Danh mục sơ đồ bảng biểu
Danh mục
Nội dung
Sơ đồ 1
Hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh (kê khai thường xuyên)
Sơ đồ 2
Lập kế hoạch và lựa chọn phương pháp kiểm toán
Sơ đồ 3
Cơ cấu tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh
Sơ đồ 4
Mô hình Tổng Công ty
Sơ đồ 5
Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ
Sơ đồ 6
Quy trình kiểm toán nội bộ Tổng Công ty
Sơ đồ 7
Tổ chức bộ máy Công ty xây lắp 96
Sơ đồ 8
Đối chiếu tổng quát chi phí sản xuất kinh doanh
Biểu 1
Mục tiêu kiểm toán chi phí sản
103 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1520 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Hoàn thiện quy trình kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh trong kiểm toán tài chính do phòng kiểm toán nội bộ của Tổng Công ty Thành An thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất kinh doanh
Biểu 2
Thu thập thông tin
Biểu 3
Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ
Biểu 4
Quyết định kiểm toán của Tổng Giám đốc
Biểu 5
Đối chiếu tổng quát chi phí sản xuất kinh doanh
Biểu 6
Đối chiếu tổng quát chi phí sản xuất kinh doanh
Biểu 7
Kiểm tra tổng quỹ lương
Biểu 8
Kiểm toán chi phí sản xuất của hạng mục công trình
Biểu 9
Biên bản kiểm toán Báo cáo tài chính
Biểu 10
Bảng tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh toàn Công ty
Biểu 11
Bảng câu hỏi về hệ thống kiểm soát nội bộ đối với CPXKD
Bảng ký hiệu những chữ viết tắt
KTV : Kiểm toán viên
BCTC : Báo cáo tài chính
KTNB : Kiểm toán nội bộ
KTV : Kiểm toán viên
CPSXKD : Chi phí sản xuất kinh doanh
NVLTT : Nguyên vật liệu trực tiếp
NCTT : Nhân công trực tiếp
SXC : Sản xuất chung
TCT : Tổng Công ty
XDCB : Xây dựng cơ bản
TK : Tài khoản
BHXH : Bảo hiểm xã hội
BHYT : Bảo hiểm y tế
KPCĐ : Kinh phí công đoàn
Lời nói đầu
Công tác quản lý tài chính hiện nay đòi hỏi mỗi Doanh nghiệp trong quá trình tổ chức khi đạt đến một quy mô hoạt động nhất định phải thiết lập và duy trì các bộ phận để kiểm tra, xác nhận và tư vấn cho quá trình quản lý và điều hành các hoạt động kinh tế, tài chính trong Doanh nghiệp, một trong những bộ phận chức năng này là bộ phận kiểm toán nội bộ (KTNB).
Kiểm toán nội bộ là một trong những công cụ hữu hiệu và có vai trò hết sức to lớn giúp cho các nhà quản trị Doanh nghiệp có đầy đủ thông tin chính xác về tình hình hoạt động của Doanh nghiệp mình, về các Báo cáo tài chính (BCTC) khác tạo niềm tin cho người sử dụng thông tin và là cơ sở để ra các quyết định của các nhà quản trị. Kể từ khi Luật Doanh nghiệp Nhà nước ra đời và có các điều khoản quy định về việc công khai hoá tài chính Doanh nghiệp và KTNB đến nay, trong lĩnh vực tài chính Doanh nghiệp vấn đề KTNB đã được quan tâm hơn rất nhiều.
Tổng Công ty (TCT) Thành An cũng là một TCT lớn, có đặc thù là một đơn vị quân đội làm kinh tế, lại hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng cơ bản (XDCB), là lĩnh vực dễ xảy ra gian lận, sai sót nên lãnh đạo TCT đã sớm nhận thức được sự cần thiết phải đề ra kế hoạch và đưa phòng KTNB vào hoạt động.
Qua thời gian tồn tại, phòng KTNB của TCT đã khẳng định được vai trò không thể thiếu được. Hàng năm, phòng đã tiến hành kiểm toán toàn diện đối với toàn bộ các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của TCT trong đó có kiểm toán khoản mục chi phí. Đây là khoản mục chiếm một tỷ trọng lớn trên Báo cáo kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp và cũng dễ xảy ra các sai sót trọng yếu. Vì thế, khi thực tập tại TCT Thành An em đã chọn đề tài của luận văn của mình: “Hoàn thiện quy trình Kiểm toán Chi phí sản xuất kinh doanh trong kiểm toán Báo cáo tài chính do Phòng Kiểm toán nội bộ của Tổng Công ty Thành An thực hiện”
Mục đích nghiên cứu của luận văn này là trên cơ sở lý thuyết kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh (CPSXKD) trong kiểm toán BCTC vận dụng vào thực tiễn công tác kiểm toán ở TCT Thành An, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác KTNB tại TCT.
Luận văn ngoài lời mở đầu và kết luận bao gồm các nội dung chính sau:
Chương I: Lý luận chung về quy trình kiểm toán CPSXKD trong kiểm toán BCTC của KTNB các Doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng kiểm toán CPSXKD trong kiểm toán Báo cáo tài chính do KTNB tại TCT Thành An thực hiện.
Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quy trình kiểm toán CPSXKD trong kiểm toán Báo cáo tài chính do KTNB tại TCT Thành An thực hiện.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Hồng Thuý và các cô, chú Phòng Kiểm toán nội bộ thuộc TCT Thành An để em có thể hoàn thành bài viết của mình!
Chương I
Lý luận chung về kiểm toán nội bộ và kiểm toán chi phí trong kiểm toán Báo cáo Tài Chính
I. khái quát về kiểm toán nội bộ
1. Bản chất của Kiểm toán nội bộ
KTNB hình thành và phát triển xuất phát từ những lý do khách quan của nhu cầu quản lý của bản thân các đơn vị và tổ chức kinh tế. Để hiểu rõ hơn về bản chất của KTNB, trước hết chúng ta nên tìm hiểu khái niệm KTNB là gì?
Theo chuẩn mực thực hành KTNB do Viện KTNB Hoa Kỳ ban hành năm 1978, “Kiểm toán nội bộ là một chức năng đánh giá độc lập, được thiết kế trong một tổ chức để kiểm tra, đánh giá các hoạt động của tổ chức như là một hoạt động phục vụ cho một tổ chức”.
Mục tiêu của KTNB là giúp đỡ các thành viên của tổ chức hoàn thành trách nhiệm của họ một cách hiệu quả. Theo Liên đoàn kế toán Quốc Tế (IFC), kiểm toán nội bộ là “Một hoạt động đánh giá được lập ra trong một Doanh nghiệp như là một loại dịch vụ cho Doanh nghiệp đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát thích hợp, hiệu quả của hệ thống kiểm tra và kiểm soát nội bộ”.
Như vậy, KTNB là một bộ phận độc lập được thiết lập trong đơn vị, tiến hành công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ đơn vị. Bộ phận KTNB hữu hiệu sẽ giúp cho các Doanh nghiệp có được những thông tin kịp thời và xác thực về các hoạt động của đơn vị.
2. Lịch sử phát triển của kiểm toán nói chung và hoạt động Kiểm toán nội bộ nói riêng
2.1. Trên thế giới
Kiểm toán được nảy sinh từ rất sớm ngay từ thời kỳ cổ đại với ý nghĩa là hoạt động kiểm tra tài chính nói chung và kiểm tra kế toán nói riêng. Khi đó, nhu cầu kiểm tra trong quản lý còn ít và ở mức đơn giản. Tuy nhiên, vào cuối thời kỳ cổ đại, khi sản xuất phát triển, của cải ngày càng nhiều, người sở hữu tài sản và người quản lý, cất trữ tài sản đã tách rời nhau. Do đó, hình thức kế toán đơn giản không còn đáp ứng được nhu cầu mới của quản lý và kiểm tra độc lập trước hết phát sinh ở La Mã, Anh và Pháp.
Từ thời trung đại trở đi đã có sự hoàn thiện và phát triển dần của kế toán. Đặc biệt, từ thế kỷ XVI, sự xuất hiện của kế toán kép đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu quản lý và an toàn tài sản thời bấy giờ.
Từ những năm 30 của Thế kỷ thứ XX, kiểm tra lại có bước nhảy đột biến: ở Mỹ, sau cơn sốt nặng nề về tài chính năm 1929, những tư tưởng hiện đại về kiểm toán đã xuất hiện từ 1914 đến nay mới phát triển. Trong quan hệ đó, KTNB cũng phát triển.
Năm 1941, Trường Đào tạo KTV nội bộ (IIA) được thành lập và các chức năng của KTNB được xác định chủ yếu trong lĩnh vực tài vụ.
Từ những năm 50 trở đi, KTNB phát triển vào các khía cạnh của quản lý khác trong Doanh nghiệp, đặc biệt là hiệu quả kinh doanh và hiệu năng quản lý.
ở Cộng hòa Pháp, chức năng KTNB đã xuất hiện chính thức vào năm 1960 trong các Công ty nhánh của các tập đoàn ngoại quốc. Tiếp đó, các Công ty khác (đặc biệt là trong Ngân hàng và Vụ Tổng Thanh tra) cũng định ra những chức năng tương tự. Đồng thời, việc du nhập KTNB vẫn tiếp tục phát triển cùng với việc phát triển tầm cỡ của các Công ty và do mong muốn duy trì sự ổn định và tăng hiệu quả của các Công ty. Đến năm 1965 đã thành lập Hội KTV nội bộ của Pháp sau đó trở thành Viện nghiên cứu KTV và KTNB của Pháp (IFACI) vào năm 1973.
Như vậy, suốt hơn 3 thập kỷ qua, KTNB đã trở thành một hoạt động nghề nghiệp phức tạp đòi hỏi cả sự nghiên cứu, đào tạo và tổ chức tương ứng với chức năng và lĩnh vực hoạt động trong từng thời kỳ: Từ lĩnh vực tài chính và xử lý thông tin đến hiệu quả kinh doanh và hiệu năng quản lý. Từ quan điểm thuần túy về kế toán, nhằm phát hiện những sai sót và gian lận, KTNB đã dần dần mở rộng phạm vi hoạt động trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đơn vị hoặc của Doanh nghiệp, và hướng hoạt động KTNB vào việc cải thiện và nâng cao chất lượng hoạt động, tăng cường sức mạnh của cơ chế kiểm soát nội bộ. Trong Doanh nghiệp, KTNB là bộ phận chịu trách nhiệm xem xét lại một cách định kỳ các biện pháp của Ban Giám đốc nhưng hoàn toàn độc lập với các bộ phận khác. Đến nay, KTNB không chỉ giới hạn trong bộ phận kế toán và tài chính của Doanh nghiệp. Chính vì vậy, đã xuất hiện khái niệm kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ cùng với khái niệm kiểm toán BCTC. Và do đó, ngày nay, lĩnh vực hoạt động của KTNB cũng được mở rộng sang kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ bên cạnh kiểm toán BCTC.
2.2. Tại Việt Nam
ở nước ta, hoạt động kiểm tra nói chung và kiểm tra nội bộ nói riêng đã nhiều năm thực hiện gắn liền với hoạt động kế toán và quản lý ngay từ thời kỳ bắt đầu xây dựng đất nước. Tuy nhiên, trước đây trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, công tác kiểm tra và bộ máy kiểm tra cũng được xây dựng phù hợp với cơ chế đó và hoạt động kiểm soát nội bộ chủ yếu thực hiện thông qua bộ máy tự kiểm tra của kế toán, kiểm tra của Nhà nước chủ yếu được thực hiện thông qua xét duyệt quyết toán và thanh tra theo vụ việc.
Từ những năm 90, sau khi chuyển đổi cơ chế kinh tế sang kinh tế thị trường, kiểm toán độc lập hình thành, kiểm toán Nhà nước cũng được thành lập để đáp ứng đòi hỏi tất yếu của cơ chế thị trường và cũng để theo kịp xu thế phát triển chung của thế giới.
Đến tháng 10/1997, trên cơ sở Luật Ngân sách Nhà nước, Chính phủ đã ban hành Nghị định 59/CP và Bộ Tài chính ra Quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT và kèm theo đó là Quy chế KTNB đã đánh dấu sự hình thành các văn bản pháp quy trong lĩnh vực này. Đến nay, hầu hết các cơ quan lớn, các TCT và đặc biệt là các TCT 90,91 đã có bộ phận KTNB tại cấp cao nhất, thậm chí kể cả ở các đơn vị trực thuộc như Ngân hàng Nhà nước, các Ngân hàng thương mại (Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn…), các Tổng Công ty như TCT Bưu chính viễn thông, TCT Xây dựng Sông Đà, TCT Dệt may…Tuy nhiên, do mới ra đời, các văn bản pháp quy đang trong thời kỳ xây dựng, việc đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ KTV mới đang chỉ ở bước đầu. Thêm vào đó, chức năng và nhiệm vụ cụ thể của KTNB cũng chưa được quan niệm thống nhất đặc biệt là trong kiểm toán hiệu quả kinh doanh và hiệu năng quản lý. KTNB ở nước ta chủ yếu chỉ dừng lại ở kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động tài chính kế toán. Vì thế, đòi hỏi cần tiến hành nhiều giải pháp để xây dựng quy trình và hệ thống pháp lý cho hoạt động kiểm toán, nâng cao chất lượng đội ngũ KTV để hoàn thành tốt chức năng của mình đồng thời theo kịp xu thế chung của thế giới.
3. Chức năng của Kiểm toán nội bộ
Trước hết, chúng ta cần phải khẳng định rằng: KTNB hình thành do nhu cầu quản lý, cho nên chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu và vai trò của nó cũng trải qua quá trình phát triển từ thấp đến cao cùng với khoa học quản lý, trình độ và kinh nghiệm quản lý của các nhà lãnh đạo. Kiểm toán có các chức năng khách quan, cấu thành bản chất hoạt động của KTNB như sau:
Rà soát lại hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, giám sát sự hoạt động của hệ thống này cũng như tham gia vào việc hoàn thiện chúng theo hướng tuân thủ cấp trên, các đơn vị mà trước tiên là các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán và quản lý tài chính.
Giúp chủ Doanh nghiệp kiểm tra lại các thông tin bao gồm cả các thông tin tài chính và các thông tin tác nghiệp khác, kiểm tra việc tính toán phân loại báo cáo các thông tin thẩm định cụ thể các khoản mục cá biệt theo yêu cầu của nhà quản lý.
Kiến nghị với các nhà lãnh đạo và các cán bộ quản lý những biện pháp cụ thể nhằm chấn chỉnh công tác quản lý, tăng cường kỷ luật, nâng cao hiệu quả hoạt động.
4. Lĩnh vực của kiểm toán nội bộ
Lĩnh vực của KTNB bao gồm cả kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán BCTC Doanh nghiệp. Tùy theo từng đặc điểm và điều kiện cụ thể của đơn vị mà vấn đề trọng yếu vào lĩnh vực nào là chính.
Kiểm toán hoạt động (nghiệp vụ)
Kiểm toán hoạt động (nghiệp vụ) là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về các nghiệp vụ cụ thể trong các hoạt động khác nhau của các bộ phận hay đơn vị được kiểm toán.
Kiểm toán hoạt động thường giải quyết hai yêu cầu:
Thứ nhất, hướng vào những thành tích hiệu quả và hiệu năng, trong đó cần xem xét việc thiết lập hệ thống thông tin và quản lý cũng như việc điều hành hướng tới tối ưu hiệu quả việc sử dụng các nguồn lực.
Thứ hai, xác minh tính trung thực của các thông tin tài chính và xác định mức an toàn của các nghiệp vụ tài chính và chất lượng hệ thống kiểm soát nội bộ. Các hoạt động của đơn vị được kiểm toán được đánh giá bằng hai thuật ngữ: tính hiệu quả và tính hiệu năng
Kiểm toán tuân thủ
Kiểm toán tuân thủ là quá trình xác minh và đánh giá sự tuân thủ của các đơn vị được kiểm toán đối với luật pháp, thể lệ, chế độ, các nội quy, quy chế và các hợp đồng kinh tế.
Mục đích của kiểm toán tuân thủ là xác định các nội dung được kiểm toán có tuân thủ theo các thủ tục hoặc nguyên tắc quản lý mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên đề ra hay không. Cơ sở để tiến hành kiểm toán tuân thủ là dựa vào sự tồn tại của các dữ liệu có thể kiểm tra với các chuẩn mực hoặc tiêu chuẩn được đề ra như: các điều luật, quy tắc hoặc các chính sách và thủ tục của một tổ chức.
Kiểm toán Báo cáo tài chính
Kiểm toán BCTC là hoạt động đặc trưng nhất của kiểm toán bởi nó chứa đựng đầy đủ “sắc thái kiểm toán” ngay từ khi ra đời cũng như trong quá trình phát triển.
Kiểm toán Báo cáo tài chính là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về tính trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính cũng như các báo cáo tài chính này có được lập phù hợp với các nguyên tắc, các chuẩn mực kế toán được chấp nhận rộng rãi hay không.
Mục đích của kiểm toán BCTC được tiến hành để xác định xem số liệu trình bày trên BCTC có được lập phù hợp với các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận và có phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính của đơn vị hay không. Các BCTC được quan tâm và kiểm toán nhiều nhất là bảng tổng kết tài sản, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, KTNB thực hiện kiểm toán BCTC là chủ yếu. Lý do đó là do những nguyên nhân khách quan sau:
Nền kinh tế ngày càng phát triển, các nghiệp vụ của các Doanh nghiệp ngày càng có khối lượng nhiều và phức tạp nên người chủ sở hữu hoặc người quản lý cấp trên không thể dễ dàng tiếp xúc với các nghiệp vụ đó để kiểm tra hiệu quả của hoạt động một cách vừa ý được. Do đó, chủ Doanh nghiệp cần có sự trợ giúp. Việc giúp đỡ này phải giao cho một người hoặc một số người trực tiếp kiểm tra các hoạt động và báo cáo lại cho chủ Doanh nghiệp. Như vậy, KTNB được hình thành một cách chính thức.
Trải qua thời gian, tình hình đã thay đổi đáng kể. Hoạt động ở các tổ chức không ngừng tăng về khối lượng và mức độ phức tạp. Những vấn đề về quản lý nảy sinh lại gây sức ép mới đối với các cấp quản lý cao hơn. Và cũng hoàn toàn tự nhiên khi nhà quản lý tìm thấy được khả năng sử dụng tốt hơn công việc của KTNB có phạm vi ngày càng rộng rãi hơn, ngoài lĩnh vực kế toán, thì xu hướng đã chuyển vào lĩnh vực kiểm soát kế toán, tài chính và phi tài chính. Như vậy, KTNB ra đời và phát triển cũng là xuất phát từ nhu cầu quản lý của bản thân đơn vị.
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy, việc thuê KTV của các Công ty kiểm toán bên ngoài còn có một số vấn đề bất cập và khó khăn. Đặc biệt là đối với các Doanh nghiệp lớn, có nhiều đơn vị trực thuộc thì kiểm toán bên ngoài không thể thực hiện hoàn thành 100% khối lượng công việc được. Đồng thời, nếu có KTNB hoạt động hiệu quả thì hệ thống kiểm soát nội bộ mạnh hơn. Ngoài ra, việc sử dụng KTV nội bộ còn giúp giảm được chi phí kiểm toán và hơn thế nữa là để KTV bên ngoài có những quyết định kiểm toán chính xác, phù hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị.
Với tầm quan trọng đó, việc thiết lập bộ phận KTNB là rất cần thiết. Nhất là đối với các Doanh nghiệp nhà nước, theo Quyết định 832/TTCP/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 về việc ban hành quy chế KTNB, Điều 3 quy định “Doanh nghiệp phải thường xuyên tổ chức KTNB nhằm đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính, về bảo vệ an toàn tài sản, về chấp hành luật pháp..”.
Mặt khác, mục tiêu của KTNB là phục vụ cho điều hành và quản lý kinh doanh, nên việc kiểm toán báo cáo là rất cần thiết, KTV nội bộ có mối quan hệ mật thiết với kế toán và những vấn đề tài chính và một số kỹ năng trong các lĩnh vực này được coi là cực kỳ quan trọng.
Đối với Doanh nghiệp nhà nước, chủ sở hữu là nhà nước, vì vậy KTV phải chịu trách nhiệm trước nhà nước và với cơ quan quản lý cấp trên. Chính vì vậy, thực hiện kiểm toán BCTC lại càng cần thiết hơn, vì qua đó giúp các chủ Doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tính trung thực, hợp lý của các BCTC đối với nhà nước, như quy định trong Nghị định 59/CP Nhà nước quy định phải có sự thẩm tra và ký duyệt của KTNB trong BCTC của Doanh nghiệp nhà nước là đúng đắn và tạo độ tin cậy cho BCTC của Doanh nghiệp.
II. Những vấn đề cơ bản về bản chất kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh trong kiểm toán báo cáo tài chính
1. Chi phí sản xuất kinh doanh với vấn đề kiểm toán
1.1 Khái niệm chi phí sản xuất kinh doanh
Để tiến hành một cuộc kiểm toán CPSXKD trước hết ta cần hiểu CPSXKD là gì?
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hóa cần thiết cho quá trình hoạt động SXKD mà phải chi ra trong một thời kỳ nhất định (thường là tháng, quý, năm). CPSXKD bao gồm nhiều loại:
Chi phí về lao động sống là chi phí về tiền lương và các khoản trích theo lương được tính vào chi phí. Khoản này bao hàm yếu tố sức lao động, là một trong các yếu tố của bất kỳ nền sản xuất xã hội nào.
Chi phí về lao động vật hóa bao gồm cả chi phí khấu hao, chi phí nguyên vật liệu. Trong chi phí về lao động vật hóa bao hàm hai yếu tố cơ bản trên còn lại là tư liệu lao động và đối tượng lao động của nền sản xuất xã hội.
Ngoài ra, chi phí sản xuất còn được hiểu như sau: là những chi phí phát sinh liên quan đến việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ trong phạm vi phân xưởng. Như vậy chi phí sản xuất bao gồm:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là giá trị nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu… được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối với nguyên vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (bộ phận sản xuất hoặc sản phẩm, lao vụ, phân xưởng…) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó.
Chi phí nhân công trực tiếp: là khoản thù lao lao động phải trả cho nhân công trực tiếp sản xuất, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương (phụ cấp khu vực, phụ cấp độc hại, phụ cấp làm thêm giờ, phụ cấp làm ca đêm…). Ngoài ra, chi phí NCTT còn bao gồm các khoản đóng góp cho quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ do chủ sử dụng lao động chịu và được tính vào CPSXKD theo tỷ lệ nhất định với tiền lương phát sinh của nhân công sản xuất.
Chi phí sản xuất chung: là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí NCTT và chi phí NVLTT. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng, bộ phận sản xuất của Doanh nghiệp.
Phân loại chi phí
Theo quy định hiện hành, chi phí của Doanh nghiệp bao gồm: chi phí các hoạt động sản xuất kinh doanh và chi phí các hoạt động khác.
Chi phí sản xuất kinh doanh:
Chi phí của Doanh nghiệp là toàn bộ chi phí trực tiếp, chi phí quản lý…và các chi phí có liên quan khác mà Doanh nghiệp đã chi ra để thực hiện quá trình SXKD như: tiền lương và các khoản có tính chất lương, chi phí về nguyên, nhiên vật liệu, khấu hao TSCĐ, công cụ, dụng cụ, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí quản lý, các khoản trích nộp theo quy định của Nhà nước như BHXH, BHYT, KPCĐ… và các chi phí bằng tiền khác.
Khi xác định CPSXKD của Doanh nghiệp, cần phải phân biệt rõ ràng các khoản chi phí mà không được tính vào các khoản chi phí sau:
Chi đi công tác vượt định mức.
Chi phí sản xuất kinh doanh vượt định mức quy định.
Các khoản tiền do vi phạm pháp luật như vi phạm các luật thuế, chế đọ kế toán thống kê, luật giao thông…
Các khoản chi đầu tư XDCB, chi mua sắm TSCĐ hữu hình và vô hình.
Các khoản chi thuộc nguồn kinh phí đài thọ như các khoản chi sự nghiệp được ngân sách Nhà nước cấp, các khoản chi do cơ quan cấp trên cấp hoặc các tổ chức khác hỗ trợ chi trả tiền vay đầu tư XDCB chưa hoàn thành đưa vào sử dụng.
Các khoản chi ủng hộ các cơ quan, các tổ chức xã hội.
Các chi phí hoạt động khác:
Các chi phí cho các hoạt động khác bao gồm chi phí hoạt động tài chính và chi phí khác. Trong đó:
Chi phí hoạt động tài chính là các khoản chi phí đầu tư tài chính ra ngoài Doanh nghiệp nhằm mục đích sử dụng các nguồn vốn hợp lý, tăng thêm thu nhập và nâng cao hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp.
Chi phí hoạt động khác là các khoản chi phí không phát sinh thường xuyên trong hoạt động SXKD của Doanh nghiệp.
Chi phí sản xuất kinh doanh là một khoản chi phí chiếm tỷ trọng tương đối lớn trên BCTC của Doanh nghiệp. Vì vậy, bên cạnh những đặc điểm chung của kiểm toán chi phí thì quá trình kiểm toán CPSXKD cũng đặt ra yêu cầu mà KTV phải tuân thủ và một số khó khăn nhất định thường gặp trong quá trình kiểm toán chi phí
1.3. Hệ thống kế toán
Để tiến hành một cuộc kiểm toán thành công thì các KTV không thể không xem xét, kiểm tra kỹ lưỡng hệ thống kế toán. Hệ thống kế toán bao gồm: Hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán, hệ thống sổ sách kế toán, hệ thống các nguyên tắc hạch toán. Tất cả các hệ thống này được tổ chức theo một quy trình chặt chẽ. Cụ thể như sau:
Về hệ thống chứng từ:
Chứng từ kế toán là giấy tờ mang tính chứng minh cho nghiệp vụ kinh tế đã thực sự phát sinh và hoàn thành. Đối với CPSXKD, chứng từ kế toán thường bao gồm:
Phiếu xuất kho, phiếu báo vật tư còn lại, phiếu sử dụng vật tư…
Bảng chấm công, bảng thanh toán tiền lương, bảng thanh toán tiền thưởng, phiếu BHXH…
Bảng tính khấu hao TSCĐ…
Chứng từ về dịch vụ mua ngoài: Hóa đơn tiền điện, tiền nước…
Ngoài ra còn có chứng từ như: Bảng phân bổ tiền lương, bảng phân bổ nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ…
Về hệ thống tài khoản kế toán:
Tài khoản kế toán sử dụng để hạch toán chi phí bao gồm:
Tài khoản 621: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Tài khoản 622: Chi phí nhân công trực tiếp
Tài khoản 627: Chi phí sản xuất chung
Tài khoản 154: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Sơ đồ 1: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh (kê khai thường xuyên)
Kết chuyển chi phí NVLTT
Kết chuyển chi phí NCTT
Kết chuyển chi phí SXC
Nhập kho hoặc gửi bán
Tiêu thụ thẳng không qua kho
Tập hợp chi phí NVLTT
Tập hợp chi phí NCTT
Tập hợp chi phí SXC
Hàng tồn kho
Giá vốn hàng bán
Các khoản chi ở phân xưởng (nhân công, vât liệu…)
Chi phí NVLTT
Chi phí NCTT
Chi phí SXC
Chi phí SXKD
Vật liệu, tiền mặt, tiền gửi…
Tiền lương phải trả, các khoản trích theo lương thepo
Hệ thống sổ sách kế toán
Hiện nay có 4 hình thức sổ: Nhật ký chung, Nhật ký chứng từ, Nhật ký sổ cái, Chứng từ ghi sổ. Tùy từng điều kiện cụ thể mà Doanh nghiệp có thể chọn một trong các hình thức sổ trên. Đồng thời Doanh nghiệp cũng mở sổ chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí.
Các nguyên tắc cơ bản trong hạch toán
Trong quy trình hạch toán, kế toán chi phí phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán đã được xác định trong Chuẩn mực Kế toán Việt Nam số 01- Chuẩn mực chung gồm các nguyên tắc: Cơ sở dồn tích, hoạt động liên tục, giá gốc, nhất quán, thận trọng, trọng yếu. Riêng đối với hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh cần đặc biệt chú ý đến 3 nguyên tắc sau:
Nguyên tắc thận trọng: Việc hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh phải đảm bảo tính đầy đủ, chính xác, tuân thủ nguyên tắc giá thực tế, chi phí phải ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng phát sinh chi phí.
Nguyên tắc phù hợp: Hạch toán chi phí phải đúng đối tượng chịu chi phí, đúng thời kỳ và phù hợp với doanh thu trong kỳ, chi phí tương ứng với doanh thu trong kỳ gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu và chi phí của các kỳ trước hoặc chi phí phải trả nhưng liên quan đến doanh thu của kỳ đó.
Nguyên tắc nhất quán: Các nguyên tắc và chính sách kế toán phải áp dụng nhất quán giữa các kỳ kế toán, nếu có thay đổi thì phải trình bày nguyên nhân và ảnh hưởng của nó tới công tác hạch toán.
Đây là 3 nguyên tắc cơ bản chi phối quá trình hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh, đó cũng là các nguyên tắc mà kiểm toán viên phải căn cứ vào để tiến hành kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh.
2. Kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh trong kiểm toán Báo cáo tài chính
2.1. Kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh với vấn đề kiểm toán.
Có mối liên hệ chặt chẽ với chỉ tiêu phản ánh trên Bảng cân đối kế toán (CĐKT). Nên nếu có sai phạm về khoản mục CPSXKD sẽ ảnh hưởng đến kết quả trên Bảng CĐKT, và như thế sẽ không phản ánh đúng kết quả SXKD của Doanh nghiệp .
Luôn gắn chặt chẽ với các chỉ tiêu thu chi tiền mặt, tiền gửi, nhập xuất vật tư, hàng hóa…Đó là những yếu tố động nhất, linh hoạt nhất và dễ xảy ra những gian lận nhất.
Là cơ sở để xác định các chỉ tiêu lợi nhuận và các loại thuế khác nên rất nhạy cảm với các gian lận trong việc xác định mức lợi nhuận, thuế thu nhập… của Doanh nghiệp, cho nên thông qua việc kiểm tra, đối chiếu và thực hiện các thủ tục kiểm toán đối với CPSXKD, có thể phát hiện ra những sai sót, gian lận trong việc hạch toán và xác định các chỉ tiêu đó…
Việc ghi nhận CPSXKD phải căn cứ vào các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán Việt Nam, các chính sách có liên quan đến chi phí. Hơn nữa, việc hạch toán và ghi sổ được thực hiện tùy theo từng loại hình Doanh nghiệp do áp dụng việc phân bổ chi phí, hạch toán hàng tồn kho, tính giá thành sản phẩm, đánh giá sản phâm dở dang… có khác nhau. Cho nên, kiểm toán phải thực hiện theo một chương trình phù hợp với từng Doanh nghiệp.
Có liên quan chặt chẽ đến các tài khoản trên Bảng CĐKT cũng như những phần hành kiểm toán khác như hàng tồn kho, các khoản phải trả. Do đó, trong quá trình kiểm toán cần kết hợp với các phần hành khác.
2.2. Những rủi ro thường gặp trong kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất kinh doanh
Để định hướng cho hoạt động kiểm toán, KTV phải nhận thức được những rủi ro gặp phải khi tiến hành kiểm toán .
Chi phí phản ánh trên báo cáo, sổ sách kế toán cao hơn thực tế:
Trước hết, Doanh nghiệp đã hạch toán vào CPSXKD những chi phí không có chứng từ hoặc có nhưng không hợp lệ.
Doanh nghiệp đã hạch toán vào CPSXKD cả những khoản chi mà không được hạch toán vào CPSXKD như các khoản do vi phạm pháp luật, các khoản chi phí kinh doanh, chi phí đi công tác vượt quá định mức quy định, các khoản chi đầu tư XDCB, mua sắm TSCĐ, các khoản chi ủng hộ các cơ quan, tổ chức, xã hội…
Cán bộ nghiệp vụ có sự nhầm lẫn trong việc tính toán, ghi sổ do đó đã làm sổ sách, báo cáo kế toán tăng lên so với số phản ánh trên chứng từ kế toán.
Doanh nghiệp đã hạch toán vào chi phí các khoản chi mà theo quy định khoản chi này phải hạch toán vào năm sau.
Doanh nghiệp đã hạch toán vào chi phí trong năm các khoản thực tế đã chi nhưng do nội dung, tính chất hoặc độ lớn của khoản chi nên theo quy định các khoản chi này cho nhiều kỳ SXKD.
Chi phí phản ánh trên báo cáo, sổ sách thấp hơn thực tế:
Có một số khoản chi thực tế đã chi, nhưng vì chứng từ thất lạc mà Doanh nghiệp không có các biện pháp cần thiết để có chứng từ hợp lệ nên số khoản chi này được hạch toán vào chi phí trong kỳ.
Có một số khoản chi thực tế đã ghi nhưng do người được giao nhiệm vụ đã hoàn thành nhưng đến cuối kỳ kế toán số cán bộ này vẫn không làm các thủ tục thanh toán do đó các khoản chi này vẫn chưa được hạch toán vào chi phí trong kỳ.
Doanh nghiệp đã theo dõi và hạch toán các khoản chi tiêu cho những công việc chưa hoàn thành trong kỳ kế toán (chi phí dở dang) cao hơn so với chi phí thực tế của những công việc này.
Các loại và đối tượng công việc phản ánh trên sổ sách, báo cáo kế toán còn có sự nhầm lẫn, không đúng với thực tế.
Trên đây là những sai phạm thường gặp đối với CPSXKD đồng thời cũng là những rủi ro khi kiểm toán khoản mục CPSXKD. Do đó, khi kiểm toán, KTV phải xây dựng những mục tiêu kiểm toán phù hợp để phát hiện những sai phạm đó để hạn chế tối đa rủi ro kiểm toán.
Mục tiêu kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất kinh doanh
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 200, khoản 11 xác định:
Mục tiêu kiểm toán tài chính là giúp cho KTV và Công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng BCTC có được dựa trên cơ sở chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực, hợp lý tình hình tài chính trên các khía cạnh trọng yếu hay không.
Mục tiêu kiểm toán còn giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy được những tồn tại sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị.
Biểu 1: Mục tiêu kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh
Mục tiêu chung
Mục tiêu kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh
Tính đầy đủ
Tất cả các nghiệp vụ liên quan đến trong kỳ đều phải phản ánh trên sổ sách kế toán của đơn vị một cách đầy đủ, đúng kỳ và đảm bảo không có sai sót trọng yếu phát sinh.
Tính có thật
Xem xét tính trung thực trên các chứng từ chi phí phát sinh: chứng từ nhập xuất vật tư cho sản xuất, chứng từ chi phí bằng tiền mua ngoài phục vụ cho sản xuất, chi phí lương và các khoản trích theo lương…
Tính chính xác
Các khoản phát sinh trong kỳ phải được phản ánh đúng giá trị thực của nó và phù hợp với chứng từ gốc đính kèm. Số liệu trên các tài khoản có được chính xác và có sự phù giữa các sổ cái, sổ chi tiết và BCTC hay không.
Tính tuân thủ
Đơn vị có thực hiện nhất quán trong việc áp dụng các thủ tục, chính sách ghi nhận chi phí hay không. Việc xác định chi phí được thực hiện theo đúng chế độ và chuẩn mực kế toán hay không. Đơn vị có tuân thủ các hợp đồng lao động đã ký với người lao động hay không.
Trình bày và khai báo
Các nghiệp vụ phát sinh phải được trình bày đúng tài khoản. Việc kết chuyển số liệu giữa sổ kế toán
Đánh giá đúng
Các nghiệp vụ được phản ánh đúng số tiền thực tế.
3. Quy trình kiểm toán nội bộ khoản mục chi phí sản xuất kinh doanh tại các Doanh nghiệp.
Theo Quy chế KTNB ban hành kèm Quyết định số 832/TTCP /QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, quy trình KTNB đối với BCTC cũng không có sự khác biệt so với kiểm toán độc lập. Do vậy cũng bao gồm 4 bước sau:
Lập kế hoạch và lựa chọn phương pháp kiểm toán
Chuẩn bị kiểm toán
Thực hiện kiểm toán
Kết thúc kiểm toán.
Cụ thể, quy trình kiểm toán khoản mục CPSXKD trong BCTC như sau:
3.1. Lập kế hoạch và lựa chọn phương pháp kiểm toán.
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên và đặc biệt quan trọng của mỗi cuộc kiểm toán. Giai đoạn này chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Do vai trò quan trọng của việc lập kế hoạch kiểm toán, chuẩn mực ki._.ểm toán Việt Nam số 300- Lập kế hoach kiểm toán - Đoạn 2 quy định: “KTV phải lập kế hoạch cho mỗi cuộc kiểm toán để có thể đảm bảo rằng cuộc kiểm toán được tiến hành một cách có hiệu quả” và “Kế hoạch kiểm toán phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán”. Kế hoạch kiểm toán gồm 3 bộ phận: Kế hoạch kiểm toán chiến lược, kế hoạch kiểm toán tổng thể, chương trình kiểm toán. Trong đó:
Kế hoạch kiểm toán chiến lược phải được lập cho các cuộc kiểm toán lớn về quy mô, tính chất phức tạp, địa bàn rộng hoặc kiểm toán BCTC của nhiều năm.
Kế hoạch kiểm toán tổng thể phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán, trong đó mô tả phạm vi dự kiến và cách thức tiến hành công việc kiểm toán.
Chương trình kiểm toán phải được lập và thực hiện cho mọi cuộc kiểm toán, trong đó xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán cần thiết để thực hiện kế hoạch kiểm toán tổng thể.
Cụ thể trong giai đoạn này, KTV cần phải tiến hành những công việc sau:
Kiểm toán viên cần lập ra chương trình, kế hoạch cụ thể và xác định nội dung, phạm vi, thời gian tiến hành công việc kiểm toán.
Trên cơ sở các thông tin thu thập được, các kiểm toán viên tiến hành xác định quy mô cuộc kiểm toán; lựa chọn phương pháp, cách thức tiến hành kiểm toán, biện pháp tổ chức thực hiện; tổ chức lực lượng kiểm toán
Có thể khái quát các bước công việc của giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Sơ đồ lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán
Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán
Thu thập thông tin cơ sở
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng và thực hiện thủ tục phân tích
Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng và đánh giá rủi ro kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán toàn diện và soạn thảo chương trình kiểm toán
Kiểm toán khoản mục CPSXKD là một bộ phận của kiểm toán BCTC do đó bước lập kế hoạch và lựa chọn phương pháp kiểm toán cũng được tiến hành như trên.
3.2. Chuẩn bị kiểm toán.
Trong Hệ thống Chuẩn mực KTNB Hoa Kỳ cũng có quy định trong Chuẩn mực số 420- Xem xét và đánh giá thông tin: “KTV nội bộ phải thu thập, phân tích, diễn đạt thông tin và chuẩn bị tài liệu để chứng minh cho những kết quả đạt được”.
Cụ thể, các công việc KTV nội bộ cần tiến hành khi chuẩn bị kiểm toán BCTC bao gồm:
Nghiên cứu các văn bản, tài liệu liên quan đến tình hình hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp, nhiệm vụ kế hoạch và các điều kiện, biện pháp, chính sách, quy định của Doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh sẽ kiểm toán. Sơ bộ đánh giá những thay đổi về điều kiện và môi trường hoạt động kinh doanh ảnh hưởng đến các hoạt động của Doanh nghiệp.
Tìm hiểu chính sách, quy định mới và các chủ trương, biện pháp phát sinh trong kế toán, kiểm toán.
Xem xét các báo cáo, tài liệu, hồ sơ kiểm toán trước đó (nếu có), kể cả các tài liệu bên ngoài Doanh nghiệp có liên quan đến cuộc kiểm toán; tóm tắt các thông tin cần phải kiểm tra trong quá trình kiểm toán sắp tới; thu thập và chuẩn bị các mẫu, các chương trình, các chỉ dẫn cho cuộc kiểm toán sẽ được tiến hành.
Những bước cần tiến hành trong giai đoạn Chuẩn bị kiểm toán được triển khai đối với khoản mục chi phí sản xuất kinh doanh như sau:
Thu thập thông tin về đơn vị được kiểm toán bao gồm: Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm; đặc điểm của đơn vị; phương pháp kế toán ; các quy định về quản lý và kiểm soát nội bộ đối với sản phẩm của đơn vị được kiểm toán. Để có được các thông tin này, KTV có thể trao đổi trực tiếp với các nhân viên kế toán hoặc các bộ phận khác có liên quan. Ngoài ra, KTV cần nghiên cứu các nội quy, quy chế, quy định của đơn vị về quản lý sản phẩm để nắm vững, làm căn cứ khi tiến hành hoạt động kiểm toán. Đồng thời, KTV có thể nghiên cứu các tài liệu kiểm toán mà KTV nội bộ đã tiến hành trong các kỳ kế toán trước.
Sau khi thu thập đầy đủ thông tin, KTV căn cứ vào các thông tin đã được thu thập tiến hành đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ đối với chi phí sản xuất sản phẩm. Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá là hoạt động hữu hiệu thì KTV có thể giảm bớt các thủ tục kiểm tra chi tiết và ngược lại. Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm: Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ đối với khoản mục chi phí sản xuất sản phẩm, thực hiện thủ tục kiểm soát và đánh lại mức độ kiểm soát ban đầu.
Kết thúc giai đoạn này, KTV cần chuẩn bị sẵn chương trình kiểm toán đối với khoản mục .
Cụ thể, chương trình kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất kinh doanh :
Tài liệu cần thu thập
1. Bảng CĐKT; Báo cáo kết quả SXKD; Bảng cân đối tài khoản.
2. Bảng tổng hợp và giá thành sản phẩm.
3. Báo cáo giá vốn hàng bán
4. Sổ cái các tài khoản
5. Sổ chi tiết các tài khoản
Thủ tục kiểm toán
Thủ tục kiểm soát
1. Tìm hiểu các đặc thù về quản lý, cơ cấu tổ chức bộ phận sản xuất, các quy định, chính sách liên quan đến hoạt động sản xuất của đơn vị.
2. Kiểm tra việc tuân thủ các quy định về hạch toán .
3. Kiểm tra tính độc lập giữa các bộ phận trong bộ máy quản lý sản xuất.
4. Kiểm tra việc tuân thủ các thủ tục các thủ tục kiểm soát nội bộ của đơn vị.
Thủ tục phân tích
1. So sánh CPSXKD giữa các tháng, quý với nhau, giữa năm nay với năm trước, giữa đơn vị với các đơn vị khác cùng ngành.
2. So sánh thực tế với kế hoạch.
3. So sánh tỷ lệ chi phí trên doanh thu giữa các tháng trong năm, giữa năm nay với năm trước.
4. So sánh tỷ lệ từng yếu tố cấu thành chi phí trên tổng giữa các tháng trong năm, giữa năm nay với năm trước, so sánh tỷ lệ giữa các yếu tố chi phí trên tổng chi phí với nhau.
Thủ tục kiểm tra chi tiết
1. Đối chiếu số liệu trên Bảng CĐKT, BCKQKD với số liệu của sổ cái, sổ chi tiết chi phí.
2. Đối chiếu số liệu trên Bảng tổng hợp với số liệu trên sổ cái, sổ chi tiết.
3. Đối chiếu số liệu về giữa bộ phận kế toán với các bộ phận khác có liên quan.
4. Kiểm tra chi tiết 100% chứng từ gốc đối với các nghiệp vụ giảm chi phí, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến chi phí có nội dung bất thường.
5. Kiểm tra chọn mẫu một số nghiệp vụ kinh tế trong sổ chi tiết chi phí, đối chiếu với chứng từ gốc có liên quan để kiểm tra tính hiện hữu đối với các nghiệp vụ này.
6. Chọn mẫu một số chứng từ liên quan đến nghiệp vụ về chi phí đối chiếu với sổ chi tiết để kiểm tra tính đầy đủ của các nghiệp vụ này.
Thực hiện kiểm toán.
Theo Chuẩn mực kiểm toán số 420 của Hoa Kỳ: “ Kiểm toán viên phải thu thập, phân tích, diễn đạt thông tin và chuẩn bị tài liệu để chứng minh cho những kết quả đạt được”.
Thực hiện kiểm toán là quá trình sử dụng các phương pháp kiểm toán thích hợp để thu thập bằng chứng kiểm toán. Đó là quá trình triển khai một cách chủ động và tích cực kế hoạch, chương trình kiểm toán nhằm đưa ra ý kiến xác thực về mức độ trung thực và hợp lý của BCTC trên cơ sở những bằng chứng kiểm toán đầy đủ và tin cậy. Quá trình kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh được tiến hành cụ thể cho từng khoản mục chi phí theo trình tự sau:
Kiểm toán viên thực hiện các thủ tục kiểm soát; thực hiện các thủ tục phân tích và thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết đối với khoản mục CPSXKD:
Kiểm toán khoản mục chi phí nguyên vật liệu
Kiểm toán khoản mục chi phí nhân công.
Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất chung.
Kiểm toán khoản mục CPSXKD dở dang và tính giá thành sản phẩm.
3.3.1. Kiểm toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Thực hiện thủ tục phân tích:
Thực hiện thủ tục phân tích đối với khoản mục chi phí nguyên vật liệu là việc phân tích số liệu, các tỷ suất quan trọng liên quan đến chi phí nguyên vật liệu. Qua đó, tìm ra các chênh lệch hoặc mâu thuẫn của khoản mục này.
Một số chỉ tiêu quan trọng mà KTV thường sử dụng khi phân tích khoản mục chi phí nguyên vật liệu là: Tỷ suất chi phí nguyên vật liệu/Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ; Tỷ suất tổng chi phí nguyên vật liệu sử dụng trong kỳ/Tổng khối lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ.
Phân tích tỷ suất trên cho phép KTV thấy được tính hợp lý của chi phí nguyên vật liệu sử dụng cho sản xuất. Đặc biệt, qua việc đối chiếu tỷ suất chi phí nguyên vật liệu/Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ của doanh nghiệp, KTV sẽ dễ dàng phát hiện các biến động bất thường trong chi phí nguyên vật liệu.
Ngoài ra, KTV còn sử dụng thủ tục phân tích xu hướng bằng cách so sánh chi phí nguyên vật liệu giữa các tháng, quý, năm với nhau để phát hiện những biến động bất thường.
Thực hiện thử nghiệm kiểm soát:
Thực hiện thử nghiệm kiểm soát là việc kiểm tra các quy định về chi phí nguyên vật liệu và sự tuân thủ các quy định này tại đơn vị được kiểm toán. Cụ thể, KTV xem xét một số vấn đề sau:
Xem xét việc tổ chức quản lý và theo dõi quá trình sản xuất ở các bộ phận sản xuất: có bộ phận kiểm tra chất lượng, có nhân viên thống kê kết quả sản xuất tại các bộ phận không?
Kiểm tra việc ghi nhật ký và lập báo cáo định kỳ của bộ phận sản xuất, quy trình làm việc của bộ phận kiểm tra chất lượng, tính độc lập của các cán bộ làm nhiệm vụ này bằng cách độc lập xem xét các báo cáo kế toán của bộ phận sản xuất; phỏng vấn nhân viên đơn vị về tổ chức nhân sự tại các bộ phận sản xuất.
Quan sát việc quản lý, bảo quản vật tư, sản phẩm dở dang ở các phân xưởng, tổ, đội sản xuất; tìm hiểu quy trình, thủ tục kiểm kê và tính giá sản phẩm dở dang.
Xem xét quy trình lập, luân chuyển, kiểm tra và sử dụng chứng từ kế toán và các tài liệu có liên quan đến chi phí nguyên vật liệu; kiểm tra việc ghi sổ kế toán và quy trình hạch toán chi phí nguyên vật liệu của bộ phận kế toán bằng phỏng vấn nhân viên và quan sát thực tế tại đơn vị khách hàng.
Xác minh xem việc đối chiếu số liệu giữa các bộ phận kho và bộ phận kế toán, giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết có được thực hiện thường xuyên không thông qua phỏng vấn nhân viên của đơn vị và kiểm tra dấu hiệu kiểm soát nội bộ.
Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết:
Các thủ tục kiểm tra chi tiết được thực hiện đối với khoản mục chi phí NVLTT như sau:
Phân tích, đối chiếu giá trị nguyên vật liệu xuất kho (phát sinh Có TK152) với tổng chi phí nguyên vật liệu phát sinh trong kỳ được tập hợp vào bên Nợ các TK 621; TK 623; TK 627 (6272); TK 641 (6412); TK 642 (6422).
Đối chiếu lượng vật tư cấp dùng (trên Bảng tổng hợp nguyên vật liệu xuất dùng) với Báo cáo sử dụng vật tư.
Độc lập cộng dồn và đối chiếu các sổ kế toán theo dõi chi phí nguyên vật liệu.
Kiểm tra chi tiết chứng từ liên quan đến nhập, xuất vật tư. KTV tiến hành chọn mẫu một số Phiếu xuất kho dùng cho sản xuất để xem xét trường hợp nào hạch toán sai hoặc không đúng tài khoản. Đồng thời, KTV có thể kiểm tra một số Phiếu nhập kho để đảm bảo giá trị nguyên vật liệu nhập kho được ghi sổ đúng đắn.
Sau khi kiểm tra, KTV nếu thấy có sự chênh lệch kiểm toán thì phải điều tra về tính chất và nguyên nhân chênh lệch, cân nhắc tính trọng yếu của các chênh lệch kiểm toán.
3.3.2. Kiểm toán chi phí tiền lương
Thực hiện các thử nghiệm kiểm soát:
Xem xét các văn bản quy định của Nhà nước và của Doanh nghiệp về lao động, tiền lương và liên quan đến lao động, tiền lương như: các quy định về tuyển dụng và quản lý lao động, nội quy, quy chế về quản lý và sử dụng lao động, thỏa ước lao động và đại diện cho tập thể người lao động.
Kiểm tra việc tuân thủ các quy định của Nhà nước và của Doanh nghiệp về lao động, tiền lương và các vấn đề liên quan đến lao động, tiền lương.
Kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ quản lý lao động và tiền lương.
Thực hiện một số thủ tục phân tích:
So sánh chi phí tiền lương giữa các kỳ, các bộ phận với nhau; giữa chi phí tiền lương với sản lượng sản phẩm sản xuất ra hoặc doanh thu đã thực hiện.
So sánh tỷ lệ chi phí tiền lương gián tiếp với tiền lương trực tiếp, giữa tiền lương gián tiếp và tiền lương trực tiếp của kỳ này với kỳ trước.
So sánh mức đơn giá tiền lương của kỳ này với mức đơn giá tiền lương của kỳ trước.
Qua đó, KTV sẽ thấy được những thay đổi không bình thường về nguyên nhân của nó.
Thực hiện kiểm tra chi phí tiền lương đối với một số kỳ được chọn trong năm:
Đối chiếu danh sách, họ tên, mức lương của cán bộ viên chức trong hồ sơ lao động đối với danh sách họ tên, mức lương cán bộ viên chức trong Bảng lương.
Đối chiếu số giờ công, ngày công trên Bảng tính lương với Bảng chấm công. Đối chiếu số lượng sản phẩm đã sản xuất ra của từng lao động hoặc tập thể lao động trên Bảng tính lương với số lượng sản phẩm đã nhập kho của từng lao động hoặc tập thể lao động trên sổ theo dõi, báo cáo của bộ phận sản xuất.
Kiểm tra tính chính xác, hợp lý của việc áp dụng đơn giá và tính lương đối với người lao động trên Bảng tính lương.
Kiểm tra việc tính và khấu trừ các khoản phải trừ người lao động trong Bảng tính lương.
Kiểm tra việc tính và phân bổ tiền lương vào sản phẩm sản xuất ra trong kỳ.
Kiểm tra, đối chiếu tổng số tiền lương đã tính trên Bảng lương với số tiền đi trên chứng từ trả lương.
Thực hiện các thủ tục kiểm tra đối với các khoản trích trên tiền lương như: Bảo hiểm xã hội (BHXH), Bảo hiểm y tế (BHYT), Kinh phí công đoàn (KPCĐ):
Đối với BHXH, BHYT mức trích nộp được tính trên lương cơ bản còn KPCĐ được tính trên Tổng quỹ lương mà đơn vị được hưởng. Riêng đối với BHXH, khi kiểm tra cần xem xét đối chiếu số liệu đơn vị đã hạch toán với biên bản đối chiếu xác nhận giữa đơn vị với cơ quan BHXH.
3.3.3. Kiểm toán chi phí sản xuất chung
Thử nghiệm kiểm soát đối với chi phí sản xuất chung:
Xem xét các văn bản quy định của Nhà nước và Doanh nghiệp về quản lý và hạch toán chi phí SXC
Kiểm tra việc thực hiện các thủ tục quy định đối với việc quản lý và hạch toán khoản mục chi phí SXC.
Thực hiện thủ tục phân tích:
So sánh khoản mục chi phí sản xuất chung của kỳ này với các kỳ trước để có thể nhận xét tổng quát tình hình thực hiện trong kỳ, những bất hợp lý cần đi sâu để làm rõ nguyên nhân.
So sánh tỷ trọng chi phí SXC chung với tổng chi phí, tổng doanh thu giữa kỳ kế toán này với các kỳ kế toán khác để có thêm thông tin cần thiết giúp cho việc lựa chọn những nội dung cần đi sâu trong quá trình kiểm toán.
So sánh mức chi phí SXC thực tế với dự toán chi phí đã lập. Nếu phát hiện những khác biệt lớn thì phải đi sâu làm rõ lý do về khác biệt đó.
Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết:
Trong quá trình kiểm toán, KTV phải đặc biệt chú ý đến kết quả thu được từ việc thực hiện các thủ tục phân tích; đi sâu kiểm tra, soát xét các khoản chi có mức biến động bất thường; các khoản chi có mức thực tế cao hơn dự toán chi, các khoản chi có thay đổi nhiều so với năm trước, tháng trước, các khoản chi phí mới phát sinh bất thường; chú ý kiểm tra các khoản chi phí dịch vụ mua ngoài và các khoản chi phí bằng tiền khác.
Lập bảng tổng hợp các khoản chi phí SXC phát sinh trong kỳ, trong đó liệt kê chi tiết các khoản chi cần đi sâu kiểm tra, sau đó kiểm tra chi tiết hồ sơ và chứng từ gốc liên quan đến các khoản chi đó.
Để giảm bớt thời gian kiểm toán và những trùng lắp không cần thiết, trong quá trình khảo sát và kiểm tra khoản mục chi phí SXC, cần lưu ý kiểm tra kết hợp đối chiếu với các khoản mục liên quan trên Bảng CĐKT như: Khoản mục chi phí vật liệu hàng tồn kho; Khoản mục khấu hao TSCĐ với khoản mục hao mòn TSCĐ; Khoản mục dịch vụ mua ngoài với khoản mục phải trả người bán, tiền mặt, tiền gửi; Khoản mục chi phí khác bằng tiền với khoản mục tiền mặt và tiền gửi.
Kiểm tra các khoản mục phát sinh làm giảm chi phí SXC, trong đó chú ý đối chiếu với các quy định hiện hành để có được những đánh giá đúng đắn về khoản mục này.
3..3.4. Kiểm toán việc xác định giá trị sản phẩm dở dang và tính giá thành sản phẩm.
Trước hết, KTV tìm hiểu quy trình tính toán và xác định CPSXKD dở dang của Doanh nghiệp, xem xét phương pháp mà Doanh nghiệp đã áp dụng để xác định CPSXKD dở dang có được thừa nhận hợp lý không.
Tiếp theo KTV phải thu thập, nghiên cứu và kiểm tra chi tiết kết quả kiểm kê thực tế chi phí SXKD cuối kỳ. Nếu thấy cần thiết, KTV phải kiểm tra chi tiết chi phí này đối với một số đối tượng để xác định tính đúng đắn của việc kiểm kê và xác định CPSXKD dở dang.
KTV tiến hành đối chiếu, so sánh số liệu thu được từ kết quả kiểm kê với số liệu đã tính toán trên sổ kế toán, đối chiếu so sánh tỉ lệ CPSXKD dở dang trong kỳ này đối với các kỳ trước để tìm ra những bất hợp lý hoặc những thay đổi bất thường.
Sau khi tiến hành hoàn thành kiểm toán chi phí SXKD dở dang, kết hợp với các kết quả kiểm toán chi phí ở trên, KTV tính toán lại giá thành và lập biểu tính giá thành, đối chiếu kết quả tính toán với số liệu của đơn vị. Trong trường hợp có chênh lệch phát sinh, KTV phải tìm hiểu và xác định nguyên nhân của sự chênh lệch đó.
Các bước kiểm toán phải thực hiện theo đúng quy trình của cuộc kiểm toán và phải được ghi nhận trên tài liệu, hồ sơ kiểm toán.
4.4. Kết thúc cuộc kiểm toán
Đối với giai đoạn cuối cùng này, Chuẩn mực kiểm toán số 430 của Hoa Kỳ cũng có quy định như sau: “KTV nội bộ phải báo cáo kết quả công việc kiểm toán cho Giám đốc hoặc lãnh đạo cơ quan”.
Kết thúc cuộc kiểm toán, KTV phải tiến hành lập Báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán phải trình bày đầy đủ các nội dung, kết quả kiểm toán theo mục tiêu, yêu cầu đã đề ra cho từng cuộc kiểm toán; Xác nhận tính đầy đủ, hợp lý của BCTC, Báo cáo kế toán quản trị hàng năm trước khi trình, ký duyệt; Đề xuất các kiến nghị và biện pháp xử lý các sai sót, gian lận và các vi phạm, nêu các giải pháp cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh của Công ty.
Báo cáo KTNB được gửi cho Chủ tịch Hội đồng quản trị, cho Tổng Giám đốc Doanh nghiệp. Việc lưu hành và công bố báo cáo KTNB tùy theo tính chất kiểm toán và do Chủ tịch Hội đồng quản trị, được đính kèm BCTC, báo cáo kế toán quản trị trước khi lưu hành.
KTV tiến hành kiểm tra, đánh giá kết quả kiểm toán. Đây là công việc tiếp sau của cuộc kiểm toán nhằm kiểm tra việc triển khai thực hiện những kiến nghị, đề xuất xử lý và những giải pháp đã nêu trong Báo cáo kiểm toán ở các bộ phận quản lý, điều hành kinh doanh trong Doanh nghiệp.
Trên đây là toàn bộ quy trình kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh. Quy trình này sẽ được triển khai cụ thể tùy thuộc vào từng Doanh nghiệp, nhiệm vụ kiểm toán trong từng kỳ kế toán, nội dung kiểm toán, đối tượng kiểm toán cụ thể song đều dựa trên nền tảng chung đã trình bày ở trên.
Chương II
Thực trạng quy trình kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh trong kiểm toán Báo cáo tài chính do kiểm toán nội bộ tại Tổng công ty Thành An (binh đoàn 11) thực hiện
I. Khái quát chung về Tổng công ty Thành An (Binh Đoàn 11)
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Tổng Công ty Thành An (Binh Đoàn 11)
Quá trình hình thành và phát triển của lực lượng xây dựng cơ bản của quân đội
Lực lượng XDCB của quân đôị được hình thành và phát triển trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Cụ thể như sau:
Năm 1954 sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, ngành XDCB của quân đội với lực lượng chuyên trách của Tổng Cục Hậu Cần ra đời.
Ngày 23/11/1955, phòng Doanh trại thuộc Tổng Cục Hậu Cần được thành lập
Ngày 10/8/1955 Bộ Quốc Phòng quyết định thành lập Cục doanh trại thuộc Tổng Cục Hậu Cần.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, công trình XDCB được điều chỉnh về lượng, được tổ chức lại.
Trước yêu cầu đổi mới của nhiệm vụ cách mạng, của quân đội, tháng 6/1982, quân uỷ trung ương– Bộ Quốc Phòng quyết định chuyển việc chỉ đạo XDCB từ Tổng Cục hậu cần về Bộ Quốc Phòng và thành lập Binh Đoàn 11.
Những đơn vị tiền thân của Tổng Công ty Thành An ( Binh Đoàn 11)
Binh Đoàn 11 mới ra đời, nhưng các lực lượng về hợp thành Binh Đoàn 11 là những đơn vị đã có kinh nghiệm và truyền thống trong ngành XDCB, đó là 6 đơn vị XDCB và làm kinh tế: Cục Xây dựng thuộc Tổng Cục Hậu Cần, Đoàn sản xuất vật liệu, Đoàn 386, Đoàn 387, Đoàn 37b, Trung đoàn 551.
“Binh Đoàn 11 hình thành do sự sáp nhập của nhiều lực lượng tổ chức lại, nhưng không phải là một tập hợp nhiều sư đoàn cho bớt đầu mối mà là 1 đơn vị có chất lượng mới”
2. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh
Tổng Công ty Thành An hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực XDCB, ngoài ra còn hoạt động trong một số lĩnh vực khác nữa. Cụ thể, TCT hoạt động trong các lĩnh vực ngành nghề sau:
1. XDCB: Đây là lĩnh vực hoạt động chính của TCT Thành An .Bao gồm các công trình xây dựng dân sự và công trình phục vụ quân đội .
2. Sản xuất vật liệu: Cung cấp nguyên vật liệu cho các công trình xây dựng và bán ra ngoài.
3. Kinh doanh nhà khách
4. Kinh doanh vận tải
5. Đào tạo nghề công nhân xây dựng,xuất khẩu lao động
6. Sản xuất cơ khí, sửa chữa thiết bị và các sản phẩm cơ khí phục vụ xây dựng và tiêu dùng.
3. Cơ cấu tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh
Với đặc thù là một TCT hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực XDCB, lại là một đơn vị quân đội nên đặc điểm cơ cấu SXKD cũng có những đặc thù riêng, đó là sự phân chia các lĩnh vực SXKD cụ thể cho các đơn vị trực thuộc. Chúng ta có thể nói đến ở đây là quá trình tiến hành hoạt động XDCB:
Khi có một công trình đang cần xây dựng, nếu là công trình trong quân đội thường thì TCT sẽ được chỉ định thầu, nếu không phòng đấu thầu sẽ tiến hành nộp hồ sơ dự thầu. Nếu trúng thầu, TCT sẽ chuẩn bị các điều kiện cần thiết và chỉ định các đơn vị tiến hành thi công các công việc cụ thể. Sau khi công trình xây dựng được hoàn thành, hai bên tiến hành nghiệm thu công trình.
Sơ đồ 3: Sơ đồ cơ cấu tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh
Đấu thầu
Thi công
Nghiệm thu
Ngoài ra, TCT còn hoạt động trên một số lĩnh vực khác nữa như: Sản xuất NVL, đào tạo nghề, kinh doanh nhà khách, vận tải. Nhưng hoạt động XDCB là chủ yếu, còn các hoạt động khác chủ yếu để phục vụ hoạt động XDCB.
4. Tổ chức bộ máy quản lý, chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban
XN 30
XN 31
XN 32
XN 56
XN 897
XN 35
XN 53
XN 64
XN 72
XN 34
XN 56
XN 58
XNGT 62
XN 33
XN 37
XN 51
XN 60
XN 61
P.QLNĐ
số 1
XN 54
Xn 79
XN 74
P.QLNĐ
số 2
P.QLNĐ
số 3
BQLDA
Mỹ Đình 1
Tổng Giám đốc
2 Phòng
Quản lý các dự án nội bộ
Phó TGĐ Chính trị
Phó TGĐ
Phó TGĐ
Phó TGĐ
5
Phòng
Kỹ thuật
7
Phòng
Tài
Chính
1
Phòng
Dự án
Đấu
Thầu
3
Phòng
Tổ
chức
LĐ - ĐT
6
Phòng
Kinh tế
Đối
Ngoại
13
Thanh tra
12
Văn phòng
11
ban
điều
tra
Hình sự
10
Phòng
Chính trị
9
Phòng
Kiểm
Toán
Nội Bộ
8
Phòng
Thiết
bị
Xe máy
Ban
Kinh tế
Xây
dựng
ban
Đào tạo
Huấn
Luyện
Ban
An toàn
Bảo hộ
lao động
Ban
Công
Nghệ
Thông tin
ban thanh toán
Thu
hồi
Công nợ
1
C.ty
Xây
lắp
386
DBĐV
Ban
Tổ chức
đảng
Ban
Cán
Bộ
Ban
Tuyên
Huấn
Ban
Công
tác
Quần
chúng
Ban
bảo
vệ
Ban
Hành
chính
Ban
Hậu
Cần
2
C.ty
Xây
lắp
394
DBĐV
3
C.ty
Xây
lắp
665
4
C.ty
XD
CT
56
5
C.ty
Xây
lắp
96
6
C.ty
ĐTPT
nhà &ĐT
7
C.ty
cổ
phần
77
8
Trường
dạy
nghề
số 18
9
C.Ty
TV&
TNCN
491
10
XN
XD
CT
36
19
TT Thí
nghiệm
kiểm
định
CLXD
16
Chi
nhánh
TP
HCM
15
Các
Ban
ĐHDA
12
XN
Cơ khí
& XD
141
11
XN
XD
59
14
C.Ty
Liên doanh
ACSCO
13
XN Cảng và kinh doanh vLXD
17
Chi nhánh Miền trung
18
cHI NHáNH hòA bìNH
Ban tài chính các đơn vị hạch toán p.thuộc
4
Phòng
Kế
Hoạch Đầu Tư
Sơ đồ 4: Mô hình Tổng Công ty Thành An
Chức năng, nhiệm vụ:
Tổng Giám đốc: Là người đại diện cho pháp nhân TCT Thành An, là người chịu trách nhiệm cao nhất trước cấp trên và trước pháp luật trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành mọi công việc của TCT Thành An, đồng thời chịu trách nhiệm gián tiếp về các quyết định của các phó Tổng Giám đốc.
Phó Tổng Giám đốc về chính trị: Chủ trì công tác Đảng, công tác chính trị của TCT Thành An theo chức trách Phó chính trị của Tổng Cục chính trị ban hành, chịu trách nhiệm duy trì mọi nề nếp sinh hoạt, điều lệnh quản lý bộ đội.
Phó Tổng Giám đốc thứ nhất: Trực tiếp điều hành công tác kế hoạch sản xuất, tổ chức giao kế hoạch, đôn đốc việc thực hiện kế hoạch và tiến độ thi công và chất lượng các công trình, các dự án trọng điểm của các đơn vị, các dự án trong nước của TCT Thành An
Phó Tổng Giám đốc thứ hai: Trực tiếp theo dõi, chỉ đạo thực hiện công tác kỹ thuật, chất lượng công trình, công tác an toàn – vệ sinh lao động, chỉ đạo công tác kinh tế đối ngoại, công tác sáng kiến cải tiến kỹ thuật.
Phó Tổng Giám đốc thứ ba: Trực tiếp chỉ đạo, điều hành kế hoạch sản xuất, chất lượng sản phẩm vật liệu xây dựng, chỉ đạo thực hiện công tác đầu tư tăng năng lực sản xuất, theo dõi công tác kiểm toán.
Phòng kế hoạch đầu tư: Tham mưu, tổng hợp giúp lãnh đạo và Chỉ huy TCT Thành An triển khai công tác kế hoạch- đầu tư.
Phòng kỹ thuật: Phòng kỹ thuật là cơ quan chức năng của TCT Thành An, có nhiệm vụ tham mưu, giúp việc cho lãnh đạo, chỉ huy TCT Thành An về quản lý, chỉ đạo công tác kỹ thuật, quản lý hệ thống quản lý chất lượng trong toàn TCT Thành An .
Phòng tổ chức lao động- đào tạo: Tham mưu và giúp việc cho lãnh đạo, chỉ huy TCT Thành An, tuyển dụng các chuyên gia và công nhân kỹ thuật đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ, kiểm tra và quản lý công tác trả lương, thưởng.
Phòng tài chính: Tham mưu cho Chỉ huy, lãnh đạo về mọi hoạt động có liên quan đến tài chính, thống nhất phương pháp quản lý hạch toán từ TCT Thành An đến các đơn vị thành viên, tiến hành phân phối kết quả công khai tài chính, lập kế hoạch thu, chi tài chính trong năm, tổ chức hướng dẫn, định hướng cho các doanh nghiệp sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả .
Phòng Kinh tế đối ngoại: Tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy TCT về các công việc có liên quan đến lĩnh vực kinh tế đối ngoại theo đúng luật pháp Việt Nam và tập quán quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ SXKD ra nước ngoài.
Phòng kiểm toán nội bộ: Là cơ quan tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy TCT về công tác tổ chức quản lý SXKD đặc biệt là công tác quản lý tài chính.
Phòng thiết bị xe máy: Là cơ quan tham mưu giúp việc cho lãnh đạo, chỉ huy TCT và quản lý chỉ đạo công tác Thiết bị xe máy trong toàn TCT.
Phòng quản lý dự án nội bộ: Giúp TCT quản lý, thực hiện các dự án nội bộ của TCT.
II. Vài nét về hoạt động kiểm toán nội bộ tại Tổng công ty Thành An
1. Sự ra đời của kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty Thành An
Nhận thức rõ yêu cầu thực tiễn của TCT đặt ra, ngoài ra căn cứ vào Quyết định số 832 TC/QĐ/CĐ kiểm toán ngày 28/10/1997 của Bộ trưởng Bộ tài chính ban hành quy chế KTNB. Ngày 02/04/1998 chủ nhiệm Tổng Cục Hâụ Cần ra quyết định số 61/QĐH-16 về việc thành lập phòng KTNB thuộc TCT Thành An. Đây chính là thời điểm ra đời của KTNB tại TCT Thành An, là một bộ phận trực thuộc Tổng Giám đốc TCT.
Thời gian đầu mới thành lập nhân sự của phòng KTNB còn rất ít, chỉ có 4 thành viên trong đó có một trưởng phòng và một phó phòng. Các thành viên này đều là các kế toán truởng có kinh nghiệm ở các xí nghiệp điều động lên. Do nhân sự còn thiếu nên trong các cuộc kiểm toán thường phải cử thêm các nhân viên ở các bộ phận liên quan đến công tác kiểm toán như một thành viên chính thức của đoàn kiểm toán.
Cùng với sự phát triển không ngừng của TCT Thành An và những thay đổi của tình hình mới, đòi hỏi đặt ra là phải tổ chức hoạt động KTNB thực sự, tức là phải tiến hành kiểm toán không chỉ BCTC mà cả kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động, không đơn thuần là hoạt động kiểm tra, kiểm soát như trước đây. Vì thế, nhân sự của phòng kiểm toán cũng tăng lên tương ứng cả về số lượng và trình độ chuyên môn. Cho đến hiện nay số lượng KTV của phòng đã lên đến 7 người có trình độ từ đại học trở lên và đã có kinh nghiệm lâu năm trong ngành kế toán.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm, nhiệm vụ kiểm toán từng kỳ kế toán cụ thể, trưởng phòng KTNB sẽ tiến hành phân công, phân nhiệm trong quá trình kiểm toán.
2. Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong Tổng Công ty
Phòng kiểm toán nội bộ của Tổng Công Ty Thành An tuy mới thành lập và đi vào hoạt động trong một khoảng thời gian chưa lâu nhưng đã thể hiện vai trò rất lớn, không thể thiếu đối với hoạt động của Tổng Công Ty Thành An. Việc thành lập phòng kiểm toán nội bộ đối với hoạt động của Tổng Công Ty Thành An là một quyết định đúng đắn, nó phản ánh nhu cầu quản lý ngày càng cao của Tổng Công Ty Thành An. Theo đó, cơ cấu tổ chức của phòng kiểm toán nội bộ theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 5: Sơ đồ tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ
Trưởng phòng kiểm toán nội bộ
Phó phòng kiểm toán nội bộ
Chuyên viên KTNB 1
Chuyên viên KTNB 2
Chuyên viên KTNB 3
Chuyên viên KTNB 4
Chuyên viên KTNB 5
Trong Tổng Công Ty Thành An bộ máy tổ chức kiểm toán nội bộ 7 người,trong đó có một trưởng phòng, một phó phòng, 5 chuyên viên với nhiệm vụ như sau:
Trưởng phòng kiểm toán nội bộ: Phụ trách chung; Tổ chức, bố trí nhiệm vụ, các thủ tục làm công tác kiểm toán từ lập kế hoạch đến kiểm toán; Phân công công việc cho đoàn kiểm toán; Tổng hợp số liệu, viết báo cáo; Chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc về báo cáo.
Phó phòng kiểm toán nội bộ:Thay mặt trưởng phòng khi trưởng phòng vắng mặt; Chịu trách nhiệm trước trưởng phòng về các báo cáo kiểm toán.
Chuyên viên phòng kiểm toán nội bộ:Mỗi chuyên viên được phân công một mảng công việc cụ thể và có trách nhiệm đưa ra các kết luận về mảng công việc mình phụ trách; Chịu trách nhiệm trước trưởng phòng về nội dung kiểm toán được phân công; Nếu không nhất trí với ý kiến của trưởng phòng phải đưa ra văn bản gửi lên Tổng Giám đốc.
3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi của kiểm toán nội bộ tại Tổng công ty
3.1. Chức năng của kiểm toán nội bộ
Tại TCT Thành An, KTNB có các chức năng sau:
Kiểm tra tính tuân thủ của hệ thống quản lý đối với các chính sách, chế độ của Nhà nước, các quy định của TCT và các xí nghiệp thành viên.
Xác nhận tính đúng đắn, trung thực và hợp lý của các số liệu, tài liệu kế toán, các BCTC và các tài liệu, báo cáo khác của TCT và các xí nghiệp thành viên.
Trên cơ sở kết quả kiểm toán, đưa ra những kết luận, đánh giá việc tuân thủ pháp lụât, chính sách, chế độ, hiệu quả hoạt động của TCT và các xí nghiệp thành viên.
Tham mưu, tư vấn cho Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, Giám đốc các xí nghiệp thành viên về những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hệ thống quản lý kinh tế, tài chính, kỹ thuật và hệ thống kiểm soát nội bộ, khắc phục những tồn tại, yếu kém, ngăn ngừa những sai phạm, lệch lạc trong quản lý.
3.2. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ tại TCT Thành An có những nhiệm vụ như sau:
Kiểm tra tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ ở TCT và các đơn vị thành viên.
Kiểm tra, đánh giá và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính trên BCT._.ham chiếu cho các giấy tờ làm việc gây khó khăn trong việc hệ thống hoá và liên kết các phần hành.
Ngoài ra, việc sử dụng hệ thống giấy tờ làm việc đúng chức năng chưa thực sự được chú ý. Không những thế, việc ghi chép đầy đủ các yếu tố trên giấy tờ làm việc cũng không được thực hiện thường xuyên. Đó là một số KTV đã bỏ qua việc ghi chép tên đơn vị được kiểm toán, ngày tháng thực hiện…
3. Về quy trình kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh
3.1. Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán chiến lược
Tại TCT, kế hoạch kiểm toán thường được lập chi tiết về mặt thời gian, tạo điều kiện cho các đơn vị trong TCT có thể chủ động phối hợp với Đoàn kiểm toán. Cụ thể, nhờ có sự chuẩn bị trước đơn vị sẽ không bị bất ngờ gây nên xáo trộn trong hoạt động của đơn vị đồng thời đơn vị có thể chuẩn bị sẵn sàng các tài liệu cần thiết phục vụ cho hoạt động kiểm toán, khiến công tác kiểm toán tiến hành với thời gian hợp lý và hiệu quả kiểm toán là cao nhất.
Tuy nhiên, kế hoạch kiểm toán chiến lược mới chỉ dừng lại ở việc bố trí thời gian chứ chưa chi tiết bố trí nhân sự vì thế có thể làm KTV bị động ảnh hưởng đến hiệu quả công việc.
Phòng kiểm toán cũng chưa thiết kế được một chương trình kiểm toán cho đơn vị mình đồng thời chưa có đề cương kiểm toán chi tiết. Điều này sẽ gây khó khăn cho công tác kiểm toán, làm giảm hiệu quả công tác kiểm toán.
3.2. Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán
Tại TCT, công tác chuẩn bị kiểm toán được thực hiện khá kỹ lưỡng. Điều này đã tạo ra tiền đề cho những công việc kiểm toán ở các giai đoạn tiếp theo.
Để tìm hiểu và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ, KTV đã lập riêng cho mỗi đơn vị một giấy tờ làm việc trong đó có các thông tin thu thập được về đơn vị được kiểm toán. Từ đó, làm cơ sở cho KTV trong quá trình kiểm toán, giúp KTV tiết kiệm thời gian kiểm toán.
Mặc dù vậy, việc tìm hiểu này còn chưa thật đầy đủ. Biểu hiện như: các thông tin về hoạt động kiểm toán tại đơn vị chưa thật đầy đủ, việc đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ mới chỉ dừng lại ở trao đổi với các nhân viên và lãnh đạo Công ty. Còn rất nhiều công cụ hữu hiệu khác chưa được KTV sử dụng như Bảng câu hỏi hay Bảng mô tả về hệ thống kiểm soát nội bộ.
Trong khâu này, kế hoạch chi tiết mới chỉ dừng lại ở bố trí thời gian kiểm toán mà chưa có sự phân công nhân sự. Công việc này chỉ được thực hiện khi đã đến đơn vị được kiểm toán làm giảm sự phối hợp giữa các KTV.
3.3. Giai đoạn thực hiện kiểm toán
Do nhân sự của phòng KTNB đều là các kế toán nhiều kinh nghiệm nên trong quá trình kiểm toán, KTV đã có nhiều phương pháp kiểm toán có hiệu quả để phát hiện sai phạm, đóng góp cho đơn vị nhiều ý kiến hữu ích để nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính kế toán, nâng cao hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ.
KTV đã thiết kế được một hệ thống các thủ tục kiểm toán khá chi tiết bao gồm đối chiếu tổng quát giữa sổ sách và các báo biểu kế toán như: tiến hành kiểm tra chi tiết việc tính toán, tập hợp và phân bổ CPSXKD, đối chiếu với các phần hành có liên quan và tiến hành các thủ tục kiểm tra chi tiết thông qua việc chọn mẫu. Nhưng việc chọn mẫu còn bị chi phối bởi phán đoán nghề nghiệp của KTV mà chưa có một phương pháp chung nào được nghiên cứu kỹ lưỡng.
Giấy tờ làm việc của KTV được ghi chép khá chi tiết nên tạo ra cơ sở đánh giá cho ý kiến đánh giá của KTV.
Do TCT áp dụng hình thức kiểm toán theo khoản mục chứ không phải là theo quy trình nên tạo ra sự thuận lợi hơn cho các KTV trong quá trình thực hiện, công việc kiểm toán cũng được xác định cụ thể hơn.Mặc dù vậy, kiểm toán theo khoản mục cũng có những hạn chế nhất định. Đó là làm cho việc liên kết giữa các khoản mục gặp nhiều khó khăn, làm tăng khối lượng kiểm toán. Thêm vào đó, kiểm toán theo khoản mục ít chú ý đến đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. Mỗi khi thủ tục kiểm soát được tăng cường thì các số lượng các thủ tục kiểm tra chi tiết giảm xuống, tiết kiệm thời gian và chi phí kiểm toán. Các thủ tục kiểm tra chi tiết trong kiểm toán theo khoản mục thường tiến hành theo các TK nên tính lô gic chưa cao.
Việc áp dụng các thủ tục phân tích cũng chưa được chú trọng. Đây là một hạn chế rất lớn trong việc tổ chức thực hiện kiểm toán báo tài chính. Bởi vì, việc thực hiện các thủ tục phân tích sẽ giúp KTV có những nhìn nhận khái quát về tình hình CPSXKD rại TCT nói riêng và tình hình kinh doanh, tài chính nói chung.Việc thực hiện các thủ tục phân tích sẽ định hướng hoạt động kiểm toán, xác định hướng các sai phạm, hạn chế việc kiểm tra chi tiết đối với các mẫu không cần thiết.
Việc kiểm tra chi tiết được thực hiện trên mẫu chọn. Phần nhiều các mẫu được chọn dựa trên phán đoán nghề nghiệp của KTV. Nó có ưu điểm là thông qua việc đọc lướt để xác định các bút toán lạ, các nghiệp vụ bất thường đã hạn chế được tối đa rủi ro kiểm toán, đồng thời chọn được những mẫu mang tính đại diện cao.Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này chỉ phù hợp với tổng thể không quá lớn. Nếu số lượng nghiệp vụ phát sinh quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến việc rà soát, phát hiện ra nghiệp vụ lạ, có thể dẫn đến việc bỏ sót các nghiệp vụ bất thường, giảm hiệu quả của phương pháp chọn mẫu.
3.4 Giai đoạn kết thúc kiểm toán
Biên bản kiểm toán được lập trong giai đoạn này đã nêu được hầu hết nội dung cần thiết, đảm bảo đánh giá công việc của KTV cũng như hướng dẫn cho đơn vị cải tiến hoạt động của mình. Biên bản kiểm toán là tài liệu quan trọng lý giải các thông tin kế toán với cả các đối tượng bên trong và bên ngoài Công ty.
Công việc theo dõi sau kiểm toán cũng được thực hiện rất tốt tại Công ty. Đoàn kiểm toán không những luôn chú trọng đến việc điều chỉnh Biên bản kiểm toán mà còn trao đổi với lãnh đạo đơn vị nhằm hỗ trợ công tác theo dõi sau kiểm toán. Mỗi khi tiến hành kiểm toán kỳ tiếp theo, KTV tiến hành kiểm tra việc thực hiện kiến nghị của kiểm toán kỳ trước, những điểm được và chưa được cần giải quyết tiếp trong kỳ này.
Hồ sơ kiểm toán cũng được lưu giữ rất đầy đủ, đúng Quy chế bảo mật của TCT, khoa học về thời gian và nội dung kiểm toán tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cứu khi cần.
II. Sự cần thiết phải hoàn thiện tổ chức bộ máy và tổ chức công tác kiểm toán tại Tổng công ty Thành An.
1. Yêu cầu hoàn thiện về mọi mặt đối với kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty
Những năm trở lại đây, nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, Nhà nứơc đã kiên quyết từ bỏ cách thức điều hành và kiểm soát hoạt động của các Doanh nghiệp bằng biện pháp hành chính, thay vào đó là tập trung tạo dựng các khuôn khổ pháp lý và sử dụng có hiệu quả các biện pháp kinh tế. Nhưng bên cạnh đó, một vấn đề không kém phần quan trọng là từng Doanh nghiệp, từng tổ chức kinh tế cần phải hình thành và duy trì một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu, đặc biệt là hệ thống KTNB.
Các hình thức Doanh nghiệp ở nước ta không chỉ dừng lại ở hình thức Doanh nghiệp Nhà nước như trước đây, mà đã mở rộng sang các hình thức Doanh nghiệp khác. Đặc biệt với xu thế toàn cầu hoá hiện nay thì việc hoàn thiện hệ thống Doanh nghiệp trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Để Doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển một cách vững chắc theo hướng này, hoạt động kiểm toán trở nên vô cùng cần thiết. Ba hình thức kiểm toán tồn tại đã khẳng định được vai trò không thể thiếu của mình. ở đây, em chỉ xin đề cập đến loại hình KTNB. Đây là công cụ quản lý của các nhà lãnh đạo Doanh nghiệp để kiểm soát, đánh giá, phân tích tình hình hoạt động của Doanh nghiệp để đánh giá và điều chỉnh chiến lược kinh doanh cho có hiệu quả nhất. KTNB cũng là công cụ để phân tích, đánh giá chất lượng của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng KTNB là một nhu cầu tất yếu khách quan cho việc kiểm soát chất lượng hoạt động và đảm bảo chất lượng thông tin kinh tế, tài chính của bản thân Doanh nghiệp. Cùng với Nghị định 59/CP của Chính phủ quy định việc bắt buộc kiểm toán độc lập hoặc KTNB đối với BCTC của Doanh nghiệp. Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 832 TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997. Tuy nhiên, hoạt động KTNB vẫn còn là vấn đề phức tạp và còn khá mới mẻ ở nước ta. Thực hiện được những yêu cầu trên là một thách thức lớn lao đối với hoạt động kiểm toán non trẻ ở Việt Nam nói chung cũng như TCT nói riêng. Quy mô hoạt động của TCT ngày càng được mở rộng đồng nghĩa với việc nhiệm vụ của KTNB ở Công ty trở nên nặng nề hơn bao giờ hết. Để thích ứng với hoàn cảnh này, đòi hỏi tất yếu được đặt ra ở đây là KTNB Công ty phải không ngừng hoàn thiện sao cho phù hợp.Yêu cầu hoàn thiện tổ chức công tác kiểm toán Báo cáo tài chính nói chung cũng như chi phí sản xuất kinh doanh nói riêng tại Tổng Công ty Thành An
2. Yêu cầu hoàn thiện tổ chức công tác kiểm toán Báo cáo tài chính nói chung cũng như kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh nói riêng tại Tổng Công ty Thành An.
Do hoạt động kiểm toán tài chính ở Việt Nam mới hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường nên nó đặt ra cho hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán BCTC nói riêng những thuận lợi và khó khăn nhất định. Thuận lợi trước hết là do ra đời sau nên hoạt động kiểm toán BCTC ở nước ta kế thừa những thành quả của các nước đi trước. Nhưng bên cạnh đó, khó khăn còn rất nhiều để có thể hội nhập với hoạt động kiểm toán thế giới. Như vậy, vấn đề được đặt ra là kiểm toán Việt Nam phải tìm ra những phương pháp phù hợp để có thể theo kịp tiến trình phát triển của hoạt động kiểm toán thế giới, hoà nhập chứ không hoà tan, vừa đảm bảo tính tiên tiến, hiện đại, đồng thời phải phù hợp với đặc điểm riêng có của đất nước.
Để đạt được mục tiêu này, chúng ta phải nỗ lực rất nhiều mà một trong những nỗ lực đó là xây dựng và ban hành một Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán làm căn cứ cho hoạt động kiểm toán. Với những Chuẩn mực đã được ban hành và đang từng bước xây dựng mới và sửa đổi những chuẩn mực đã có sẽ góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quá trình phát triển của hoạt động kiểm toán.
Bên cạnh những thành tựu bước đầu đó, hoạt động kiểm toán nước ta vẫn còn không ít tồn tại. Có thể kể ra ở đây là nhận thức của các cấp ngành, những người có liên quan đến hoạt động kiểm toán làm hạn chế đáng kể việc phát huy tác dụng của hoạt động kiểm toán mà đặc biệt là KTNB. Không những thế, vai trò và chất lượng của Báo cáo kiểm toán chưa được đánh giá đúng mức và sử dụng phổ biến ở nước ta. Do nhiều nguyên nhân mà thông tin tài chính công khai vẫn chưa có sự tin cậy cần thiết của những người quan tâm.
Để khắc phục tình trạng này, trước tiên phải nâng cao nhận thức của mọi người về hoạt động kiểm toán, tiếp tục hoàn thiện và phát triển Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán và các văn bản pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, trên hết vẫn là hoạt động kiểm toán và các KTV phải tự hoàn thiện mình và đem lại niềm tin cho mọi người.
Hoàn thiện hoạt động kiểm toán chính là hoàn thiện từng bộ phận cấu thành của một cuộc kiểm toán trong đó phải kể đến một bộ phận quan trọng, đó là kiểm toán CPSXKD. Bởi như đã trình bày ở trên, CPSXKD là một chỉ tiêu quan trọng, ảnh hưởng đến nhiều chỉ tiêu khác trên BCTC, đồng thời cũng là chỉ tiêu luôn tồn tại rất nhiều sai phạm. Do đó, việc kiểm toán CPSXKD có khá nhiều vấn đề cần hoàn thiện để quá trình kiểm toán BCTC được tiến hành thuận lợi hơn.
III. Những phương hướng và giải pháp hoàn thiện hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh nói riêng tại Tổng công ty Thành An
Đối với TCT Thành An, do phòng KTNB được thành lập chưa lâu, quy trình kiểm toán nói chung cũng như CPSXKD nói riêng đang trong quá trình xây dựng. Do đó, những nhìn nhận, đánh giá, đề ra phương hướng để hoàn thiện hoạt động KTNB là vô cùng cần thiết. Đặc biệt, đây là một Doanh nghiệp có quy mô lớn trong lĩnh vực XDCB nên kiểm toán CPSXKD có vai trò quan trọng trong hoạt động kiểm soát chi phí để từ đó đề ra giải pháp quản lý tốt hơn, nâng cao tính cạnh tranh đưa Doanh nghiệp ngày càng đi lên.
Vì thế, với những kiến thức đã học và tham khảo thêm một số tài liệu, em xin mạnh dạn đề xuất một vài ý kiến đóng góp cho TCT Thành An.
1. Tổ chức bộ máy kiểm toán tại Tổng Công ty Thành An
Một trong những vấn đề có thể coi là rất quan trọng đặt ra với hoạt động KTNB tại TCT là thiếu lực lượng KTV nội bộ được đào tạo cơ bản và có trình độ chuyên môn nghiệp vụ đảm bảo thực hiện được công việc của KTV. Do đó, mặc dù cán bộ phòng KTNB đều là những người có kinh nghiệm về kế toán, song chính điều này lại chi phối đến nghề nghiệp kiểm toán, đó là kiểm toán theo quan điểm kế toán. Cách làm này tuy không sai nhưng mất nhiều thời gian và công sức. Do đó, nếu KTV tạo được thói quen nghề nghiệp kiểm toán thì vẫn có thể thu được kết quả tốt với thời gian, công sức ít hơn. Mặt khác, đây cũng là nhu cầu cấp thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động KTNB tại Công ty trước đòi hỏi của tình hình mới như đã đề cập ở trên bởi trình độ cũng như nhận thức nghề nghiệp của KTV là một trong những yếu tố quan trọng quyết định chất lượng của hoạt động KTNB.
Để giải quyết vấn đề này, một mặt KTV phải không ngừng học hỏi tích luỹ kinh nghiệm đồng thời tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ của Bộ tài chính và các Công ty kiểm toán độc lập tổ chức. Bên cạnh đó, Phòng KTNB thường xuyên mở các hội thảo nghề nghiệp, các lớp huấn luyện nâng cao tay nghề cho KTV nội bộ.
Đồng thời, để giảm bớt khối lượng công việc kiểm toán, tránh việc đưa kế toán viên Công ty tham gia vào hoạt động kiểm toán, Công ty cần đào tạo thêm KTV để tăng thêm nhân lực của phòng, nâng cao tính độc lập của KTV nội bộ TCT.
2. Tổ chức hệ thống giấy tờ làm việc trong quá trình kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh
Việc xây dựng một hệ thống giấy tờ làm việc hoàn chỉnh có một vai trò vô cùng quan trọng. Bởi vì giấy tờ làm việc của KTV không chỉ là phương tiện thể hiện nội dung các công việc kiểm toán mà còn là cơ sở cho các ý kiến của KTV, giấy tờ làm việc của KTV còn là căn cứ để đánh giá kết quả công việc kiểm toán cũng như việc kiểm soát chất lượng KTNB. Vì thế, việc xây dựng một hệ thống giấy tờ làm việc đầy đủ, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng kiểm toán.
Giấy tờ làm việc của KTV mặc dù đã chi tiết từng nội dung công việc song chưa thể hiện được sự liên kết các phần hành kiểm toán. Vì thế, KTV cần xây dựng một hệ thống tham chiếu chi tiết. Để thuận lợi cho hoạt động đối chiếu, hệ thống này phải dựa trên trình tự các khoản mục trong hệ thống TK kế toán, đối với mỗi loại TK, mỗi TK cần được mã hoá. Phương pháp này hoàn toàn phù hợp với cách tiếp cận kiểm toán BCTC theo khoản mục của phòng.
Để nâng cao chất lượng sử dụng của hệ thống giấy tờ làm việc cũng như đảm bảo việc tuân thủ nghiêm ngặt trong quá trình ghi chép trên hệ thống này cần đưa ra những quy định bắt buộc về việc này. Đồng thời, Trưởng đoàn kiểm toán cần thường xuyên kiểm tra, theo dõi và nhắc nhở các thành phần của đoàn hoàn thiện những giấy tờ làm việc trước khi kết thúc kiểm toán.
3. Quy trình kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty Thành An.
3.1. Giai đoạn lập kế hoạch chiến lược và bước lập kế hoạch chi tiết trong chuẩn bị kiểm toán
Đối với bất cứ một công việc gì thì kế hoạch là yếu tố quan trọng hàng đầu. Đối với kiểm toán cũng vậy. Kế hoạch kiểm toán đảm bảo cho công việc được tiến hành hiệu quả và đúng thời gian. Về cơ bản, có hai loại kế hoạch kiểm toán là kế hoạch chiến lược và kế hoạch chi tiết. Trong đó, kế hoạch chiến lược được lập cho một khoảng thời gian tương đối dài, thường là một năm. Còn kế hoạch chi tiết được lập cho từng cuộc kiểm toán.
Kế hoạch chiến lược ở Công ty mới chỉ dừng lại ở việc nêu rõ về thời gian chung cho từng đơn vị song lại chưa nêu rõ về mặt nhân sự. Để đảm bảo kế hoạch chiến lược phát huy tốt tác dụng thì kế hoạch kiểm toán chiến lược cần có sự phân công nhân sự cho từng cuộc kiểm toán cụ thể vì Đoàn kiểm toán của Công ty không chỉ bao gồm các thành viên của tổ mà có cả sự tham gia của một số cán bộ các phòng khác nữa. Hơn nữa, việc phân công nhân sự còn chưa chi tiết công việc cho từng thành viên trong đoàn và thời gian quy định đối với mỗi người để hoàn thành công việc đó. Đây là một nội dung rất quan trọng cần bổ sung cho kế hoạch kiểm toán vì khi biết rõ công việc mình cần làm và thời gian hoàn thành công việc thì KTV sẽ chủ động hơn, nâng cao tinh thần trách nhiệm của họ trong công việc, tạo cho họ một tác phong làm việc khoa học. Đồng thời, giúp trưởng đoàn kiểm toán đánh giá được điểm mạnh, điểm yếu, năng lực của từng người để sử dụng nhân sự một cách hợp lý.
Để tăng hiệu quả kiểm toán, khi phân công công việc cho các thành viên trong Đoàn, Trưởng đoàn kiểm toán phân công cho mỗi KTV thực hiện các phần hành có mối liên hệ với nhau để khi kiểm toán thuận lợi cho việc đối chiếu giữa các phần hành với nhau, tiết kiệm thời gian kiểm tra. Như kiểm toán phụ trách có thể phụ trách kiểm toán hàng tồn kho hoặc kiểm toán các khoản phải trả...
Trong bước lập kế hoạch kiểm toán, trưởng phòng kiểm toán có thể lập Đề cương kiểm toán chi tiết. Đề cương này đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc định hướng hoạt động nhất là trong hoàn cảnh hiện nay khi các KTV đều xuất phát từ các kế toán viên, hơn nữa thành phần Đoàn kiểm toán còn bổ sung thêm nhân sự từ các phòng ban khác nữa.
3.2. Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán
Công việc chiếm nhiều thời gian nhất trong Chuẩn bị kiểm toán là tìm hiểu về đơn vị được kiểm toán và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. Song khâu này vẫn chưa thực sự được chú trọng bởi nhiều yếu tố chủ quan mà một trong những lý do chính là do những đơn vị này đều là các đơn vị trực thuộc nên thông tin luôn có sẵn. Nhưng các KTV cần nhận thấy việc tìm hiểu thông tin và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ không chỉ cung cấp thông tin mà còn giúp KTV có định hướng kiểm toán rõ ràng, tiết kiệm thời gian và công sức của KTV, giúp KTV phát hiện các sai phạm trọng yếu mà không cần phải tiến hành kiểm tra trên một quy mô quá lớn như hiện nay.
Để làm được điều này, trước hết, KTV phải xây dựng một hệ thống thông tin đầy đủ và lưu lại trong hồ sơ của mình khi cần thiết có thể sửa đổi cho phù hợp với những biến động của đơn vị. Cụ thể, đối với hệ thống thông tin này cần chi tiết cho từng phần hành kiểm toán, trong trường hợp đây là kiểm toán CPSXKD thì thông tin mà KTV cần thu thập tại đơn vị bao gồm các nội dung như sau:
Thông tin về chính sách kế toán tại đơn vị:
Chế độ kế toán được thực hiện theo văn bản pháp quy nào; hình thức sổ kế toán áp dụng; áp dụng kế toán thủ công hay kế toán máy; niên độ kế toán; hệ thống các BCTC sử dụng tại đơn vị.
Đơn vị tiền tệ sử dụng tại đơn vị: đồng Việt Nam
Chính sách kế toán áp dụng đối với TSCĐ, cụ thể TSCĐ được xác định theo chỉ tiêu nào, phương pháp khấu hao là gì.
Chính sách kế toán áp dụng đối với hàng tồn kho bao gồm nguyên tắc đánh giá hàng tồn kho; Phương pháp kế toán hàng tồn kho; Phương pháp tính giá hàng tồn kho; Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang
Phương pháp ghi nhận doanh thu và chi phí
Thông tin về chi phí sản xuất sản phẩm:
Hoạt động quản lý sản xuất
Đặc điểm chi phí sản xuất sản phẩm
Quy trình công nghệ (nếu có)
Phương pháp kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm
Đánh giá sơ bộ tình hình tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh:
Việc đánh giá của KTNB mới chỉ dừng lại ở đánh giá kết quả SXKD so với kế hoạch. Một số nội dung cần bổ sung, đó là:
Đánh giá sơ bộ tình hình tài chính: tính toán và so sánh các tỷ suất tài chính so với kỳ trước và các đơn vị khác cùng ngành.
Đánh giá kết quả SXKD: tính toán và so sánh các chỉ tiêu so với năm trước và các đơn vị cùng ngành.
Hạn chế kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh:
Sau khi thu thập đầy đủ thông tin về đơn vị được kiểm toán, KTV tiến hành đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. Để có thể đánh giá chính xác hệ thống kiểm soát nội bộ, kết hợp với thông tin thu thập ở trên, KTV có thể sử dụng thêm các kỹ thuật như: mô tả, bảng sơ đồ, bảng câu hỏi kết hợp với phương pháp phỏng vấn, quan sát…
Trong kiểm toán CPSXKD, KTV có thể sử dụng một số câu hỏi sau:
Biểu 11: Bảng câu hỏi về hệ thống kiểm soát nội bộ đối với khoản mục chi phí sản xuất kinh doanh
STT
Nội dung câu hỏi
C
K
Ghi chú
1
Việc tuyển nhân viên, nâng cấp, nâng bậc có được lãnh đạo TCT phê duyệt không?
2
Bộ phận nhân sự có được thông báo thường xuyên về việc chấm dứt hợp đồng lao động không?
3
Người chấm công lao động có độc lập với kế toán tiền lương không?
4
Bảng thanh toán lương có được phê duyệt trước khi thanh toán bởi người có thẩm quyền hay không?
5
Có xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật về tiêu hao vật tư; định mức dự trữ nguyên vật liệu tồn kho hay không?
6
Có thiết lập dự toán chi phí vật liệu mà cụ thể là chi phí nhiên liệu không?
7
Có mở sổ theo dõi chi tiết chi phí vật liệu đặc biệt là chi phí nhiên liệu theo từng bộ phận sử dụng hay không?
8
Có thực hiện kiểm kê vật liệu tồn kho cuối kỳ không?
9
Có xây dựng dự toán chi phí công cụ, dụng cụ từng quý không?
10
Có tổ chức theo dõi công cụ, dụng cụ có giá trị lớn tại nơi sử dụng không?
11
Có tiến hành mở sổ theo dõi TSCĐ sử dụng tại từng bộ phận hay không?
12
Có tiến hành đối chiếu thường xuyên về TSCĐ giữa phòng kế toán và từng bộ phận hay không?
13
Có thiết lập dự toán chi phí dịch vụ mua ngoài không?
14
Có tiến hành đối chiếu thường xuyên chi phí dịch vụ mua ngoài với định mức và kế hoạch không?
15
Có thiết lập Dự toán đối với chi phí bằng tiền khác hay không?
KTV cũng có thể sử dụng lưu đồ về hệ thống kiểm soát nội bộ. Đây là hình thức biểu hiện hệ thống kiểm soát nội bộ bằng các ký hiệu. Nhờ đó, KTV có thể dễ dàng hình dung ra toàn bộ hệ thống cũng như mối quan hệ giữa các bộ phận, chứng từ, sổ sách…Tuy nhiên, việc mô tả theo cách này thường mất nhiều thời gian và đôi khi cũng nhận ra các yếu điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ tại đơn vị. Việc sử dụng bảng hệ thống câu hỏi thiết thực và phù hợp hơn đối với hệ thống kiểm soát nội bộ nơi đây.
Như vậy, bằng hình thức nào thì KTV cũng cần nghiên cứu và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị để đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát, làm cơ sở cho việc lựa chọn các phương pháp kiểm toán thích hợp .
Ngoài ra, KTV cũng nên chú trọng hơn tới việc đánh giá rủi ro kiểm toán. Bởi vì, xác định rủi ro kiểm toán là một trong những công việc quan trọng giúp cho việc lập kế hoạch kiểm toán cụ thể được tốt hơn, các thủ tục kiểm toán được thiết kế trong quy trình kiểm toán phù hợp hơn.
3.3. Giai đoạn thực hiện kiểm toán
Việc sử dụng các thủ tục phân tích: Các thủ tục phân tích thường được áp dụng là:
So sánh số liệu giữa các khoản mục trên BCTC, Báo cáo kế toán quản trị giữa kỳ này với kỳ trước, giữa thực hiện với kế hoạch nếu thấy có sự biến động không bình thường thì KTV nên tập trung vào những khoản mục đó để tìm hiểu và xem xét cụ thể để có những bằng chứng và những câu trả lời khả dĩ hơn.
Phân tích mối quan hệ giữa các chỉ tiêu hoặc các khoản mục chủ yếu trên các Báo cáo kế toán. Từ đó, giúp KTV nhận thấy những điều bất bình thường do sự biến động tỷ lệ quá lớn so với tỷ lệ trung bình của ngành hoặc so với tỷ lệ các kỳ trước của đơn vị. KTV sẽ xác định các vấn đề của cuộc kiểm toán cần tập trung tìm hiểu và thu thập các bằng chứng về chúng.
Đối với CPSXKD thì thủ tục phân tích xu hướng và phân tích tỷ suất thường được sử dụng. Việc phân tích này không chỉ thực hiện trong nội bộ đơn vị mà có thể đối chiếu với các đơn vị khác cùng trong Công ty, trong TCT.
Đồng thời các thủ tục kiểm toán này cần được ghi chép lại đầy đủ làm cơ sở pháp lý cho cuộc kiểm toán, là tài liệu mà KTV cung cấp cho lãnh đạo Công ty.
Về thực hiện kiểm tra chi tiết: Kiểm tra chi tiết là thủ tục chiếm nhiều thời gian nhất trong cuộc kiểm toán. Trên thực tế, KTV ít khi kiểm toán toàn diện mà thường kiểm tra trên mẫu đã chọn, để chọn được mẫu mang tính đại diện cao, KTV có thể lựa chọn các phương pháp chọn mẫu sau:
Chọn mẫu ngẫu nhiên có sử dụng Bảng số ngẫu nhiên: Đó là việc sử dụng các Bảng số ngẫu nhiên để chọn ra các nghiệp vụ đã được đánh số trước mà mỗi nghiệp vụ tương ứng với một con số duy nhất. Phương pháp này đơn giản và dễ thực hiện song nếu tiến hành thủ công thì sẽ mất khá nhiều thời gian và dễ nhầm lẫn.
Chọn mẫu ngãu nhiên theo chương trình máy vi tính: Sử dụng chương trình máy vi tính để chọn mẫu. Đây là phương pháp chọn mẫu tiết kiệm thời gian và giảm bớt sai sót trong mẫu.
Chọn ngẫu nhiên theo hệ thống: Đây là phương pháp chọn mẫu sao cho các phần tử trong tổng thể có khoảng cách đều nhau. Phương pháp này đơn giản, dễ làm, dễ sử dụng.
Tuy nhiên, việc chọn mẫu đối với số lượng mẫu quá lớn nếu tiến hành theo phương pháp 1 hoặc 3 mất khá nhiều thời gian nên có những hạn chế nhất định. Chỉ có phương pháp 2 là phù hợp .
3.4. Giai đoạn kết thúc kiểm toán
Giai đoạn kết thúc kiểm toán đã thiết kế đầy đủ các bước theo đúng quy định của TCT. Chỉ cần thực hiên theo đúng tất cả các bước này sẽ đảm bảo việc thực hiện các kiến nghị của kiểm toán cũng như lưu trữ toàn bộ hồ sơ kiểm toán phục vụ tốt cho niên độ kiểm toán sau.
IV. Điều kiện để thực hiện kiến nghị hoàn thiện công tác kiểm toán tại Tổng công ty Thành An
Các kiến nghị đều mang tính khả thi vì KTNB tại TCT đã có những tiền đề cần thiết.
Trước hết, đó là về phía Ban lãnh đạo TCT. Ban lãnh đạo luôn có sự quan tâm thích đáng, luôn tạo những điều kiện thụân lợi nhất cho hoạt động kiểm toán. Bên cạnh đó, Phòng KTNB còn có một đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực kế toán, các KTV này cũng luôn có ý thức tìm tòi học hỏi, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.
Tuy nhiên, để có thể thực thi một cách có hiệu quả cao nhất những giải pháp đã nêu thì cần có sự hỗ trợ hơn nữa của các bên có liên quan. Đó là từ phía TCT và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
1. Về phía Tổng Công ty
Trước hết là ban lãnh đạo Tổng Công ty, cần hỗ trợ như sau:
Quan tâm, trợ giúp đầy đủ, đúng lúc các hoạt động KTNB. Cung cấp đầy đủ các phương tiện và điều kiện vật chất cần thiết cho bộ phận KTNB. Các văn bản của Nhà nước, các công văn, quyết định của TCT cần phải được chuyển đến một cách đầy đủ, kịp thời cho KTNB.
Quan tâm thích đáng đến quyền lợi vật chất và tinh thần cho các KTV nội bộ.
Tuyển chọn, đào tạo và thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ tài chính kế toán, kiểm toán cho các KTV có đầy đủ tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước và TCT.
Hỗ trợ thích hợp về mặt pháp lý từ phía Ban lãnh đạo để đảm bảo rằng các kết quả kiểm toán cũng như các kiến nghị của KTV được xem xét và thực hiện một cách thích đáng.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động kiểm toán tại các đơn vị thành viên để đi sâu, đi sát, nắm vững tình hình, kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót, đề ra các biện pháp phù hợp để nâng cao chất lượng hoạt động KTNB.
Đối với các đơn vị trực thuộc và các phòng ban trong TCT cần phải phối hợp, tạo điều kiện cho Phòng KTNB thực hiện tốt công việc được giao. Đặc biệt là các phòng ban cần phối hợp với Phòng trong việc xây dựng nội dung, quy trình kiểm toán phù hợp với đặc điểm của đơn vị.
Một điều quan trọng nhất để áp dụng những kiến nghị trên vào thực tiễn hoạt động thì đối tượng trực tiếp chính là các KTV nội bộ. Phòng KTNB phải khai thác triệt để những thuận lợi về nhân sự của Phòng, sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo TCT cũng như các phòng ban, bộ phận trong TCT, không ngừng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới cũng như các đơn vị có tổ KTNB.
2. Về phía Nhà nước
Bộ tài chính chính là đơn vị tập trung quản lý đối với hoạt động kiểm toán, vì thế sự hỗ trợ của Bộ tài chính là không thể thiếu được. Cụ thể như sau:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy đối với hoạt động KTNB. Bộ cân xây dựng cho KTNB một hệ thống văn bản riêng để không phụ thuộc vào hệ thống Chuẩn mực nước ngoài cũng như Hệ thống chuẩn mực của kiểm toán độc lập.
Nâng cao trình độ cho các cán bộ tài chính.
Thi cấp chứng chỉ cho các KTV nội bộ.
Biên soạn các văn bản hướng dẫn cho hoạt động KTNB.
Với những sự phối hợp từ nhiều phía như trên là nhừng tiền đề thuận lợi để có thể khẳng định rằng tất cả các kiến nghị đã trình bày ở trên đều có cơ sở để đưa vào thực thi tại TCT Thành An.
Kết luận
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn quy trình kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh tại Tổng Công ty Thành An cho ta thấy kết quả kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh đóng vai trò vô cùng quan trọng trong kiểm toán Báo cáo tài chính vì khoản mục này cung cấp nhiều chỉ tiêu quan trọng đến các khoản mục trên báo cáo tài chính cho những người quan tâm. Việc lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh một cách chính xác, hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao và giảm rủi ro trong quá trình kiểm toán.
Sau khi tìm hiểu và nghiên cứu về việc thực hiện kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh do phòng kiểm toán nội bộ thuộc Tổng Công ty Thành An thực hiện, em cũng xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán chi phí sản xuất kinh doanh trong kiểm toán Báo cáo tài chính tại Tổng Công ty Thành An.
Mặc dù đã có nhiều tìm tòi và cố gắng nhưng do trình độ còn hạn chế nên bài viết còn nhiều thiếu sót không thể tránh khỏi. Vì vậy, em mong sẽ nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo Bộ môn kiểm toán nhà trường cũng như của các cô chú Kiểm toán viên và Kế toán viên Tổng công ty Thành An để em có thể hoàn thiện hơn nữa vốn kiến thức của mình.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Hồng Thuý và các cô, chú trong Phòng kiểm toán nội bộ thuộc Tổng Công ty Thành An!
Danh mục tài liệu tham khảo
Kiểm toán (tài liệu dịch)- Alvin Arens & James Kloebbecker (1995)- Nhà xuất bản Thống kê.
Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam- Bộ Tài chính (1999)
Kế toán tài chính (tài liệu dịch)- Kierral Colon (1997)
Lý thuyết kiểm toán- GS.TS Nguyễn Quang Quynh
Kiểm toán tài chính- GS. TS Nguyễn Quang Quynh
Thực hành kiểm toán- Jonh
Sổ tay kiểm toán- Nhà xuất bản Tài chính
Kiểm toán nội bộ- Nhà xuất bản Tài chính
Binh đoàn 11- Biên niên và sự kiện
Tìm hiểu về kiểm toán nội bộ ở Việt Nam- Nhà xuất bản Tài chính
Kiểm toán- Học viện tài chính Hà Nội
Phương pháp biện chứng tự nhiên- F. Ăng ghen- Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
Giáo trình Kế toán tài chính- Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Hệ thống các tạp chí:
- Tạp chí Kiểm toán
- Tạp chí Kinh tế Phát triển
- Tạp chí Dự báo kinh tế
- Tạp chí Kế toán
Mục lục
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36254.doc