Báo cáo Định hướng chiến lược năng lượng

Nhóm Ngân hàng Thế giới Báo cáo Định hướng Chiến lược Năng lượng (Bản dịch tham khảo) Mạng lưới phát triển bền vững Tháng 10/2009 Mục lục Danh sách các từ viết tắt ..................................................................................................... Báo cáo định hướng Chiến lược Năng lượng của Ngân hàng Thế giới .............................. Bối cảnh ................................................................................................................

pdf41 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 384 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Định hướng chiến lược năng lượng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.............. Các diễn tiến mới nhất và triển vọng .................................................................................. Chiến lược và hiệu quả ngành năng lượng của Ngân hàng Thế giới trong những năm gần đây ....................................................................................................................................... Mục tiêu và Phương pháp ................................................................................................... Phạm vi ............................................................................................................................... Đề xuất lĩnh vực hoạt động ................................................................................................. Lĩnh vực triển khai .............................................................................................................. Các bước xây dựng chiến lược ........................................................................................... Tham vấn ý kiến các bên .................................................................................................... Phụ lục 1: Phạm vi hoạt động của ngành năng lượng ......................................................... Phụ lục 2: Các nội dung ưu tiên của ngành năng lượng của các nước đối tác của Ngân hàng thế giới và đề xuất lĩnh vực tập trung của Ngân hàng Thế giới ................................. Phụ lục 3: Đề cương phát triển năng lượng ........................................................................ Phụ lục 4: Các nghiên cứu tổng quan ................................................................................. Tài liệu tham khảo .............................................................................................................. Hình minh họa Hình 1 Hoạt động liên quan đến năng lượng của Ngân hàng Thế giới Hình 2 Thất bại trong hoạt động của Ngân hàng Thế giới trong Năm tài khóa 03-09 tính theo viện nghiên cứu ........................................................................................................... Hình 3 Khung Chiến lược năng lượng ................................................................................ Hình 4 Tiếp cận Điện và Khí thải CO2............................................................................... Hình 5 Số giờ mất điện ....................................................................................................... Bảng Bảng 1 Khung thời gian của chiến lược năng lượng ......................................................... Danh sách các từ viết tắt CAS Chiến lược hỗ trợ quốc gia CEIF Khung đầu tư năng lượng sạch và phát triển CIF Quỹ đầu tư khí hậu CO2 các-bon đi-ô-xít CTF Quỹ công nghệ sạch DCCSF Phát triển và biến đổi khí hậu: Khung chiến lược cho Ngân hàng Thế giới EI công nghiệp khai khoáng EITI Sáng kiến Minh bạch trong các ngành công nghiệp khai khoáng FFT Nhiên liệu của tương lai FY năm tài khóa GDP tổng sản phẩm quốc nội GEF Quỹ Môi trường Toàn cầu GHG khí gây hiệu ứng nhà kính IBRD Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế IDA Hiệp hội Phát triển Quốc tế IEA Cơ quan Năng lượng Quốc tế IEG Nhóm Đánh giá Độc lập IFC Công ty Tài chính Quốc tế INFRA Chương trình Khôi phục Cơ sở hạ tầng và Tài sản MIGA Tổ chức Bảo lãnh Đầu tư Đa phương OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế QAG Nhóm Đảm bảo Chất lượng SIAP Chương trình Hành động vì Cơ sở hạ tầng Bền vững SREP Chương trình Phát triển các Nguồn năng lượng Tái sinh ở các nước đang phát triển WBG Nhóm Ngân hàng Thế giới Báo Cáo Định hướng Chiến Lược Năng Lượng Nhóm Ngân Hàng Thế Giới Báo cáo định hướng này hình thành nên cơ sở cho việc tham vấn để xây dựng chiến lược ngành năng lượng của Ngân Hàng Thế Giới (WBG) mà được dự kiến sẽ được trình bày trước Ban giám đốc điều hành WBG vào đầu năm 2011. Tiến trình tham vấn, dựa trên báo cáo định hướng này, sẽ được bắt đầu hoạt động liên tục vào tháng 5 năm 2010. Các ý kiến về báo cáo định hướng này được đưa ra sẽ hướng dẫn cho việc xây dựng chiến lược này. Bối cảnh 1. Năng lượng là thiết yếu cho sự phát triển kinh tế và giảm nghèo. Cung cấp dịch vụ năng lượng, đặc biệt là cho người nghèo, góp phần vào thành tích đạt được các Mục tiêu thiên niên kỷ. Không có năng lượng, các nền kinh tế không thể tăng trưởng và đói nghèo chẳng thể giảm được. Năng lượng là một đầu vào quan trọng cho tất cả các ngành kinh tế, cung cấp nhiên liệu cho việc vận chuyển hàng hóa và người và cung cấp điện cho ngành công nghiệp, thương mại, nông nghiệp, và các dịch vụ xã hội quan trọng như giáo dục và y tế. Tuy nhiên, nhiều nước đang phát triển đối mặt với sự thiếu nguồn cung điện, gây cản trở hoạt động kinh doanh và giảm tăng trưởng. Hàng trăm triệu hộ gia đình tiếp tục dựa vào việc sử dụng truyền thống các nhiên liệu rắn để nấu ăn và đốt nóng, thiếu sự tiếp cận điện, hoặc chịu đựng cả hai trạng. Những hộ gia đình này- và đặc biệt là các phụ nữ và trẻ em của những hộ này- chịu mức độ khói độc hại cao gây nguy hiểm và mất đi các cơ hội nâng cao thu nhập. 2. Việc cung cấp điện không đủ và không đáng tin cậy tác động tới nhiều nước đang phát triển, đặc biệt là các nước ở khu vực Châu Phi hạ Sahara và Nam Á. Hậu quả là làm giảm năng suất, tính cạnh tranh và việc làm của doanh nghiệp, và hạn chế nghiêm trọng đối với hoạt động và tăng trưởng kinh tế. Có lượng dân số lớn không được tiếp cận với điện ở các nước nghèo hơn thuộc khu vực Châu Á và Châu Mỹ La tinh, cũng như ở các khu vực nông thôn và cận nông thôn của các nước có thu nhập trung bình như Pê-ru và Phi-líp-pin. Nghèo năng lượng ở khu vực Châu Phi hạ Sahara đặc biệt trầm trọng: tính bình quân đầu người, công suất phát điện trong khu vực này chỉ bằng khoảng 1/10 công suất ở các khu vực có thu nhập thấp khác. Không ngạc nhiên, khoảng 30 nước Châu Phi đang chịu các giai đoạn thiếu điện thường xuyên và sa thải phụ tải. Để cân bằng cung và cầu, mở rộng truyền tải qua biên giới phục vụ cho hoạt động thương mại khu vực, và tăng 10% tỷ lệ điện khí hóa, Châu Phi hạ Sahara cần một khoản đầu tư trị giá 40 tỷ Đô la Mỹ tương đương với 6,4% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Hiện nay, khu vực mới chỉ đầu tư khoảng 11 tỷ Đô la Mỹ hàng năm, tương đương với ¼ so với yêu cầu thực tế, để lại lỗ hổng tài chính hàng năm khoảng 30 tỷ Đô la Mỹ. Có nhiều người ở Nam Á cũng không tiếp cận được điện như ở Châu Phi hạ Sahara, hầu hết trong số họ ở Ấn Độ. Tiệu thụ điện trên đầu người ở Nam Á là thấp nhất chỉ sau Châu Phi hạ Sahara. Thiếu nguồn cung đã dẫn đến việc nhiều công ty tự mình phát điện. Chính Phủ Ấn Độ trước đó đã đặt ra mục tiêu điện khí hóa trên cả nước vào năm 2012, nhưng mục tiêu này dường như không thể đạt được vì sự trì hoãn việc bổ sung công suất mới – nước này chỉ mới lắp đặt thêm một nửa công suất điện so với mục tiêu trong ba (03) kế hoạch năm năm liên tiếp từ năm 1992 đến năm 2007- và vì những nút thắt cổ chai chưa được tháo gỡ. Thiếu điện không chỉ ảnh hưởng đến các nước có thu nhập thấp mà còn ảnh hưởng đến nhiều nước có thu nhập trung bình, bao gồm Ai Cập, Kazakhstan, Paraguay, và Nam Á. 3. Một thách thức chủ yếu mà các chính phủ ở hầu hết các nước đang phát triển phải đối mặt là làm thế nào để nâng cao tính đáng tin cậy và khả năng cung cấp đủ năng lượng trong khi đưa ra các dịch vụ năng lượng hiện đại mà tất cả người dân có thể tiếp cận và có khả năng tài chính để chi trả (phụ lục 1-3). Dựa trên nhu cầu năng lượng lớn chưa được đáp ứng và kinh nghiệm gần đây về sự thay đổi giá năng lượng, đảm bảo việc cung cấp năng lượng ở các mức giá hợp lý đã tạo thành một giai đoạn trọng tâm trong việc hoạch định chính sách năng lượng. Vượt qua được thách thức này sẽ cần có sự huy động vốn- để làm tăng cơ sở cung cấp và nâng cao hiệu quả cung cấp và sử dụng năng lượng- trên quy mô mà nhiều nước đang phát triển chưa thể huy động cho tới nay. Giải quyết vấn đề thiếu công suất cung cấp là cơ sở hạ tầng năng lượng hoạt động tốt sau vòng đời thiết kế của chúng và cần thay thế khẩn cấp. 4. Tăng trưởng kinh tế liên tục-cần thiết cho giảm nghèo- và nhu cầu năng lượng kéo theo sẽ có kết quả mang tính toàn cầu. Nền kinh tế thế giới được đặt mục tiêu tăng trưởng gấp bốn (04) lần đến năm 2050 và, nếu không có những thay đổi mang tính chuyển hóa cả về nhu cầu năng lượng và sự thải khí CO2 liên quan đến năng lượng sẽ gấp hơn hai (02) lần (IEA 2008). Người nghèo ở các nước đang phát triển sẽ chịu tác động trước tiên và nhiều nhất từ sự biến đổi khí hậu, trong khi họ lại chỉ là những người gây ra và có thể giải quyết sự biến đổi đó ít nhất. Có một sự xác nhận ngày càng rõ ràng rằng các chính sách tiết kiệm năng lượng và năng lượng có sự thải khí gây hiệu ứng nhà kính (GHG) thấp là cần thiết để đáp ứng được các nhu cầu năng lượng trong tương lai một cách bền vững (phụ lục 4). Các biện pháp này, thông qua việc giải quyết các nguồn năng lượng không đủ và đang bị ô nhiễm, nói chung là cũng giúp giảm nhẹ các vấn đề môi trường địa phương liên quan đến việc sử dụng năng lượng. Bên cạnh đó, tăng thu nhập sẽ làm tăng sức ép đối với việc làm giảm dần các nguồn năng lượng, tăng chi phí cung cấp năng lượng. 5. Đáp ứng các nhu cầu năng lượng của các nước đang phát triển và ngăn chặn sự nóng lên toàn cầu đòi hỏi có sự hành động và sự hợp tác tăng cường toàn cầu. Dựa trên bằng chứng khoa học hiện có về tốc độ biến đổi khí hậu, thì sự chuyển đổi sản xuất và tiêu thụ năng lượng toàn cầu là một mệnh lệnh. Các nước phát triển, đã góp phần lớn vào số lượng hiện nay của GHG, cần phải đi đầu và làm giảm sự thải khí GHG đáng kể. Tiêu thụ năng lượng và sự thải GHG liên quan đến năng lượng trên đầu người ở thế giới đang phát triển là các phần của những hoạt động này ở những nước có thu nhập cao. Tuy nhiên, sau một thời gian dài, IEA dự đoán rằng, nếu các chính sách hiện nay vẫn tiếp tục được duy trì, thì việc thải khí CO2 liên quan đến năng lượng tại các nước không phải là thành viên của OECD – hiện đang ngang hàng với việc thải khí của các nước thuộc OECD- sẽ gấp hai (02) sự thải khí ở các nước OECD vào năm 2030. Thậm chí nếu tất cả các hoạt động thải khí từ các nước phát triển chấm dứt, thì một sự thay đổi về đường cong thải khí của thế giới đang phát triển vẫn sẽ cần làm cho ổn định nồng độ GHG toàn cầu ở mức được cho là Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu có thể quản lý được. Các cân nhắc vốn góp cần có sự chuyển nhượng công nghệ và tài chính lớn cho các nước đang phát triển trong nỗ lực quốc tế để hạn chế sự thải khí GHG. IEA ước tính rằng tổng chi phí lợi nhuận thu được từ việc giảm sự thải khí GHG từ việc sử dụng năng lượng ở các nước không phải là thành viên của OECD để hạn chế nồng độ CO2 trong thời gian dài ở mức 550 phần triệu (ppm) sẽ tính trung bình là 85 tỷ Đô la Mỹ một năm trong suốt giai đoạn 2010-2030 và 230 tỷ Đô la Mỹ cho mức 450 ppm (IEA 2008). Năng lượng bền vững đòi hỏi phải có nỗ lực chung trong thời gian dài của nhiều người hoạt động trong các ngành công nghiệp, tài chính, chính phủ, và các tổ chức quốc tế, nhưng vẫn đang được giải quyết với các khung chính sách và tài chính ngắn hạn mà không được điều chỉnh theo quy mô của thách thức. 6. Trái ngược với bối cảnh này Ngân hàng Thế giới đang xây dựng một chiến lượng năng lượng mới. Các nước đang phát triển cần năng lượng nhiều hơn và sạch hơn để vượt qua nghèo đói và để đặt họ trên con đường tăng trưởng mạnh. Trọng tâm của cuộc thảo luận về tương lai của năng lượng toàn cầu là làm thế nào để mở rộng các nguồn cung và sự tiếp cận năng lượng cho những người nghèo của thế giới theo những cách thức mà đáp ứng được các nhu cầu của cả thế hệ hiện nay và tất cả các thế hệ trong tương lai. Chiến lược năng lượng mới sẽ giải quyết cách mà WBG có thể cân đối các nhu cầu cạnh tranh, thúc đẩy sự hiệp lực, và giải quyết các lựa chọn. Những diễn tiến mới nhất và triển vọng 7. Một vài diễn tiến gần đây và xu hướng tương lai đang thay đổi tầm quan trọng của các vấn đề cơ bản trong ngành năng lượng ở các nước đang phát triển. 8. Nhiều nước đang phát triển – bao gồm hầu hết tất cả các nước có sự tiếp cận năng lượng thấp – đang trải qua các giai đoạn thiếu điện hoặc sẽ trải qua tình trạng này trong vài năm tới. Các chi phí cho nền kinh tế thiếu điện khá lớn (phụ lục 2). Một nghiên cứu ước tính rằng chi phí trung bình lên tới 2,1% GDP ở khu vực Châu Phi hạ Sahara, và rằng các tổn thất cho các doanh nghiệp vào các hoạt động bán hàng bị hủy bỏ và trang thiết bị thiệt hại là trung bình tương đương 6% doanh thu của các công ty trong khu vực chính, và khoảng 16% doanh thu của các doanh nghiệp thuộc khu vực không chính thức mà thiếu sự phát điện hỗ trợ cho chính mình (Eberhard và những người khác 2008). 9. Nếu các xu hướng hiện nay vẫn còn tiếp diễn, dưới một nửa các nước ở Châu Phi hạ Sahara sẽ có được sự tiếp cận điện như nhau vào năm 2050 và mặc dù số lượng kết nối và số lượng người không được tiếp cận điện ngày càng tăng sẽ thực tăng đến năm 2030. Châu Phi hạ Sahara có tỷ lệ cao không cân đối hộ gia đình không được tiếp cận điện. Tỷ lệ tiếp cận trung bình thấp hơn một nửa tỷ lệ đó ở Nam Á, khu vực có tỷ lệ tiếp cận thấp thứ hai. Thậm chí các hộ gia định được tiếp cận điện thường trải qua nhiều giờ thiếu điện, gây tác động bất lợi đến các hoạt động kinh doanh, giáo dục ở nhà trường và các hoạt động thiết yếu khác của họ. Các giai đoạn thiếu điện ngày càng tăng đối với các hộ gia đình đã kết nối được điện đã làm tăng thêm khoảng cách đối với các nỗ lực thu hẹp khoảng cách tiếp cận hiệu quả. Kết quả cuối cùng đang làm giảm tiến độ đạt được các Mục tiêu thiên niên kỷ. Đối với dân số này, sự ưu tiên cao nhất là nhiều năng lượng hơn. 10. Sự đô thị hóa nhanh trên khắp thế giới đang phát triển sẽ tác động đến các nỗ lực làm tăng sự tiếp cận. Sự di cư từ nông thôn ra thành thị sẽ làm tăng sự tập trung vào sự kết nối điện mạng lưới trong những thập kỷ tới. Theo Liên Quốc, dân số thành thị ở những nước đang phát triển sẽ tăng gần hai (02) tỷ người từ năm 2000 đến 2030 và vượt dân số nông thôn là 850 triệu người. Thực tế, dân số nông thôn sẽ giảm ở tất cả các lĩnh vực thu nhập ngoại trừ ở các nước có thu nhập thấp (UN-Habitat 2007). Trong khi mở rộng sự tiếp cận ở các khu vực thành thị và cận thành thị tốn ít chi phí hơn đối với mỗi sự kết nối số với ở các khu vực nông thôn, thì việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng tại các khu vực có thu nhập thấp ngày càng tăng trưởng nhanh và các khu vực định cư thành thị không chính thức sẽ là một thách thức. Và mặc dù có sự đô thị hóa đang diễn ra, thì ước tính vẫn sẽ có thêm khoảng 125 triệu người ở các khu vực nông thôn vào năm 2030 so với năm 2000, đòi hỏi cần có sự chú ý liên tục đến sự điện khí hóa ở nông thôn. 11. Một bài học rõ ràng rút ra từ sự việc tăng giá dầu giai đoạn 2004-2008 là tầm quan trọng của đa dạng hóa danh mục đầu tư năng lượng, tích cực theo đuổi các biện pháp để nâng cao hiệu quả năng lượng, và tầm quan trọng của việc được chuẩn bị tốt hơn cho sự biến động cao giá năng lượng và các cú sốc có thể xảy ra trong tương lai. Giá dầu thế giới trung bình là 29 Đô la Mỹ trong giai đoạn 1999-2001 (theo Đô la Mỹ năm 2008), so với 97 Đô la Mỹ năm 2008. Khi chiến lược năng lượng WBG hiện đang được xây dựng, thì việc tăng giá năng lượng không nằm trong các vấn đề cấp bách được xem xét. Tăng giá năng lượng tới giữa năm 2008 đã tạo ra một động lực cho một số nước cân nhắc việc dựa nhiều hơn vào sự phát điện từ đốt than. Các chính phủ hỗ trợ giá năng lượng đã đối mặt với sự tăng các hóa đơn hỗ trợ năng lượng. IEA (2008) ước tính rằng hỗ trợ năng lượng ở 20 nước lớn nhất không phải là thành viên của OECD đã đạt tới 310 tỷ Đô la Mỹ vào năm 2007. Giá năng lượng cũng trở lên biến động hơn – 2008 là năm biến động nhất đối với giá dầu. Giá năng lượng cao và biến động tạo ra một thách thức để chuyển đổi các hộ gia đình đang từ sử dụng truyền thống năng lượng sinh khối và than để nấu ăn và đốt nóng sang sử dụng năng lương thương mại hiện đại. Trong ngắn hạn, giá thấp và hạn chế tài chính sẽ làm giảm đầu tư. Với sự phục hồi kinh tế, công suất dự phòng sẽ bắt đầu giảm dần và việc cung cấp dầu có thể bắt đầu thắt chặt trở lại, đưa thị trường dầu thê giới vào một chu kỳ mới. Những thay đổi lớn về giá năng lượng ảnh hưởng đến các chi phí tương đối của công nghệ, và sự biến động giá là một trong những cản trở lớn nhất đối với phát triển năng lượng thay thế. 12. Thời gian và chiều sâu của khủng hoảng tài chính sẽ ảnh hưởng đến việc cung cấp năng lượng trong tương lai cũng như hiệu quả tiêu thụ năng lượng. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang khiến cho một số dự án bị trì hoãn và hủy bỏ. Đầu tư giảm khiến cho việc đáp ứng tất cả nhu cầu tương lai – khi nền kinh tế toàn cầu bắt đầu hồi phục- khó khăn hơn, kìm hãm sự tăng trưởng, đặc biệt khi các nước có thu nhập thấp thì việc này có thể làm trì hoãn thêm các biện pháp để làm giảm sự nghèo năng lượng. Trong ngành năng lượng, tính tới quý đầu của năm 2009, đầu tư vào năng lượng tái sinh giảm theo tỷ lệ nhiều hơn so với ở các dạng khác. Về mặt cầu, thì các doanh nghiệp và các hộ gia đình đang đầu tư ít hơn vào các dụng cụ, phương tiện và thiết bị hiệu quả năng lượng (IEA 2009). Cuộc khủng hoảng tài chính và hệ quả dẫn đến sự giảm cầu năng lượng và giá nhiên liệu, tạo ra nhịp thở để nâng cao hiệu quả của ngành và chuẩn bị cho sự tăng trưởng nhu cầu trong tương lai. Các chính phủ có thể nắm bắt cơ hội này để xây dựng các chính sách linh hoạt với sự biến động giá năng lượng, xóa bỏ hỗ trợ giá thoái lui, và đưa ra các bước để cải thiện chất lượng đầu tư vào ngành. 13. Một cấu trúc tài chính mới để quan tâm đến việc giảm nhẹ và thích nghi với sự biến đổi khí hậu đang tiến triển. Tính chất và mức độ của các thỏa thuận quốc tế trong tương lai về việc giảm nhẹ và các cơ chế tài chính liên quan để giúp các nước đang phát triển theo đuổi con đường hướng tới các hoạt động có lượng các bon thấp hơn hiện đang được thảo luận. Tháng 12 năm 2007, các bên tham gia Công ước khung về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc đã thông qua Kế hoạch hành động Bali để thúc đẩy việc thực hiện Công ước, theo đó các nước đang phát triển sẽ cân nhắc các hoạt động giảm nhẹ thích hợp mang tính quốc gia trong ―bối cảnh phát triển bền vững có sự hỗ trợ và tạo khả năng thực hiện của công nghệ, hoạt động cấp vốn và xây dựng năng lực.‖ Trong khi một cấu trúc tài chính mới đang được xây dựng, thì việc quan trọng đối với WBG là giúp các nước đang phát triển tận dụng được lợi thế tối đa của các công cụ hiện có như là GEF, nhiều quỹ các bon liên quan đến Cơ chế phát triển sạch và cùng thực hiện, Quỹ hỗ trợ trao đổi Các bon (Quỹ Đối tác Các bon) để có những thỏa thuận mua khí thải sau năm 2012, và các CIF. Quỹ lớn nhất thuộc quỹ chung CIF là Quỹ công nghệ sạch (CTF) cấp vốn cho việc thực hiện, triển khai, và chuyển nhượng các công nghệ hàm lượng các bon thấp có tiềm năng lớn về tiết kiệm GHG dài hạn và đáp ứng được các mục tiêu phát triển đất nước. Một quỹ khác thuộc quỹ chung CIF là Chương trình Phát triển các Nguồn năng lượng Tái sinh ở các nước đang phát triển (SREP), giai đoạn cuối cùng của chương trình thiết kế. 14. Tóm lại, môi trường bên ngoài đã thay đổi đáng kể, với những tác động có ảnh hưởng sâu rộng cho ngành năng lượng. Trước tiên, thị trường năng lượng toàn cầu đã không dự đoán cũng không được chuẩn bị cho tình hình gần đây nhất về giá nhiên liệu thế giới cao và sự biến động giá phần lớn do sự co giãn nhanh giữa cung và cầu. Các dấu hiệu đó là mô hình này dường như sẽ lại xảy ra trong thập kỷ tới. Thứ hai, biến đổi khí hậu được xác nhận ngày càng tăng là một phần của chương trình phát triển, kết nối ngành năng lượng và nhiều ngành khác và đòi hỏi tính chọn lọc lớn hơn trong sự lựa chọn đầu tư và công nghệ. Thứ ba, giảm đầu tư vào năng lượng- ngành cần nhiều vốn nhất- do khủng hoảng tài chính toàn cầu đang ảnh hưởng đến sự tập trung vào việc đầu tư không đủ làm giảm sự tăng trưởng kinh tế tương lai. Đầu tư tăng lên trong ngành này được xem như là một cách để cung cấp cứu trợ ngắn hạn cho tình hình suy giảm kinh tế và để giải quyết các nhu cầu phát triển dài hạn. Thách thức đó là đáp ứng các yêu cầu năng lượng của một nền kinh tế hiện đại và tạo sự tiếp cận cho tất cả người dân ở mức giá có thể chi trả được theo các phương thức bền vững. Chiến lược ngành năng lượng của Ngân hàng thế giới và các kết quả thực hiện trong những năm gần đây 15. Chiến lược năng lượng WBG hiện nay bao gồm chiến lược môi trường năm 1999 cho ngành năng lượng, Nhiên liệu tương lai (WBG 1999, dưới đây là FFT), và một chiến lược 2001 không chính thức có tiêu đề: ―Chương trình năng lượng của Ngân hàng Thế giới: giảm nghèo, tính bền vững, và tính chọn lọc‖ (WBG 2001, dưới đây gọi là chiến lược năng lượng 2001). Khung đầu tư năng lượng sạch và phát triển (CEIF) được xây dựng năm 2006, đã đặt ra một lộ trình cho việc tăng sự tiếp cận và giảm nhẹ việc thải GHG (WBG 2006). Gần đây hơn, WBG đã đính kèm 02 tài liệu mà sẽ có một tác động đáng kể đối với các hoạt động tương lai của ngành năng lượng: ―Chương trình Hành động vì Cơ sở hạ tầng Bền vững‖ (SIAP) và Phát triển và biến đổi khí hậu: Khung chiến lược cho Ngân hàng Thế giới (DCCSF) (WBG 2008a và 2008b). 16. FFT đã đưa ra sáu (06) mục tiêu chiến lược cho các lĩnh vực được quản lý theo cả ngành năng lượng và môi trường của WBG. Ba mục tiêu trong số đó là về tính bền vững môi trường của việc sản suất và sử dụng năng lượng, một (01) trong số đó là về việc làm giảm ô nhiễm không khí trong nhà và sức ép lên đất và ngành lâm nghiệp, một (01) về làm giảm ô nhiễm không khi đô thi do sự đốt cháy nhiên liệu, và mục tiêu cuối cùng là về xây dựng năng lực cho việc quản lý môi trường. FFT đã đặt ra một số mục tiêu, nhiều mục tiêu trong số đó là cụ thể cho các hoạt động của WBG, đã đạt được bắt đầu trong năm tài chính 2008 (FY08) và muộn là vào năm 2015. 17. FFT đã nêu rằng, mặc dù phạm vi và quy mô của nó tương đối nhỏ, nhưng WBG đã đặt mục tiêu đi đầu xu thế hướng tới việc sử dụng năng lượng bền vững hơn. Chiến lược này dựa trên đánh giá của WBG rằng cách tốt nhất để thúc đẩy tiến độ về các vấn đề môi trường toàn cầu là để giúp các khách hàng của chúng tôi giải quyết được các vấn đề ưu tiên quốc gia-đặc biệt là những vấn đề khi mà sự đóng góp cho việc giảm nghèo và các mục tiêu phát triển khác là rõ ràng và tương đối ngay lập tức, và do đó có sự cam kết địa phương mạnh mẽ đối với sự giảm nghèo. Chiến lược này cũng khẳng định lại sự hỗ trợ tiếp tục của WBG cho các dự án với các lợi ích toàn cầu khi mà cần có thêm các chi phí bổ sung được hỗ cấp đầy đủ từ các nguồn quốc tế như GEF. 18. Một số mục tiêu cụ thể được nêu trong FFT đã đạt được; đáng chú ý là trong số các lĩnh vực có tiến độ chậm hơn là lĩnh vực buôn bán năng lượng trong khu vực. WBG đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng lại nhiên liệu, đặc biệt là ở Châu Phi và Châu Mỹ La tinh và các vùng Ca-ri-bê, và dần dần loại trừ chì trong xăng trên khắp thế giới. Các sáng kiến toàn cầu, hỗ trợ kỹ thuật, và các dự án cho vay đang giải quyết việc đốt khí, thúc đẩy sự thăm dò và sản xuất hợp lý về mặt môi trường các nhiên liệu hóa thạch, và sự phục hồi các cơ sở và các khu vực đã chị xuống cấp. Tiến độ trong việc thực hiện các lợi ích của việc buôn bán năng lượng qua biên giới là chậm, thể hiện những khó khăn của việc phối hợp các công ty cung cấp năng lượng và các chính phủ trên khắp lãnh thổ quốc gia và cũng đang phản ánh các tác động của việc làm gia tăng sự rút ra khỏi ngành năng lượng của WGB cho tới năm 2003 (phụ lục 5). Đối với việc giảm nhẹ tác động có thể xảy ra của việc sử dụng năng lượng đối với biến đổi khí hậu, WBG cũng đã tích cực tham gia với GEF tại thời điểm của FFT. Một năm sau đó, quỹ tài chính các bon đầu tiên được thành lập, và số lượng quỹ và các cơ sở các bon đã tăng đến con số 12 với tổng danh mục đầu tư kinh doanh trị giá lên tới 2 tỷ Đô la Mỹ. 19. Chiến lược năng lượng 2001 đã xác định bốn (04) nghiệp vụ hoạt động kinh doanh – giảm nghèo trực tiếp, ổn định tài chính và vĩ mô, quản trị và phát triển khu vực tư nhân, và tính bền vững môi trường- và đã đặt ra các mục tiêu 10 năm. Không giống như FFT, tất cả các mục tiêu được đặt ra theo chiến lược năng lượng 2001 là các mục tiêu toàn cầu ở mức độ cao, không cần thiết được kết nối trực tiếp với các hoạt động của WBG. Các mục tiêu làm tăng sự tiếp cận điện, làm giảm cường độ thải khí CO2 và giảm cường độ năng lượng đã đạt được. Dường như đạt được tiến độ tốt trong việc lập nên bộ máy quản lý ngành. Tuy nhiên, không đạt được tiến độ nào trong việc giảm gánh nặng ngân sách của ngành điện, tăng sự tham gia của khu vực tư nhân, và có hay hay nhiều nhà cung cấp điện, khí tự nhiên, hoặc cả hai cho những người sử dụng thuộc ngành công nghiệp để lựa chọn. Trong tất cả các trường hợp, có sự chênh lệnh lớn trong khu vực (Phụ lục 6). Một bài học đang rút ra, thống nhất với các đánh giá do Nhóm đảm bảo chất lượng (QAG) thực hiện (QAG, một đơn vị nội bộ được thành lập để thực hiện các đánh giá chất lượng của những hoạt động được lựa chọn trong suốt quá trình chuẩn bị và thực hiện) và Nhóm Đánh giá Độc lập (IEG) (IEG, một bộ phận độc lập báo cáo trực tiếp cho Ban giám đốc điều hành của Ngân hàng Thế giới đánh giá sự liên quan và tác động của hỗ trợ của WBG cho các nước khách hàng) đó là có thể còn vội vã để đưa ra các mục tiêu cao như vậy cho việc cải cách ngành khi năng lực tổ chức cơ bản còn yếu. 20. Mô hình cải cách ngành điện trong những năm 1990 bao gồm – tách ra, thành lập một bộ phận quản lý độc lập, và để cho khu vực tư nhân sở hữu và hoạt động chuỗi cung cấp, đã có được những kết quả tổng hợp. Có một sự xác nhận rộng khắp về nhu cầu phát triển các phương pháp tiếp cận phù hợp với tình hình cụ thể của các nước cá nhân. Một đánh giá IEG 2003 về kinh nghiệm của WBG với sự tham gia tư nhân vào ngành năng lượng vào những năm 1990 thấy rằng các kết quả tốt có thể đạt được khi có quyền sở hữu khách hàng và một cam kết chính trị được duy trì đối với sự phát triển khu vực tư nhân. Các kết quả còn kém khi mà có nhiều mục tiêu và Ngân hàng Thế giới đã đánh giá thấp tính phức tạp và thời gian cần thiết để kéo dài các hoạt động cải tổ. IFC và MIGA đã phản ứng với nhu cầu thị trường đối với việc tạo năng lượng mới, đã tập trung vào một mục tiêu tham gia của khu vực tư nhân, và đã đạt được các kết quả chung tốt ở cấp dự án. Một đánh giá năm 2006 các bài học rút ra từ việc cải cách thị trường điện ở các nước đang phát triển đã nhấn mạnh vào nhu cầu làm cho việc cải cách thị trường điện thích nghi với các điều kiện ban đầu và đã thảo luận về các điều kiện khác nhau có thể ảnh hưởng như thế nào đến việc thiết kế các chương trình cải cách điện (Besant-Jones 2006). Đầu tư tư nhân vào ngành điện ở các nước đang phát triển đã tăng một cách nhanh chóng tới năm 1997 (chủ yếu chảy vào Đông Á và Châu Mỹ La tinh) nhưng sau đó lại giảm mạnh cho tới khi có sự phục hồi lớn vào năm 2007; suy thoái toàn cầu hiện nay khiến cho việc tiếp cận vốn của khu vực tư nhân trở lên khó khăn hơn. 21. Vai trò của WBG trong các ngành công nghiệp khai khoáng đã thu hút được sự chú ý trên toàn cầu. Từ năm 2001 đến 2003, WBG đã thực hiện một đánh giá toàn diện về việc tham gia của mình vào ngành công nghiệp khai khoáng (EI) để trả lời những câu hỏi về việc liệu xem sự tham gia đó có thống nhất với các mục tiêu phát triển bền vững và giảm nghèo của WBG hay không. Dầu, khí, và khai mỏ cung cấp một nguồn thu nhập đáng kể cho hàng chục nước giàu nguồn tài nguyên – nhiều nước trong số họ là nước nghèo- thực hiện sự quản lý nguồn tài nguyên hiệu quả và phê duyệt các chính sách cận nghèo quan trọng. Phản ứng của ban quản lý đối với Đánh giá ngành công nghiệp khai khoáng đã được Ban giám đốc điều hành của WBG phê duyệt trong năm 2004, đã khẳng định rằng WBG cần duy trì việc tham gia vào các ngành công nghiệp khai khoáng và cam kết WBG có thể là lực chọn trong phương pháp tiếp cận của nó, với sự tập trung lớn hơn vào những nhu cầu của người nghèo và các quyền của những người bị ảnh hưởng bởi các đầu tư EI, nhấn mạnh hơn vào sự quản trị và tính minh bạch, và hỗ trợ lớn hơn cho việc giảm nhẹ các rủi ro xã hội và môi trường (WBG 2004). Từ năm 2005, WBG đã báo cáo hàng năm về tiến độ trong việc thực hiện của mình. Một số các khuyến nghị chính của nó, chẳng hạn như liên quan đến hỗ trợ cộng đồng rộng lớn như là một yêu cầu đối với sự tham gia của WBG vào các dự án EI, đã được tổng hợp trong các chính sách của WBG. IFC đã làm việc với các nhà đầu tư trong dự án mà nó hỗ trợ để giúp đảm bảo rằng các cộng đồng hưởng lợi từ các dự án, như thông qua việc hỗ trợ cho các chương trình ―liên kết‖ giúp mở rộng sự tham gia của các doanh nghiệp địa phương vào các dự án EI. IFC đã thành lập CommDev, một cơ sở nhằm mục đích hợp tác với các đối tác để phát triển và giúp cho việc thực hiện các phương pháp tiếp cận thực hành tốt cho các cộng đồng và các đầu tư EI. Trong chính sách của mình, Ngân hàng Thế giới đã đưa ra phần lớn nhiều sự chú ý hơn vào sự quản trị EI, bao gồm hỗ trợ Sáng kiến Minh bạch trong các ngành công nghiệp khai khoáng (EITI) – một sự liên kết giữa các chính phủ, công ty, nhóm xã hội dân sự, các nhà đầu tư và các tổ chức quốc tế đòi hỏi các công ty dầu, khí, và khai mỏ ở thượng nguồn phải công khai những gì mà họ phải trả và các chính phủ phải công khai những gì họ nhận – và gần đây hơn, đề cập đến các vấn đề trong suốt chuỗi giá trị EI thuộc EITI++. 1 Về vấn đề môi trường toàn cầu, thì Hiệp hội cắt giảm tiêu dùng gas (GGFR) đã và đang hỗ trợ các nỗ lực quốc gia để sử dụng khí bắt lửa hiện nay bằng việc giả... và phát điện); cấp điện lưới và ngoài lưới bao gồm việc quy hoạch phân phối sản xuất và truyền tải để tích hợp năng lượng tái sinh vào quá trình cấp lưới điện; giảm tổn thất kỹ thuật và tổn thất thương mại trong quá trình phân phối và truyền tải cũng như mở rộng hoạt động phân phối và truyền tải; tăng cường tính hiệu quả trong việc cung cấp năng lượng trung tâm; bước đầu sản xuất điện từ khí quy mô lớn cũng như quy mô nhỏ (phụ lục 11); thương mại năng lượng và hội nhập các thị trường năng lượng khu vực; và quản l ý nhu cầu năng lượng (nhu cầu của người dân, nhu cầu thương mại, nhu cầu sử dụng năng lượng trong nông nghiệp, giao thông, công nghiệp). Việc đa dạng hóa các nguồn năng lượng có thể tăng cường tính ổn định của việc cung cấp năng lượng. Các công cụ hiện có trong ngành năng lượng để phục vụ người nghèo bao gồm các thỏa thuận thương mại như hợp tác xã, các hình thức cấp vốn cho các cơ sở sản xuất điện và khí tự nhiên vì người nghèo, và tạo điều kiện cho người dân có khả năng chi trả cho các chi phí phân phối năng lượng thông qua các mạng lưới. Về lĩnh vực dầu khí, kinh nghiệm của một số nước cho thấy việc trợ giá lớn cho các sản phẩm dầu khí làm cho cung không đáp ứng cầu và giá "chợ đen" của các sản phẩm này tăng vọt, giảm khả năng đảm bảo năng lượng cho người dân nghèo tạo khu vực nông thôn. Việc trợ giá dầu phổ biến với giá trị lớn còn ngăn chặn sự xâm nhập của các biện pháp giúp đem lại hiệu quả cao và các nguồn năng lượng tái sinh mới. Điều này cho thấy cần phải cải cách chế độ trợ giá. 42. Tận dụng sự phối hợp. Tìm kiếm các nguồn tài trợ từ quốc tế để giảm chi phí tăng thêm. Thường xuyên phối hợp giữa việc tăng cường tính ổn định và quyền sử dụng và các công cụ các bon thấp để đạt được mục đích này. Việc tăng cường tính ổn định cung cầu và sử dụng hiệu quả sử dụng năng lượng tái sinh trong các ứng dụng ngoài lưới biện pháp khả năng là các ví dụ về sự phối hợp này. Các yếu tố khách quan sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng. Không một quốc gia nào luôn chọn các công nghệ carbon thấp vì chúng không phải lúc nào cũng là những lựa chọn tốn ít chi phí nhất, hơn nữa khả năng tài chính rất quan trọng, ngay cả ở những nước phát triển và đặc biệt là đối với người nghèo ở những nước đang phát triển. Khẳng định tại FFT, WBG sẽ tiếp tục duy trì quan điểm rằng WBG sẽ giúp các nước tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế với mức giá cao hơn với sự hỗ trợ toàn cầu nhằm tăng cường quyền sử dụng và tính ổn định của nguồn cung cấp năng lượng nếu chi phí tăng thêm được bù đắp bằng các nguồn vốn trên toàn thế giới. Nếu nguồn vốn tài trợ cho biến đổi khí hậu cho tất cả các nước đang phát triển càng nhiều—liên quan chặt chẽ tới kết quả thành công của các đàm phán toàn cầu về khí khậu—thì khả năng hỗ trợ cho các giải pháp năng lượng thay thế thân thiện với môi trường của WBG càng lớn. 43. Hưởng ứng các lựa chọn trong trường hợp hợp l ý. Một ví dụ về một lựa chọn thu hút sự chú ý là việc sản xuất điện từ than đá. Tại một số nước, việc cung cấp điện sản xuất từ than đá với phụ tải cơ bản (loại điện năng này liên tục được sản xuất để đáp ứng các nhu cầu cơ bản; xem phụ lục 3) rẻ hơn nhiều so với bất cứ nguồn sản xuất điện nào khác. Mặc dù loại điện năng này có mức giá khá hấp dẫn nhưng quá trình đốt cháy than đá thường thải ra nhiều khí GHG trên mỗi đơn vị điện sản xuất hơn bất cứ nhiên liệu nào khác. Và vẫn sẽ có những trường hợp trong đó quỹ khí hậu toàn cầu có thể làm thu hẹp khoảng cách giá cả giữa than đá và một nhiên liệu thay thế với độ tập trung GHG nhỏ hơn rất nhiều, tuy nhiên điều này không phải là lúc nào cũng có thể làm được. Cho đến nay, những nước nhỏ hơn và nghèo hơn—với khả năng đa dạng hóa năng lượng hạn chế và dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động về giá dầu—là những nước ít có khả năng tiếp cận các nguồn tài trợ đó. Trong bối cảnh hiện nay, DCCSF đã kết luận rằng WBG có thể sử dụng các công cụ cấp vốn truyền thống để hỗ trợ các nước là khách hàng của mình trong việc triển khai các dự án điện than mới trong những điều kiện nhất định (xem Hộp 1). Chiến lược sẽ đề cập chi tiết về cách thức áp dụng các lựa chọn có thể xem xét trích trong DCCSF vào thực tiễn. Về lĩnh vực khai thác than đá, bên cạnh việc thu được và sử dụng khí mêtan trong các tầng than đá, từ FY03 nguồn vốn tài trợ của WBG cho hoạt động khai thác than đá truyền thống chỉ chiếm 0,2% trong toàn bộ các hoạt động của WBG về năng lượng. Phản hồi của ban lãnh đạo ngân hàng về Bản đánh giá ngành công nghiệp khai khoáng sẽ giúp định hướng cho WBG trong việc hỗ trợ ngành khai thác than đá. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của WBG đối với ngành khai thác than đá còn phụ thuộc vào ảnh hưởng của sự phát triển và tính nhất quán toàn diện với các chiến lược phát triển trong nước và khu vực. 44. Tính đến những ảnh hưởng của việc cung cấp và sử dụng năng lượng đối với môi trường và xã hội. Môi trường bền vững đòi hỏi phải có sự hỗ trợ cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng (cả cung và cầu), bảo toàn năng lượng, các dự án đầu tư về năng lượng với sự phát tán khí GHG có vòng đời thấp, các hệ thống quản l‎ý môi trường, giảm sử dụng khí gas, giảm thiểu sự phát tán và thải các chất gây ô Hộp 1. Các yếu tố cần xem xét khi tham gia vào việc sản xuất điện từ năng lượng than đá. DCCSF đã kết luận rằng WBG có thể sử dụng các công cụ cấp vốn truyền thống của mình để hỗ trợ cho các công ty là khách hàng của mình để triển khai các dự án điện than mới bằng cách xem xét các yếu tố sau: (1) Dự án có ảnh hưởng tích cực rõ ràng nhiễm tại địa phương, xử l ý chất thải có tính đến các yếu tố ô nhiễm môi trường (như tro bay). WBG triển khai một số sáng kiến, chương trình, và các quan hệ hợp tác để giải quyết các vấn đề này (phụ lục 7). Ngoài ra việc tính đến các yếu tố xã hội cũng rất quan trọng, kể cả yếu tố giới trong phát triển ngành năng lượng. Các hoạt động của WBG trong ngành năng lượng sẽ tiếp tục tập trung vào sự tham gia của cộng đồng và đảm bảo phụ nữ, các nhóm dân tộc thiểu số, người bản địa, và các đối tượng khác được tham gia vào quá trình hoạch định chính sách phù hợp và được hưởng lợi từ sự phát triển của ngành năng lượng. Trong tình hình hiện nay khi nhu cầu cấp vốn cho các dự án Ê-ta-nôn và dầu diesel sinh học mà ngành năng lượng và ngành nông nghiệp nhận được ngày càng tăng, thì chiến lược cũng sẽ xem xét, phối hợp với lĩnh vực nông nghiệp của WBG, đến thời điểm và cách thức để ngành năng lượng có thể xem xét tham gia vào các nhiên liệu sinh học. Trong quá trình đó, cần xem xét kỹ những rủi ro tiềm ẩn đối với môi trường và xã hội của các nhiên liệu sinh học: áp lực giá thực phẩm ngày càng tăng, tăng sự cạnh tranh về đất và nước và sự thay đổi mục đích sử dụng đất có thể làm tăng những lợi ích về khí GHG đem lại từ việc thay thế nhiên liệu hóa thạch. bao gồm tăng cường sự an toàn năng lượng nói chung, giảm tình trạng thiếu điện, hoặc tăng cơ hội sử dụng cho người nghèo. (2) Việc xác định và lập các dự án carbon thấp đang được hỗ trợ. (3) Các nguồn năng lượng được đa dạng hóa, xét về khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước thông qua việc bảo toàn năng lượng và tính hiệu quả sử dụng năng lượng. (4) Sau khi xem xét tất cả các nguồn năng lượng thay thế có thể phát triển đến các lựa chọn tốn ít chi phí nhất (bao gồm các tác động tới môi trường) và khi các nhà tài trợ không cung cấp thêm vốn cho phần chi phí tăng thêm. (5) Các dự án than sử dụng công nghệ phù hợp nhất hiện có sẽ được thiết kế nhằm đem lại hiệu quả cao và, do đó, giảm cường độ xả khí GHG. (6) Phương pháp phối hợp các tác động khách quan đối với môi trường trong việc phân tích dự án sẽ được xây dựng. 45. Hỗ trợ các nước trong nỗ lực chuyển đổi sang hướng cường độ khí GHG thấp. Vì năng lượng được sử dụng trong hầu hết các ngành, điều này đòi hỏi có sự phối hợp giữa các ngành ở cấp quốc gia. Nâng cao ý thức—về các lựa chọn năng lượng chiếu sáng hiệu quả hoặc có thể tái tạo khi xây dựng các trường học và cơ sở y tế mới, và tính toán hợp l ý đến sự phát thải khí GHG trong quá trình xây dựng các bộ luật xây dựng, các tiêu chuẩn về tính hiệu quả của phương tiện và của ngành, khi đưa ra một vài ví dụ điển hình—sẽ là những bước hết sức quan trọng. Cần có sự tham gia của khu vực tư nhân, điều này càng cho thấy sự cần thiết của việc tạo ra một môi trường thuận lợi. WBG sẽ chú trọng đến việc hỗ trợ xây dựng các chính sách (định giá, điều tiết, khuyến khích) cần thiết, tận dụng quỹ khí hậu chuyên dụng, phát triển các tổ chức, và tận dụng tối đa các cơ chế cấp vốn bổ sung. Một khía cạnh quan trọng mà WBG tham gia là giúp các nước tiếp cận cơ chế và các nguồn vốn tài trợ toàn cầu, cũng như giúp cơ cấu các gói tài trợ, điều này làm cho các khoản đầu tư với các khoản trợ cấp biến đổi khí hậu trở nên cạnh tranh và hấp dẫn hơn về mặt tài chính. Cấu trúc cấp vốn tiên tiến nhằm giảm thiểu sự biến đổi khí hậu đòi hỏi WBG phải tiếp tục duy trì tính linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ và các chương trình của mình. Và dù các cơ chế nhằm giảm sự phát thải khí GHG cuối cùng sẽ được nhất trí, giá thực tế của các bon có thể sẽ tăng. Trong tình hình hiện nay khi chứng khoán vốn trong ngành năng lượng có tuổi thọ kinh tế khá dài, thì cần suy nghĩ về các ảnh hưởng của các tình huống giá khác nhau đối với các kế hoạch đầu tư hiện tại và trong tương lai. WBG có thể giúp các nước đánh giá các chính sách và chiến lược trong những tình huống khác nhau, kể cả việc tập trung vào việc đánh giá tiềm năng về năng lượng hiệu quả và các lựa chọn năng lượng tái sinh. Một số nước là khách hàng của WBG đang xem xét việc sản xuất năng lượng hạt nhân như một lựa chọn trong cán cân năng lượng của mình, và đang xin WBG hỗ trợ để phân tích lựa chọn này như một phần trong chiến lược năng lượng tổng thể của mình. Khi có yêu cầu từ các chính phủ của các nước là khách hàng của mình, WBG sẽ đáp lại trong bối cảnh các chương trình phân tích ngành năng lượng quốc gia. Tuy nhiên, vì tính chất phức tạp của các vấn đề (về mặt kinh tế, tài chính, môi trường, xã hội, độ an toàn và khả năng hạn chế các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt), thay vì xây dựng năng lực nội bộ trong lĩnh vực này, phương pháp của WBG là xây dựng các mối quan hệ hợp tác chiến lược về tri thức với các tổ chức hàng đầu và các trung tâm học thuật uy tín có khả năng trong lĩnh vực này, và sử dụng các quan hệ hợp tác để phản hồi lại các yêu cầu của khách hàng. WBG sẽ tiếp tục duy trì chiến lược của mình là không cấp vốn cho lĩnh vực sản xuất năng lượng hạt nhân. 46. Dựa vào DCCSF, WBG sẽ tiếp tục phát triển và áp dụng các phương pháp phân tích khí GHG. WBG tập trung vào việc tạo điều kiện tiếp cận cho, và sử dụng hiệu quả, nguồn vốn khí hậu bổ sung và giúp xác định các cơ hội kinh doanh mới. Ngân hàng đang làm việc chặt chẽ với khách hàng và các tổ chức trong nước—trên cơ sở hội ý với các tổ chức xã hội dân sự và các ngân hàng phát triển đa phương khác—để phát triển và thí điểm các phương pháp phân tích sự phát thải khí GHG trong ngành năng lượng, vận tải, và lâm nghiệp dựa trên nhu cầu. Chương trình thí điểm sẽ được mở rộng thành một quỹ dự án lớn hơn phục vụ các mục đích học tập và trao đổi thông tin. Một phương pháp ngày càng phổ biến là đưa việc phân tích khí GHG, tập trung vào lượng phát thải thực tế của một dự án, vào quá trình đánh giá những tác động phát triển của dự án đó và đánh giá những lựa chọn nếu được áp dụng. Từ tháng 2/2009 IFC đã tiến hành việc tính toán toàn bộ lượng phát thải khí GHG, và những bài học kinh nghiệm của IFC sẽ giúp định hướng cho chiến lược. 47. Phát triển công nghệ vì môi trường bền vững tại địa phương và trên toàn thế giới. Cần có những bước đột phá quan trọng về công nghệ—nhằm mục đích dự trữ năng lượng để sản xuất điện từ năng lượng tái chế (phụ lục 3), tập trung năng lượng mặt trời, tách và chôn CO2—để đưa nền kinh tế thế giới vào định hướng vì môi trường bền vững trong thế kỷ tới. Ngoài ra, cần hỗ trợ phát triển những công nghệ đặc biệt phù hợp với những nước đang phát triển. Mặc dù từ trước đến nay WBG đã không tài trợ cho những công nghệ phi thương mại, hiện tại WBG đang tiếp tục hợp tác với GEF nhằm giúp áp dụng những công nghệ tương đối mới đòi hỏi những khuyến khích đặc biệt phải mang tính cạnh tranh về mặt thương mại, hoặc những công nghệ đã được thử nghiệm ở những nơi khác tuy nhiên lại hoàn toàn mới đối với nước ta, về những tác động xúc tác. Làm thế nào để WBG có thể đóng góp hiệu quả nhất vào việc thúc đẩy công nghệ sạch phát triển ở những nước đang phát triển—bao gồm môi giới kiến thức, hợp tác Nam-Nam, và hợp tác với các ngân hàng trong khu vực—sẽ là những vấn đề chính mà chiến lược năng lượng sẽ phải tính đến. 48. Giúp đạt được hiệu quả tài chính và hiệu quả hoạt động mạnh mẽ, đây là điều kiện tiên quyết để đạt được hai mục đích song song. Hoạt động của ngành năng lượng có thể được cải thiện bằng cách nâng cao tính hiệu quả của việc cung cấp năng lượng, giảm tổn thất thương mại và tổn thất kỹ thuật trong các ngành khí đốt và điện, hướng tới mục đích thu hồi chi phí, và áp dụng các ưu đãi lớn hơn. Cần phải xây dựng thiết chế. Mô hình nhà nước và nhân dân cùng làm đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả tài chính của ngành. 49. Xóa bỏ chính sách trợ giá năng lượng. Những chính sách trợ giá phổ thông với giá trị lớn làm cho nền kinh tế khó đạt được sự bền vững về mặt tài chính. Việc từng bước xóa bỏ các chính sách trợ giá lớn đòi hỏi phải luôn duy trì cam kết tài chính. Một chiến lược dựa trên sự phân tích lành mạnh về sự thông báo hiệu quả của bên thắng và bên thua với các bên liên quan để chứng minh rằng lợi ích vượt xa chi phí, và một kế hoạch đáng tin cậy để bảo vệ người nghèo có thể giúp đạt được cam kết đó. WBG có thể hỗ trợ các chính phủ trong việc bảo vệ cho người nghèo thông qua việc thiết kế các chương trình bảo vệ và, trong trường hợp phù hợp, các chính sách hỗ trợ hiệu quả. Theo IEG (đoạn 26), việc cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng có thể giúp giảm bớt gánh nặng chuyển sang cơ chế giá thị trường. 50. Giúp tăng cường công tác quản l ý. Quản l ý hiệu quả là cơ sở vững chắc để ngành năng lượng đạt được hiệu quả hoạt động mạnh mẽ. Kinh nghiệm trong ngành năng lượng tại những nước đang phát triển trong nhiều thập kỷ cho thấy việc nâng cao cơ chế quản l ý doanh nghiệp, luật, và quản l ý thị trường (đặc biệt theo định hướng thương mại) đóng vai trò quan trọng (Besant-Jones 2006). Bản báo cáo định hướng này đề nghị WBG nâng cao nỗ lực để tăng cường công tác quản l ý các dịch vụ công cộng của doanh nghiệp; giúp các chính phủ và các cơ quan nhà nước xây dựng các khuôn khổ tài chính, hợp đồng, pháp l ý, quy chế; điều chỉnh hiệu quả ngành năng lượng và nâng cao công tác quản l ý thị trường; thu thập dữ liệu một cách hệ thống; và phổ biến thông tin—chính sách, quy chế, cung cầu năng lượng, giá, thuế, hỗ trợ cho các doanh nghiệp năng lượng và những khoản nợ tùy thuộc đối với nhà nước—cho cả nhà đầu tư và dân chúng. Cải cách thiết chế và cải cách ngành bằng cơ chế quản l ý hiệu quả đã và đang là nội dung nghị sự từ trước đến nay trong ngành năng lượng, tuy nhiên tại nhiều nước tiến trình cải cách khá chậm. Công tác hỗ trợ cho chiến lược năng lượng sẽ đánh giá những kinh nghiệm từ trước đến nay và xem xét các phương pháp khác nhau trong các tình huống khác nhau để kiến nghị WBG hỗ trợ trong tương lai. 51. Hỗ trợ các nước giàu tài nguyên trong việc quản l ý các ngành công nghiệp khai khoáng trong toàn chuỗi giá trị. Các nhà xuất khẩu hyđrô các bon có uy tín phải đối mặt với một cơ hội và thách thức duy nhất. Mức thu nhập ngày càng tăng từ dầu so với các nguồn năng lượng khác khiến cho các nước trở nên quá lệ thuộc vào dầu, tuy nhiên giá dầu rất biến động và không thể dự báo trước dẫn đến thu nhập của các nước cũng thay đổi, điều này dẫn đến cả chính phủ và nền kinh tế đều phụ thuộc vào sự bùng nổ và suy thoái vốn luôn bất ổn. Việc tập trung dòng thu nhập như thu nhập dầu có xu hướng dẫn đến tình trạng quyền lực chính trị thuộc về số ít, tăng tính cạnh tranh để giành được nhiều tài nguyên, dễ dẫn đến cơ chế kế toán và phân bổ tài nguyên thiếu minh bạch và nuôi dưỡng tham nhũng. Trước thực trạng này, bộ phận năng lượng của Ngân hàng đang làm việc với các nhà kinh tế vĩ mô để tăng cường sự hỗ trợ để nâng cao hiệu quả quản l ý trong lĩnh vực khai thác hyđrô các bon và quản l ý thu nhập thông qua Sáng kiến EITI++. Các khía cạnh của quá trình triển khai 52. Bất cứ chiến lược ngành nào cũng cần tận dụng tối đa lợi thế cạnh tranh của WBG. Việc Ngân hàng Thế giới có khả năng mang các bài học kinh nghiệm từ các nơi trên toàn thế giới về cách thức để nâng cao hiệu quả của ngành và những tư vấn chính sách của chúng tôi thường được coi là lợi thế cạnh tranh của WBG. IFC có những lợi thế cạnh tranh như kỹ năng kỹ thuật, chuyên môn bảo vệ xã hội và môi trường, mạng lưới toàn cầu, và là thành viên của WBG. Những lợi thế cạnh tranh của MIGA là kiến thức về các nước và các ngành của tổ chức này, mạng lưới toàn cầu, các dịch vụ hòa giải và giải quyết tranh chấp, và là thành viên của WBG. Chiến lược sẽ đánh giá các vai trò khác nhau mà các tổ chức của WBG có thể đảm nhiệm theo đúng với những lợi thế, khả năng cụ thể của mình và những kẽ hở thị trường, và làm thế nào các tổ chức này có thể tương trợ lẫn nhau một cách tốt nhất. Chiến lược cũng sẽ đánh giá những điểm mạnh tương đối và tính bền vững của các công cụ của WBG trong các hoàn cảnh khác nhau và phân tích những lợi thế cạnh tranh và sự phân chia lao động có thể giữa các đối tác phát triển khác bao gồm các cơ quan của Liên Hợp Quốc. 53. WBG sẽ tận dụng hiệu quả vai trò bổ sung của khu vực nhà nước và khu vực tư nhân. Khu vực tư nhân có khả năng cung cấp lượng vốn cần thiết cũng như chuyên môn kỹ thuật và quản l ý, và giúp giảm bớt gánh nặng tài chính đối với nhà nước. Tuy nhiên, thông thường để hấp dẫn và duy trì được đầu tư tư nhân đòi hỏi phải có một khuôn khổ pháp l ý cho phép tạo ra một sân chơi bình đẳng và trong đó hợp đồng được các bên tôn trọng. Trong số các nước tìm hỗ trợ tài chính từ khu vực tư nhân, những nước đã thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc cải tổ ngành năng lượng có khả năng hấp dẫn đầu tư tư nhân hơn và dựa trên những điều khoản chặt chẽ hơn. WBG sẽ cung cấp vốn và tư vấn nhằm khuyến khích và hỗ trợ trong việc xây dựng các khuôn khổ pháp l ý hiệu quả và giúp các nước tạo ra một môi trường thuận lợi để hấp dẫn đầu tư tư nhân, tận dụng lợi thế cạnh tranh của WBG trong việc cung cấp kinh nghiệm và các bài học từ nhiều lĩnh vực và nhiều thỏa thuận đầu tư và quản l ý. 54. Quản l ý tri thức là một lợi thế cạnh tranh ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với cả ba tổ chức. Vào cuối những năm 90 và đầu thế kỷ 21 các hoạt động của các tổ chức này trong ngành năng lượng giảm, điều đó có nghĩa là không nhất thiết phải duy trì kỹ năng duy trì lợi thế cạnh tranh của nhân viên. Các hoạt động xây dựng và chia sẻ tri thức có thành công hay không chủ yếu phụ thuộc vào chất lượng của sản phẩm—các sản phẩm tri thức có chất lượng cao sẽ rất cần thiết và được công chúng chấp nhận hơn. Từ thế kỷ 21, cần nâng cao kỹ năng để vừa thúc đẩy hoạt động của WBG về năng lượng tái tạo và hiệu quả sử dụng năng lượng và tăng cường quản l ý tri thức. Những biến động gần đây về giá cả và những gián đoạn trong việc cung cấp trong ngành năng lượng càng nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách và tư vấn kỹ thuật kịp thời. WBG cũng ngày càng đóng vai trò là một nhà môi giới tri thức để chuyển giao tri thức trong hợp tác Nam-Nam. Chiến lược năng lượng sẽ nghiên cứu cách thức để tăng cường quản l ý tri thức và thích ứng với những ưu tiên luôn thay đổi trong hoạt động của WBG. 55. Hợp tác trong và ngoài WBG có thể tăng tính hiệu quả của chúng tôi. SIAP nhấn mạnh tầm quan trọng của việc WBG tận dụng nguồn vốn hạn chế của mình kết hợp với nguồn vốn tài trợ bổ sung từ khu vực tư nhân và các nguồn viện trợ, và tận dụng các sản phẩm giúp giảm thiểu rủi ro tài chính và giảm chi phí. GEF, ngân quỹ các-bon và Quỹ công nghệ sạch có thể hỗ trợ một danh mục đầu tư lớn, như những công cụ tài chính hiện đại ví dụ: các đảm bảo và các hoạt động tại địa phương của WBG—từ năm 1997, những đảm bảo của IDA đã tạo điều kiện cho những nước nghèo phát triển nguồn vốn IDA hạn chế của mình lên gấp 10 lần thông qua việc cấp vốn cho dự án. Sự phối hợp của các nhà tài trợ thông qua hình thức đồng tài trợ có thể cũng hấp dẫn, nhất là vì thủ tục đấu thầu và các chính sách bảo vệ và những ứng dụng của chúng khác nhau giữa các tổ chức (phụ lục 12). Việc hợp tác với các trường đại học và các nhóm chuyên gia cố vấn cũng có thể giúp tăng cường quản l ý tri thức. Chiến lược năng lượng sẽ rút ra các bài học kinh nghiệm trong quá trình IEG đánh giá các chính sách bảo vệ của WBG cũng như kinh nghiệm của chúng tôi với các nhà tài trợ khác trong thời gian sắp tới. Được xây dựng dựa trên một báo cáo gần đây của Hội đồng Quản trị về sự hợp tác giữa IDA và IFC, chiến lược năng lượng sẽ tìm hiểu về cách thức những chính sách khuyến khích sự tương tác giữa các tổ chức (cũng như liên ngành) và tạo sự phối hợp trong các cơ hội kinh doanh trong các tổ chức của WBG, kể cả thông qua Ban thư k ý của IDA/IFC— gần đây được xây dựng trong nội bộ WBG với mục đích nâng cao sự hợp tác giữa Ngân hàng thế giới và IFC tại các nước có dự án của IDA— có thể tăng cường hiệu quả hoạt động toàn diện của WBG. Các bước xây dựng Chiến lược 56. Nhóm xây dựng chiến lược năng lượng sẽ tiếp tục đánh giá hiệu quả hoạt động của WBG bằng cách rà soát các Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia và Hỗ trợ Đối tác5 để xem xét các vấn đề về năng lượng đã được bàn bạc như thế nào trong các chương trình quốc gia, các báo cáo mới của IEG và QAG, dữ liệu về các loại hình cho vay và kết quả, bản tự đánh giá của các nhân viên, và các ý kiến đã được đưa ra và các thông tin được thu thập trong suốt giai đoạn tư vấn bên ngoài. Chúng tôi sẽ tổng hợp và thảo luận về các bài học kinh nghiệm để định hướng cho chiến lược. Các chiến lược ngành khác và đánh giá của IEG về kinh nghiệm của WGB trong các dự án phát triển công nghệ năng lượng tái sinh và hiệu quả sử dụng năng lượng trong thời gian sắp tới sẽ là những vấn đề quan trọng mà chiến lược cần tính đến. 57. Chiến lược năng lượng sẽ đưa ra một khung kết quả với số lượng chỉ số đo đạc cụ thể dựa trên một định nghĩa chung để tạo điều kiện cho việc so sánh giữa các quốc gia và đánh giá việc triển khai chiến lược. Một số bản đánh giá của IEG về ngành năng lượng đã nhấn mạnh sự cần thiết của việc tăng cường công tác giám sát và đánh giá. Chúng tôi sẽ xây dựng một khung kết quả và các chỉ số giám sát mới cho 4-5 năm tới 5 Trong một vài năm gần đây, hầu hết các Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia dành cho các nước IBRD là các Chiến lược Hợp tác Quốc gia, tuy nhiên, WBG không phân biệt giữa hai loại văn bản này cùng với việc xây dựng các chỉ số IDA cơ bản hiện đang được áp dụng cũng như những chỉ số đang được xây dựng trong các chiến lược và khung chiến lược khác. Chúng tôi sẽ đánh giá các chỉ số và khung kết quả đó và sẽ sắp xếp lại nếu cần thiết trong quá trình triển khai chiến lược. Một thách thức đòi hỏi phải xem xét kỹ lưỡng là làm thế nào để cân bằng giữa việc nỗ lực để đạt được những kết quả quan trọng trên mọi mặt của nền kinh tế—mà WBG đặc biệt hầu như không kiểm soát và do đó các kết quả đó không phải là thước đo hiệu quả để đánh giá hiệu quả hoạt động của WBG—và các kết quả cụ thể có liên quan chặt chẽ với WBG tuy nhiên những kết quả này hầu như không ảnh hưởng đến số liệu thống kê của quốc gia. Một thách thức nữa là nguồn nhân lực cần thiết để thu thập những dữ liệu cần thiết ở các nước đang phát triển. Song song với các chỉ số IDA cơ bản, các chỉ số cho chiến lược năng lượng có xu hướng chủ yếu dựa vào các dự án của WBG. 58. Bảng 1 quy định thời hạn hoàn thành chiến lược năng lượng. Bạn có thể xem đề cương sơ bộ của chiến lược trong Phụ lục 3. Bảng 1 Khung thời gian của chiến lược năng lượng Ngày Hạng mục Tháng 10/ 2009 Hoàn thành việc đăng tải các văn bản quan trọng lên Trang web Chiến lược Năng lượng Cuối tháng 1/ 2010 Bắt đầu bàn bạc trực tiếp, qua video và qua trang web Tháng 5/ 2010 Kết thúc giai đoạn đánh giá đầu tiên Tháng 10/ 2010 Ủy ban về Hiệu quả Phát triển thảo luận về chiến lược Tháng 10–11/ 2010 Hoàn thành việc đăng tải bản dự thảo chiến lược chuẩn bị cho giai đoạn đánh giá thứ hai Tháng 1/ Tháng 2/ 2011 Hội đồng Quản trị thảo luận về chiến lược Tháng 4/ 2011 Công bố chiến lược Tham vấn ‎ý kiến các bên 59. Báo cáo định hướng này là cơ sở cho quá trình tham vấn ý kiến các bên. Chúng tôi cũng bổ sung thêm hàng loạt các ghi chép tổng thể được đăng tải trên trang web Chiến lược Năng lượng dưới dạng các phụ lục của báo cáo đánh giá. Chúng tôi cũng đang lập thêm các báo cáo tổng thể và các bản tóm lược và sẽ công bố khi hoàn thành (Phụ lục 4). 60. Nhóm xây dựng chiến lược sẽ phối hợp giữa tham vấn ý kiến các bên qua trang web, qua vi-đê-ô và trực tiếp. Trong suốt giai đoạn tham vấn, nhóm xây dựng sẽ thu thập thông tin đầu vào dựa trên các ưu tiên của 21 bên liên quan, tính phù hợp của hai chiến lược và hai kế hoạch chiến lược được đề xuất, và những biện pháp liên quan.  Báo cáo đánh giá, các phụ lục đính kèm, và các tài liệu tham khảo chính sẽ được đăng tải trên trang Web Chiến lược Năng lượng từ tháng 10/2009 đến tháng 5/ 2010. Báo cáo định hướng sẽ được dịch sang sáu ngôn ngữ, tất cả các tài liệu khác sẽ được soạn bằng tiếng Anh. Giai đoạn đánh giá báo cáo định hướng qua các phương tiện điện tử sẽ bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 5/ 2010.  Chúng tôi sẽ tổ chức các cuộc hội đàm trực tiếp bắt đầu từ tháng 1/ 2010, bao gồm các cuộc hội đàm cấp quốc gia, hội đàm cấp tiểu khu vực ở một số khu vực, và một cuộc hội đàm cấp khu vực ở hầu hết các khu vực. Chúng tôi sẽ mời các bên liên quan—các cơ quan thẩm quyền quốc gia, các tổ chức xã hội dân sự, khu vực tư nhân, giới học viên, và truyền thông—tham dự các cuộc hội đàm này. Chúng tôi sẽ tiếp thu các ý kiến đánh giá và đăng tải nội dụng chính của các cuộc hội đàm công khai trên trang Web bằng Tiếng Anh và, bằng ngôn ngữ của cuộc hội đàm trong phạm vi có thể.  Chúng tôi sẽ tổ chức các cuộc hội đàm qua vi-đê-ô với nhóm các bên liên quan thuộc các khu vực khác nhau.  Chúng tôi sẽ tổ chức một số cuộc hội đàm riêng với các công ty thuộc khu vực tư nhân và các hiệp hội ngành công nghiệp với sự chủ trì của IFC. Ngoài việc tổ chức các cuộc hội đàm nói trên, chúng tôi cũng sẽ tham vấn ý kiến của các tổ chức xã hội dân sự quốc tế, các đại diện của các ngân hàng phát triển đa phương khác, các nhà tài trợ song phương, và các chuyên gia khác trong lĩnh vực năng lượng. Phụ lục 1: Phạm vi hoạt động của ngành năng lượng Năng lượng là đầu vào của nhiều ngành khác mà WBG đã xây dựng các chiến lược, chính sách và khung chiến lược và giải quyết các vấn đề liên quan đến năng lượng. Các khía cạnh của ngành năng lượng sẽ được trình bày và theo đó, các ngành khác được trình bày trong bảng dưới đây: Ngành và các tài liệu chính Các khía cạnh của ngành năng lượng Các khía cạnh của ngành liên quan Môi trường "Phát triển và Biến đổi khí hậu: Khung chiến lược cho Ngân hàng Thế giới" (FY09), Chiến lược (FY11) Phát triển nhiên liệu than và các nhiên liệu hoá thạch khác Tiêu chuẩn khí thải đối với hoạt động sản xuất, vận chuyển và đốt cháy nhiên liệu hoá thạch sau khi tham vấn các chuyên gia công nghệ; các vấn đề liên quan đến bảo đảm an ninh khác; quản lý chất lượng không khí/nước/đất; sức khoẻ môi trường Toàn bộ hệ thống cung cấp điện từ điểm sản xuất đến phân phối bao gồm năng lượng tái sinh Tác động môi trường, các vấn đề liên quan đến bảo đảm an ninh khác Năng lượng tái sinh ngoài hoạt động phát điện Bảo đảm an ninh Thuỷ điện Bảo đảm an ninh Hiệu quả sử dụng năng lượng trong nguồn cung năng lượng Bảo đảm an ninh Hiệu quả sử dụng năng lượng trong ngành (IFC) Trùng với môi truờng Hiệu quả sử dụng năng lượng tại các hộ gia đình (bao gồm chiếu sáng hiệu quả) Trùng với môi trường Tiếp cận năng lượng thương mại hiện đại Trùng với môi trường; sức khoẻ môi trường Xử lý có giới hạn các lò cải tiến dựa trên việc sử dụng truyền thống các nhiên liệu rắn (củi, than, phân động vật) Trùng với môi trường; sức khoẻ cộng đồng Nhiên liệu sinh học - tiết kiệm, tiêu chuẩn, chính sách Tác động môi trường của nhiên liệu sinh học bao gồm phân tích chu trình Khí thải hiệu ứng nhà kính trong ngành năng lượng Bao gồm điện hạt nhân trong quá trình đối thoại chính sách Vận tải Chiến lược kinh doanh (FY08) Cung cấp nhiên liệu vận tải Trợ giá và áp thuế nhiên liệu vận tải Chuyển đổi mô hình vận tải hành khách và hàng hoá, quy hoạch vận tải, quản lý giao thông, quản lý nhu cầu Đô thị Chiến lược (FY09) Tác động của quy trình đô thị hoá đối với hoạt động sử dụng, tiếp cận năng lượng Mật độ hoá, quy hoạch đô thị Nước Chiến lược (FY04) Hiệu quả sử dụng năng lượng tại các cơ sở cung cấp nước Các yêu cầu liên quan đến nước đối với hoạt động cung cấp năng lượng Tác động của tình trạng thiếu nước đối với hoạt động cung cấp năng lượng Mọi vấn đề khác của ngành nước Ngành năng lượng cũng sẽ đầu tư vào cơ sở hạ tầng nước đa dụng và đầu tư vào lĩnh vực thích nghi khí hậu và năng lượng Y tế Chiến lược (FY07) Cung cấp năng lượng cho các tổ chức y tế, hiệu quả sử dụng năng lượng trong lĩnh vực y tế Mọi vấn đề khác của ngành y tế Sức khoẻ môi trường Giáo dục Cung cấp năng lượng cho các tổ chức giáo dục,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbao_cao_dinh_huong_chien_luoc_nang_luong.pdf
Tài liệu liên quan