấn giúp các doanh nghiệp thực hiện đúng các quy định việc lập chứng từ, luân chuyển chứng từ, mở và ghi sổ kế toán, việc tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm, soát xét điều chỉnh số liệu kế toán và khoá sổ kế toán, lập báo cáo kế toán, báo cáo quyết toán vốn đầu tư… theo quy định. Đặc biệt AASC đã cùng cơ quan, tổng cục thuế giúp đỡ hướng dẫn hàng vạn doang nghiệp và hộ kinh doanh tư nhân mở và ghi chép sổ kế toán theo quy định của nàh nước. Bằng các hoạt động này AASC đã giúp cho cáccơ quan thuế, cơ quan tài chính nắm bắt được tình hình kinh doanh của các hộ kinh doanh từ đó có cơ sở điều chỉnh mức thu nhập của các hộ và có căn cứ nghiên cứu chính sách thuế đối với khu vực kinh tế này. * Hoạt động dịch vụ tư vấn. Với kinh nghiệm thực tiễn sâu sắc, AASC đã thực hiện đa dạng hoá các loại hình dịch vụ tư vấn được khách hàng đánh giá cao như: Tư vấn lập báo cáo tài chính doanh nghiệp, tư vấn lập báo cáo dự án, tư vấn lập báo cáo quyết toán, tư vấn soạn thảo hồ sơ thành lập doanh nghiệp, thủ tục đăng ký kế toán, đăng ký quy chế tài chính thuế, lựa chọn phương án đầu tư… AASC đã khảo sát, nghiên cứu đưa ra các ý kiến tư vấn hay trực tiếp xây dựng giúp các doanh nghiệp về mặt xắp xếp lại tổ chức sản xuất kinh doanh, tổ chức quản lý, soạn thảo và hướng dẫn thực hiện các quy định về giá trị kinh doanh, về phân cấp quản lý, phân cấp tài chính về xây dựng và tổ chức thực hiện các quy định về giá trị, các chỉ tiêu hạch toán kế toán nội bộ, về thực hiện quy chế kế toán phù hợp với từng loại hình kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. * Hoạt động bồi dưỡng và đào tạo nghiệp vụ về quản lý kính tế tài chính, kế toán và kiểm toán và phát triển phần mềm tin học. AASC đã trực tiếp tổ chức hợp tác với các trường đại học, các địa trong cả nước và các tổ chức quốc tế, mở các khoá bồi dưỡng, đào tạo và nâng cao kiến thức về quản trị kinh doanh, tài chính kế toán kiểm toán, phân tích đầu tư, chứng khoán thuế và bảo hiểm… cho hàng ngàn kế toán viên, kế toán trưởng và kiểm toán viên nội bộ, qua đó góp phần nâng cao kiến thức về kinh doanh. Công ty đã nghiên cứu, xây dựng thành công và cung cấp cho hơn 70 doanh nghiệp, cơ quan nhà nước … các phần kế toán thương mại, phần mềm kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp, phần mềm cho các dự án sử dụng vốn đầu tư, vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế. * Hoạt động thẩm định giá trị tài sản. Bên cạnh các lĩnh vực thế mạnh AASC luôn có sự quan tâm thích đáng đến các dịch vụ mới, nhằm đáp ứng các yêu cầu ngày một đa dạng. Từ khía cạnh khách hàng AASC đã phối hợp với các công ty nước ngoài, với uỷ ban vật giá chính phủ và độc lập tiến hành một số hợp đồng thẩm định giá trị tài sản đối với doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. * Tư vấn đầu tư chứng khoán. Trong hoạt động này trước hết AASC cung cấp một cái nhìn tổng quát về tình hình các loại chứng khoán để cho khách hàng lựa chọn, tự nên mua hay bán đi một loại chứng khoá._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0438.doc
Tài liệu liên quan