Báo cáo Hoàn thiện quy trình kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp trong kiểm toán tài chính do Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và Kiểm toán (AASC) thực hiện

LỜI MỞ ĐẦU Khoản phải trả nhà cung cấp là một trong những khoản mục trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính. Đây là khoản mục có rủi ro tiềm tàng cao. Khi thực hiện kiểm toán khoản mục này, kiểm toán viên phải thiết kế và vận dụng các thủ tục kiểm toán sao cho rủi ro phát hiện là thấp nhất. Kiểm toán khoản mục này đòi hỏi sự chuẩn bị công phu và sự thực hiện chu đáo. Để thực hiện kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp, kiểm toán viên phải là người có kinh nghiệm và có khả năng xét đoán nghề

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Hoàn thiện quy trình kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp trong kiểm toán tài chính do Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và Kiểm toán (AASC) thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp. Là một sinh viên chuyên ngành kiểm toán, sau một thời gian thực tập tại Phòng Kiểm toán các ngành Thương mại - Dịch vụ Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC), em đã có cơ hội tiếp xúc với quy trình kiểm toán báo cáo tài chính cũng như kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp do Công ty thực hiện. Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán khoản mục này trong kiểm toán báo cáo tài chính, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện quy trình kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) thực hiện” cho khoá luận tốt nghiệp của mình. Để minh hoạ cho quy trình kiểm toán khoản mục phải trả nhà cung cấp do AASC thực hiện, em đã đưa vào khoá luận tình hình thực tế kiểm toán khoản mục này do Công ty thực hiện tại hai khách hàng ABC và XYZ. Nhà máy ABC là chi nhánh của Công ty cổ phần E chuyên kinh doanh trong lĩnh vực thiết bị bưu điện, là khách hàng thường xuyên của AASC. Nhà máy ABC chuyên sản xuất các thiết bị chuyên ngành bưu chính, viễn thông, điện tử. Còn Công ty XYZ là một doanh nghiệp thương mại chuyên buôn bán, xuất nhập khẩu các loại vật tư nông nghiệp. Nội dung của khoá luận gồm ba chương: Chương I: Những vấn đề lý luận về kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp trong kiểm toán báo cáo tài chính Chương II: Thực trạng kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) thực hiện Chương III: Một số nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp trong kiểm toán báo cáo tài chính do AASC thực hiện Do hạn chế về thời gian cũng như trình độ, khoá luận không thể tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các anh chị trong Công ty và các bạn để khoá luận được hoàn thiện. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN KHOẢN PHẢI TRẢ NHÀ CUNG CẤP TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH Đặc điểm khoản mục phải trả nhà cung cấp với vấn đề kiểm toán Khái niệm Theo quan niệm chung nhất, nợ phải trả bao gồm số tiền vốn mà doanh nghiệp đi vay nhằm bổ sung phần thiếu hụt vốn kinh doanh và các khoản phải trả khác phát sinh trong quan hệ thanh toán. Xét theo thời hạn phải trả thì nợ của doanh nghiệp được chia thành hai loại: nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Nợ ngắn hạn là các khoản nợ mà doanh nghiệp sẽ phải trả trong vòng 1 năm hoặc 1 chu kỳ hoạt động kinh doanh thông thường nếu nó dài hơn 1 năm. Nợ dài hạn là các khoản phải trả có thời hạn trên 1 năm hoặc nhiều hơn 1 chu kỳ kinh doanh thông thường. Khoản phải trả nhà cung cấp là các khoản nợ nhà cung cấp do mua sắm các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh như nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, điện, nước, sửa chữa tài sản cố định, bảo trì, bảo dưỡng… Theo thời hạn thanh toán, khoản phải trả nhà cung cấp có hai loại: phải trả nhà cung cấp ngắn hạn và phải trả nhà cung cấp dài hạn. Phải trả nhà cung cấp ngắn hạn là khoản nợ nhà cung cấp do mua sắm các yếu tố đầu vào mà đơn vị phải thanh toán trong vòng 1 năm hoặc 1 chu kỳ kinh doanh bình thường. Đối với các doanh nghiệp, hầu hết các khoản phải trả nhà cung cấp là các khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, cũng có những khoản phải trả nhà cung cấp là khoản nợ dài hạn. Đó là các khoản nợ nhà cung cấp do mua sắm vật tư, hàng hóa, tài sản mà đơn vị được phép trả góp trong nhiều năm. Theo mối quan hệ giữa đơn vị và nhà cung cấp, khoản phải trả nhà cung cấp được chia thành hai loại: phải trả nhà cung cấp bên ngoài và phải trả nhà cung cấp nội bộ (giữa chi nhánh với tổng công ty hoặc giữa các chi nhánh trong cùng tổng công ty…). Khoản phải trả nhà cung cấp là khoản nợ phát sinh thường xuyên trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, liên quan đến việc mua vật tư, hàng hóa, dịch vụ nhưng chưa thanh toán tiền cho nhà cung cấp. Bên cạnh các khoản nợ tiền mua hàng thì cũng có những trường hợp doanh nghiệp ứng trước tiền hàng cho nhà cung cấp. Như vậy, khoản phải trả nhà cung cấp có mối liên hệ rất mật thiết với nghiệp vụ mua hàng, là một khoản mục quan trọng trong chu trình mua hàng và thanh toán. Đặc điểm hạch toán các nghiệp vụ thanh toán với nhà cung cấp Nguyên tắc hạch toán Theo Chế độ kế toán ban hành kèm theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC, khi hạch toán khoản phải trả nhà cung cấp phải tuân thủ một số nguyên tắc sau: Nợ phải trả nhà cung cấp phải được hạch toán chi tiết theo từng đối tượng phải trả. Trong chi tiết từng đối tượng phải trả, tài khoản này phản ánh cả số tiền đã ứng trước cho nhà cung cấp nhưng chưa nhận được sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. Không phản ánh vào tài khoản này các nghiệp vụ mua vật tư, hàng hoá, dịch vụ trả tiền ngay (bằng tiền mặt, tiền séc hoặc đã trả qua ngân hàng) Những vật tư, hàng hoá, dịch vụ đã nhận, nhập kho nhưng đến cuối tháng vẫn chưa có hoá đơn thì sử dụng giá tạm tính để ghi sổ và phải điều chỉnh về giá thực tế khi nhận được hoá đơn hoặc thông báo giá chính thức của nhà cung cấp. Phải hạch toán rõ ràng các khoản chiết khấu thanh toán, chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán của nhà cung cấp. Ngoài ra, cần lưu ý đối với các khoản phải trả nhà cung cấp bằng ngoại tệ thì phải hạch toán chi tiết cho từng chủ nợ theo nguyên tệ và bằng đồng Việt Nam theo tỉ giá quy định. Cuối niên độ kế toán, số dư nợ phải trả bằng ngoại tệ được đánh giá theo tỉ giá ngoại tệ bình quân liên ngân hàng tại thời điểm đó để phản ánh giá trị thực của chúng. Tài khoản sử dụng Để hạch toán các nghiệp vụ liên quan tới khoản phải trả nhà cung cấp, kế toán sử dụng các tài khoản: TK 331 – Phải trả cho người bán TK 336 – Phải trả nội bộ TK 342 – Nợ dài hạn. Các tài khoản này được mở chi tiết cho từng đối tượng nhà cung cấp. Tài khoản 331: Tài khoản 331 được sử dụng để hạch toán khoản phải trả ngắn hạn đối với nhà cung cấp bên ngoài. Kết cấu và nội dung phản ánh của tài khoản 331 như sau: Bên Nợ TK 331 Bên Có Số tiền đã trả cho nhà cung cấp Số tiền ứng trước cho nhà cung cấp nhưng chưa nhận được vật tư, hàng hoá, dịch vụ Số tiền nhà cung cấp chấp thuận giảm giá hàng hoá hoặc dịch vụ đã giao theo hợp đồng Chiết khấu thanh toán và chiết khấu thương mại được nhà cung cấp chấp thuận giảm trừ vào khoản nợ phải trả nhà cung cấp Giá trị vật tư, hàng hoá thiếu hụt, kém phẩm chất khi kiểm nhận và trả lại nhà cung cấp. Số tiền phải trả cho nhà cung cấp Điều chỉnh số chênh lệch giữa giá tạm tính nhỏ hơn giá thực tế của số vật tư, hàng hoá, dịch vụ đã nhận, khi có hoá đơn hoặc thông báo giá chính thức. Số dư: Số tiền còn phải trả cho nhà cung cấp. Tài khoản này có thể có số dư bên Nợ. Số dư bên Nợ (nếu có) phản ánh số tiền đã ứng trước cho nhà cung cấp hoặc số tiền đã trả lớn hơn số phải trả theo chi tiết của từng đối tượng cụ thể. Tài khoản 336: Đối với các khoản nợ phải trả nhà cung cấp nội bộ, kế toán sử dụng tài khoản 336 – Phải trả nội bộ. Tài khoản này có kết cấu như sau: Bên Nợ TK 336 Bên Có Các khoản phải trả nội bộ đã trả Bù trừ nợ phải trả nội bộ với phải thu nội bộ Khoản phải trả nội bộ phát sinh trong kỳ Số dư: Số tiền còn phải trả cho nhà cung cấp nội bộ Tài khoản 342: Để hạch toán các khoản nợ phải trả dài hạn đối với nhà cung cấp bên ngoài, kế toán sử dụng tài khoản 342 – Nợ dài hạn. Kết cấu tài khoản này như sau: Bên Nợ TK 342 Bên Có Chuyển nợ dài hạn thành nợ đến hạn trả Trả nợ trước hạn Nợ dài hạn phát sinh trong kỳ Số dư: Nợ dài hạn chưa đến hạn trả Chứng từ sử dụng Liên quan đến khoản phải trả nhà cung cấp có các nghiệp vụ ghi nhận khoản phải trả nhà cung cấp và thanh toán với nhà cung cấp. Tương ứng với các nghiệp vụ đó, các chứng từ được sử dụng bao gồm: Hoá đơn của nhà cung cấp: gồm các loại Hoá đơn giá trị gia tăng, Hoá đơn bán hàng thông thường, Hoá đơn bán lẻ. Đây là chứng từ do nhà cung cấp lập nhằm đề nghị thanh toán cho vật tư, hàng hoá, dịch vụ đã chuyển giao. Các chứng từ thanh toán: Phiếu chi, Giấy báo Nợ, Lệnh chi, Uỷ nhiệm chi… Sổ sách kế toán áp dụng Để hạch toán khoản phải trả nhà cung cấp, kế toán sử dụng các sổ tổng hợp và sổ chi tiết như sau: Sổ tổng hợp: bao gồm Sổ Cái TK 331 (336, 342), Nhật ký mua hàng. Sổ Cái TK 331 (336, 342) được dùng để ghi chép tổng hợp các nghiệp vụ phát sinh đối với khoản phải trả nhà cung cấp trong niên độ kế toán. Nhật ký mua hàng liệt kê danh sách các hoá đơn, tên nhà cung cấp, ngày lập hoá đơn và số tiền trên mỗi hoá đơn. Sổ chi tiết: Sổ chi tiết thanh toán với người bán, Sổ chi tiết thanh toán với người bán bằng ngoại tệ. Các sổ này được mở chi tiết cho từng nhà cung cấp, dùng để theo dõi các nghiệp vụ thanh toán với mỗi nhà cung cấp. Ngoài ra, kế toán còn sử dụng Bảng đối chiếu của nhà cung cấp. Đây là báo cáo do nhà cung cấp gửi (thường là hàng tháng) trong đó chỉ rõ các hoá đơn mà đơn vị chưa thanh toán. Kiểm toán khoản mục phải trả nhà cung cấp trong kiểm toán báo cáo tài chính Vai trò của kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp trong kiểm toán báo cáo tài chính Trong quá trình kinh doanh, việc mua hàng trả chậm là hoạt động phát sinh thường xuyên, từ đó mỗi doanh nghiệp đều có các khoản nợ phải trả nhà cung cấp. Đó là các khoản nợ liên quan đến việc mua các yếu tố đầu vào nhưng chưa trả tiền cho nhà cung cấp. Khoản phải trả nhà cung cấp là một khoản mục quan trọng trên báo cáo tài chính của mỗi doanh nghiệp, có liên quan đến nhiều khoản mục khác như tiền, hàng tồn kho, tài sản cố định, chi phí… Do đó, các sai phạm về khoản phải trả nhà cung cấp sẽ ảnh hưởng tới các chỉ tiêu khác trên báo cáo tài chính, bao gồm cả các chỉ tiêu phản ánh tài sản, nguồn vốn cũng như các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị. Khoản phải trả nhà cung cấp có mối quan hệ trực tiếp với quá trình mua hàng của mỗi doanh nghiệp. Do đó, nó ảnh hưởng đến tổng chi phí sản xuất kinh doanh, từ đó ảnh hưởng tới lợi nhuận ròng của doanh nghiệp. Khoản phải trả nhà cung cấp là một nguồn tài trợ cho sản xuất kinh doanh và có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Sai lệch trong việc ghi chép và trình bày công nợ với nhà cung cấp sẽ dẫn đến hiểu sai về tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp. Như vậy, có thể nói khoản phải trả nhà cung cấp là một trong những khoản mục rất quan trọng trên báo cáo tài chính, nó ảnh hưởng tới rất nhiều các chỉ tiêu khác. Sai phạm trong ghi chép và trình bày khoản phải trả nhà cung cấp có thể ảnh hưởng tới ý kiến của kiểm toán viên về báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán. Do đó, kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp là một phần hết sức quan trọng trong kiểm toán BCTC, là một bộ phận không thể tách rời trong kiểm toán báo cáo tài chính. Những sai phạm thường gặp đối với khoản mục phải trả nhà cung cấp Khoản phải trả nhà cung cấp là một khoản mục quan trọng trên báo cáo tài chính. Những sai lệch về khoản phải trả nhà cung cấp có thể gây ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính về các mặt: Thứ nhất, về tình hình tài chính, các tỉ suất quan trọng trong việc đánh giá tình hình tài chính thường liên quan đến nợ phải trả trong đó có khoản phải trả nhà cung cấp. Do đó, các sai lệch trong việc ghi chép hoặc trình bày khoản phải trả nhà cung cấp trên báo cáo tài chính có thể làm sai lệch các tỉ suất về khả năng thanh toán, làm cho người sử dụng hiểu sai tình hình tài chính của đơn vị. Thứ hai, về kết quả hoạt động kinh doanh, nợ phải trả nhà cung cấp có mối quan hệ mật thiết với chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, những sai lệch trong ghi chép và trình bày khoản phải trả nhà cung cấp có thể dẫn đến những sai lệch trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Xuất phát từ những rủi ro tiềm tàng nêu trên, các sai phạm thường gặp đối với khoản mục phải trả nhà cung cấp là: Một là, khoản phải trả nhà cung cấp bị cố tình ghi giảm hoặc không được ghi chép đầy đủ. Việc khai thiếu nợ phải trả nhà cung cấp dẫn đến kết quả làm tăng khả năng thanh toán một cách giả tạo. Đồng thời, có thể dẫn đến khả năng chi phí không được tính toán đầy đủ, làm cho lợi nhuận cũng tăng lên một cách giả tạo so với thực tế. Do vậy, kiểm toán viên phải quan tâm đặc biệt đến mục tiêu Trọn vẹn – Tính đầy đủ của việc ghi chép các khoản phải trả nhà cung cấp. Hai là, ghi khống khoản phải trả nhà cung cấp. Việc phản ánh các khoản nợ phải trả nhà cung cấp không có thật làm thay đổi các tỉ suất tài chính, dẫn đến sai lệch tình hình tài chính của doanh nghiệp, cũng là dấu hiệu của hành vi gian lận rút tiền công quỹ. Ba là, không phân loại và trình bày đúng nợ phải trả hay nợ phải thu khi lập báo cáo tài chính. Trong trường hợp này, kết quả kinh doanh của kỳ kế toán không bị ảnh hưởng nhưng khả năng thanh toán thực tế của đơn vị bị hiểu sai do các tỉ suất về khả năng thanh toán bị sai lệch. Trên đây là các sai phạm thường gặp đối với khoản mục phải trả nhà cung cấp, cũng là những vấn đề mà kiểm toán viên rất quan tâm khi tiến hành kiểm toán khoản mục này. Công việc kiểm soát nội bộ đối với khoản phải trả nhà cung cấp Khoản phải trả nhà cung cấp là khoản mục gắn trực tiếp với quá trình mua hàng, là một phần rất quan trọng cấu thành chu trình mua hàng và thanh toán. Vì vậy, công việc kiểm soát nội bộ đối với khoản mục này không thể tách rời kiểm soát nội bộ trong toàn bộ chu trình mua hàng và thanh toán. Dưới đây mô tả tóm tắt quy trình KSNB trong chu trình mua hàng và thanh toán: Kho hàng (hoặc bộ phận kiểm soát hàng tồn kho) dựa vào nhu cầu của bộ phận sản xuất và định mức dự trữ của bộ phận kho để lập Phiếu đề nghị mua hàng và gửi cho bộ phận mua hàng. Một liên của chứng từ này sẽ được lưu để theo dõi tình hình thực hiện yêu cầu. Khi nghiệp vụ mua hàng hoàn thành, sau khi đối chiếu, chứng từ này sẽ được lưu trữ và đính kèm các chứng từ liên quan như Đơn đặt hàng, Phiếu nhập kho… Bộ phận mua hàng căn cứ vào Phiếu đề nghị mua hàng để xem xét chủng loại, số lượng và các yêu cầu khác về hàng cần mua, đồng thời khảo sát về các nhà cung cấp, chất lượng, giá cả… Sau đó, bộ phận này phát hành Đơn đặt hàng, nó phải được đánh số thứ tự trước và lập thành nhiều liên, gửi cho nhà cung cấp, bộ phận kho, bộ phận nhận hàng và kế toán nợ phải trả. Khi nhận hàng tại kho, bộ phận nhận hàng kiểm tra lô hàng về số lượng, chất lượng,… Mọi nghiệp vụ nhận hàng đều phải được lập Phiếu nhập kho (hoặc Báo cáo nhận hàng) có chữ ký của người giao hàng, bộ phận nhận hàng và thủ kho… Phiếu này phải được đánh số thứ tự trước, được lập thành nhiều liên và chuyển ngay cho các bộ phận liên quan như kho hàng, kế toán nợ phải trả. Nhân viên bộ phận tiếp nhận phải độc lập với thủ kho và kế toán. Trong bộ phận kế toán nợ phải trả, các chứng từ cần được đóng dấu ngày nhận. Các chứng từ thanh toán và những chứng từ khác được lập tại bộ phận này cần được kiểm soát bằng cách đánh số liên tục trước khi sử dụng. Ở mỗi công đoạn kiểm tra, người kiểm tra phải ghi ngày và ký tên để xác nhận trách nhiệm của mình. Thông thường, có các cách kiểm tra, đối chiếu như sau: So sánh số lượng trên Hoá đơn với số lượng trên Phiếu nhập kho (hoặc Báo cáo nhận hàng) và Đơn đặt hàng để đảm bảo không thanh toán vượt quá số lượng hàng đặt mua và số lượng thực nhận. So sánh giá cả, chiết khấu trên Đơn đặt hàng và trên Hoá đơn để đảm bảo không thanh toán vượt số nợ phải trả cho nhà cung cấp. Việc xét duyệt chi quỹ để thanh toán cho nhà cung cấp do bộ phận tài vụ thực hiện. Sự tách tời hai chức năng là kiểm tra và chấp thuận thanh toán (do bộ phận kế toán đảm nhận) với xét duyệt chi quỹ để thanh toán (do bộ phận tài vụ đảm nhận) sẽ là một biện pháp kiểm soát hữu hiệu. Trước khi duyệt chi, thông qua xem xét sự đầy đủ, hợp lệ và hợp pháp của chứng từ, bộ phận tài vụ kiểm tra mọi mặt của nghiệp vụ. Người ký duyệt chi quỹ phải đánh dấu các chứng từ để chúng không bị tái sử dụng. Cuối tháng, bộ phận kế toán nợ phải trả cần đối chiếu giữa Sổ chi tiết thanh toán với nhà cung cấp với Sổ Cái. Việc đối chiếu này thực hiện trên Bảng tổng hợp chi tiết và bảng này được lưu lại để làm bằng chứng là đã đối chiếu, cũng như tạo điều kiện thuận lợi khi hậu kiểm. Để tăng cường kiểm soát nội bộ đối với việc thu nợ, nhiều nhà cung cấp có thực hiện thủ tục: hàng tháng gửi cho các khách hàng một bảng kê các hoá đơn đã thực hiện trong tháng, các khoản đã trả và số dư cuối tháng. Vì thế, ở góc độ người mua ngay khi nhận được bảng này, kế toán đơn vị phải tiến hành đối chiếu với Sổ chi tiết để tìm hiểu mọi sai khác (nếu có) và sửa chữa sai sót trên sổ sách hoặc thông báo cho nhà cung cấp. Mục tiêu kiểm toán đối với khoản phải trả nhà cung cấp Nói về mục tiêu kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính, Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 - Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính có đoạn: “Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không”. Mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính là xác minh và bày tỏ ý kiến về độ tin cậy của các thông tin cũng như tính tuân thủ các nguyên tắc trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Là một bộ phận không thể tách rời của kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp có mục đích chung là đánh giá xem số dư khoản mục này có được trình bày trung thực và phù hợp với các nguyên tắc kế toán hiện hành hoặc được thừa nhận hay không. Từ các mục tiêu chung của kiểm toán có thể cụ thể hoá thành các mục tiêu đặc thù đối với khoản mục phải trả nhà cung cấp như sau: Một là, tính có thực của các khoản phải trả nhà cung cấp (mục tiêu hiệu lực): Có nghĩa là các thông tin phản ánh công nợ phải được đảm bảo bằng sự tồn tại của các khoản công nợ đó. Mục tiêu này hướng tới tính đúng đắn về nội dung kinh tế của công nợ trong quan hệ với nghiệp vụ hình thành nên nó là nghiệp vụ mua hàng và nghiệp vụ thanh toán. Hai là, tính đầy đủ của việc ghi nhận các khoản phải trả nhà cung cấp (mục tiêu trọn vẹn): Tất cả các khoản phải trả nhà cung cấp phải được ghi nhận đầy đủ vào sổ sách, tài liệu kế toán có liên quan, phải đảm bảo rằng không có khoản công nợ nào bị bỏ sót trong quá trình ghi sổ. Mục tiêu này hướng vào việc xác minh tính đầy đủ về thành phần cấu thành số tiền phải trả nhà cung cấp. Đây là mục tiêu được chú trọng nhất trong kiểm toán khoản mục này. Ba là, tính đúng đắn trong việc phân loại và trình bày (mục tiêu về phân loại và trình bày): Các khoản phải trả nhà cung cấp được ghi nhận, các nghiệp vụ thanh toán được hạch toán theo đúng các đối tượng chi tiết, ghi nhận đúng nợ phải thu và phải trả. Một nguyên tắc hết sức quan trọng khi hạch toán các nghiệp vụ thanh toán với nhà cung cấp là phải tiến hành hạch toán chi tiết theo từng đối tượng nhà cung cấp, việc hạch toán nhầm sẽ dẫn đến sai bản chất kế toán và sai sót trong việc trình bày trên báo cáo tài chính. Bốn là, tính đúng đắn trong việc tính giá (mục tiêu về tính giá): Việc tính toán khoản phải trả nhà cung cấp phù hợp với Hợp đồng mua bán, Hoá đơn và Biên bản giao nhận hàng hoá - dịch vụ. Các khoản chiết khấu, giảm giá, hàng trả lại đều được ghi nhận một cách đúng đắn, phù hợp với các chứng từ, tài liệu liên quan. Năm là, tính đúng đắn trong việc phản ánh quyền và nghĩa vụ (mục tiêu về quyền và nghĩa vụ): Mục tiêu này hướng tới việc xác minh nghĩa vụ trong việc thanh toán công nợ của đơn vị đối với các nhà cung cấp. Sáu là, tính chính xác cơ học (mục tiêu về tính chính xác cơ học): Mục tiêu này hướng tới việc xác minh tính chính xác trong việc tính toán, cộng dồn, chuyển sổ đối với các khoản phải trả nhà cung cấp. Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên đánh giá mục tiêu hợp lý chung hướng tới khả năng sai sót cụ thể của các số tiền trên khoản mục từ đó đánh giá khả năng đạt được của các mục tiêu khác. Nếu kiểm toán viên nhận thấy mục tiêu hợp lý chung chưa đạt được thì phải sử dụng đến các mục tiêu chung khác. Từ đó kiểm toán viên lập kế hoạch thu thập những bằng chứng chi tiết hơn cho khoản mục với những mục tiêu xác định. Quy trình kiểm toán khoản mục phải trả nhà cung cấp Chuẩn bị kiểm toán Để đảm bảo công việc kiểm toán đạt hiệu quả và đúng tiến độ thì giai đoạn chuẩn bị kiểm toán phải được tiến hành một cách hết sức công phu. Các bước công việc trong giai đoạn này được thực hiện nhằm thiết kế chương trình kiểm toán chi tiết, tạo cơ sở cho việc thực hiện kiểm toán một cách khoa học và hợp lý. Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp bao gồm các bước cơ bản sau: Lập kế hoạch kiểm toán Để lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên có thể thảo luận với kiểm toán viên nội bộ, Giám đốc và các nhân viên của đơn vị được kiểm toán về những vấn đề liên quan đến kế hoạch kiểm toán và thủ tục kiểm toán nhằm nâng cao hiệu quả công việc kiểm toán và phối hợp công việc với các nhân viên của khách hàng. Đối với khoản mục phải trả nhà cung cấp, kiểm toán viên đã lập kế hoạch kiểm toán trên cơ sở thực hiện các bước công việc sau: Thu thập thông tin cơ sở Trong bước công việc này, kiểm toán viên tìm hiểu về ngành nghề, công việc kinh doanh của khách hàng, tìm hiểu về hệ thống kế toán… nhằm thu thập những hiểu biết ban đầu về khách hàng. Tìm hiểu hoạt động kinh doanh của khách hàng: Những hiểu biết về công việc kinh doanh của khách hàng giúp kiểm toán viên nhận biết được những chủng loại hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp mua vào có thực sự phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh hay không, từ đó xác định được các khoản phải trả nhà cung cấp có thực sự phù hợp về nội dung kinh tế hay không. Tham khảo kết quả các cuộc kiểm toán trước và hồ sơ kiểm toán chung: Hồ sơ kiểm toán chung và hồ sơ kiểm toán của những năm trước thường chứa đựng nhiều thông tin về ngành nghề kinh doanh của khách hàng, về tổ chức bộ máy quản lý, điều lệ Công ty, các chính sách tài chính - kế toán… Tham khảo kết quả kiểm toán của năm trước giúp kiểm toán viên tiết kiệm thời gian, công sức trong việc nhanh chóng nắm bắt được bản chất của các số liệu, các vấn đề cần lưu ý, những yếu kém trong việc ghi sổ các nghiệp vụ cũng như các hoạt động kiểm soát đối với khoản mục. Thực hiện các cuộc phỏng vấn: Kiểm toán viên tiến hành phỏng vấn nhà quản lý doanh nghiệp, kế toán công nợ nhằm thu thập thông tin về trình độ nhân viên, về nội dung các thủ tục thực hiện cũng như ưu nhược điểm của những thủ tục này đối với khoản mục phải trả nhà cung cấp. Từ đó đánh giá ảnh hưởng của các quy định đến việc hạch toán khoản phải trả nhà cung cấp. Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng Công việc này được kiểm toán viên thực hiện nhằm nắm bắt các quy trình pháp lý có ảnh hưởng đến các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Những thông tin này được thu thập trong quá trình tiếp xúc với Ban giám đốc đơn vị khách hàng gồm: Giấy phép thành lập và Điều lệ công ty: những tài liệu này cho kiểm toán viên những thông tin ban đầu về quá trình hình thành, mục tiêu hoạt động, cơ cấu tổ chức, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh… của khách hàng. Báo cáo tài chính: cung cấp những dữ liệu về tài chính giúp cho kiểm toán viên nhận thức tổng quát, đánh giá xu hướng về tình hình tài chính của đơn vị, đặc biệt là tình hình các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản ứng trước cho nhà cung cấp. Báo cáo kiểm toán, thanh tra hay kiểm tra: giúp kiểm toán viên nắm bắt các khả năng sai phạm và dự kiến phương hướng kiểm toán có liên quan tới khoản mục. Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc: giúp kiểm toán viên xác định những sự kiện có ảnh hưởng trọng yếu tới BCTC, đặc biệt là ảnh hưởng tới khoản mục. Các hợp đồng mua hàng dài hạn hoặc các cam kết khác: giúp kiểm toán viên nắm được các khía cạnh pháp lý có ảnh hưởng đến công nợ phải trả của đơn vị. Các nội quy, chính sách về mua hàng và thanh toán: là cơ sở để kiểm toán viên xem xét sự phù hợp của các quyết định của nhà quản lý với chính sách của công ty cũng như luật pháp. Thực hiện các thủ tục phân tích Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 520 – Quy trình phân tích: “… Quy trình phân tích là việc phân tích các số liệu, thông tin, các tỉ suất quan trọng, qua đó tìm ra những xu hướng, biến động và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến…” Thủ tục phân tích được áp dụng cho tất cả các cuộc kiểm toán và thường được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán. Việc thực hiện thủ tục phân tích trong kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp giúp cho kiểm toán viên xác định các vấn đề nghi vấn về khả năng hoạt động liên tục cũng như đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ phải trả. Thủ tục phân tích được kiểm toán viên sử dụng gồm hai loại: Phân tích ngang: là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh trị số của cùng khoản mục trên BCTC như số tiền phải trả (hoặc ứng trước) cho nhà cung cấp cuối kỳ này với cuối kỳ trước. Phân tích dọc: là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các tỉ lệ tương quan qua các chỉ tiêu và khoản mục khác nhau trên BCTC như: tỉ suất về khả năng thanh toán tức thời, tỉ suất về khả năng thanh toán nhanh… Đánh giá mức trọng yếu và rủi ro Để đánh giá tính trọng yếu, kiểm toán viên đưa ra mức trọng yếu ước lượng cho toàn bộ BCTC, sau đó phân bổ mức trọng yếu cho khoản mục phải trả nhà cung cấp và tiến tới đánh giá tính trọng yếu cho khoản mục này. Việc đánh giá tính trọng yếu chủ yếu phụ thuộc vào các xét đoán nghề nghiệp cũng như kinh nghiệm của kiểm toán viên. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, khả năng kiểm toán viên có nhận xét không xác đáng về BCTC là điều luôn có thể xảy ra, đó chính là rủi ro kiểm toán. Mức rủi ro này cao hay thấp sẽ quyết định khối lượng công việc kiểm toán viên tiến hành. Do vậy, trong giai đoạn lập kế hoạch, kiểm toán viên phải xác định rủi ro kiểm toán (AR). Rủi ro kiểm toán được hình thành từ ba bộ phận: rủi ro tiềm tàng (IR), rủi ro kiểm soát (CR) và rủi ro phát hiện (DR). Rủi ro tiềm tàng (IR) nằm ngay trong bản chất các số dư tài khoản phải trả nhà cung cấp hay trong chức năng sản xuất của doanh nghiệp, cho dù có hay không tồn tại hệ thống KSNB. Rủi ro kiểm soát (CR) được kiểm toán viên đánh giá đối với khoản mục phải trả nhà cung cấp thông qua việc tìm hiểu hệ thống KSNB của doanh nghiệp với chu trình mua hàng và thanh toán. Rủi ro phát hiện (DR) là khả năng mà các thủ tục kiểm toán không phát hiện được các sai phạm trọng yếu. Kiểm toán viên có trách nhiệm thực hiện các thủ tục nhằm thu thập các bằng chứng kiểm toán, nhằm quản lý và kiểm soát đối với rủi ro phát hiện. Xác định mức trọng yếu và rủi ro là thủ tục phức tạp đòi hỏi trình độ cũng như khả năng xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát Đây là một phần việc hết sức quan trọng mà kiểm toán viên phải thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán. Vấn đề này được quy định rõ trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ: “Kiểm toán viên phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng để lập kế hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình kiểm toán thích hợp, có hiệu quả…” Theo đó, kiểm toán viên phải tìm hiểu về môi trường kiểm soát, thủ tục kiểm soát, hệ thống kế toán và kiểm toán nội bộ. Môi trường kiểm soát: Nhân tố quan trọng nhất trong môi trường kiểm soát là thái độ, nhận thức về hoạt động kiểm tra, kiểm soát cũng như hành động của nhà quản lý doanh nghiệp. Nếu nhà quản lý cho rằng công tác kiểm tra, kiểm soát là không thể thiếu được đối với việc ghi nhận và thanh toán các khoản phải trả nhà cung cấp thì mỗi thành viên tham gia xử lý các nghiệp vụ phát sinh sẽ có nhận thức đúng đắn về hoạt động kiểm tra, kiểm soát và tuân thủ nội quy quy định cũng như chế độ đề ra. Để có được hiểu biết đầy đủ về môi trường kiểm soát, kiểm toán viên không chỉ xem xét sổ tay về thủ tục, chế độ của đơn vị được kiểm toán mà còn tiến hành phỏng vấn Ban lãnh đạo, nhân viên của đơn vị. Thủ tục kiểm soát: Các thủ tục kiểm soát do Ban giám đốc đơn vị thiết lập và thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu quản lý cụ thể. Các thủ tục kiểm soát chủ yếu đối với khoản phải trả nhà cung cấp là: Cách ly trách nhiệm hợp lý và đối chiếu thường xuyên giữa bộ phận kế toán với bộ phận thanh toán. Quy định về việc phê chuẩn đối với các nghiệp vụ thanh toán với nhà cung cấp. Đánh số thứ tự trước các Báo cáo nhận hàng, Phiếu nhập kho, các chứng từ thanh toán. Thiết kế sơ đồ tài khoản đầy đủ, phù hợp với nghiệp vụ thanh toán cho nhà cung cấp. Quy định về việc ghi sổ cập nhật đối với nghiệp vụ thanh toán với nhà cung cấp. Quy định về việc đối chiếu định kỳ giữa Nhật ký mua hàng, Sổ kho, Báo cáo nhận hàng, Sổ hạch toán chi tiết hàng tồn kho, Sổ hạch toán chi tiết thanh toán với nhà cung cấp. Tiến hành đối chiếu với tài khoản ở ngân hàng. Các thủ tục kiểm soát trên được thiết lập dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: Nguyên tắc phân công, phân nhiệm: kiểm toán viên tìm hiểu sự phân chia nhiệm vụ, công việc giữa các bộ phận, các cá nhân trong bộ phận và tính độc lập của những người thực hiện công việc. Kiểm toán viên tìm hiểu nhiệm vụ của kế toán vật tư, kế toán công nợ, kế toán tiền mặt và thủ quỹ. Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: kiểm toán viên kiểm tra sự cách ly về trách nhiệm giữa kế toán công nợ với thủ kho, thủ quỹ, bộ phận nhận hàng. Nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn: kiểm toán viên kiểm tra việc uỷ nhiệm người có thẩm quyền phê chuẩn thanh toán có tuân theo quy tắc không, và việc phê chuẩn có đúng cấp có thẩm quyền không… Hệ thống kế toán: Một hệ thống kế toán hoạt động hữu hiệu không phải chỉ cung cấp những thông tin cần thiết cho quản lý mà còn đóng vai trò quan trọng kiểm soát các hoạt động của đơn vị. Các chính sách kế toán, các hình thức kế toán phải tuân thủ theo quy định, các loại chứng từ, sổ sách được áp dụng phải tuân theo mẫu quy định của Bộ Tài chính. Kiểm toán nội bộ: Đây là một trong những nhân tố cơ bản trong hệ thống KSNB của doanh nghiệp. Kiểm toán nội bộ cung cấp sự quan sát, đánh giá thường xuyên về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp bao gồm cả tính hiệu quả của việc thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục kiểm soát nội bộ. Đố._.i với khoản phải trả nhà cung cấp, bộ phận kiểm toán nội bộ hữu hiệu sẽ giúp doanh nghiệp có được những thông tin kịp thời và xác thực về các hoạt động liên quan đến khoản mục này, nhằm kịp thời điều chỉnh và bổ sung các quy chế kiểm soát thích hợp và hiệu quả. Sau khi có được những hiểu biết đầy đủ về hệ thống KSNB, kiểm toán viên tiến hành đánh giá rủi ro kiểm soát đối với khoản phải trả nhà cung cấp. Mức rủi ro kiểm soát của khoản mục này thường được đánh giá cao khi hệ thống KSNB đối với khoản mục không được áp dụng hay áp dụng nhưng không hiệu quả. Thiết kế chương trình kiểm toán Chương trình kiểm toán là phương tiện để trưởng đoàn kiểm toán quản lý, giám sát cuộc kiểm toán thông qua việc sắp xếp một cách có kế hoạch các công việc và nguồn lực để đảm bảo sự phối hợp giữa các kiểm toán viên cũng như hướng dẫn chi tiết cho các kiểm toán viên trong chương trình kiểm toán. Chương trình kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp bao gồm các thử nghiệm tuân thủ và thử nghiệm cơ bản được trình bày dưới đây: Thiết kế các thử nghiệm tuân thủ Thử nghiệm tuân thủ (hay thử nghiệm kiểm soát) được kiểm toán viên sử dụng để đánh giá sự hiện diện và vận hành của hệ thống KSNB. Để thu thập bằng chứng về hệ thống KSNB đối với khoản mục phải trả nhà cung cấp, kiểm toán viên áp dụng các trắc nghiệm đạt yêu cầu, cụ thể như sau: Trường hợp thủ tục kế toán, thủ tục quản lý liên quan tới khoản mục có dấu vết, kiểm toán viên kiểm tra chi tiết hệ thống chứng từ, kiểm tra chữ ký tắt trên các hoá đơn mua hàng, các phiếu chi…, đối chiếu chữ ký trên các chứng từ và xem xét sự tương xứng của người ký duyệt với thẩm quyền của từng người. Trường hợp không có dấu vết, kiểm toán viên cần phỏng vấn các nhân viên có liên quan hoặc quan sát công việc thực tế của họ. Cụ thể, kiểm toán viên xem xét sự phân cách trách nhiệm giữa kế toán thanh toán với thủ quỹ hoặc người ký duyệt chi tiền trả nhà cung cấp… Thiết kế các thử nghiệm cơ bản Đây là thử nghiệm then chốt và cốt lõi trong kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp, được áp dụng để khẳng định độ tin cậy của thông tin. Thử nghiệm cơ bản được thiết kế với các loại thủ tục: thủ tục phân tích và thủ tục kiểm tra chi tiết số dư. Thủ tục phân tích: kiểm toán viên xem xét tính hợp lý chung của số dư TK 331 (336, 342) thông qua việc so sánh trị số chỉ tiêu của kỳ này với kỳ trước, so sánh các tỉ suất về khả năng thanh toán… Các công việc cụ thể là: Xác định lại số dư tài khoản và sai sót tiềm tàng cần kiểm tra Tính toán lại giá trị ước tính của tài khoản Xác định giá trị chênh lệch có thể chấp nhận được Xác định chênh lệch trọng yếu cần kiểm tra Kiểm tra số chênh lệch trọng yếu Đánh giá kết quả kiểm tra của độ chính xác các tài khoản đó. Thủ tục kiểm tra chi tiết số dư: Đây là cách thức kết hợp các phương pháp cân đối, phân tích, đối chiếu trực tiếp với kiểm kê và điều tra thực tế để khẳng định độ tin cậy của số dư cuối kỳ ở Sổ Cái TK 331 (336, 342) ghi vào Bảng cân đối kế toán. Thủ tục này thường có chi phí lớn nên số lượng thử nghiệm cần thực hiện tuỳ thuộc vào kết quả thử nghiệm tuân thủ và thủ tục phân tích. Thực hiện kiểm toán Thử nghiệm tuân thủ Kiểm toán viên thực hiện các thử nghiệm tuân thủ đối với khoản phải trả nhà cung cấp tương ứng với từng mục tiêu cụ thể như sau: Bảng 1.1: Các thử nghiệm tuân thủ đối với khoản phải trả nhà cung cấp MỤC TIÊU KIỂM TOÁN THỬ NGHIỆM TUÂN THỦ 1. Hiệu lực (tính có thực của các khoản phải trả nhà cung cấp) Thảo luận với người ghi sổ và quan sát các hoạt động để xem xét việc cách ly trách nhiệm giữa người ghi sổ và người phê duyệt thanh toán Xem xét việc đối chiếu với ngân hàng Xem xét việc đánh số thứ tự trước các chứng từ thanh toán. 2. Trọn vẹn (tính đầy đủ của việc ghi nhận các khoản phải trả nhà cung cấp) Theo dõi một chuỗi chứng từ thanh toán như: Ủy nhiệm chi, Phiếu chi, Séc thanh toán… để xem xét tính liên tục của chuỗi chứng từ. 3. Phân loại và trình bày (tính đúng đắn trong việc phân loại và trình bày) Kiểm tra việc ghi sổ, việc xây dựng và vận dụng sơ đồ tài khoản. 4. Tính giá (tính đúng đắn trong việc tính giá) Kiểm tra dấu hiệu của kiểm soát nội bộ Kiểm tra việc đối chiếu với ngân hàng. 5. Tính chính xác cơ học Xem xét việc cách ly trách nhiệm và đối chiếu thường xuyên giữa người ghi sổ và người phê duyệt thanh toán. 6. Cho phép (tính đúng đắn trong việc phê duyệt) Kiểm tra dấu hiệu của sự phê chuẩn Kiểm tra việc vận dụng quy định về việc phê chuẩn các nghiệp vụ thanh toán. 7. Kịp thời (ghi sổ kịp thời) Kiểm tra việc ghi sổ và quan sát việc vào sổ các nghiệp vụ thanh toán Kiểm tra dấu vết của KSNB. Thủ tục phân tích Thủ tục phân tích là căn cứ quan trọng để kiểm toán viên xác định nội dung và phạm vi thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết số dư. Trong quy trình phân tích, kiểm toán viên tiến hành các công việc: So sánh chi phí mua hàng kỳ này với kỳ trước để xem xét những biến động bất thường có thể có. Phân tích xu hướng tăng giảm, kiểm tra tính hợp lý của các yếu tố chi phí giữa các kỳ kế toán để phát hiện những biến động bất thường. Phân tích tỉ lệ chi phí mua hàng của từng tháng với nợ phải trả được ghi nhận trong từng tháng hoặc với các khoản thực tế đã thanh toán. Thủ tục kiểm tra chi tiết số dư Các thủ tục kiểm tra chi tiết số dư khoản phải trả nhà cung cấp được trình bày trong bảng dưới đây: Bảng 1.2: Các thủ tục kiểm tra chi tiết số dư khoản phải trả nhà cung cấp MỤC TIÊU KIỂM TOÁN THỦ TỤC KIỂM TRA CHI TIẾT Tính hợp lý chung Số dư tài khoản Phải trả nhà cung cấp, các số dư chi tiết trong Sổ chi tiết các khoản phải trả đều hợp lý. So sánh số dư TK phải trả nhà cung cấp của năm nay với năm trước. Kiểm tra các khoản nợ không có bên bán và các khoản phải trả có chịu lãi. Đối chiếu các khoản phải trả trong Sổ chi tiết với các năm trước (theo đối tượng) để phát hiện các biến động. Phân tích các tỉ suất thanh toán Các mục tiêu đặc thù Hiệu lực: các khoản phải trả nhà cung cấp trong Sổ chi tiết đều có căn cứ hợp lý Đối chiếu Nhật ký mua hàng với Sổ chi tiết TK 331 (336, 342), Hoá đơn, Hợp đồng, Đơn đặt hàng Đối chiếu Sổ chi tiết TK 331 (336, 342) với Phiếu chi, Giấy báo Nợ Đối chiếu Sổ chi tiết TK 331 (336, 342) với Bảng đối chiếu của nhà cung cấp Lấy xác nhận các khoản phải trả, chú trọng các khoản phải trả lớn và bất thường Trọn vẹn: tất cả các khoản phải trả nhà cung cấp hiện có đều được ghi sổ Đối chiếu Hoá đơn và Sổ chi tiết TK 331 (336, 342) Đối chiếu Phiếu chi, Giấy báo Nợ với Sổ chi tiết TK 331 (336, 342). Đối chiếu Sổ chi tiết TK 331 (336, 342) với Bảng đối chiếu của nhà cung cấp Kiểm tra chi tiết các khoản nợ quá hạn. Phân loại: các khoản phải trả nhà cung cấp trong danh sách được phân loại đúng Kiểm tra sổ chi tiết TK331 (336, 342). Gửi thư xác nhận Kiểm tra các nghiệp vụ bù trừ công nợ Trình bày: tài khoản nợ phải trả nhà cung cấp được trình bày đúng đắn Kiểm tra các khoản phải trả để đảm bảo nợ phải trả nhà cung cấp, nợ ngắn hạn và dài hạn (chịu lãi) được tách riêng. Tính giá: các khoản phải trả trong danh sách, bảng kê được đánh giá đúng đắn Gửi thư xác nhận tới các nhà cung cấp, chú trọng các khoản lớn và bất thường Gửi thư xác nhận về các khoản chiết khấu thanh toán Chính xác cơ học: các khoản phải trả trong danh sách, bảng kê thống nhất với Sổ chi tiết. Sổ tổng hợp được cộng dồn đúng và thống nhất với Sổ Cái. Cộng tổng danh sách (Bảng kê) các khoản phải trả. Đối chiếu số tổng cộng với Sổ Cái. Đối chiếu các hóa đơn của từng nhà cung cấp với sổ hạch toán tổng hợp. Đúng kỳ: việc phản ánh nợ phải trả nhà cung cấp được vào sổ đúng kỳ Thực hiện kiểm tra công nợ quá hạn Đối chiếu với số liệu kiểm toán chu trình Hàng tồn kho, xem xét hồ sơ hàng mua đang đi đường. Kết thúc kiểm toán Sau khi hoàn thành công việc kiểm toán đối với khoản mục, kiểm toán viên tổng hợp các kết quả thu thập được và thực hiện một số thử nghiệm bổ sung có tính chất tổng quát trước khi đưa cho trưởng đoàn kiểm toán tổng hợp và lập Báo cáo kiểm toán. Xem xét các khoản công nợ ngoài dự kiến Thực tế có những sự kiện đã phát sinh trong năm và có thể dẫn đến một khoản công nợ phải trả nhà cung cấp mà cho đến thời điểm khoá sổ vẫn chưa xác định được là có chắc chắn xảy ra hay không và số tiền cụ thể là bao nhiêu. Để tìm kiếm, xác định các khoản công nợ này, kiểm toán viên thực hiện các thủ tục kiểm soát: Kiểm tra các chứng từ chứng minh của các Hoá đơn chưa thanh toán một vài tuần sau ngày kết thúc năm. Đối chiếu các Báo cáo nhận hàng trước ngày cuối năm với các Hoá đơn của nhà cung cấp có liên quan. Đối chiếu các Bảng kê của nhà cung cấp có số dư Nợ với danh sách các khoản phải trả. Gửi thư xác nhận cho nhà cung cấp có quan hệ kinh doanh với khách hàng. Xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ Từ ngày kết thúc niên độ, công bố Báo cáo tài chính và Báo cáo kiểm toán có thể xảy ra những sự kiện quan trọng liên quan tới khoản phải trả nhà cung cấp, có ảnh hưởng tới BCTC. Kiểm toán viên kiểm tra những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới BCTC và cần điều chỉnh như: kiểm tra lại việc chia cắt niên độ hàng tồn kho và các khoản thanh toán nợ, phỏng vấn Ban giám đốc xem có nghiệp vụ nào bất thường xảy ra như trả lại hàng kém phẩm chất, nhận hàng đang đi đường về kho… Đánh giá kết quả kiểm toán Kết quả kiểm toán khoản khoản phải trả nhà cung cấp được đánh giá theo các khía cạnh sau: Việc hạch toán các nghiệp vụ là hoàn toàn phù hợp với các quy định, các chuẩn mực kế toán hiện hành. Quá trình thanh toán được thực hiện theo đúng các quy định và tuân thủ pháp luật nhà nước. Các thông tin về nghiệp vụ, các khoản nợ phải trả nhà cung cấp phải đảm bảo được trình bày trung thực và hợp lý. Lập và phát hành Báo cáo kiểm toán Căn cứ những kết quả thu thập được của kiểm toán khoản mục, kiểm toán viên tiến hành lập thư quản lý nêu rõ những nhận xét, những sai sót trong quá trình thực hiện tại đơn vị, đồng thời đưa ra những kiến nghị. Sau khi hoàn thành công việc kiểm toán khoản mục, kiểm toán viên tổng hợp kết quả kiểm toán chuyển cho trưởng đoàn kiểm toán; trên cơ sở tổng hợp kết quả kiểm toán của các phần hành còn lại, trưởng đoàn kiểm toán sẽ lập và phát hành Báo cáo kiểm toán. Trên đây là toàn bộ những lý luận cơ bản về kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán trong kiểm toán báo cáo tài chính. Để có được cái nhìn cụ thể hơn, rõ ràng hơn về các công việc mà kiểm toán viên thực hiện, phần sau của khoá luận sẽ trình bày về thực tế kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp do Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) thực hiện tại hai khách hàng cụ thể là ABC và XYZ. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN KHOẢN PHẢI TRẢ NHÀ CUNG CẤP TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO CÔNG TY DỊCH VỤ TƯ VẤN TÀI CHÍNH KẾ TOÁN VÀ KIỂM TOÁN (AASC) THỰC HIỆN Tổng quan về Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) trước đây là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán và tư vấn tài chính - kế toán. Cùng với Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO), AASC là một trong hai tổ chức đầu tiên và lớn nhất của Việt Nam hoạt động độc lập trong lĩnh vực dịch vụ về kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính, thuế. Từ tháng 4/2007, Công ty đã chuyển đổi thành mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên. Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán có tên giao dịch quốc tế là Auditing and Accounting Financial Consultancy Service Company, gọi tắt là AASC. Trụ sở chính của Công ty đặt tại số 1 Lê Phụng Hiểu, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) được thành lập ngày 13 tháng 5 năm 1991 theo Quyết định số 164 TC/QĐ/TCCB của Bộ trưởng Bộ Tài chính với tên gọi ban đầu là Công ty Dịch vụ Kế toán (Accounting Service Company – ASC). Ngày 14 tháng 9 năm 1991, Công ty chính thức đi vào hoạt động. Khi mới ra đời, Công ty hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kế toán với vai trò giúp các doanh nghiệp lập và ghi sổ kế toán, lập báo cáo tài chính. Sau này, nhận thức rõ sự cần thiết của kiểm toán độc lập tại Việt Nam, cũng như thấy được sự lớn mạnh về năng lực nghiệp vụ, ngày 14 tháng 9 năm 1993, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 639/TC/QĐ/TCCB, giao cho Công ty Dịch vụ Kế toán triển khai thêm dịch vụ kiểm toán và đổi tên Công ty thành “Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán” – AASC. Từ đó đến nay, Công ty không chỉ cung cấp dịch vụ kế toán mà còn cung cấp các dịch vụ kiểm toán, tư vấn tài chính, tư vấn thuế, đào tạo và hỗ trợ tuyển dụng, công nghệ thông tin. Cùng với sự phát triển của hoạt động sản xuất kinh doanh, nhu cầu đối với các dịch vụ tư vấn, kế toán, kiểm toán cũng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Để đáp ứng nhu cầu đó, AASC cũng không ngừng mở rộng. Hiện nay, AASC có trụ sở chính đặt tại Hà Nội và 4 chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Thanh Hóa và Quảng Ninh trong đó chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh là chi nhánh lớn nhất. Qua 15 năm xây dựng và phát triển, với những nỗ lực không ngừng của lãnh đạo cũng như tập thể cán bộ công nhân viên, AASC đã gặt hái được những thành tựu đáng tự hào, chiếm được lòng tin của khách hàng bằng việc cung cấp những dịch vụ chuyên môn đảm bảo chất lượng. Đồng thời, với cương vị là công ty đầu ngành, AASC đã có những đóng góp đáng kể trong việc cộng tác với các công ty và tổ chức nước ngoài nhằm phát triển sự nghiệp kiểm toán ở Việt Nam. Tháng 4 năm 2005, AASC chính thức trở thành Hội viên Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA). Tháng 7 năm 2005, AASC chính thức gia nhập Tổ chức Kế toán và Kiểm toán quốc tế INPACT và trở thành đại diện của INPACT quốc tế tại Việt Nam. AASC đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương lao động Hạng Ba (năm 2001) và Huân chương lao động Hạng Nhì (năm 2005). Hiện nay, AASC là công ty kiểm toán được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận là tổ chức kiểm toán độc lập được phép tham gia kiểm toán các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán; được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận là tổ chức kiểm toán độc lập được phép kiểm toán các tổ chức tín dụng; là một trong số rất ít các công ty kiểm toán đang hoạt động tại Việt Nam được phép tham gia kiểm toán các dự án tài trợ bởi các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) và các tổ chức khác. Đạt được những thành tựu đó là do AASC đã luôn chú trọng xây dựng đội ngũ nhân lực lớn mạnh. Nếu tại thời điểm thành lập, Công ty chỉ có 8 cán bộ nhân viên, thì đến nay Công ty đã có hơn 300 cán bộ nhân viên và cộng tác viên, trong đó 118 kiểm toán viên được cấp chứng chỉ kiểm toán viên nhà nước, 4 thẩm định viên về giá, 26 tiến sĩ, thạc sĩ và nhiều cộng tác viên là các giáo sư, tiến sĩ, chuyên gia đầu ngành về tài chính - kế toán - kiểm toán. Đặc điểm hoạt động kinh doanh Nói một cách khái quát, mục tiêu hoạt động của Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) là cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán và kiểm toán cho các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế - xã hội. Cụ thể hơn, mục tiêu hoạt động của Công ty là kiểm tra, đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của số liệu kế toán, báo cáo tài chính và báo cáo quyết toán của đơn vị được kiểm toán; tư vấn hướng dẫn khách hàng thực hiện đúng các quy định của Nhà nước về tài chính, kế toán, thuế… cũng như tư vấn điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Với mục tiêu trên, các dịch vụ AASC đã và đang cung cấp bao gồm: Kiểm toán; Kế toán; Công nghệ thông tin; Tư vấn tài chính, quản trị kinh doanh; Tư vấn thuế; Đào tạo và hỗ trợ tuyển dụng; Giám định tài chính, kế toán. Sau đây là vài nét về dịch vụ kiểm toán do AASC cung cấp. Năm 1993, Công ty đã bổ sung thêm dịch vụ kiểm toán bên cạnh các dịch vụ tư vấn tài chính và kế toán. Từ đó đến nay, kiểm toán được xem là một trong những hoạt động truyền thống của AASC. Qua hơn 10 năm hoạt động, dịch vụ này đã được hoàn thiện và phát triển về phạm vi cũng như chất lượng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Các loại hình dịch vụ kiểm toán do AASC cung cấp bao gồm: Kiểm toán Báo cáo tài chính thường niên; Kiểm toán hoạt động của các dự án; Kiểm toán Báo cáo quyết toán vốn đầu tư các công trình xây dựng cơ bản; Kiểm toán xác định vốn, giá trị doanh nghiệp; Kiểm toán tuân thủ luật định; Kiểm toán các doanh nghiệp tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán; Kiểm toán tỷ lệ nội địa hoá; Kiểm toán doanh nghiệp Nhà nước phục vụ công tác cổ phần và giám định các tài liệu tài chính kế toán. Dịch vụ kiểm toán là dịch vụ đem lại doanh thu cao nhất cho Công ty. Trong đó, kiểm toán Báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản được coi là thế mạnh hàng đầu của Công ty. Thị trường và khách hàng của Công ty Hiện nay, có khoảng 130 công ty kiểm toán đang hoạt động ở Việt Nam, trong đó có cả các công ty kiểm toán nước ngoài danh tiếng. Song, AASC được đánh giá là một trong những công ty kiểm toán hàng đầu ở Việt Nam. Các đối thủ cạnh tranh chính của AASC là KPMG, Ernst & Young, Pricewaterhouse Coopers, VACO… Với chiến lược tiếp cận và nắm bắt nhanh chóng nhu cầu của khách hàng, tư vấn và cung cấp tài liệu miễn phí, chủ động liên hệ xây dựng quan hệ với khách hàng, quy mô hoạt động của Công ty ngày càng được mở rộng, khách hàng của Công ty ngày càng đông đảo. Trải qua 15 năm hoạt động, Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán đã có khoảng 1500 khách hàng trong đó có khoảng 500 khách hàng thường xuyên trong nhiều lĩnh vực trên khắp cả nước. Các khách hàng tín nhiệm cao của AASC bao gồm: 1. Ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ tài chính; 2. Năng lượng, dầu khí; 3. Viễn thông, điện lực; 4. Công nghiệp, nông nghiệp; 5. Giao thông, thủy lợi; 6. Hàng không, hàng hải; 7. Khách sạn, du lịch, thương mại; 8. Than, thép, xi măng… Lĩnh vực lợi thế của AASC là kiểm toán xây dựng cơ bản. Doanh thu từ kiểm toán xây dựng cơ bản luôn chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng doanh thu hàng năm của AASC. Đồng thời, so với các công ty kiểm toán khác, AASC thực hiện nhiều hợp đồng kiểm toán xây dựng cơ bản hơn cả. Ngoài ra, với sự nỗ lực không ngừng của toàn thể cán bộ nhân viên trong Công ty, AASC còn được phép kiểm toán các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các dự án tài trợ bởi các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) và các tổ chức khác. Công ty có một số khách hàng lớn và thường xuyên như: Công ty xi măng Nghi Sơn, Công ty liên doanh Vietsopetro, Công ty liên doanh VINAPIPE, Tổng công ty bưu điện, Tổng công ty xi măng Việt Nam, Công ty xây lắp điện I, Công ty cổ phần thiết bị bưu điện… Sự am hiểu sâu sắc và bề dày kinh nghiệm thực tiễn trong các lĩnh vực tài chính, kế toán, kiểm toán, thuế giúp AASC phục vụ với chất lượng tốt nhất bất kỳ dịch vụ chuyên ngành nào mà khách hàng yêu cầu. Kết quả hoạt động kinh doanh Qua 15 năm xây dựng và phát triển, Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán đã cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán, kiểm toán, tư vấn thuế… cho các khách hàng trên cả nước với doanh thu tăng trưởng không ngừng. Trong các loại hình dịch vụ, dịch vụ kiểm toán luôn là dịch vụ đem lại doanh thu cao nhất cho Công ty. Lợi nhuận của Công ty cũng tăng tương đối ổn định qua các năm. Trên chặng đường phát triển của mình, AASC cũng gặp phải nhiều khó khăn, đó là sự xuất hiện của các công ty kiểm toán trong và ngoài nước trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Để tồn tại và phát triển, AASC đã có những nỗ lực rất lớn trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ của mình, tìm kiếm khách hàng, gây dựng uy tín cho Công ty. Nhờ đó, doanh thu của Công ty vẫn tăng dần qua các năm. Công ty cũng luôn thực hiện tốt nghĩa vụ của mình với Ngân sách Nhà nước. Đời sống của cán bộ công nhân viên cũng ngày càng được cải thiện. Dưới đây là một số chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh của Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) trong giai đoạn 2001-2005: Bảng 2.1: Kết quả kinh doanh của AASC trong giai đoạn 2001-2005 Đơn vị tính: triệu VND STT Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 1 Doanh thu 19.352 21.174 25.972 32.274 41.005 2 Lợi nhuận 2.871 2.033 1.920 1.977 2.756 3 Nộp Ngân sách nhà nước 2.741 2.904 3.039 3.309 3.700 4 Thu nhập bình quân/tháng 2,1 2,5 2,7 3,3 4,2 (Nguồn: Báo cáo của Giám đốc Công ty trong Hội nghị tổng kết công tác năm 2005 và tổng kết 5 năm 2001-2005) Dựa vào bảng trên ta có thể thấy doanh thu của Công ty tăng đều đặn trong các năm 2001-2005 và tăng nhanh trong hai năm 2004 và 2005. Năm 2004, doanh thu tăng thêm 6.302 triệu đồng hay tăng thêm 24,26% so với năm 2003. Năm 2005, doanh thu tăng thêm 8.731 triệu đồng hay tăng thêm 27,05% so với năm 2004. Tuy nhiên, lợi nhuận của Công ty lại không tăng mà có xu hướng giảm trong các năm 2002 và 2003. Đến năm 2005, lợi nhuận lại tăng cao, đạt 2.756 triệu đồng, tăng thêm 779 triệu đồng, hay tăng thêm 39,4% so với năm 2004. Cùng với sự tăng lên về doanh thu, Công ty đã đóng góp một phần đáng kể vào Ngân sách Nhà nước cũng như cải thiện mức thu nhập bình quân cho cán bộ công nhân viên trong Công ty. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Sơ đồ dưới đây là mô hình tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC). Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty AASC BAN GIÁM ĐỐC Phòng Kiểm toán Thương mại - Dịch vụ Phòng Kiểm toán Sản xuất vật chất Phòng Công nghệ thông tin Phòng Tư vấn và Kiểm toán Phòng Đào tạo và Hợp tác quốc tế Phòng Kiểm toán Xây dựng cơ bản Phòng Kiểm toán Dự án Chi nhánhTP. Hồ Chí Minh Chi nhánh Vũng Tàu Trụ sở chính tại Hà Nội Phòng Tài chính – Kế toán Chi nhánh Thanh Hóa Chi nhánh Quảng Ninh Phòng Hành chính tổng hợp Về cơ bản, bộ máy quản lý của Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán bao gồm: Ban Giám đốc: gồm Giám đốc và 5 Phó Giám đốc Các phòng chức năng: gồm Phòng Hành chính tổng hợp và Phòng Tài chính - Kế toán Các phòng nghiệp vụ: gồm Phòng Kiểm toán Thương mại - Dịch vụ, Phòng Kiểm toán Sản xuất vật chất, Phòng Kiểm toán Dự án, Phòng Tư vấn và Kiểm toán, Phòng Kiểm toán Xây dựng cơ bản, Phòng Đào tạo và Hợp tác quốc tế, Phòng Công nghệ thông tin. Quy trình chung kiểm toán báo cáo tài chính do AASC thực hiện Tại AASC, chương trình kiểm toán được xây dựng dựa trên kinh nghiệm của các kiểm toán viên lâu năm và sự học hỏi các công ty kiểm toán, đặc biệt là các công ty kiểm toán nước ngoài. Chương trình được thường xuyên cập nhật và hoàn thiện cho phù hợp với chế độ kế toán và tình hình thị trường trong từng giai đoạn. Hệ thống chương trình kiểm toán gồm có: hệ thống hồ sơ kiểm toán, hệ thống câu hỏi đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ, các mẫu quy định chung về lập kế hoạch kiểm toán, chương trình kiểm toán cụ thể cho từng khoản mục trên các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp. Việc kiểm toán các khách hàng cụ thể với những đặc thù về loại hình doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, quy mô hoạt động… có những nét khác nhau. Song, mọi cuộc kiểm toán đều tuân theo quy trình chung gồm 3 giai đoạn: chuẩn bị kiểm toán, thực hiện kiểm toán và kết thúc kiểm toán. Sơ đồ dưới đây mô tả quy trình chung kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) tại Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC): CHUẨN BỊ KIỂM TOÁN Tiếp cận khách hàng và ký hợp đồng: - Đánh giá, kiểm soát và xử lý các rủi ro kiểm toán - Lựa chọn nhóm kiểm toán - Lập hợp đồng kiểm toán Lập kế hoạch kiểm toán chiến lược (đối với khách hàng có quy mô lớn, tính chất phức tạp, địa bàn rộng hoặc kiểm toán BCTC nhiều năm) Lập kế hoạch kiểm toán tổng thể - Thu thập thông tin cơ sở - Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng - Nghiên cứu hệ thống KSNB và đánh giá rủi ro kiểm soát - Thực hiện các thủ tục phân tích tổng quát - Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro Lập chương trình kiểm toán chi tiết THỰC HIỆN KIỂM TOÁN - Thử nghiệm kiểm soát - Thử nghiệm cơ bản (thủ tục phân tích và kiểm tra chi tiết) - Đánh giá kết quả - Soát xét các báo cáo tài chính KẾT THÚC KIỂM TOÁN Kết luận về cuộc kiểm toán và lập Báo cáo kiểm toán - Soát xét các sự kiện xảy ra sau ngày phát hành BCTC - Thu thập thư giải trình của Ban Giám đốc khách hàng - Lập bảng tổng hợp kết quả kiểm toán - Lập báo cáo kiểm toán - Hoàn thiện hồ sơ kiểm toán Các hoạt động sau kiểm toán - Đánh giá kết quả và chất lượng cuộc kiểm toán - Giải quyết các sự kiện phát sinh sau ngày ký Báo cáo kiểm toán Sơ đồ 2.2: Quy trình chung kiểm toán báo cáo tài chính tại AASC Thực tế kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp tại khách hàng ABC và khách hàng XYZ Chuẩn bị kiểm toán Trước khi trình bày các bước công việc cụ thể do kiểm toán viên thực hiện trong giai đoạn Chuẩn bị kiểm toán, phần dưới đây giới thiệu sơ bộ về các khách hàng ABC và XYZ. * Nhà máy ABC: Nhà máy ABC là chi nhánh của Công ty cổ phần E chuyên kinh doanh trong lĩnh vực thiết bị bưu điện. Nhà máy ABC là đơn vị hạch toán phụ thuộc. Bước thu thập thông tin cơ sở sẽ đem lại thông tin cụ thể hơn về mối quan hệ giữa Nhà máy ABC và Công ty E. ABC là một nhà máy chuyên sản xuất thiết bị chuyên ngành bưu chính, viễn thông; xây lắp, lắp đặt, bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa thiết bị bưu chính, viễn thông. Nhà máy ABC cũng như Công ty cổ phần E là khách hàng lâu năm của Công ty AASC, được AASC tiến hành kiểm toán từ năm 2000. Do vậy, tháng 1 năm 2007, AASC đã chủ động liên hệ với Công ty E và được Công ty này mời kiểm toán qua Thư mời kiểm toán cho niên độ kế toán kết thúc ngày 31/12/2006. Sau khi hợp đồng kiểm toán được ký kết, AASC cử kiểm toán viên phụ trách công việc. Đối với phần hành khoản phải trả nhà cung cấp, AASC giao cho kiểm toán viên LTH phụ trách, thực hiện từ ngày 05/02/2007 đến ngày 10/02/2007. * Công ty XYZ: XYZ là một công ty thương mại, chuyên kinh doanh các loại vật tư nông nghiệp bao gồm gạo, lạc, đỗ xanh, phân bón… XYZ là khách hàng mới của AASC. AASC đã gửi thư chào kiểm toán cho Công ty XYZ và nhận được thư mời kiểm toán của Công ty này mời kiểm toán báo cáo tài chính cho niên độ kế toán kết thúc ngày 31/12/2006. Công việc kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp tại Công ty XYZ do kiểm toán viên NDT phụ trách, thực hiện từ ngày 14/03/2007 đến ngày 21/03/2007. Thu thập thông tin cơ sở Công việc này giúp kiểm toán viên có những hiểu biết ban đầu về khách hàng và về phần hành mình phụ trách, từ đó có định hướng và thiết kế phương pháp kiểm toán phù hợp. Kiểm toán viên thường thu thập các thông tin về đặc điểm hoạt động kinh doanh, tổ chức bộ máy quản lý, hệ thống kế toán và tổng hợp các khoản phải trả nhà cung cấp. * Nhà máy ABC: ABC là khách hàng thường xuyên của AASC nên các thông tin chung về Nhà máy này đã có trong hồ sơ kiểm toán của các năm trước. Vì vậy, kiểm toán viên sử dụng trực tiếp tài liệu trong hồ sơ thường niên. Đồng thời, qua tiếp xúc với khách hàng, kiểm toán viên đã thu được kết quả là trong năm 2006 Nhà máy không có thay đổi đáng kể nào về hoạt động kinh doanh, bộ máy quản lý, bộ máy kế toán cũng như các chính sách kế toán liên quan đến khoản phải trả nhà cung cấp. Về mối quan hệ giữa Nhà máy ABC và Công ty cổ phần E: Nhà máy ABC là chi nhánh của Công ty cổ phần E chuyên kinh doanh trong lĩnh vực thiết bị bưu điện. Nhà máy được thành lập từ năm 2002. Nhà máy ABC là đơn vị hạch toán phụ thuộc. Xét về điều kiện quản lý và sử dụng vốn, có sự ràng buộc giữa Nhà máy ABC và Công ty E. Nhà máy ABC không có quyền tự quyết trong vấn đề huy động hay sử dụng vốn. Việc mua sắm, sử dụng, trích khấu hao TSCĐ của Nhà máy ABC phải được sự phê duyệt của cấp lãnh đạo Công ty E. Nhà máy ABC chỉ là nơi sản xuất, còn việc mua sắm các yếu tố đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra do Công ty E quyết định. Về ngành nghề kinh doanh: Theo Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh số 4113019256 của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội ngày 25 tháng 3 năm 2002, ngành nghề kinh doanh của Nhà máy ABC là: "Mua bán vật tư, thiết bị chuyên ngành bưu chính, viễn thông, điện tử, tin học. Sản xuất, lắp ráp máy móc thiết bị trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, phát thanh, truyền hình, điện tử, tin học. Xây lắp, lắp đặt, bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa thiết bị bưu chính, viễn thông, điện tử, tin học. Xây lắp, tư vấn kỹ thuật trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, điện tử, tin học". Về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Nhà máy ABC được mô tả qua sơ đồ dưới đây: Sơ đồ 2.3: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Nhà máy ABC BAN GIÁM ĐỐC Phân xưởng Sản xuất Phòng Hành chính Phòng Kế toán Bộ phận sản xuất Bộ phận chức năng Phân xưởng sửa chữa Phân xưởng lắp ráp Bộ máy quản lý của Nhà máy được tổ chức khá gọn nhẹ. Ban Giám đốc gồm Giám đốc và 1 Phó Giám đốc. Giám đốc và Phó Giám đốc Nhà máy do Tổng Giám đốc Công ty E bổ nhiệm và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Nhà máy trước Tổng Giám đốc Công ty. Bộ phận chức năng gồm Phòng Kế toán và Phòng Hành chính. Bộ phận sản xuất gồm Phân xưởng sản xuất, Phân xưởng lắp ráp và Phân xưởng sửa chữa. Về tổ chức hạch toán kế toán: Phòng Kế toán của Nhà máy bao gồm: Kế toán trưởng, 1 Kế toán tổng hợp, 1 Kế toán hàng tồn kho kiêm tính giá thành và 1 Kế toán công nợ. Chế độ kế toán áp dụng: Nhà máy ABC áp dụng chế độ kế toán được ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính ngày 20/03/2006 ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp. Hình thức sổ kế toán áp dụng: Nhật ký chung. Niên độ kế toán: bắt đầu từ ngày 01/01 và kết thúc vào ngày 31/12 hàng năm. Đơn vị tiền tệ sử dụng trong ghi chép và báo cáo: đồng Việt Nam (VND). Phương pháp kế toán hàng tồn kho: Hàng tồn kho được tính theo giá gốc. Trường hợp giá trị thuần có thể thực hiện được thấp hơn giá gốc thì tính theo giá trị thuần có thể thực hiện được. Nhà máy áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên để hạch toán hàng tồn kho, giá trị hàng tồn kho được xác định theo phương pháp giá thực tế đích danh. Là một chi nhánh của Công ty E, Nhà máy ABC phụ thuộc hoàn toàn vào Công ty E về tài sản và nguồn vốn. Do đó, Nhà máy không sử dụng tài khoản 411 - Nguồn vốn kinh doanh, mọi qu._.. Quá trình thực hiện kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp được thực hiện theo đúng kế hoạch và tuân thủ các Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cũng như các chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận. Các mục tiêu kiểm toán xác định đối với khoản mục phải trả nhà cung cấp đã được thỏa mãn. Các giấy tờ làm việc đã chứa đựng đầy đủ thông tin cần thiết làm căn cứ chứng minh cho kết luận trong báo cáo kiểm toán. Trong quá trình soát xét nếu phát hiện những điểm chưa hoàn thiện, chưa đáp ứng được các mục tiêu đã đặt ra đối với khoản mục thì trưởng nhóm kiểm toán sẽ yêu cầu kiểm toán viên sửa chữa, bổ sung. Đối với quá trình kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp tại Nhà máy ABC và Công ty XYZ, sau khi soát xét, trưởng nhóm kiểm toán đánh giá công việc kiểm toán đã được thực hiện đầy đủ, bằng chứng thu thập được đã mô tả đầy đủ về các khoản ứng trước và khoản phải trả nhà cung cấp, đồng thời đạt được các mục tiêu kiểm toán đã đề ra. Sau khi công việc soát xét hoàn tất, đạt được các yêu cầu đã đặt ra, trưởng nhóm kiểm toán tiến hành tổng hợp các bằng chứng kiểm toán đã thu thập được đồng thời tổng hợp các bút toán điều chỉnh, tổng hợp kết quả kiểm toán các phần hành. Bảng tổng hợp các bút toán điều chỉnh sẽ được lập và chuyển cho khách hàng để thảo luận, thống nhất kết quả kiểm toán. Sau khi họp thống nhất kết quả kiểm toán, trưởng nhóm lập Dự thảo Báo cáo kiểm toán. Báo cáo dự thảo này được gửi cho khách hàng xem xét. Cuối cùng, căn cứ vào kết quả thống nhất với khách hàng, kết quả soát xét lần cuối của Ban Giám đốc AASC, kiểm toán viên tiến hành lập và phát hành Báo cáo kiểm toán. Kiểm toán viên cũng lập và phát hành thư quản lý nếu khách hàng có yêu cầu. Tổng kết quy trình kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp trong kiểm toán Báo cáo tài chính do AASC thực hiện tại 2 khách hàng ABC và XYZ Trên đây là toàn bộ quá trình và kết quả kiểm toán khoản mục phải trả nhà cung cấp do AASC thực hiện tại 2 đơn vị khách hàng là Nhà máy ABC – Chi nhánh Công ty cổ phần E và Công ty XYZ. Kiểm toán viên khi thực hiện đã luôn tuân thủ trình tự của chương trình kiểm toán. Tuy nhiên tùy vào đặc điểm hoạt động kinh doanh, bộ máy quản lý cũng như hệ thống kế toán của khách hàng, kiểm toán viên đã có sự vận dụng linh hoạt vào quá trình thực hiện nhằm đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Nhà máy ABC là khách hàng lâu năm của AASC nên công việc kiểm toán được thực hiện một cách giản lược. Trong giai đoạn Chuẩn bị kiểm toán, dựa vào hồ sơ thường niên, kiểm toán viên đã có được những thông tin cơ sở về Nhà máy ABC, các thông tin về nghĩa vụ pháp lý, đánh giá hệ thống KSNB liên quan đến chu trình… Do đó, kiểm toán viên đã giảm được thời gian thu thập những hiểu biết về khách hàng. Kiểm toán viên không sử dụng Bảng câu hỏi để tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ nữa mà chỉ thông qua phỏng vấn và quan sát để nắm bắt những thay đổi liên quan tới kiểm soát nội bộ tại Nhà máy trong năm 2006. Ngoài ra, việc mua sắm các yếu tố đầu vào của Nhà máy ABC là do Công ty E quyết định, chịu sự kiểm soát của Công ty E. Do đó, kiểm toán viên xác định các thủ tục kiểm toán sẽ được thực hiện giản lược, việc kiểm tra sẽ được tiến hành với quy mô mẫu chọn nhỏ hơn. Còn Công ty XYZ là khách hàng mới, do đó, ngay từ đầu cuộc kiểm toán, kiểm toán viên đã chú trọng tìm hiểu kỹ về đặc điểm hoạt động kinh doanh, bộ máy quản lý, hệ thống kế toán cũng như những thông tin cơ sở khác. Mặt khác, XYZ là một công ty thương mại, các hoạt động mua hàng và thanh toán diễn ra thường xuyên, số nhà cung cấp lớn hơn so với Nhà máy ABC. Do vậy, các bước công việc thực hiện tại Công ty XYZ từ tổng hợp cho đến chi tiết cũng được thực hiện đầy đủ và chặt chẽ. Mẫu kiểm tra chi tiết được chọn với quy mô lớn. Cụ thể hơn, trong bước Khẳng định số dư, ở Nhà máy ABC, kiểm toán viên chỉ gửi thư xác nhận cho 2/5 nhà cung cấp. Còn đối với Công ty XYZ, kiểm toán viên đã tiến hành gửi thư xác nhận cho tất cả các nhà cung cấp. Trong bước Kiểm tra số phát sinh, so với ở Nhà máy ABC, kiểm toán viên đã tiến hành chọn mẫu lớn hơn và kiểm tra kỹ hơn đối với các nghiệp vụ mua hàng và thanh toán ở Công ty XYZ. Về thủ tục Kiểm tra công nợ ngoài niên độ, ở Nhà máy ABC, do thủ tục gửi thư xác nhận đã cho kết quả khớp đúng nên kiểm toán viên không tiến hành thủ tục này. Còn đối với Công ty XYZ, đã có 3/14 nhà cung cấp không có thư phúc đáp, kiểm toán viên đã tiến hành kiểm tra công nợ ngoài niên độ để xác định tính đầy đủ của việc ghi chép đối với khoản mục. Về thủ tục Kiểm tra các khoản phải trả có gốc ngoại tệ, Nhà máy ABC không có nghiệp vụ phát sinh bằng ngoại tệ nên thủ tục này không được áp dụng; còn Công ty XYZ là doanh nghiệp thương mại có các hoạt động xuất nhập khẩu với đơn vị tiền tệ giao dịch là USD nên kiểm toán viên đã áp dụng thủ tục này để kiểm tra tính đúng đắn của các số dư có gốc ngoại tệ. Ngoài ra, do có sự khác nhau về nhà cung cấp nên khối lượng công việc thực hiện ở hai khách hàng cũng khác nhau. Nhà máy ABC có cả nhà cung cấp bên ngoài lẫn nhà cung cấp nội bộ (là Công ty E) nên việc kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp tại khách hàng này đòi hỏi phải thực hiện đối với cả hai tài khoản 331 và 336. Còn tại Công ty XYZ, công việc kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp chỉ tiến hành đối với tài khoản 331. Như vậy, những đặc điểm khác nhau giữa hai khách hàng đã dẫn đến việc thực hiện kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp ở hai khách hàng cũng khác nhau. Đối với Nhà máy ABC, trong cả giai đoạn Chuẩn bị kiểm toán và Thực hiện kiểm toán, một số bước công việc đã được lược bỏ, việc kiểm tra chi tiết được tiến hành với quy mô mẫu nhỏ hơn. Còn ở Công ty XYZ, các thủ tục kiểm toán được tiến hành một cách đầy đủ, việc kiểm tra được thực hiện với quy mô mẫu lớn hơn. CHƯƠNG III: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KIỂM TOÁN KHOẢN PHẢI TRẢ NHÀ CUNG CẤP TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO AASC THỰC HIỆN Nhận xét chung về công tác kiểm toán tại Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) Cùng với Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO), Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) là một trong hai công ty kiểm toán đầu tiên tại Việt Nam. Sau hơn 15 năm xây dựng và phát triển, AASC đã đạt được nhiều thành tựu. AASC đã có được một số lượng khách hàng đông đảo trong nhiều lĩnh vực từ sản xuất, thương mại, xây dựng cho đến ngân hàng, tài chính, bảo hiểm… Bằng trình độ, nghiệp vụ, AASC đã cung cấp cho khách hàng các dịch vụ kế toán, kiểm toán, tư vấn… với chất lượng cao, đáp ứng được sự tin cậy của khách hàng. Đạt được những thành công như vậy là do AASC đã xây dựng được một quy trình kiểm toán hợp lý, chặt chẽ, đem lại hiệu quả cao. Quy trình kiểm toán tại AASC được xây dựng trên cơ sở lý thuyết kiểm toán, tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cũng như các chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận và các quy định khác của Bộ Tài chính. Trong quá trình thực hiện kiểm toán, các kiểm toán viên của AASC cũng luôn chú ý tới việc vận dụng các chuẩn mực kiểm toán vào thực tiễn. Các chuẩn mực được nghiên cứu vận dụng một cách phù hợp với thực tiễn kiểm toán tại công ty khách hàng. Về việc trình bày và sắp xếp giấy tờ làm việc, tại AASC, các giấy làm việc được trình bày và sắp xếp theo trình tự từ tổng quát đến chi tiết, từ kết luận đến các bằng chứng kiểm toán cụ thể. Trong mỗi hồ sơ kiểm toán, trang tổng hợp luôn ở vị trí đầu tiên, sau đó là trang kết luận, tiếp đến là chương trình kiểm toán, sau nữa là các giấy tờ làm việc khác mô tả chi tiết các bước công việc mà kiểm toán viên đã thực hiện cùng kết quả thu được, cuối cùng là các tài liệu thu thập được từ phía khách hàng. Hơn nữa, các giấy tờ làm việc được liên hệ với nhau bằng các ký hiệu tham chiếu. Việc sắp xếp giấy tờ làm việc như vậy cho phép người sử dụng thấy ngay được kết luận của kiểm toán viên và căn cứ đưa ra kết luận đó. Các trưởng nhóm, trưởng phòng nghiệp vụ cũng như các thành viên của Phòng kiểm soát chất lượng có thể dễ dàng soát xét các công việc mà kiểm toán viên đã làm. Hiện nay, công tác kiểm toán tại AASC được thực hiện một phần trên máy tính nên đem lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, Công ty chưa xây dựng được một phần mềm làm kiểm toán mang tính chất chuyên ngành và đặc thù nhằm giảm nhẹ khối lượng công việc. AASC cũng cần xây dựng một quy trình kiểm toán chuẩn áp dụng thống nhất giữa Trụ sở chính và các chi nhánh của Công ty. Nhận xét về công việc của kiểm toán viên Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán Để gia tăng lượng khách hàng hàng năm, ngoài việc nâng cao chất lượng dịch vụ, AASC còn thực hiện tốt việc tiếp cận với khách hàng. Với những khách hàng thường xuyên, AASC đã chủ động liên hệ để ký hợp đồng kiểm toán. Với khách hàng mới, AASC gửi thư chào kiểm toán và còn tham gia đấu thầu. Công việc lập kế hoạch kiểm toán được AASC thực hiện khá tốt. Ưu điểm của giai đoạn này là AASC đã xây dựng được hệ thống câu hỏi đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ khá chi tiết, từ công việc đánh giá nhân sự phòng kế toán đến việc thực hiện từng khoản mục cụ thể. AASC cũng đã thiết kế được chương trình kiểm toán chi tiết cho từng khoản mục một cách khoa học và hợp lý, giúp cho việc thực hiện kiểm toán tiết kiệm được thời gian và chi phí mà vẫn đem lại hiệu quả cao. Trên thực tế, AASC đã thiết kế sẵn Bảng câu hỏi tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ đối với từng chu trình, từng khoản mục. Tuy nhiên, đối với từng khách hàng cụ thể, kiểm toán viên của AASC đã có sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo, thêm bớt các thử nghiệm kiểm soát sao cho việc đánh giá hệ thống KSNB đạt được mục tiêu đã đề ra. Cũng như Bảng câu hỏi tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ, tại AASC, chương trình kiểm toán chi tiết cũng được thiết kế sẵn cho từng khoản mục trên báo cáo tài chính. Chương trình kiểm toán là cơ sở để kiểm toán viên tiến hành công việc kiểm toán, là các bước công việc cụ thể được xây dựng trước để kiểm toán viên thực hiện nhằm thu thập một cách đầy đủ những bằng chứng kiểm toán đáng tin cậy. Nhìn chung, chương trình kiểm toán chi tiết cho từng khoản mục được AASC thiết kế khá chặt chẽ, được cập nhật thường xuyên. Từng bước công việc cụ thể được trình bày trên giấy tờ làm việc một cách rõ ràng, chi tiết. Điều đó giúp cho việc tiến hành kiểm toán đối với kiểm toán viên thuận tiện hơn, tuân theo quy trình hợp lý đã dựng sẵn. Đối với khoản mục phải trả nhà cung cấp, AASC đã xây dựng chương trình kiểm toán chi tiết một cách đầy đủ, dễ sử dụng và mang tính chỉ dẫn cao. Tuy nhiên, chương trình kiểm toán mẫu chỉ mang tính chất hướng dẫn. Để chương trình kiểm toán mẫu trở nên khả thi cho từng cuộc kiểm toán, kiểm toán viên đã có sự lược bỏ, sửa đổi, bổ sung các thủ tục trong chương trình kiểm toán cho phù hợp với điều kiện cụ thể tại từng đơn vị khách hàng. Giai đoạn thực hiện kiểm toán Bám sát kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán chi tiết đã lập, các kiểm toán viên của AASC đã thực hiện kiểm toán một cách toàn diện các báo cáo tài chính của khách hàng. Mặc dù thời gian thực hiện cho mỗi cuộc kiểm toán hạn chế nhưng các kiểm toán viên đã vận dụng linh hoạt các phương pháp, kỹ thuật kiểm toán để thu thập được các bằng chứng đầy đủ và đáng tin cậy, cần thiết cho việc đưa ra ý kiến của kiểm toán viên. Quá trình kiểm toán được thực hiện với các thủ tục kiểm soát, thủ tục phân tích và thủ tục kiểm tra chi tiết. Tại AASC, công việc kiểm toán được tiến hành theo khoản mục. Các khoản mục này được thực hiện bởi các kiểm toán viên khác nhau nhưng giữa các kiểm toán viên luôn có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Giai đoạn kết thúc kiểm toán Đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc kiểm toán. Ở giai đoạn này, kiểm toán viên tổng hợp công việc đã thực hiện và kết quả đã thu được để phát hành Báo cáo kiểm toán. Để Báo cáo kiểm toán được phát hành tuân theo chuẩn mực, AASC thực hiện soát xét rất kỹ lưỡng kết quả kiểm toán do kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán đã thực hiện. Để đưa ra ý kiến kiểm toán cuối cùng, việc soát xét phải được thực hiện bởi ba cấp là kiểm toán viên chính, trưởng phòng kiểm toán và Ban Giám đốc. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp do AASC thực hiện Kiến nghị về giai đoạn chuẩn bị kiểm toán Kiến nghị về việc đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ: Ở AASC, việc đánh giá hệ thống KSNB của khách hàng được thực hiện chủ yếu thông qua Bảng câu hỏi tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ đã dựng sẵn một cách có hệ thống. Những câu hỏi trong bảng này giúp cho kiểm toán viên xác định rủi ro kiểm soát khi kiểm toán các khoản mục liên quan tới chu trình. Bảng câu hỏi cung cấp cho kiểm toán viên sự hiểu biết về hệ thống KSNB, từ đó lập kế hoạch kiểm toán và xác định các thủ tục cần thiết đối với từng khoản mục trên báo cáo tài chính. Tuy nhiên, khi sử dụng Bảng câu hỏi tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ, Công ty chưa quy định rõ tiêu chí để đưa ra đánh giá hệ thống KSNB là tốt, khá, trung bình hay kém. Việc đánh giá hệ thống KSNB vẫn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, khả năng xét đoán của kiểm toán viên. Vì vậy có thể xảy ra trường hợp các kiểm toán viên khác nhau đưa ra quan điểm khác nhau về tính hiệu quả của hệ thống KSNB. Từ đó sẽ gây ra khó khăn cho kiểm toán viên trong việc đưa ra kết luận về hệ thống KSNB của khách hàng. Để hỗ trợ các kiểm toán viên trong việc đưa ra kết luận về hệ thống KSNB của khách hàng, AASC nên đưa ra tiêu chí đánh giá dựa trên bảng câu hỏi được thiết kế. Công ty có thể dùng cách thức cho điểm đối với mỗi câu hỏi được trả lời Có hoặc Không, khi điểm số thấp hơn một mức nào đó thì hệ thống KSNB được đánh giá là trung bình hoặc yếu. Việc đưa ra tiêu thức đánh giá không những trợ giúp cho kiểm toán viên trong việc đánh giá hệ thống KSNB mà còn tạo nên sự thống nhất trong đánh giá giữa các kiểm toán viên khác nhau. Mặt khác, theo lý luận về đánh giá hệ thống KSNB, để mô tả hệ thống KSNB, đối với từng khách hàng cụ thể, kiểm toán viên có thể sử dụng một trong ba phương pháp hoặc kết hợp cả ba phương pháp: lập Bảng câu hỏi về KSNB, lập Bảng tường thuật và vẽ các Lưu đồ. Hiện nay, tại AASC, các kiểm toán viên chủ yếu sử dụng Bảng câu hỏi tìm hiểu hệ thống KSNB mà ít áp dụng hai phương pháp còn lại. Do đặc điểm của Bảng câu hỏi về hệ thống KSNB là được thiết kế chung cho tất cả các khách hàng nên có thể không phù hợp với mọi doanh nghiệp. Do đó, nếu chỉ sử dụng bảng câu hỏi thì sẽ không phù hợp, dẫn đến cái nhìn phiến diện, không thấy hết được các điểm mạnh, điểm yếu của hệ thống KSNB. Một đặc điểm nữa của Bảng câu hỏi tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ là chỉ bao gồm các câu hỏi đóng, nên trong một số trường hợp không mô tả được một cách đầy đủ các thủ tục kiểm soát nội bộ đang được áp dụng. Như vậy, để việc đánh giá hệ thống KSNB được đầy đủ và đúng đắn, các kiểm toán viên của AASC nên linh hoạt trong vận dụng phương pháp mô tả hệ thống KSNB, kiểm toán viên nên sử dụng thêm các phương pháp khác như bảng tường thuật, lưu đồ. Thông qua thu thập tài liệu, quan sát, phỏng vấn,… kiểm toán viên lập Bảng tường thuật hoặc Lưu đồ trong đó mô tả về cơ cấu nhân sự kế toán, các quá trình kiểm soát được áp dụng, sự luân chuyển của các chứng từ, tài liệu kế toán… Việc lập Lưu đồ sẽ giúp kiểm toán viên dễ dàng trong việc đánh giá cơ cấu và sự vận hành của hệ thống KSNB, song phương pháp này thường chiếm nhiều thời gian. Do đó kiểm toán viên có thể sử dụng kết hợp Bảng câu hỏi và Bảng tường thuật để có được hình ảnh rõ nét về hệ thống KSNB của khách hàng. Kiến nghị về đánh giá tính trọng yếu và rủi ro kiểm toán: Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 – Tính trọng yếu trong kiểm toán: khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận được để làm tiêu chuẩn đánh giá những sai sót về mặt định lượng; đồng thời phải sử dụng khả năng xét đoán nghề nghiệp của mình để đánh giá rủi ro kiểm toán và xác định các thủ tục cần thực hiện nhằm làm giảm rủi ro kiểm toán xuống mức có thể chấp nhận được. Tuy nhiên hiện tại chưa có một văn bản cụ thể nào của Bộ Tài chính hướng dẫn cách xác định trọng yếu và rủi ro. Do vậy, mỗi công ty kiểm toán áp dụng một cách thức riêng khi xác định trọng yếu và rủi ro. AASC đã xây dựng cho riêng đơn vị mình một tài liệu hướng dẫn xác định mức trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính. Đây là một ưu điểm của AASC trong việc vận dụng sáng tạo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và các chuẩn mực quốc tế được chấp nhận. Tuy nhiên, do tính phức tạp của việc đánh giá trọng yếu và rủi ro, đề nghị AASC tham khảo cách thức đánh giá mức trọng yếu và rủi ro ở các công ty kiểm toán khác, đặc biệt là các công ty có tiếng tăm ở Việt Nam cũng như trên thế giới. AASC có thể tham khảo cách thức xác định mức trọng yếu tại Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO). Tại VACO, Hệ thống phương pháp kiểm toán AS/2 (Auditing system/2) cung cấp cho kiểm toán viên cách xác định mức trọng yếu đối với từng loại hình doanh nghiệp như sau: Đối với các doanh nghiệp có đăng ký trên thị trường chứng khoán, mức trọng yếu được ước lượng cho toàn bộ báo cáo tài chính là 5 – 10 % thu nhập sau thuế. Trong trường hợp thu nhập sau thuế âm, kiểm toán viên sẽ sử dụng một chỉ tiêu liên quan tới người sử dụng thông tin tài chính như công nợ phải trả, vốn góp cổ phần,… để làm cơ sở xác định mức trọng yếu. Đối với các doanh nghiệp không đăng ký trên thị trường chứng khoán, mức trọng yếu được xác định bằng một trong các cách sau: 2% Tổng tài sản ngắn hạn hoặc Vốn chủ sở hữu 10% thu nhập sau thuế với giả định doanh nghiệp hoạt động liên tục 0,5 – 3% doanh thu cụ thể theo quy định dưới đây: Doanh thu (USD) Tỉ lệ quy định (%) Đến 500.000 4,0 600.000 3,5 700.000 3,2 800.000 3,0 900.000 2,5 1.000.000 2,0 2.000.000 1,5 6.000.000 1,0 10.000.000 0,8 50.000.000 0,7 300.000.000 0,6 Trên 1.000.000.000 0,5 Như vậy, với cách xác định mức trọng yếu của VACO, việc ước lượng mức trọng yếu bám sát tình hình thực tế của khách hàng, do đó mức trọng yếu ước lượng mang tính chuẩn xác hơn, góp phần làm giảm rủi ro cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán. Kiến nghị về giai đoạn thực hiện kiểm toán Về việc áp dụng thủ tục phân tích: Phân tích xu hướng và phân tích tỉ suất giúp kiểm toán viên dễ dàng phát hiện những điểm bất hợp lý trên số dư khoản mục. Theo lý thuyết chung về kiểm toán, thủ tục phân tích thường được áp dụng trong tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán, đặc biệt là trong lập kế hoạch và soát xét tổng thể cuộc kiểm toán. Điều này cũng được quy định trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 520 – Quy trình phân tích: “Kiểm toán viên phải thực hiện quy trình phân tích khi lập kế hoạch kiểm toán và giai đoạn soát xét tổng thể về cuộc kiểm toán”. Tuy nhiên, thực tế kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp do AASC thực hiện cho thấy thủ tục phân tích chỉ được áp dụng trong giai đoạn Chuẩn bị kiểm toán mà không được áp dụng trong giai đoạn soát xét tổng thể về cuộc kiểm toán cũng như trong các giai đoạn khác. Mặt khác, bước phân tích chỉ là sự ước tính ngầm định của kiểm toán viên mà không được thể hiện cụ thể trên giấy tờ làm việc. Thông thường kiểm toán viên quan tâm hơn tới thủ tục phân tích khi kiểm toán các khoản mục doanh thu, giá vốn. Do đó, để đảm bảo chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính nói chung cũng như kiểm toán khoản mục phải trả nhà cung cấp nói riêng, đề nghị các kiểm toán viên thực hiện thủ tục phân tích ở cả giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán và giai đoạn soát xét tổng thể về cuộc kiểm toán. Ngoài ra, tại AASC, kiểm toán viên thường sử dụng phân tích xu hướng vì đơn giản, dễ thực hiện. Phân tích tỉ suất cũng được thực hiện, các tỉ suất về khả năng thanh toán nợ của khách hàng cũng được tính toán, nhưng do chưa có số liệu về các doanh nghiệp cùng quy mô trong ngành nên có khó khăn cho kiểm toán viên trong việc đánh giá đúng khả năng thanh toán của khách hàng. Do đó, để thủ tục phân tích đem lại hiệu quả cao hơn, AASC nên sử dụng tài liệu thống kê bên ngoài của các doanh nghiệp có cùng quy mô trong ngành, của toàn ngành để kết hợp so sánh, đối chiếu với số liệu của khách hàng. Việc này sẽ thực hiện được khi số liệu thống kê của các doanh nghiệp khác và của toàn ngành được công khai minh bạch. Về phương pháp chọn mẫu: Trong kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp, kiểm tra chi tiết là một thủ tục quan trọng, không thể bỏ qua, nhưng lại chiếm rất nhiều thời gian. Liên quan đến khoản mục này thường có nhiều nghiệp vụ phát sinh với số tiền lớn. Vì vậy, để giảm thiểu khối lượng công việc mà vẫn đảm bảo chất lượng kiểm toán, kiểm toán viên tiến hành lấy mẫu kiểm toán. Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 530 - Lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục lựa chọn khác: “Khi thiết kế các thủ tục kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định các phương pháp thích hợp để lựa chọn các phần tử kiểm tra. Các phương pháp có thể được lựa chọn là: a) Chọn toàn bộ (kiểm tra 100%); b) Lựa chọn các phần tử đặc biệt; c) Lấy mẫu kiểm toán”. Khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính nói chung và kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp nói riêng, kiểm toán viên thường không thực hiện kiểm tra chi tiết 100% các nghiệp vụ mà chỉ kiểm tra chọn mẫu. Kiểm toán viên không kiểm tra toàn bộ vì bị giới hạn về thời gian. Việc chọn mẫu phải đảm bảo kết quả kiểm tra cho phép kiểm toán viên đưa ra kết luận về tổng thể. Ở AASC, các kiểm toán viên thường chọn mẫu theo kinh nghiệm. Đó là phương pháp mà mẫu chọn bao gồm các nghiệp vụ có nội dung kinh tế bất thường và các nghiệp vụ có số tiền phát sinh lớn. Phương pháp chọn mẫu này tuy chi phí thấp nhưng lại chứa đựng rủi ro vì chưa hẳn gian lận và sai sót đã xảy ra ở các nghiệp vụ có số tiền phát sinh lớn – các nghiệp vụ này thường được khách hàng chú ý hạch toán cẩn thận. Kiểm toán viên thường ít lựa chọn các nghiệp vụ có số phát sinh nhỏ. Ở các nghiệp vụ này, sai sót tuy khó phát hiện nhưng các sai sót này lại mang tính hệ thống. Do đó, để đảm bảo mẫu chọn mang tính đại diện, các sai phạm trọng yếu không bị bỏ qua, kiểm toán viên nên chọn mẫu theo kinh nghiệm kết hợp với phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Kiểm toán viên nên chọn mẫu các nghiệp vụ có nội dung kinh tế bất thường, các nghiệp vụ có số phát sinh lớn hơn một số tiền cụ thể nào đó, đồng thời đối với các nghiệp vụ có số phát sinh nhỏ, có thể tiến hành chọn mẫu ngẫu nhiên để đảm bảo mẫu chọn mang đặc trưng của tổng thể. Điều này sẽ góp phần làm giảm rủi ro cho kiểm toán viên. Khi thực hiện chọn mẫu kết hợp, kiểm toán viên cần phải cân nhắc giữa hiệu quả của việc chọn mẫu và chi phí cũng như thời gian bỏ ra. Về việc ghi chép trên giấy tờ làm việc: Giấy tờ làm việc là tài liệu hết sức quan trọng đối với mỗi công ty kiểm toán. Đây chính là căn cứ để đưa ra ý kiến của kiểm toán viên, cũng là bằng chứng của mỗi công ty kiểm toán khi xảy ra tranh chấp. Do đó, tại AASC, việc ghi chép, sắp xếp và lưu giữ giấy tờ làm việc được quy định rất chặt chẽ. Tại AASC, giấy tờ làm việc được thiết kế theo một mẫu có sẵn. Trên giấy làm việc thường in sẵn các thông tin bắt buộc kiểm toán viên phải điền vào: tên khách hàng, niên độ kế toán, khoản mục, bước công việc, tham chiếu, người thực hiện, ngày thực hiện. Đây là những thông tin quan trọng xác định công việc mà kiểm toán viên đã thực hiện và là cơ sở cho việc kiểm tra, soát xét, xác định trách nhiệm của người thực hiện. Tuy nhiên, các kiểm toán viên thường không điền ngay các thông tin này khi thực hiện mà khi chuẩn bị hồ sơ mới hoàn tất thông tin nên nhiều thông tin trên giấy tờ bị bỏ sót. Kiểm toán viên nên điền đầy đủ thông tin ngay tại mỗi bước công việc để thuận lợi cho quá trình tổng hợp và xác định trách nhiệm. Khi kiểm tra chi tiết, kiểm toán viên thường chỉ ghi lại những sai sót phát hiện được mà không ghi lại công việc đã thực hiện, cách thức thực hiện… Điều này có thể chấp nhận được nếu những sai sót là nhỏ, không nghiêm trọng. Còn trong trường hợp sai sót là nghiêm trọng thì cần phải ghi lại đầy đủ các bước công việc đã thực hiện, cách thức thực hiện cùng kết quả thu được từ bước công việc đó. Đây sẽ là cơ sở minh chứng rằng kiểm toán viên đã thực hiện đầy đủ các thủ tục cần thiết để thu thập bằng chứng kiểm toán cho việc đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính của khách hàng. Kiến nghị về giai đoạn kết thúc kiểm toán Về việc xem xét ảnh hưởng của các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán lập BCTC: Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 560 – Các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính: “Kiểm toán viên phải xem xét ảnh hưởng của các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính đối với báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán”. Chuẩn mực này cũng quy định: “Kiểm toán viên phải xây dựng và thực hiện các thủ tục kiểm toán nhằm thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để xác định tất cả những sự kiện đã phát sinh đến ngày ký báo cáo kiểm toán xét thấy có thể ảnh hưởng đến báo cáo tài chính, và phải yêu cầu đơn vị điều chỉnh hoặc thuyết minh trong báo cáo tài chính”. Theo quy trình chung kiểm toán báo cáo tài chính của AASC, trước khi phát hành báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên cũng phải soát xét các sự kiện xảy ra sau ngày lập báo cáo tài chính, xem xét ảnh hưởng của chúng đến báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán, từ đó yêu cầu đơn vị điều chỉnh hoặc thuyết minh trong BCTC. Tuy nhiên, thực tế kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp tại hai khách hàng ABC và XYZ do AASC thực hiện cho thấy rằng bước công việc này chưa được thực hiện tốt, chưa được thể hiện trên giấy tờ làm việc. Điều này sẽ làm gia tăng rủi ro cho kiểm toán viên và Công ty khi xảy ra tranh chấp. Do đó, đề nghị các kiểm toán viên thực hiện các thủ tục nhằm thu thập đầy đủ các bằng chứng thích hợp để xác định tất cả những sự kiện đã phát sinh đến ngày ký báo cáo kiểm toán xét thấy có thể ảnh hưởng đến báo cáo tài chính. Kiểm toán viên có thể xem xét Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông, Biên bản họp Hội đồng quản trị… diễn ra sau ngày lập BCTC. Kiểm toán viên cũng có thể phỏng vấn Ban Giám đốc khách hàng nhằm thu thập những thay đổi về nhân sự, về hệ thống kế toán… để xem xét giả thiết về khả năng hoạt động liên tục của đơn vị. KẾT LUẬN Hoạt động kiểm toán đã xuất hiện ở Việt Nam cách đây 15 năm và Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) là một trong những đơn vị đi đầu với hơn 10 năm cung cấp dịch vụ này. Để duy trì và nâng cao khả năng cạnh tranh, AASC đang nỗ lực tự hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ của mình. AASC đã và đang từng bước chuẩn hoá quy trình kiểm toán của Công ty theo hướng phù hợp với Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và các chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận, nâng cao trình độ của các kiểm toán viên. AASC đang hoàn thiện dần dịch vụ kiểm toán cả về quy mô và chất lượng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp là một phần không thể thiếu của kiểm toán báo cáo tài chính. Việc thực hiện tốt kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp góp phần hoàn thành và nâng cao chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính. Tìm hiểu quy trình kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp do AASC thực hiện tại hai khách hàng ABC và XYZ đã giúp em hiểu rõ hơn việc thực hiện kiểm toán khoản mục này trong thực tế. Từ đó thấy được khoảng cách giữa lý luận và thực tế, những khó khăn mà kiểm toán viên gặp phải trong quá trình kiểm toán, từ đó đưa ra một số ý kiến nhận xét và đóng góp nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp do AASC thực hiện. MỤC LỤC Trang DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC SƠ ĐỒ DANH MỤC BẢNG BIỂU DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT AASC Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán AR Rủi ro kiểm toán BCTC Báo cáo tài chính CKTM Chiết khấu thương mại CP Cổ phần CR Rủi ro kiểm soát Cty Công ty DR Rủi ro phát hiện DV Dịch vụ GTGT Giá trị gia tăng HĐ Hóa đơn HH Hàng hóa IR Rủi ro tiềm tàng KSNB Kiểm soát nội bộ KTV Kiểm toán viên SCL Sửa chữa lớn SD Số dư SP Sản phẩm TK Tài khoản TM Thương mại TNHH Trách nhiệm hữu hạn TSCĐ Tài sản cố định TSDH Tài sản dài hạn TSNH Tài sản ngắn hạn USD Đô la Mĩ VAT Thuế giá trị gia tăng VND Đồng Việt Nam VT Vận tải XDCB Xây dựng cơ bản XL Xây lắp DANH MỤC SƠ ĐỒ Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty AASC 36 Sơ đồ 2.2: Quy trình chung kiểm toán báo cáo tài chính tại AASC 38 Sơ đồ 2.3: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Nhà máy ABC 41 Sơ đồ 2.4: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty XYZ 44 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Các thử nghiệm tuân thủ đối với khoản phải trả nhà cung cấp 23 Bảng 1.2: Các thủ tục kiểm tra chi tiết số dư khoản phải trả nhà cung cấp 25 Bảng 2.1: Kết quả kinh doanh của AASC trong giai đoạn 2001-2005 35 Bảng 2.2: Bảng câu hỏi tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ đối với khoản phải trả nhà cung cấp thực hiện tại Công ty XYZ 48 Bảng 2.3: Biến động số dư tài khoản 331 tại 2 khách hàng ABC và XYZ 50 Bảng 2.4: Tỉ suất về khả năng thanh toán của 2 khách hàng ABC và XYZ 50 Bảng 2.5: Ước lượng mức trọng yếu tại Công ty XYZ 52 Bảng 2.6: Phân bổ mức trọng yếu cho các khoản mục tại Công ty XYZ 54 Bảng 2.7: Chương trình kiểm toán khoản phải trả nhà cung cấp 59 Bảng 2.8: Trích giấy tờ làm việc của kiểm toán viên 63 Bảng 2.9: Trích giấy tờ làm việc của kiểm toán viên 63 Bảng 2.10: Trích giấy tờ làm việc của kiểm toán viên 64 Bảng 2.11: Trích giấy tờ làm việc của kiểm toán viên 65 Bảng 2.12: Trích giấy tờ làm việc của kiểm toán viên 67 Bảng 2.13: Trích giấy tờ làm việc của kiểm toán viên 69 Bảng 2.14: Trích giấy tờ làm việc của kiểm toán viên 72 Bảng 2.15: Trích giấy tờ làm việc của kiểm toán viên 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Alvin A. Arens & James K. Loebbecke, Kiểm toán, NXB Thống kê, Hà Nội, 2001. GS.TS. Nguyễn Quang Quynh, Kiểm toán tài chính, NXB Tài chính, Hà Nội, 2006. GS.TS. Nguyễn Quang Quynh, Lý thuyết kiểm toán, NXB Tài chính, Hà Nội, 01/2005. PGS.TS. Võ Văn Nhị, Hướng dẫn thực hành chế độ kế toán mới (ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ban hành ngày 20-03-2006), NXB Tài Chính, 2006. AASC, Các tài liệu đào tạo nội bộ, 2001. AASC, Chương trình kiểm toán. AASC, Hồ sơ kiểm toán các khách hàng ABC, XYZ, 2007. AASC, Hồ sơ kiểm toán mẫu, 2001. Website: www.aasc.com.vn www.kiemtoan.com.vn www.luatvietnam.com.vn www.mof.gov.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29332.doc
Tài liệu liên quan