LỜI NÓI ĐẦU
Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp của phần lớn các nước đang phát triển và xu thế chuyển một phần lương thực sang sản xuất nhiên liệu sinh học, thức ăn gia súc sẽ đẩy nhanh nhu cầu về lương thực, thực phẩm, làm tăng giá các nông sản này trong tương lai. Thêm vào đó, sự tăng trưởng kinh tế trên thế giới nói chung sẽ đẩy mạnh nhu cầu về các mặt hàng nguyên liệu phục vụ công nghiệp khác như cao su, gỗ... cũng như các mặt hàng nông sản thực phẩm. Mặt khác, biến
90 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 412 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Điều kiện về Tổ chức lãnh thổ ngành nông nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đổi khí hậu, các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt bất thường sẽ dẫn đến sụt giảm sản lượng lương thực, đe dọa an ninh lương thực toàn cầu.
Nông nghiệp hiện nay vẫn là ngành kinh tế cơ bản của Việt Nam với hơn 68% dân số sống ở khu vực nông thôn, lao động nông nghiệp chiếm hơn 47% lao động xã hội và giá trị tăng thêm của ngành nông nghiệp vẫn chiếm gần 20% tổng sản phẩm trong nước. Vì vậy, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa là một trong những mục tiêu cơ bản nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở Việt Nam hình thành và phát triển góp phần thúc đẩy nông nghiệp Việt Nam phát triển theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa. Trong các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở Việt Nam, một số hình thức đang phát triển và đạt hiệu quả cao như các trang trại, các vùng chuyên canh; một số hình thức mới hình thành và phát triển như khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng nông nghiệp; một số hình thức đang trong quá trình chuyển đổi để phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường như hợp tác xã nông nghiệp, nông trường quốc doanh,
Trong bài điều kiện về Tổ chức lãnh thổ ngành nông nghiệp chúng em đã tìm hiểu một cách khái quát về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp: quan niệm, các nhân tố ảnh hưởng, các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp trên thế giới và ở Việt Nam.
Bài điều kiện được trình bày theo cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Chương 2. Các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Chương 3: Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở Việt Nam
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chúng em đã tham khảo và kế thừa số liệu, tư liệu từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau cũng như nhận được nhiều nhận xét, góp ý quý báu của các thành viên trong lớp, đặc biệt là sự góp ý, hướng dẫn của GS.TS Lê Thông. Nhóm chúng em xin trân trọng cảm ơn và mong được sự đóng góp nhiều hơn nữa để bài tập của chúng em được hoàn thiện hơn.
MỤC LỤC
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP
I - TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ - XÃ HỘI.
1. Một số lý thuyết về tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội
Khái niệm tổ chức lãnh thổ (territorial organization) hay còn gọi là tổ chức không gian (spatial organization) được sử dụng khi đề cập đến vấn đề tổ chức lãnh thổ cả theo chiều thẳng đứng và chiều ngang. Khái niệm tổ chức lãnh thổ đã được dùng ở các nước phương Tây từ cuối thế kỉ XIX, được phát triển về mặt lí luận thông qua các lí thuyết về tổ chức lãnh thổ.
1.1. Lí thuyết khu vị luận công nghiệp của A.Weber
Mô hình tổ chức không gian công nghiệp ra đời trong thế kỉ XIX, được A.Weber là một đại diện tiêu biểu đưa lên thành lí thuyết "Khu vị luận công nghiệp". Tư tưởng chủ đạo của ông là coi thành phố là những nút hay trọng điểm lãnh thổ. Sức lan tỏa ảnh hưởng của nó rất lớn. Xung quanh thành phố (nút) là các vành đai với các chức năng khác nhau, nhưng đều phục vụ cho một trung tâm. Lý thuyết này phù hợp với một nền kinh tế mà quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa chưa mạnh và có ý nghĩa trong việc xác định vai trò của trung tâm ở những khu vực có nền kinh tế còn chậm phát triển.
1.2. Lí thuyết phát triển các điểm trung tâm của W.Christaller
Vào đầu những năm 1930, W.Christaller (Mỹ) đã đưa ra lí thuyết phát triển các điểm trung tâm (1933). W.Christaller đã góp phần to lớn vào việc tìm ra quy luật phát triển của toàn bộ hoạt động sản xuất vật chất và phi sản xuất theo không gian, là ý tưởng cho việc nghiên cứu tổ chức không gian kinh tế - xã hội sau này.
Christaller cho rằng, không có nông thôn nào lại không chịu sự tác động của một cực hút, đó là thành phố.Thành phố là trung tâm đối vớitất cả các điểm dân cư còn lại trong vùng, đảm bảo cung cấp hàng hóa cho chúng. Các trung tâm tồn tại theo nhiều cấp, từ thấp đến cao. Các trung tâm cấp cao có khả năng lựa chọn hàng hóa và dịch vụ.Ông cho rằng, thành phố có vai trò như những cực phát triển và là hạt nhân cho sự phát triển.Nó trở thành đối tượng để đầu tư, trên cơ sở sức hút và mức độ ảnh hưởng đến các vùng xung quanh thông qua bán kính tiêu thụ các sản phẩm.
Lí thuyết trung tâm của W.Christaller đã được nhà bác học người Đức - A.Losch bổ sung và phát triển. Công lao của W.Christaller và A.Losch ở chỗ đã khám phá quy luật phân bố không gian từ tương quan giữa các điểm dân cư, phát hiện một trật tự được tính toán trong sự phân bố các thành phố và nông thôn. Điều đó được áp dụng khi quy hoạch các điểm dân cư trên những lãnh thổ mới khai phá, hoặc nghiên cứu các hệ thống không gian, hay làm cơ sở xác định các nút trọng điểm trong một lãnh thổ nhất định.
1.3. Lí thuyết cực tăng trưởng của Francoi Perroux (1950)
Lí thuyết cực tăng trưởng của nhà kinh tế học người Pháp Francoi Perroux được đưa ra vào đầu những năm 1950. Ông quan niệm, một vùng không thể phát triển kinh tế đều đặn ở tất cả các điểm trên lãnh thổ vào cùng một thời gian. Xu hướng chung là có một hoặc một vài điểm phát triển mạnh nhất, trong khi đó các điểm khác lại chậm phát triển hay bị trì trệ. Tất nhiên, các điểm phát triển nhanh là các điểm có lợi thế so với toàn vùng. Như vậy, lí thuyết cực phát triển chú ý đến những thay đổi trong phạm vi một khu vực của lãnh thổ làm phát sinh tăng trưởng kinh tế.
Lí thuyết cực tăng trưởng được áp dụng tương đối rộng rãi ở châu Á, nhất là các nước ASEAN. Nhiều kinh nghiệm đã được tích lũy và có giá trị đối với các quốc gia cần huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Đây cũng là lí thuyết giải thích sự cần thiết của việc phát triển kinh tế lãnh thổ theo hướng phát triển có trọng điểm.
2. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội
Vấn đề tổ chức lãnh thổ hay tổ chức không gian các hoạt động của con người, trước hết là hoạt động kinh tế, bắt nguồn từ những cơ sở lí thuyết kinh tế của Adam Smith và David Ricardo, từ các công trình nghiên cứu của Thunen vào 1826, của Weber vào 1909 và một số tác phẩm khác, sau đó được phát triển về mặt lí luận và ứng dụng thực tiễn vào những năm 50 của thế kỉ XX tại các nước Châu Âu, Liên Xô (cũ) và Mỹ.
Ở Liên Xô (cũ) tổ chức lãnh thổ được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của địa lí đã được nêu lần đầu tiên vào năm 1961 bởi Iu.G.Xauskin “lĩnh vực thực tiễn trực tiếp để tập trung nỗ lực của các nhà địa lí Xô Viết là tổ chức lãnh thổ lực lượng sản xuất (ở đây bao gồm cả sơ đồ lãnh thổ và các dự án cải tạo và sử dụng các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên)”. Những quan niệm về tổ chức lãnh thổ công nghiệp được trình bày trong các công trình của A.T.Khrutsov (1966, 1969, 1972).Thuật ngữ “tổ chức lãnh thổ sản xuất” được đưa vào trong các nghiên cứu của A.E.Probxt và M.G.Skolnicov vào giữa thập kỉ 60 của thế kỉ XX.
Vào đầu thập kỉ 70, quan niệm về tổ chức không gian xuất hiện được đưa vào các công trình của các nhà địa lí Xô Viết. Nhưng có thể thấy rằng sợi dây xuyên suốt trong các nghiên cứu theo hướng này trong mấy thập kỉ qua là tổ chức lãnh thổ lực lượng sản xuất (từ tổ chức lãnh thổ sử dụng tự nhiên, tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế đến tổ chức không gian cư trú nông thôn và đô thị,...)
Các nhà khoa học Liên Xô (cũ) trước đây thường sử dụng khái niệm “phân bố lực lượng sản xuất”, nghĩa là phân bố sức sản xuất theo lãnh thổ. Nền tảng cơ sở lí luận của phân bố lực lượng sản xuất được bắt nguồn từ lí thuyết về chu trình năng lượng - sản xuất của N.N.Koloxopxki và thể tổng hợp lãnh thổ sản xuất của các nhà khoa học Xô Viết. Theo họ, phân bố lực lượng sản xuất được thực hiện trên các lãnh thổ cụ thể ở những cấp độ khác nhau, phổ biến là trên các vùng kinh tế cơ bản và vùng kinh tế hành chínhtỉnh. Họ coi phân bố lực lượng sản xuất là sự sắp xếp, bố trí và phối hợp các đối tượng hay thực thể vật chất cụ thể, hay đó là các hệ thống sản xuất, hệ thống tự nhiên đã được sử dụng vào hệ thống dân cư. Các đối tượng này ảnh hưởng lẫn nhau, có liên hệ qua lại với nhau trong một lãnh thổ xác định, nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên, cơ sở vật chất kĩ thuật của lãnh thổ để đạt hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường và nâng cao mức sống dân cư của lãnh thổ đó.
Sách của E.B.Alaev "Địa lý kinh tế - xã hội", (1983), đã đưa ra nhận thức chung của các nhà địa lý Liên Xô về định nghĩa tổ chức lãnh thổ: "Khái niệm tổ chức lãnh thổ xã hội trong nghĩa rộng của từ này bao gồm các vấn đề liên quan đến phân công lao động theo lãnh thổ, phân bố các lực lượng sản xuất, các sự khác biệt về vùng trong quan hệ sản xuất, mối quan hệ tương hỗ giữa xã hội và thiên nhiên, cũng như các vấn đề chính sách vùng về kinh tế - xã hội. Ở một nghĩa hẹp hơn, nó bao gồm các phạm trù như tổ chức lãnh thổ - hành chính của Nhà nước, quản lý vùng về sản xuất, sự hình thành các thành tạo lãnh thổ về tổ chức - kinh tế, sự xác định các khách thể vùng của quản lý, sự phân vùng về kinh tế- xã hội..."
Các nhà khoa học Xô Viết sau này phát triển phân bố lực lượng sản xuất theo hướng tổ chức lãnh thổ. Theo Xauskin: Tổ chức xã hội theo lãnh thổ là tạo ra một hệ thống sử dụng đất đai do những tập đoàn người khác nhau. Hệ thống này làm cho các tập đoàn người ấy có thể cư trú được trên bề mặt trái đất, khai thác các tài nguyên thiên nhiên, phân bố các điểm dân cư, tái sinh sản nòi giống, phân bố các nguồn cung cấp nước và thực phẩm, các địa điểm sản xuất ra các công cụ lao động, quần áo, giày dép và các vật liệu khác cần thiết cho đời sống, phân bố xí nghiệp và khu vực chữa bệnh, nghỉ ngơi, khoa học, văn hóa, các nhà hát, rạp chiếu phim,...
Các nhà khoa học phương Tây lại thường sử dụng thuật ngữ “tổ chức không gian kinh tế - xã hội”. Khái niệm tổ chức không gian ra đời cuối thế kỉ XIX và đã phát triển thành một khoa học về “thiết lập” trật tự kinh tế, xã hội, môi trường trong phạm vi một lãnh thổ xác định.
Quan niệm về tổ chức không gian (tổ chức lãnh thổ) cũng được coi trọng trong địa lí Mĩ vào 1970 – 1971.Ở Mĩ có các công trình lớn của R.Abler, J.Adams, P.Gould “tổ chức không gian, cách nhìn thế giới của các nhà địa lí” và của R.Morill “Tổ chức không gian xã hội”.
Ở Anh, các quan niệm về tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội được phát triển theo hướng mô hình hóa, áp dụng các phương pháp định lượng. Có thể thấy tiêu biểu trong các công trình của Peter Haggett và các cộng sự “Phân tích không gian trong địa lí kinh tế” xuất bản năm 1965, “các mô hình địa lí” xuất bản năm 1967 và “Địa lí học: một sự tổng hợp hiện đại” xuất bản năm 1975.
Theo Morrille (1970): Tổ chức không gian là khái niệm của loài người về sử dụng có hiệu quả không gian trên trái đất. Nhiều tác giả Pháp nhưP.Brunet, J.Monod, P.de Castelbazac (1980), Jean Paulde Gaudemar (1992),...cho rằng: tổ chức không gian là sự tìm kiếm một sự phân bố tối ưu về vùng, các hoạt động và tài sản để tránh những sự mất cân đối trên lãnh thổ quốc gia hay một vùng.
Quan niệm về tổ chức lãnh thổ có những chuyển biến mới hơn từ những năm 1990 đến nay với những nghiên cứu của Paul Krugman, các Báo cáo phát triển thế giới,.... Paul Krugman (nhà kinh tế học người Mỹ) là người đề xuất lí thuyết sau này được gọi tên là “địa lí kinh tế mới” (1991). Krugman phát triển lí thuyết về sự lựa chọn địa điểm của lao động và hãng kinh doanh, trong đó cốt lõi là hiệu quả kinh tế của quy mô lớn2.
Theo Paul Krugman (1991): sản xuất có xu hướng tập trung vào những nơi “trung tâm” đông đúc dân cư và vốn. Để phát triển nền kinh tế và giảm thiểu chi phí vận chuyển, các công ty sản xuất có xu hướng tập trung vào những khu vực trung tâm vì tận dụng được lợi thế nhờ quy mô.Việc này sẽ dẫn đến dân cư sẽ càng di chuyển tới những “trung tâm” này.Sự hạn chế của tập trung hóa chính là ở chi phí vận chuyển.Chi phí vận chuyển tới người tiêu dùng sẽ cao nếu như các hãng tập trung hóa ở một khu vực nhất định trong quốc gia. Do đó, quyết định lựa chọn địa điểm sản xuất của các hãng phụ thuộc vào tương quan giữa việc tận dụng lợi thế quy mô và tiết kiệm chi phí vận chuyển. Giảm chi phí vận chuyển sẽ dẫn tới quá trình tập trung hóa và đô thị hóa2.
Trong Báo cáo phát triển thế giới 2009 “Tái định dạng địa kinh tế” đã giải thích sự tăng trưởng kinh tế có thể diễn ra không đồng đều, nhưng sự phát triển vẫn có thể mang tính hòa nhập. Khi các nền kinh tế tăng trưởng, sản xuất sẽ tập trung cao hơn theo không gian. Đây cũng là những lí thuyết giải thích cho sự tập trung hóa và đô thị hóa ở các quốc gia. Báo cáo phát triển thế giới năm 2009 cho rằng: Các địa phương phát triển tốt nếu chúngthúc đẩy sự chuyển đổi của các khía cạnh địa kinh tế: mật độ dày hơn khi các thành phố phát triển, khoảng cách ngắn hơn khi công nhân và doanh nghiệp di chuyển đến gần khu trung tâm hơn và có ít sự chia cắt hơn khi các quốc gia giảm bớt các biên giới kinh tế và tiến vào thị trường thế giới để tận dụng quy mô kinh tế và buôn bán các sản phẩm chuyên biệt. Sự chuyển đổi của 3 khía cạnh địa kinh tế này (mật độ, khoảng cách và sự chia cắt) là then chốt cho sự phát triển. Như vậy, phát triển kinh tế sẽ tập trung cao hơn theo không gian, nhưng phát triển vẫn có thể mang tính hòa nhập mang lại cho người dân mức sống đồng đều hơn giữa các vùng với các chính sách phù hợp đối với mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, lí luận về tổ chức lãnh thổ như là một trong những nội dung nghiên cứu cơ bản của địa lí học được đưa vào khá sớm, từ những năm 1970. Công việc này thu hút nhiều công sức đóng góp của các nhà địa lí, các nhà kinh tế vùng và của các nhà kế hoạch cũng như các Bộ, ngành. Trong nhiều năm, hướng nghiên cứu được thể hiện qua việc lập tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất của từng ngành và của các cấp lãnh thổ trong cả nước. Kết tinh của các nghiên cứu theo hướng này là các công trình 70.01, lập Tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất Việt Nam thời kì 1986– 2000 (tổng sơ đồ I) và chuẩn bị nội dung cho Tổng sơ đồ II (giai đoạn 1991 – 2005); “Dự thảo đề cương báo cáo tổng kết công tác phân vùng quy hoạch và phân bố lực lượng sản xuất cả nước trong 5 năm qua và phương hướng, nhiệm vụ trong những năm tới”.
Tổ chức lãnh thổ được coi trọng bằng những cách nhìn mới nhằm mục tiêu phát triển bền vững, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chính sách phát triển vùng, đảm bảo sự công bằng xã hội ngay cả trong việc giảm sự chênh lệch giữa các đồng bằng, giảm sự phân hóa giàu nghèo. Các kết quả nghiên cứu liên ngành dưới sự chỉ đạo của Nhà nước được thể hiện ở việc lập các bản đồ quy hoạch tổng thể phát triển các ngành và các vùng lãnh thổ lớn như tổ chức lãnh thổ quốc gia Việt Nam và mô hình không gian của Việt Nam. Những nhiệm vụ chính của tổ chức lãnh thổ là phân bổ lạinguồn vốn và tài sản quốc gia, sửa chữa lại sự mất cân đối giữa các vùng, sử dụng hợp lí nhất các điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội và giải quyết công ăn việc làm...
Đi đầu trong nghiên cứu tổ chức lãnh thổ là GS. Lê Bá Thảo. Trong báo cáo “Địa lí học Việt Nam và thử nghiệm tổ chức lãnh thổ”, Ông cho rằng: Về khía cạnh địa lí, có thể coi tổ chức lãnh thổ là một hành động của địa lí học có chủ ý (géographie volontaire) hướng tới một sự công bằng về mặt không gian.
Như vậy, tổ chức không gian kinh tế - xã hội được xem như nghệ thuật kiến thiết và sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn và có hiệu quả. Nhiệm vụ chủ yếu của tổ chức không gian là xác định được sức chứa của lãnh thổ, tìm kiếm quan hệ tỉ lệ hợp lí và liên hệ chặt chẽ trong phát triển kinh tế - xã hội giữa các ngành và giữa các lãnh thổ nhỏ hay tiểu vùng trong một vùng cũng như đảm bảo mối quan hệ giữa các vùng trong một quốc gia có tính tới mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau. Nhờ có sự sắp xếp có trật tự và hài hòa giữa các đối tượng trong lãnh thổ mà tạo ra một giá trị mới lớn hơn, làm cho sự phát triển hài hòa và bền vững hơn. Tổ chức không gian kinh tế - xã hội dưới góc độ chính sách, xem như là một trong những hành động hướng tới sự công bằng về mặt không gian, tối ưu hóa các mối quan hệ hữu cơ giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực với nhau và giữa các cực với các không gian còn lại, nhằm làm cho lãnh thổ phát triển bền vững, tạo được sự ổn định cần thiết để thiết lập tiền đề cho tăng trưởng, cho phát triển.
Từ những quan niệm trên có thể hiểu "Tổ chức không gian kinh tế-xã hội là sự "sắp xếp" và "phối hợp" các đối tượng trong mối liên hệ liên ngành, liên vùng nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lí kinh tế, chính trị và cơ sở vật chất kĩ thuật đã và sẽ được tạo dựng để đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao và nâng cao mức sống, đảm bảo sự phát triển bền vững của một lãnh thổ".
Tổ chức lãnh thổ là "sự tìm kiếm trong khung cảnh địa lý quốc gia, sự phân bố tốt nhất vùng và các hoạt động tùy thuộc vào các tài nguyên tự nhiên".
Tổ chức lãnh thổ là một chính sách kinh tế dài hạn nhằm cải thiện môi trường trong đó diễn ra cuộc sống và các hoạt động của con người.
- Tổ chức lãnh thổ là một hành động của địa lý học có chủ ý hướng tới một sự công bằng về mặt không gian giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực, và các không gian ảnh hưởng, nhằm giải quyết ổn định công ăn việc làm, cân đối giữa quần cƣ nông thôn và quần cư thành thị, bảo vệ môi trường sống.
- Các nút, các cực là: thành phố, thị trấn, làng xóm là những điểm trồi, những nơi tập trung dân cư, các cơ sở công nghiệp chế biến, cơ sở dịch vụ - kỹ thuật. Đó là các trung tâm dân cư kinh tế, đặc trưng bởi độ "đông đặc" hay mật độ dân số, mật độ xây dựng tương đối cao.
- Với cách nhìn của tổ chức lãnh thổ thì lãnh thổ là một hệ thống trong đó có các cực, dải và không gian bề mặt, 3 yếu tố này có quan hệ, có sức hút, lan tỏa và ảnh hƣởng lẫn nhau.
- Sự khác nhau giữa các nút: thường thì các nút (cực) đa chức năng hay khác nhau vềsố lượng các chức năng, thang bậc các trình độ cao hay thấp, tính phức tạp nhiều hay ít, ý nghĩa lớn hay nhỏ, phạm vi ảnh hưởng rộng hay hẹp. Các mốc cũng khác nhau về tiềm năng phát triển.
- Giữa các trung tâm, các nút có những liên hệ chức năng: chúng trao đổi hoạt động, biểu hiện qua các dòng người, dòng sản phẩm, dòng dịch vụ, dòng tiền tệ và dòng thông tin. Các nút, các dải nằm trong một mạng lưới, mà các chỗ hổng được lấp đầy, bằng những bề mặt, với tất cả hoạt động diễn ra ở đó, trong một hệ thống các quan hệ chức năng có thang bậc, tạo thành một hệ thống tổ chức không gian.
Tổ chức không gian kinh tế - xã hội gồm nhiều thành phần liên kết chặt chẽ với nhau. Phân theo ngành, tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội gồm: tổ chức lãnh thổ công nghiệp, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp và tổ chức lãnh thổ dịch vụ. Phân theo không gian, tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội gồm các đô thị, các trung tâm kinh tế, các tuyến lực,và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là một trong những hình thức của tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội.
II. QUAN NIỆM, NGUYÊN TẮC VÀ Ý NGHĨA CỦA TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP
1. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
1.1. Các quan niệm về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp trên thế giới và Việt Nam
Vấn đề tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đã có sức thu hút mãnh mẽ sự chú ý của nhiều nhà khoa học. Người đầu tiên đưa ra ý tưởng về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là nhà khoa học người Đức J.H.Von Thunen (1783 - 1850). Đầu những năm 1800, Ông đã đề xuất "lí thuyết vành đai giữa trung tâm và ngoại vi". Dựa trên các kết quả tính toán của mình, Thunen kết luận rằng trồng trọt chỉ đem lại lợi nhuận ở một khoảng cách nào đó tính từ thành phố.Nếu vùng sản xuất ở quá xa trung tâm thành phố thì chi phí vận chuyển sẽ rất cao, hay ở quá gần trung tâm đô thị thì giá địa tô chênh lệch cũng rất lớn. Cả hai trường hợp trên đều không thu được lợi nhuận tối đa. Một sản phẩm nông nghiệp thu được lợi nhuận tối đa sẽ có một khoảng cách tương ứng nhất định với nơi tiêu thụ. Khi chi phí vận chuyển biến thiên, trên vùng sản xuất nông nghiệp sẽ xuất hiện các vành đai sản xuất. Theo ông, xung quanh một thành phố trung tâm (với giả thiết là hoàn toàn cô lập với các trung tâm khác) có thể tồn tại và phát triển 5 vành đai sản xuất chuyên môn hóa nông nghiệp theo nghĩa rộng liên tục từ trong ra ngoài, gồm: vành đai 1 là thực phẩm tươi sống; vành đai 2 là lương thực, thực phẩm; vành đai 3 là vành cây ăn quả; vành đai 4 là vành lương thực và chăn nuôi; vành đai 5 là vành lâm nghiệp. Tùy theođiều kiện cụ thể về điều kiện tự nhiên, tập quán sản xuất của cư dân và quymô của thành phố trung tâm mà xác định số lượng vành đai, cũng như bán kính của mỗi vành đai nông nghiệp.
Mô hình 5 vành đai nông nghiệp thể hiện bước đầu về ý tưởng tổ chức lãnh thổ. Tuy nhiên, vành đai nông nghiệp theo lí thuyết của Thunen cũng bộc lộ hạn chế. Đó là các vành đai nông nghiệp này mới chỉ được nghiên cứu trong sự tương tác giữa hai nơi ở cùng một thời điểm, mà trên thực tế có rất nhiều trung tâm cùng tồn tại và chúng đều có những tác động khác nhau lên sự xuất hiện của các vành đai nông nghiệp.
Trong trường phái địa lí Xô Viết, Nhà địa lí N.N.Kôlôxôpxki đưa ra lí thuyết chu trình năng lượng - sản xuất (năm 1947). Lí thuyết này cũng khẳng định tính liên tục giữa các khâu trong quá trình sản xuất khép kín để có giải pháp phân bố chúng. Từ khai thác nguyên liệu ban đầu, nhiên liệu và việc sử dụng các nguồn năng lượng khác để sơ chế nguyên liệu sản xuất ra bán thành phẩm và các chi tiết, đến sản xuất thành phẩm dưới dạng tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, đến tiến bộ khoa học kĩ thuật giao thông vận tải, thương nghiệp phục vụ sự tiêu dùng của dân cư. Từ đó, xuất hiện những nhu cầu và khả năng mới liên quan ảnh hưởng tới tự nhiên, tới việc sử dụng các nguồn tài nguyên.
Chu trình năng lượng sản xuất của N.N.Kôlôxôpxki đã nêu một phương pháp nghiên cứu liên ngành có hiệu quả, cho phép nghiên cứu vùng một cách đầy đủ và toàn diện hơn. Thực tiễn phân bố sản xuất trên thế giới và ở Việt Nam trong những năm trước đây đã phần nào khẳng định ý nghĩa lí luận và thực tiễn quan trọng của lí thuyết chu trình năng lượng - sản xuất. Trong lí thuyết này, khái niệm thể tổng hợp nông nghiệp được xem như một hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.
Một trong những chuyên gia Xô Viết hàng đầu nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ sản xuất nông nghiệp là giáo sư tiến sĩ địa lí K.I.Ivanov. Trong luận án tiến sĩ với đề tài "Tổ chức lãnh thổ sản xuất các sản phẩm nông nghiệp và việc tính toán điều kiện của địa phương" (1967), ông đãphát triển tư tưởng của N.N.Kôlôxôvxki về các thể tổng hợp lãnh thổ sản xuất và đưa nó vào lĩnh vực nông nghiệp. Về phương diện lí thuyết, K.I.Ivanov xây dựng cơ sở cho phương pháp dòng (băng chuyền) trong việc tổ chức sản xuất của nhiều phân ngành nông nghiệp.Nhiều tư tưởng và quan niệm mới của ông đã được ứng dụng trong lĩnh vực lập mô hình các hệ thống lãnh thổ.
Qua các công trình của K.I.Ivanov, của V.G.Kriutokov và một số tác giả khác thì: “Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp được hiểu là một hệ thống liên kết không gian của các ngành, các xí nghiệp nông nghiệp và các lãnh thổ dựa trên cơ sở các quy trình kĩ thuật mới nhất, chuyên môn hoá, tập trung hoá, liên hợp hoá và hợp tác hoá sản xuất; cho phép sử dụng có hiệu quả nhất sự khác nhau theo lãnh thổ về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, nguồn lao động và đảm bảo năng suất lao động xã hội cao nhất”.
Vấn đề tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở nước ta cũng được nhà khoa học quan tâm. Tác giả Lê Thông đã có cùng quan điểm về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp với các nhà địa lí Nga, trong đó đã đưa ra các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp từ thấp đến cao, đó là xí nghiệp nông nghiệp, thể tổng hợp nông nghiệp, vùng nông nghiệp, băng chuyền địa lí trong nông nghiệp.... Các nội dung này cũng được đề cập đến trong “Địa lí kinh tế - xã hội đại cương”, “Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam”, “Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam”.... Trong các giáo trình này, các tác giả đã phân tích những hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đã và đang phát triển ở Việt Nam như: trang trại, hợp tác xã, nông trường quốc doanh, vùng nông nghiệp.....
Theo tác giả Nguyễn Viết Thịnh: tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là tổ chức các không gian nông nghiệp (các tiểu vùng nông nghiệp) trên cơ sở đánh giá tác động tổng hợp của các nhân tố tương đối tĩnh (các điều kiện sinh thái nông nghiệp) và các nhân tố động (với các mức độ động khác nhau) như dân cư, lao động, mạng lưới đô thị, kết cấu hạ tầng sản xuất và sinh hoạt, thị trường nông sản, chính sách phát triển,... nhằm: đánh giá đượcsự phân hóa lãnh thổ nông nghiệp đã định hình, sự hợp lí và chưa hợp lí của nó; đưa một (hoặc 2, 3) phương án định hướng tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, trong ra được đó phát hiện chính xác các địa bàn trọng điểm phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời phát hiện các vùng khó khăn để đề xuất các chính sách phát triển phù hợp.
Một khía cạnh khác của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp cũng được tác giả Nguyễn Hiền đề cập đến, đó là chính sách định vị nông nghiệp. Theo tác giả: định vị nông nghiệp là lựa chọn được vùng chuyên môn hóa nông nghiệp thích ứng với các điều kiện tự nhiên. Để phát triển được các vùng chuyên canh nông nghiệp cần thiết phải có chính sách năng lượng, đào tạo chuyên môn nhân lực kĩ thuật và kinh doanh gắn với thị trường tiêu thụ. Các vùng chuyên môn hóa nông nghiệp có được thu nhập cao phải gắn với công nghiệp chế biến để phát triển chuyên môn hóa sâu, có giá trị cao, cạnh tranh được trên thị trường. Từ đây, sẽ hình thành các trung tâm, các đô thị, kéo theo là các kết cấu hạ tầng kĩ thuật và xã hội.
Tác giả Ngô Doãn Vịnh cho rằng: tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là cách thức phối hợp, kết hợp các đối tượng nông nghiệp trong một lãnh thổ xác định có tính tới mối quan hệ với các đối tượng thuộc ngành và lĩnh vực khác trong thế vận động và phát triển.
Trong xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, tác động vào mọi lĩnh vực trong cuộc sống, đòi hỏi chúng ta phải có một tư duy mới về tổ chức lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nói riêng. Rõ ràng, chúng ta không chỉ xem xét tổ chức lãnh thổ trong khuôn khổ khép kín, chỉ dựa vào những yếu tố sẵn có để phát triển, mà phải nhìn nhận được mối liên kết giữa các lãnh thổ khác nhau, những lợi thế so sánh và chuỗi giá trị toàncầu. Ngày nay, biên giới giữa các quốc gia không chỉ là biên giới đất liền, biên giới biển, biên giới trên không mà còn là biên giới của hàng hóa, dịch vụ và văn hóa.Các cường quốc sử dụng lí thuyết này để mở rộng tầm ảnh hưởng của mình bằng cách phát triển thị trường hàng hóa - dịch vụ mang đậm hàm lượng văn hóa ra các nước khác.
Như vậy, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp hiện nay không chỉ dựa vào những điều kiện sản xuất hiện có, mà phải đặt trong mối quan hệ với các khu vực xung quanh, đặc biệt là những nhu cầu của thị trường thì mới có thể phát triển bền vững được. Hay nói cách khác, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phải kết hợp được những yếu tố sẵn có và những yếu tố bên ngoài để sản xuất một cách hiệu quả nhất về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
Từ các nội dung đã phân tích ở trên, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp có thể được tổng quát như sau: tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là sự sắp xếp vàphối hợp các đối tượng nông nghiệp trong mối liên hệ liên ngành, liên vùng, kết hợp với nhu cầu thị trường trên một lãnh thổ cụ thể nhằm sử dụng hợp lí nhất các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lí và cơ sở vật chất kĩ thuật để đem lại hiệu quả cao về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
1.2. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là một hình thức của tổ chức kinh tế - xã hội. Theo K.I. Ivanov (1974), tổ chức lãnh thổ nông nghiệp được hiểu là hệ thống liên kết không gian của các ngành, các xí nghiệp trong nông nghiệp và các lãnh thổ dựa trên cơ sở, quy trình kĩ thuật mới nhất, chuyên môn hóa, tập trung hóa, liên hợp hóa và hợp tác hóa, cho phép sử dụng hiệu quả nhất sự khác nhau theo lãnh tổng về điều kiện tự nhiên, kinh tế, lao động và đảm bảo năng suất lao động xã hội cao nhất. Vậy:
- Phân công lao động theo lãnh thổ cùng với việc kết hợp với tự nhiên, kinh tế, lao động là cơ sở đề hình thành các mối liên hệ qua lại theo không gian.
- Khía cạnh ngành và khía cạnh lãnh thổ quyện chặt với nhau trong quá trình tổ chức lãnh thổ.
- Các đặc điểm không gian của sản xuất phần lớn bắt nguồn từ tính chất của việc khai thác và sử dụng các điều kiện sản xuất hiện có.
- Hiệu quả là tiêu chuẩn hàng đầu trong việc tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp không phải là bất biến.Nói cách khác hình thái kinh tế - xã hội nào thì có kiểu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tương ứng như thế.Hiện nay, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp gắn bó mật thiết với cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, một cuộc cách mạng phát triển rất mạnh mẽ và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp liên quan chặt chẽ với hệ thống lãnh thổ nông nghiệp.Đây là các phân hệ sản xuất và chế biến nông phẩm có mối quan hệ khắng khít với nhau. Hệ thống lãnh thổ nông nghiệp bao gồm: nhóm xí nghiệp liên quan trực tiếp đến đất đai và nhóm xí nghiệp liên quan gián tiếp đến đất đai và nhóm xí nghiệp có liên quan đến cả hai đặc điểm này tùy theo từng thời kì.
Ở nhiều nước kinh tế phát triển đã hình thành các hệ thống lãnh thổ nông nghiệp, trong đó phẩm biến rộng rãi nhất là các hệ thống lãnh thổ sản xuất và chế biến các sản phẩm chăn nuôi. Ví dụ như các hệ thống lãnh thổ sản xuất thịt sữa và các hệ thống lãnh thổ sản xuất và chế biến sữa ở các nước Tây Âu, Bắc Mĩ. Quá trình xuất hiện các hệ thống lãnh thổ nông nghiệp mới và đang hoàn thiện các hệ thống lãnh thổ nông nghiệp hiện có trong điều kiện hiện nay không chỉ tiêu biểu cho ngành chăn nuôi.
Quá trình này, ngày càng xâm nhập sâu vào ngành trồng trọt, nhất là các phân ngành sản xuất các sản phẩm phải qua chế biến công nghiệp. Việc hình thành các hệ thống lãnh thổ trong ngành trồng trọt cũng dựa trên cơ sở chuyên môn hóa theo giai đoạn, tập trung hóa, hợp tác hóa và liên hợp hóa sản xuất.
Các hệ thống lãnh thổ nông nghiệp không những không mâu thuẫn, mà còn làm rõ thêm nội dung và cấu trúc của các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp với tất cả các mối liên hệ qua lại phức tạp của chúng.Trong các loại hệ thống lãnh thổ thì các hệ thống lãnh thổ sản xuất vật chất đóng vai trò chủ đạo.
Mặt khác, người ta coi các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp như một hệ thống động, phức tạp, có nhiều thông số bao gồm một số hệ thống nhỏ có mối liên hệ với nhau. Mỗi thành phần chủ yếu của h...,8 chiếm tới 46,5% diện tích đất cả nước. Đây là cơ sở để phát triển lâm nghiệp và phát triển các mô hình nông – lâm kết hợp ở vùng trung du miền núi nước ta.
Đất chưa sử dụng ở nước ta còn hơn 2,9 triệu ha, chiếm 8,9% tổng diện tích đất tự nhiên. Nhìn chung, diện tích đất chưa sử dụng còn khá lớn. Tuy nhiên, khả năng mở rộng diện tích là rất khó khăn. Vốn đất có thể mở rộng chủ yếu là đất dốc, thiếu nước, một phần bị xói mòn và thoái hóa. Diện tích đất tương đối bằng phẳng có thể trồng lúa thì chủ yếu là đất mặn, đất phèn, đất ngập úng đòi hỏi phải đầu tư lớn.
Một trong những khó khăn lớn nhất đối với vấn đề tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở nước ta là bình quân đất tự nhiên trên đầu người thấp, chỉ bằng 1/6 mức trung bình của thế giới: 0,369 ha/ người. Quy mô sử dụng đất của hộ gia đình phần lớn là nhỏ lẻ. Năm 2011, có tới 69% hộ sử dụng đất sản xuất nông nghiệp có quy mô dưới 0,5 ha, 34,7% số hộ có quy mô dưới 0,2 ha và chỉ có 6,2% số hộ có quy mô đất sản xuất nông nghiệp từ 2 ha trở lên. Điều này đã và đang hạn chế ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa quy mô lớn.
Mặt khác, quá trình công nghiệp hóa không tránh khỏi việc chuyển một phần đất sản xuất nông nghiệp cho các mục đích sử dụng khác (công nghiệp, giao thông, đô thị,...), ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, nhất là ở các vùng kinh tế phát triển như Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ,... Hơn nữa, do Việt Nam là một trong các nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi biến đổi khí hậu, làm diện tích đất canh tác trong tương lai bị thu hẹp. Vì vậy, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp cần quan tâm đến vấn đề thâm canh, đầu tư khoa học kĩ thuật để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm.
- Khí hậu
Nằm trong vòng đai nội chí tuyến Bắc bán cầu, khí hậu của nước ta cơ bản là nhiệt đới. Do hình thể kéo dài theo chiều kinh tuyến ở rìa đông nam lục địa châu Á nên chế độ nhiệt có sự khác nhau giữa các vùng. Từ đèo Hải Vân trở ra chịu ảnh hưởng của khối khí lạnh cực đới phía bắc tràn xuống nên hàng năm có một mùa đông lạnh và một mùa hè nóng. Từ đèo Hải Vân trở vào nóng quanh năm với một mùa mưa và một mùa khô.
Tính chất nhiệt đới làm cho tổng lượng bức xạ mặt trời rất lớn. Chế độ mưa phong phú, trung bình năm đạt 1.500 – 2.000mm. Khí hậu nước ta còn có sự phân hóa đa dạng theo chiều Bắc – Nam, theo mùa và theo độ cao. Miền Bắc có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với mùa đông lạnh. Ở vùng núi cao vào mùa này rét đậm và có sương giá. Miền Nam có khí hậu nhiệt đới điển hình với mùa khô và mùa mưa rõ rệt. Miền Trung là nơi giao thoa khí hậu giữa hai miền Nam – Bắc.
Đặc điểm của khí hậu đã xác định nền nông nghiệp nước ta là nông nghiệp nhiệt đới. Nhờ lượng cung cấp bức xạ lớn, nguồn ánh sáng dồi dào, nguồn nhiệt phong phú mà cây trồng, vật nuôi sinh trưởng, phát triển quanh năm và năng suất cao. Hơn nữa, độ ẩm không khí cao, lượng mưa dồi dào cho phép cây trồng có sức tái sinh mạnh mẽ, thúc đẩy nở hoa, kết trái. Điều kiện sinh thái nóng ẩm giúp cho cây ngắn ngày có thể tăng thêm từ 1 đến 2 vụ trong năm. Đối với cây dài ngày, có thể khai thác được nhiều đợt, nhiều lứa.
Trên bình diện cả nước, các đặc trưng về khí hậu tạo điều kiện bố trí được một tập đoàn cây trồng, vật nuôi bao gồm cả nhiệt đới và ôn đới, phù hợp với hệ sinh thái theo hướng phát triển bền vững. Ở vùng núi cao trên 1.500m, khí hậu quanh năm mát mẻ cho phép có thể hình thành tập đoàn cây trồng, vật nuôi có nguồn gốc cận nhiệt và ôn đới. Lượng tích ôn lớn thuận lợi cho việc tạo ra nhiều vụ trong năm. Riêng ở miền Bắc, mùa đông lạnh là tiền đề để phát triển cây vụ đông.
Bên cạnh những thuận lợi, khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa cũng gây nhiều trở ngại cho sản xuất nông nghiệp. Tính chất biến động và sự phân hóa về khí hậu gây ra các tai biến thiên nhiên như bão, lũ lụt, hạn hán,... làm tăng thêm tính chất bấp bênh vốn có của một nền nông nghiệp nhiệt đới và đòi hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu trong tổ chức lãnh thổ nông nghiệp để giảm thiểu rủi ro.
- Nguồn nước
Nằm trong vùng nhiệt đới, Việt Nam có nguồn nước mặt phong phú. Ngoài ra, lượng mưa hàng năm tương đối lớn càng tạo điều kiện cho sự phong phú của nguồn nước mặt.
Các vùng nông nghiệp trù phú gắn liền với hệ thống các sông lớn. Lưu vực sông Hồng – Thái Bình bao trùm toàn bộ không gian nông nghiệp Bắc Bộ. Các lưu vực sông miền Trung (sông Mã, sông Cả, sông Gianh, sông Hương, sông Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Ba,...) đồng thời cũng là các vùng lúa. Hệ thống sông Cửu Long, Đồng Nai bao phủ lên không gian nông nghiệp Đông, Tây Nam Bộ.
Bên cạnh nước mặt, nguồn nước ngầm cũng tương đối phong phú, mặc dù chưa được thăm dò, đánh giá đầy đủ. Trữ lượng đã thăm dò khoảng 3,3 tỉ m3/năm, tập trung ở các phức hệ trầm tích bở rời (chủ yếu ở Đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long; phức hệ trầm tích cacbônat (phần lớn ở Đông Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ); phức hệ phun trào bazan (đa phần ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ). Việc khai thác nước ngầm để tưới đã được thực hiện ở các vùng chuyên canh cây công nghiệp có mùa khô khắc nghiệt như Tây Nguyên, Đông Nam Bộ.
Diện tích mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản của nước ta vào khoảng 1,7 triệu ha. Các mặt nước có thể nuôi trồng thủy sản gồm 12 đầm phá và các eo vịnh; 112 cửa sông, lạch; hàng nghìn đảo lớn nhỏ ven biển; vùng nước của rừng ngập mặn và rừng tràm; các hệ thống sông ngòi, kênh rạch, hệ thống hồ (hồ thủy lợi, hồ thủy điện), ao, đầm, ruộng ngập nước; vùng đất cát ven biển có sử dụng vật liệu chống thấm,... Ngoài ra còn có khoảng 300.000 – 400.000 ha mặt nước các sông và nhiều eo, vịnh, đầm phá ven biển cũng có thể đưa vào sử dụng nhưng chưa được quy hoạch. Đồng bằng sông Cửu Long còn có khoảng 1 triệu ha đất ngập lũ từ 2 – 4 tháng.
Như vậy, tiềm năng về diện tích nuôi trồng thủy sản của nước ta là rất lớn. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, khả năng mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản còn nhiều. Nhiều diện tích đất trũng ngập nước, đất chua mặn trồng lúa năng suất thấp đang và sẽ được chuyển đổi mục đích sử dụng sang nuôi trồng thủy sản. Nhiều vùng cát hoang hóa ven biển sử dụng tấm lót chống thấm cũng có thể tiến hành nuôi trồng thủy sản.
Tài nguyên nước phong phú, song lại phân bố không đều theo thời gian và không gian. So với lượng nước cả năm, mùa lũ chiếm 70 – 80%, còn mùa kiệt chỉ có 20 – 30%. Đây là khó khăn rất lớn đối với hoạt động nông nghiệp. Để hạn chế việc thiếu nước trong mùa cạn và quá dư thừa nước trong mùa lũ, cần phải xây dựng các công trình thủy lợi lớn phục vụ tưới tiêu một cách chủ động.
Ngoài ra, chất lượng nước mặt ở một số sông hồ có xu hướng bị ô nhiễm nặng, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản. Biến đổi khí hậu có tác động nghiêm trọng đến tài nguyên nước, làm cho tầng nước mặt và nước ngầm bị xâm nhập mặn sâu do nước biển dâng.
- Tài nguyên sinh vật
Nước ta có giới sinh vật rất phong phú về thành phần loài. Do vị trí địa lí là nơi gặp gỡ của các luồng di cư thực vật và động vật nên ngoài các loài bản địa (chiếm khoảng một nửa số loài) là các loài thuộc các luồng di cư Himalaya, Malaixia – Inđônêxia, Ấn Độ - Miama và các loài nhập nội sau này. Trên cả nước có tới 14.624 loài thực vật thuộc gần 300 họ. Vì vậy, các hệ sinh thái ở nước ta rất đa dạng và phong phú với nhiều kiểu rừng khác nhau: rừng rậm nhiệt đới thường xanh, rừng rậm nhiệt đới gió mùa rụng lá, rừng thưa nhiệt đới khô lá rộng, rừng thưa nhiệt đới khô lá kim, Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển ngành lâm nghiệp, đa dạng hóa rừng trồng và khai thác các sản phẩm rừng ở nước ta.
Trong tài nguyên sinh vật phải kể đến rừng ngập mặn. Diện tích rừng ngập mặt hiện nay còn khoảng 155 nghìn ha. Rừng ngập mặt có vai trò quan trọng trong khai thác và nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt, đây là nơi trú ngụ và sinh sản của nhiều loài thủy sản. Có khoảng 1.600 loài sinh vật sống dưới tán rừng ngập mặn, trong đó có một số loài thủy đặc sản chỉ sống trong môi trường rừng ngập mặn. Rừng ngập mặn còn cung cấp thức ăn thực vật từ việc phân hủy thực vật rụng và nhiều phù du sinh vật cho tôm cá. Vì thế, rừng ngập mặn ven biển có đóng góp trong việc gia tăng sản lượng thủy sản nuôi trồng.
Nước ta có biển Đông rộng lớn và giàu tiềm năng. Mang đặc điểm của vùng nhiệt đới gió mùa, nguồn lợi thủy sản nước ta đa loài, nhưng số lượng cá thể mỗi loài lại không lớn, quần đoàn khác nhau, kích cỡ đa dạng, tốc độ tái tạo nguồn lợi cao, phân bố theo mùa vụ rõ rệt. Các hệ sinh thái có năng suất sinh học cao thường phân bố tập trung ở gần bờ (số loài mang tính chất sinh thái gần bờ chiếm 67,8%, số loài mang tính chất sinh thái đại dương chỉ chiếm 32,2%), đặc biệt là ở vùng rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, vùng triều cửa sông, đầm phá và vùng nước trồi.
Trong nguồn lợi thủy sản, cá có vai trò quan trọng nhất. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, biển Việt Nam có trên 2.000 loài cá, trong đó có khoảng 130 loài có giá trị kinh tế. Trữ lượng cá biển của nước ta vào khoảng 4,2 triệu tấn, cho phép khai thác 1,7 triệu tấn/năm (gồm 850.000 tấn cá đáy, 700.000 tấn cá nổi nhỏ và 120.000 tấn cá nổi đại dương).
Bên cạnh cá, vùng biển nước ta còn có các nguồn lợi tự nhiên khác như 1.600 loài giáp xác (sản lượng cho phép khai thác 50 – 60 nghìn tấn/năm), đặc biệt có giá trị là các loài tôm, cua, ghẹ; 2.500 loài động vật thân mềm, đáng kể là mực và bạch tuộc các loại (sản lượng cho phép khai thác 60 – 70 nghìn tấn/năm). Ngoài ra còn có một số loài đặc sản có giá trị kinh tế cao như rong biển, bào ngư, đồi mồi, chim biển, ngọc trai,...
Các nguồn lợi thủy sản trên tập trung thành các vùng có điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng, phát triển, tạo nên các ngư trường. Vùng biển nước ta hiện nay có 15 ngư trường chính, trong đó, có 4 ngư trường trọng điểm đã được xác định là ngư trường Cà Mau – Kiên Giang (còn gọi là ngư trường vịnh Thái Lan), ngư trường Ninh Thuận – Bình Thuận – Bà Rịa Vũng Tàu, ngư trường Hải Phòng – Quảng Ninh (ngư trường vịnh Bắc Bộ) và ngư trường quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Tuy nhiên, do chế độ gió mùa làm thay đổi cơ bản điều kiện hải dương học theo mùa nên sự phân bố của nguồn lợi thủy sản trong vùng biển có sự thay đổi rõ rệt theo mùa, tạo nên tính mùa vụ trong khai thác thủy sản. Một năm có 2 vụ khai thác là vụ Bắc và vụ Nam.
Như vậy, với nguồn lợi thủy sản phong phú, đa dạng, khả năng tái tạo cao, lại phân bố tập trung thành các ngư trường trọng điểm là điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành thủy sản. Tính đa loài, số lượng cá thể của mỗi loài không nhiều, đa kích cỡ gây khó khăn cho phân loại cá, số lượng không đáp ứng được yêu cầu chế biến công nghiệp. Hiện nay, do khai thác chưa hợp lí nên nguồn lợi thủy sản đã bị suy giảm nhiều, nhất là thủy sản ở ven bờ.
b. Các nhân tố kinh tế – xã hội
- Dân cư và nguồn lao động
Việt Nam là một nước đông dân. Năm 2012, nước ta có số dân là 88.772,9 nghìn người, đứng thứ 3 ở Đông Nam Á và thứ 13 thế giới. Hàng năm nước ta có thêm gần 950 nghìn trẻ em được sinh ra. Quy mô dân số đông và gia tăng hàng năm làm cho nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp thiết yếu như lương thực, thực phẩm ngày càng nhiều.
Nguồn lao nông nghiệp khá dồi dào. Năm 1995, lao động trong khu vực nông nghiệp là 23,5 triệu người, chiếm 72,1% lao động cả nước; năm 2000 là 24,5 triệu; năm 2010 là 24,28 triệu và năm 2012 là 24,36 triệu người, chiếm 47,4% tổng lao động cả nước.
Chất lượng lao động bước đầu đã được cải thiện, tuy chưa đáp ứng kịp yêu cầu của nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng trước công cuộc Đổi mới. Bản chất người lao động nông nghiệp cần cù, chịu khó và có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, lực lượng lao động trẻ đủ sức tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ. Tuy nhiên, nguồn lao động đông mà phần lớn là lao động phổ thông đã gây khó khăn cho phát triển nông nghiệp theo chiều sâu. Hơn nữa, nguồn lao động chưa được sử dụng hợp lí và phân bố không đều giữa các ngành và các vùng trong cả nước. Phần lớn lao động tập trung ở vùng đồng bằng và chủ yếu trong ngành nông nghiệp.
- Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ nông nghiệp
Cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn không ngừng được hoàn thiện, nhất là về hệ thống giao thông nông thôn. Với sự nỗ lực đầu tư của Nhà nước và huy động được nguồn vốn trong dân, đến nay đã có 96,9% số xã có đường ô tô đến trung tâm; 96,8% số xã có điện lưới quốc gia; hệ thống chợ, bưu chính viễn thông nông thôn được quan tâm đầu tư phát triển góp phần quan trọng cho nông nghiệp đạt hiệu quả cao.
Cơ sở vật chất kĩ thuật trong nông nghiệp bước đầu đã được hình thành và phát triển. Vấn đề tưới tiêu cơ bản đã được giải quyết, nhất là ở các vùng đồng bằng. Hệ thống đồng ruộng đã được cải tạo đảm bảo cho việc thâm canh, cơ giới hóa. Công tác phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi đã được triển khai và có thể nhanh chóng dập tắt các nguồn gây bệnh. Các loại giống mới cho năng suất cao dần dần được thay thế cho các loại giống cũ.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền nông nghiệp đã được tăng cường đáng kể, nhất là về thủy lợi, về điện phục vụ nông nghiệp, phân bón, vật tư nông nghiệp, cơ giới hóa. Vào giữa thập kỉ 90, hơn 90% diện tích gieo trồng lúa được tưới tiêu bằng các công trình thủy nông lớn. Phần lớn các vùng nông thôn đã có điện. Một bộ phận diện tích canh tác được cơ giới hóa. Nhiều tiến bộ khoa học kĩ thuật được đưa nhanh vào sản xuất, tạo ra bước chuyển biến mới về năng suất, chất lượng và hiệu quả của nông nghiệp. Đảng và Nhà nước đã đầu tư nhiều công trình hồ chứa lớn ở thượng nguồn tham gia chống lũ cho hạ du; nhiều hệ thống đê sông, đê biển được nâng cấp và xây mới đã góp phần đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp.
Các cơ sở chế biến nông phẩm đang từng bước gắn với hoạt động sản xuất nông nghiệp chặt chẽ hơn. Sự xuất hiện của nhiều nhà máy chế biến nông phẩm ở các vùng chuyên canh lớn như Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng,.... đã thúc đẩy sự phát triển của các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp khác nhau.
Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ trực tiếp cho khai thác và nuôi trồng thủy sản. Nước ta có khoảng 700 cơ sở sửa chữa và đóng tàu mới với khả năng đóng 4.000 chiếc/năm và sửa chữa trên 10.000 chiếc/năm. Tuy nhiên, các cơ sở này chủ yếu có quy mô nhỏ, phần lớn đóng tàu vỏ gỗ theo mẫu dân gian với tuổi thọ không cao. Cảng cá ở nước ta được xây dựng từ Bắc xuống Nam với trên 79 cảng cá và nhiều bến cá, khu trú bão cho tàu thuyền.
Các công trình thủy lợi như hồ chứa nước, hệ thống kênh mương phát triển góp phần tăng diện tích nuôi trồng thủy sản.
Tuy nhiên, hệ thống đê còn nhiều bất cập như dễ sạt lở, dễ vỡ. Hệ thống trạm bơm, cống thoát nước còn lạc hậu chưa đáp ứng yêu cầu. Trình độ cơ giới hóa còn thấp, việc đưa máy móc vào sản xuất còn hạn chế, đặc biệt trong ngành trồng cây lương thực. Sự kém hiệu quả của công nghiệp chế biến nông sản, trình độ công nghệ còn hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ đến các vùng sản xuất nguyên liệu nông nghiệp. Cơ sở vật chất của hầu hết cảng cá còn chưa đủ, chưa đồng bộ và hoạt động chưa hiệu quả, nhiều tàu thuyền đánh bắt không lắp đặt các thiết bị hàng hải cần thiết, từ đó khó theo dõi tình hình thời tiết và khi gặp nạn thì khó liên lạc cho tàu trên biển và đất liền cứu giúp.
- Đường lối, chính sách
Ở nước ta nông nghiệp đã được Đảng và Nhà nước coi là mặt trận hàng đầu. Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) với đường lối Đổi mới toàn diện đã đưa ngành này lên một bước phát triển mới.
Một bước ngoặt trong quá trình phát triển nông nghiệp ở nước ta được đánh dấu bằng Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (1981 – khóa IV) và Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (1988 – khóa VI) giao khoán ruộng đất cho nông dân và Luật Đất đai (1993) được quyền sử dụng đất lâu dài, chuyển đổi,thuê hay cho thuê đất đã thực sự tạo ra động lực to lớn cho hoạt động sản xuất nông nghiệp phát triển. Sự thay đổi về cơ chế chính sách sản xuất nông nghiệp đã kích thích sự thay đổi để hình thành nên cơ cấu nông nghiệp phù hợp cả về phương diện ngành, lãnh thổ lẫn thành phần kinh tế. Người nông dân được giao quyền tự chủ trong sản xuất, hoàn toàn có quyền quyết định hướng sản xuất, cơ cấu sản phẩm theo hướng mà thị trường yêu cầu, vì thế sẽ hình thành nên những lãnh thổ sản xuất nông nghiệp với quy mô phù hợp và sao cho có lợi nhuận lớn nhất có thể với người nông dân.
Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) số 26–NQ/TW, ngày 5/8/2008 về nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã đưa ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân theo cơ chế thị trường định hướng XHCN; giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, mà trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; phát huy cao nội lực, đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân.
- Khoa học công nghệ
Những năm gần đây, bên cạnh việc tập trung đầu tư về tiền vốn, cơ sở hạ tầng và đổi mới cơ cấu sản xuất cũng như cơ chế quản lí, sản xuất nông nghiệp của nước ta bước đầu có những chuyển biến tích cực trong áp dụng các tiến bộ khoa học – công nghệ. Khoa học công nghệ được thực hiện trong mọi khâu của quá trình sản xuất: lai tạo ra giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao; kĩ thuật và công nghệ tiên tiến trong canh tác, chăm sóc, nuôi trồng để tạo ra các sản phẩm an toàn, có chất lượng cao; các kĩ thuật về đầu tư sử dụng phân bón; kĩ thuật thu hoạch, chế biến và bảo quản sản phẩm,...
Hiện nay có khoảng 90 giống cây trồng, vật nuôi được lai tạo và đưa vào sản xuất nông nghiệp, 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, 100% diện tích điều trồng mới được sử dụng giống mới,... Cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp đang được nhân rộng. Tỉ lệ sử dụng máy móc vào các công việc trong sản xuất lương thực như làm đất, tưới tiêu, tuốt lúa, vận chuyển,... đạt 80%. Việc áp dụng tiến bộ của khoa học vào quy trình chăm bón – thu hoạch – bảo quản, đặc biệt là chương trình phát triển công nghiệp chế biến cũng được thực hiện có hiệu quả.
Trong nuôi trồng thủy sản phải kể đến việc nghiên cứu và đưa vào đại trà nhiều loại giống tốt, chủ động được công nghệ sản xuất giống. Ở nước ta đã thành lập nhiều Viện, Trung tâm nghiên cứu nuôi trồng thủy sản nên vừa sản xuất được nhiều giống tốt, đa dạng hóa đối tượng nuôi và tăng số lượng mặt hàng thương phẩm thủy sản có giá trị kinh tế cao, vừa phổ biến quy trình kĩ thuật nuôi trồng các giống mới đến ngư dân. Cuộc cách mạng về giống đã góp phần quan trọng làm cho năng suất cao và góp phần phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng công nghiệp. Nhiều mô hình nuôi thủy sản bền vững như nuôi kết hợp một số loài thủy sản, kết hợp nuôi thủy sản với sản xuất lúa, tận dụng được diện tích mặt nước, thức ăn, đem lại hiệu quả kinh tế cao, bảo vệ môi trường sinh thái đã được nhân rộng.
Nhờ áp dụng những tiến bộ khoa học – công nghệ mà sản xuất lương thực trong thời gian qua mặc dù gặp nhiều khó khăn thiên tai, dịch bệnh, thị trường biến động vẫn phát triển không ngừng. Tuy nhiên, nếu như việc áp dụng khoa học – công nghệ được quan tâm nhiều hơn, rộng rãi và phổ biến hơn thì chắc chắn nó sẽ tạo ra nhiều đột phá hơn góp phần làm biến đổi sâu sắc và toàn diện tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở nước ta.
- Thị trường
Dân số nước ta đông, đời sống ngày càng được nâng lên là thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp rộng lớn. Mặt khác, thị trường này ngày càng mở rộng, tăng lên về nhu cầu nông phẩm. Thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước không chỉ thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp và giá cả nông sản mà còn góp phần điều tiết việc hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa.
Nhu cầu của thị trường thay đổi cùng với sự phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho nền nông nghiệp năng động, sáng tạo hơn, giúp người nông dân quan tâm đến thị trường nông phẩm để tính toán hiệu quả sản xuất, ngày công, vốn; lựa chọn, phát triển các nông sản có giá trị hàng hóa cao, khối lượng lớn,...
Tuy nhiên, thị trường nông phẩm luôn có sự biến động, việc phát triển và mở rộng thị trường đòi hỏi khắt khe về chất lượng sản phẩm, trong khi hàm lượng chất xám cho một đơn vị sản phẩm của nông nghiệp nước ta chưa cao.
CHƯƠNG II:
CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP
I. TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP.
1. Khái niệm
Con người luôn gắn với lãnh thổ nhất định, nơi họ sống và làm việc. Chính ở đây, họ đã tạo được một hệ thống các mối quan hệ qua lại hợp lý nhất giữa con người với tự nhiên. Hệ thống này, một mặt, cho phép con người sử dụng tốt nhất các nhân tố lãnh thổ của sản xuất với chi phí xã hội thấp nhất, hiệu quả kinh tế cao nhất và mặt khác, tạo nên các điều kiện thuận lợi cho cuộc sống và lao động của mình. Đó là bản chất của việc tổ chức xã hội theo lãnh thổ. Tổ chức xã hội theo lãnh thổ bao gồm hai hình thức chủ yếu: tổ chức nền sản xuất xã hội và tổ chức môi trường sống của con người, trong đó hình thức thứ nhất giữ vai trò quyết định.
Cùng với ngành công nghiệp, TCLTNN với tư cách là việc tổ chức ngành sản xuất vật chất, ngành kinh tế then chốt đang được quan tâm nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của nền sản xuất xã hội.
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp được hiểu là một hệ thống liên kết không gian của các ngành, các xí nghiệp nông nghiệp và các lãnh thổ dựa trên cơ sở các qui trình kĩ thuật mới nhất, chuyên môn hóa, tập trung hóa, liên hợp hóa và hợp tác hóa sản xuất cho phép sử dụng có hiệu quả nhất sự khác nhau theo lãnh thổ về điều kiện tự nhiên, kinh tế, nguồn lao động và bảo đảm năng suất lao động xã hội cao nhất.
2. Đặc điểm:
- Phân công lao động theo lãnh thổ cùng với việc kết hợp các điều kiện tự nhiên, kinh tế và lao động là cơ sở để hình thành các mối liên kết qua lại theo không gian (lãnh thổ).
- Trong TCLTNN, khía cạnh ngành và khía cạnh lãnh thổ kết hợp chặt chẽ, qua lại với nhau.
- Các đặc điểm không gian (lãnh thổ) của sản xuất nông nghiệp được xác định bởi tính chất của việc khai thác và sử dụng các điều kiện sản xuất hiện có.
- Hiệu quả kinh tế và năng suất lao động là tiêu chuẩn hàng đầu của TCLTNN.
- TCLTNN luôn thay đổi, phù hợp với các hình thái kinh tế - xã hội. Trong điều kiện hiện nay, TCLTNN gắn liền với khoa học công nghệ, với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với sự phát t riển của nền sản xuất xã hội, của khoa học công nghệ, nhiều hình thức TCLTNN đã và đang xuất hiện, mang lại hiệu quả cao về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
3. Ý nghĩa kinh tế - xã hội của việc nghiên cứu TCLTNN
- Việc nghiên cứu TCLTNN nói chung và các hình thức tổ chức của nó theo lãnh thổ tạo ra những tiền đề cần thiết nhằm sử dụng hợp lý các nguồn lực về tự nhiên, kinh tế - xã hội của cả nước cũng như của từng vùng, địa phương.
- TCLTNN tạo ra những điều kiện làm đẩy mạnh và sâu sắc chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp. Khi chuyên môn hóa phát triển đến một mức độ nhất định, tất yếu sẽdẫn đến quá trình hợp tác hóa, liên hợp hóa trong phạm vi vùng, quốc gia và quốc tế.
- Việc hoàn thiện các hình thức TCLTNN tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động xã hội.
- Nghiên cứu các hình thức TCLTNN góp phần vào công tác quy hoạch theo lãnh thổ nền kinh tế quốc dân.
II. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP
TCLTNN có nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.Về đại thể, có ba hình thức TCLTNN quan trọng nhất. Đó là xí nghiệp nông nghiệp, thể tổng hợp nông nghiệp và vùng nông nghiệp.
1. Xí nghiệp nông nghiệp
Là một trong các hình thức của TCLTNN, trong đó có sự thống nhất giữa lực lượng lao động với tư liệu lao động (đất đai) và đối tượng lao động (cây trồng vật nuôi) để tạo ra lương thực, thực phẩm cho con người và nguyên liệu cho các ngành kinh tế, tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Mỗi xí nghiệp đều có tính độc lập về pháp lí và có thể quan hệ với các xí nghiệp khác.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, các nông trang, nông trường (quốc doanh, tập thể), các hợp tác xã nông nghiệp được coi là xí nghiệp nông nghiệp.
Ở các nước phương Tây, có nhiều hình thức liên quan đến xí nghiệp nông nghiệp.Phổ biến hơn là các nông trại và đồn điền. Hình thức nông trại thường thấy ở Tây Âu và Bắc Mĩ với quy mô khác nhau: từ vài ha đến vài trăm ha. Trong khi đó, hình thức đồn điền tương đối phổ biến ở các nước thuộc địa cũthuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt. Sản phẩm của các đồn điền thường là các loại cây công nghiệp lâu năm (ca cao, cao su, cà phê, chè), cây công nghiệp hằng năm, cây thực phẩm và chủ yếu để xuất khẩu.
Như vậy, các nông hộ, trang trại, hợp tác xã, nông trường quốc doanh, đồn điềnđược coi là xí nghiệp nông nghiệp.
1.1 Hộ gia đình
Nhìn chung ở trên thế giới cũng như Việt Nam, người ta thừa nhận hộ gia đình và kinh tế hộ là kinh tế gia đình. Hộ là một đơn vị kinh tế - xã hội tự chủ cùng một lúc thực hiện nhiều chức năng mà ở các đơn vị kinh tế khác không thể có được. Hộ là một tế bào của xã hội với sự thống nhất của các thành viên có cùng huyết tộc, mà mỗi thành viên đều có nghĩa vụ và trách nhiệm làm tăng thu nhập, đảm bảo sự tồn tại. Hộ còn là một đơn vị sản xuất và tiêu dùng.
Hộ gia đình là hình thức vốn có của sản xuất nhỏ, tồn tại phổ biến ở các nước đang phát triển thuộc châu Á, trong đó có Việt Nam. Các thành viên trong hộ gia đình có mối quan hệ gắn bó về huyết thống cũng như về kinh tế, cùng chung sống trong một mái nhà, cùng tiến hành sản xuất và có chung một nguồn thu nhập. Các đặc điểm cơ bản của hộ gia đình là:
- Về đất đai, qui mô canh tác nhỏ bé, biểu hiện rõ tính chất tiểu nông ở Ấn Độ, bình quân diện tích đất canh tác <2ha/hộ, ở Philippin <3ha.
- Về vốn, đại bộ phận rất ít, quy mô thu nhập nhỏ, khả năng tích lũy thấp làm hạn chế khả năng đầu tư tái sản xuất. Vật tư được mua phục vụ cho sản xuất từ tiền bán hàng nông phẩm.
- Về lao động, chủ yếu dựa vào lao động trong gia đình. Sức lao động của nông hộ không phải hàng hóa, mà là tự phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của gia đình.
- Kỹ thuật canh tác và công cụ sản xuất ít biến đổi, mang nặng tính truyền thống.
- Quy mô sản cuất (đất đai, vốn, lao động) rất nhỏ bé.
Đối với các nước đang phát triển, hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn xã hội, phát triể kinh tế nông thôn, là cơ sở đảm bảo cho kinh tế tập thể tồn tại và thúc đẩy nông thôn quá độ tiến lên một trình độ cao hơn: nông thôn sản xuất hàng hóa.
1.2 Trang trại
Trang trại có nguồn gốc từ hộ gia đình được phát triển dần dần trong quá trình chuyển dịch của nền kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hóa. Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cao hơn hộ gia đình, là sự phát triển tất yếu của nền nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa.Chính công nghiệp hóa đã tạo ra yêu cầu khách quan cho việc phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, tạo điều kiện cho kinh tế trang trại hình thành và phát triển.
Trang trại là kết quả tất yếu của hộ gia đình gắn với sản xuất hàng hóa, là hình thức tiến bộ của sản xuất nông nghiệp thế giới. Trang trại xuất hiện lần đầu tiên ở các nước Tây Âu gắn liền với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, sau đó phổ biến ở tất cả các nước công nghiệp châu Âu, Bắc Mỹ, rồi lan sang Nhật Bản, Hàn Quốc và hiện nay xuất hiện ở nhiều nước đang tiến hành công nghiệp hóa thuộc khu vực Nam Á, Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Hoạt động kinh tế của trang trại chịu sự chi phối của nền kinh tế thị trường và tuân theo quy luật cung cầu, chấp nhận cạnh tranh. Các đặc điểm nổi bật của trang trại bao gồm:
- Mục đích chủ yếu của trang trại là sản xuất nông phẩm hàng hóa theo nhu cầu của thị trường. Đây là bước tiến bộ từ kinh tế hộ tự cấp tự túc lên các hộ nông nghiệp hàng hóa.
- Tư liệu sản xuất (đất đai) thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập (tức là người có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh).
- Qui mô đất đai tương đối lớn, tuy có sự khác nhau giữa các nước. Ví dụ, qui mô trung bình của trang trại ở Hoa Kỳ là 180ha, ở Anh là 71ha, Pháp 29ha, Nhật 1,38ha, Việt Nam 6,3ha.
- Cách thức tổ chức sản xuất tiến bộ, đẩy mạnh chuyên môn hóa (chứ không sản xuất đa canh), tập trung vào những nông sản có lợi thế so sánh và khả năng sinh lợi cao hơn và vào việc thâm canh (đầu tư tương đối lớn về vốn, công nghệ, lao động)trên một đơn vị diện tích.
- Các trang trại đều có thuê mướn lao động (lao động thường xuyên và lao động thời vụ).
Hình 2.1.1.2a: Mô hình trang trại trồng rau
Trang trại có vai trò to lớn trong sản xuất nông nghiệp ở các nước phát triển bởi vì phần lớn nông phẩm cung cấp cho xã hội được sản xuất ra từ các trang trại. Còn tại các nước đang phát triển, vai trò tích cực và quan trọng của trang trại thể hiện rõ nét ở cả ba mặt: kinh tế (phát triển cây trồng vật nuôi có giá trị hàng hóa cao, tạo nên vùng chuyên môn hóa, tập trung hàng hóa), xã hội (tạo them việc làm, tăng thu nhập cho người lao động) và môi trường (sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, trồng rừng và bảo vệ rừng, cải tạo và bảo vệ môi trường sinh thái).
Hình 2.1.1.2b: Trang trại chăn nuôi bò sữa tại Hoa Kỳ
1.3. Hợp tác xã nông nghiệp
Hợp tác xã nông nghiệp là hình thức phổ biến trong nền nông nghiệp thế giới ở cả các nước phát triển và đang phát triển, tuy tên gọi có thể khác nhau như hợp tác xã (các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, Đông Nam Á), nông trại tập thể (Liên Bang Nga, các nước Đông Âu), công xã nhân dân (Trung Quốc). Hợp tác xã nông nghiệp là một tổ chức kinh tế do nông dân tự nguyện lập ra với nguồn vốn hoạt động do chính họ góp cổ phần và huy động từ các nguồn khác, nhằm duy trì, phát triển kinh tế hộ gia đình và tăng nhanh tỷ suất hàng hóa, đạt hiệu quả kinh tế cao cho các chủ trang trại.
Hợp tác xã nông nghiệp đòi hỏi tất yếu của nông dân vì trong cơ chế thị trường có nhiều thành phần, có cạnh tranh để tồn tại và phát triển, đòi hỏi các hộ gia đình, các chủ trang trại phải hợp tác với nhau trên các lĩnh vực cần thiết để đấu tranh bảo vệ lợi ích của chính mình. Kinh tế hộ và trang trại càng phát triển thì nhu cầu hợp tác càng cao.
Mục tiêu hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp không chỉ vì lợi nhuận cho các thành viên góp vốn vào hợp tác xã, mà là nhằm phục vụ tốt nhất các dịch vụ để mang lại thu nhập và lợi nhuậncao nhất cho các hộ, các chủ trang trại.
Có hai loại hình hợp tác xã nông nghiệp:hợp tá...Khí hậu: Nằm trong miền khí hậu phía Nam, ĐNB có đặc điểm của một vùng khí hậu cận xích đạo với nền nhiệt cao và tương đối ổn định trong năm, nhiệt độ trung bình 23-250C, lượng mưa khá phong phú tập trung chủ yếu vào mùa mưa, ít chịu ảnh hưởng của bão và các thiên tai khác thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng nhất là các loại cây trồng nhiệt đới, tạo điều kiện hình thành nèn nông nghiệp nhiệt đới đa dạng, tăng khả năng thâm canh, xen canh, tăng vụ, năng suất cây trồng, vật nuôi cao.
- Đất đai: Trong vùng có nhiều loại đất tốt, giàu dinh dưỡng như đất đỏ bazan chiếm 40% diện tích của vùng, nối tiếp với miền đất badan của Nam Tây nguyên và cực Nam Trung Bộ. Đất xám bạc màu (phù sa cổ) chiếm diện tích nhỏ hơn chút ít, phân bố thành vùng lớn ở các tỉnh Tây Ninh và Bình Dương rất thích hợp với phát triển cây công nghiệp ngắn ngày ( đậu tương, mía, thuốc lá) và cây công nghiệp lâu năm (cao su, cà phê, hồ tiêu, điều).
- Nguồn nước: dồi dào từ các hệ thống sông lớn như hệ thống sông Đồng Nai (lớn thứ ba Việt Nam), có các hồ chứa nước lớn như hồ Dầu Tiếng và Trị An. Tổng lượng nước mặt dự trữ hiện tại hàng năm lên đến gần 4 tỉ m3, đủ khả năng cung cấp nước cho vùng. Nguồn nước ngầm có trữ lượng khá lớn, phân bố tập trung ở Biên Hoà - Long An và TP Hồ Chí Minh.
- Tài nguyên thủy, hải sản: Vùng ĐNB nằm gần các ngư trường lớn là ngư trường Ninh Thuận – Bình Thuận – Bà Rịa – Vũng Tàu và ngư trường Cà Mau – Kiên Giang, đồng thời có các điều kiện lí tưởng để xây dựng để xây dựng các cảng cá. Ven biển có rừng ngập mặn, thuận lợi để nuôi trồng các loại thủy sản nước mặn và nước lợ.
c. Điều kiện kinh tế- xã hội:
- Lao động: Lực lượng lao động tại chỗ khá dồi dào. Mặt khác số lao động lại có kĩ thuật, nhạy bén với những tiến bộ khoa học kĩ thuật, tính năng động cao với nền sản xuất hàng hoá và đã quen với việc kinh doanh trên thị trường. Đây là tiềm năng quý giá để khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực của ĐNB.
- Cơ sở vật chất kĩ thuật: tương đối tốt, đặc biệt mạng lưới giao thông vận tải tốt hơn các vùng khác, đã xây dựng nhiều nhà máy công nghiệp chế biến tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất nông nghiệp vùng phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá.
- Nền kinh tế thị trường: sớm hình thành và phát triển tại Đông Nam Bộ là một trong các điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế của vùng.
- Vốn: là vùng đang tiếp tục thu hút đầu tư trong nước và quốc tế lớn nhất cả nước.
Có thể nói, tất cả những yếu tố trên là nguồn lực đưa Đông Nam Bộ trở thành vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất cả nước
5.3. Những hạn chế đối với phát triển nông nghiệp của vùng
Hạn chế lớn nhất đối với phát triển nông nghiệp của vùng là sự phân hóa mùa sâu sắc. Mùa khô kéo dài tới 4 – 5 tháng (từ cuối tháng XI đến hết tháng IV) gây thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt. Tuy nhiên, Đông Nam Bộ đang từng bước khắc phục bằng việc xây dựng các hồ chứa, các công trình thủy lợi để giải quyết vấn đề nước tưới vào mùa khô.
Vấn đề thủy lợi trong vùng có ý nghĩa hàng đầu. Nhiều công trình thủy lợi đã được xây dựng. Công trình thủy lợi Dầu Tiếng trên thượng lưu sông Sài Gòn (tỉnh Tây Ninh) là công trình thủy lợi lớn nhất của nước ta hiện nay. Hồ Dầu Tiếng rộng 270 km2, chứa 1,5 tỉ m2 nước, bảo đảm tưới tiêu cho hơn 170 nghìn ha đất thường xuyên bị thiếu nước về mùa khô của tỉnh Tây Ninh và của huyện Củ Chi (Thành phố Hồ Chí Minh). Việc giải quyết nước tưới cho các vùng khô hạn về mùa khô và tiêu nước cho các vùng thấp dọc sông Đồng Nai và sông La Ngà cũng được thực hiện kết hợp với việc xây dựng các công trình thủy điện trên sông Bé, sông Đồng Nai và sông La Ngà. Nhờ đó, diện tích đất trồng trọt tăng lên, hệ số sử dụng đất trồng cây hàng năm cũng tăng và khả năng bảo đảm lương thực, thực phẩm của Vùng cũng khá hơn.
5.4. Những sản phẩm chuyên môn hóa chủ yếu của vùng
ĐNB có tiềm năng to lớn phát triển nông nghiệp với những thế mạnh nổi bật như chuyên canh cây công nghiệp, chăn nuôi nhất là nuôi bò sữa. Giá trị sản xuất nông nghiệp của vùng tăng lên đáng kể đạt 17.769,3 tỷ đồng chiếm 12,2% cả nước (năm 2004).
Bản đồ kinh tế chung Đông Nam Bộ
a. Ngành trồng trọt:
Do có nhiều điều kiện thuận lợi nên ở ĐNB đã hình thành nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung trên quy mô lớn. Nhiều sản phẩm chiếm tỷ trọng cao trong sản lượng hàng hoá cả nước.
- Cây công nghiệp:
Đây là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn thứ nhất cả nước, đặc biệt là các loại cây công nghiệp nhiệt đới có giá trị xuất khẩu lớn. Tập đoàn cây công nghiệp dài ngày của vùng Đông Nam Bộ bao gồm cao su, cà phê, chè, điều, dâu tằm. Cây lâu năm là thế mạnh của vùng Đông Nam Bộ và chiếm 36% diện tích cây lâu năm của toàn quốc. Trong số cây công nghiệp dài ngày, chiếm ưu thế là cây công nghiệp (76,6%), còn cây ăn quả chiếm tỉ lệ rất ít. Tại đây đã hình thành nên các vùng chuyên canh cây công nghiệp với cơ cấu cây trồng tương đối ổn định.
+ Cây cao su: Việc trồng cây cao su ở Đông Nam Bộ đã được tiến hành từ thời Pháp thuộc. Cho đến nay, cây cao su đã trở thành cây trồng chủ lực của vùng (khoảng 38% diện tích đất trồng cây lâu năm của vùng). Diện tích và sản lượng cao su của vùng chiếm trên 80% cả nước. Cây cao su của vùng Đông Nam Bộ tập trung ở các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước Hiện nay cây cao su đang được đầu tư theo chiều sâu, những vườn cao su già cỗi được thay bằng các loại giống cao su mới của Indonesia và Malaixia với năng suất cao gấp nhiều lần. Vì thế sản lượng cao su những thập kỉ tới chắc chắn sẽ tăng lên và khẳng định được vị thế của cây cao su Việt Nam trên thị trường thế giới.
+ Cây cà phê: do có diện tích đất đỏ bazan, có điều kiện tưới tiêu và cây cà phê mang lại hiệu quả kinh tế cao nên ĐNB trở thành vùng trồng cà phê lớn thứ hai cả nước sau Tây nguyên, trồng nhiều ở Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu. Diện tích cà phê hiện nay của toàn vùng là 65 nghìn ha và sản lượng 81 nghìn tấn, chiếm 15,5% diện tích và 10% so với cả nước (năm 2002).
+ Cây hồ tiêu: nhờ có đất đỏ bazan và khí hậu nhiệt đới thích hợp cho phát triển hồ tiêu, mặt khác vùng có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, có kĩ thuật mới, giống mới nên diện tích và năng suất hồ tiêu của vùng không ngừng được mở rộng. Năm 2002 diện tích đạt 19.840 ha, sản lượng là 36.800 tấn, chiếm 52,7% và 63% cả nước. Tập trung ở ba huyện Xuân Lộc, Long Khánh, Châu Thành (Bà Rịa - Vũng Tàu) trên đất vườn của các hộ nông dân.
+ Cây điều: đây là vùng trọng điểm trồng điều hiện nay, diện tích và sản lượng chiếm trên 70% của cả nước. Số lượng điều tiêu thụ trong nước rất ít khoảng 10%, chủ yếu là để xuất khẩu với giá thành cao. Được trồng ở đất có tầng canh tác mỏng hoặc đất cát ven biển, đất xám khô hạn. Tập trung ở các huyện Long Thành, Châu Thành, Long Khánh và các huyện thuộc tỉnh Bình Phước.
- Cây công nghiệp hàng năm: khá phong phú với nhiều loại cây như mía chiếm 22,5% diện tích và 21,6% sản lượng của cả nước trồng nhiều ở Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Dương; đậu tương 20,15% và 15,17% tập trung ở Đồng Nai, Bình Phước; thuốc lá 56,4% và 52,9% trồng tập trung ở Tây Ninh và một số tỉnh trong vùng; Là vùng trồng bông vào loại lớn nhất nước ta nhờ có điều kiện khí hậu đất đai thích hợp diện tích chiếm 45,2% và sản lượng chiếm 60,2% cả nước.
- Cây ăn quả: đặc biệt những loại cây ăn quả cao cấp, sản xuất hàng hoá quy mô lớn. Những khu vực trồng cây ăn quả lớn là Thủ Đức, Đồng Nai, Lai Thiêu; bưởi Tân Triều (Biên Hoà); chuối, sầu riêng (long Khánh); nhãn, mãng cầu (Bà Rịa - Vũng Tàu).
- Cây lương thực: tuy không có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất lương thực nhưng vùng cũng đã trồng và đã cải tạo ra các cây lương thực hàng hoá đánh giá cao như lúa, ngô, sắn.
b. Ngành chăn nuôi:
Hình thức chăn nuôi cũng như cơ cấu ngành có sự thay đổi, do nhu cầu sử dụng các sản phẩm ngày càng lớn nên chăn nuôi công nghiệp phát triển thay thế cho chăn nuôi gia đình lấy sức kéo trước đây.
- Chăn nuôi bò: hình thức chăn nuôi phân tán trong hộ gia đình đã được thay thế theo hướng tập trung trang trại kể cả bò sữa và bò thịt. Năm 2004 tổng đàn bò của vùng đạt 599,7 nghìn con trong đó bò sữa là 13 nghìn con, sản lượng sữa chiếm 75% cả nước. Điển hình là nuôi bò sữa theo hình thức công nghiệp ở huyện Củ Chi (TP. Hồ Chí Minh)
- Chăn nuôi trâu: không phát triển bằng chăn nuôi bò, năm 2004 vùng có 105,5 nghìn con chiếm 3,7% cả nước.
- Chăn nuôi gia cầm: như gà, vịt với trên 17 triệu con năm 2004, phương thức nuôi đa dạng cả hình thức nuôi công nghiệp, thả vườn và cổ truyền nhằm đáp ứng thị hiếu của thị trường.
c. Nuôi trồng và đánh bắt thủy sản:
Đông Nam Bộ có tiềm năng thuỷ sản khá lớn, gồm các nguồn lợi từ hải sản, thuỷ sản nước lợ và nước ngọt. Vùng có đường bờ biển dài khoảng 100 km với nhiều ngư trường rộng lớn. Hiện nay ngành này có nhiều cơ hội phát triển lớn hơn nữa bởi tập trung vốn đầu tư vào việc hiện đại hóa trang thiết bị nhất là phục vụ cho việc đánh bắt xa bờ.
ĐNB là vùng tương đối điển hình ở nước ta về khai thác và tổ chức sản xuất lãnh thổ theo chiều sâu. Đó là sự kết hợp giữa chuyên môn hoá sản xuất và phát triển tổng hợp, tạo nên một tổng hợp thể sản xuất lãnh thổ hợp lí cả về công nghiệp và nông nghiệp, gắn việc khai thác kinh tế trên đất liền với dải ven biển và đảo, hình thành một nền kinh tế biển đa dạng và phong phú.
5.5. Định hướng phát triển nông nghiệp
Đông Nam Bộ là vùng đại diện cho sự phát triển năng động, hội nhập quốc tế tích cực. Vùng ĐNB và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có vai trò đầu tàu thúc đẩy một cách quyết định đối với sự phát triển của cả nước. Tập trung sức lực, trí tuệ để phát triển vùng ĐNB và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là yêu cầu chiến lược của công cuộc thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là biểu trưng quan trọng cho sự thịnh vượng của nước ta sánh vai với khu vực và quốc tế.
Để vùng ĐNB tiếp tục phát triển nhanh thì vùng cần đi đầu trong hầu hết các lĩnh vực phát triển của đất nước. Tiến hành tổ chức lãnh thổ hợp lí trong một không gian phát triển sôi động, hài hoà để phát huy ngày càng mạnh các chức năng của vùng.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp phải đẩy mạnh thâm canh để không ngừng tăng tỉ suất hàng hoá. Hình thành các vùng chuyên canh cao su, cà phê với quy mô lớn để xuất khẩu trên cơ sở thu hút đầu tư ở trong và ngoài nước. Mặt khác tuỳ theo thị trường và điều kiện tự nhiên của từng khu vực , có thể phát triển cây điều, cọ dầu, hồ tiêu với diện tích lớn và gắn với công nghiệp chế biến. Đối với cây công nghiệp ngắn ngày, tuỳ tình hình thực tiễn , mở rộng và thâm canh các vùng mía, đậu tương, thuốc láThâm canh các vùng cây lương thực như ngô, lúa, hình thành vành đai rau thực phẩm, chăn nuôi quanh các khu công nghiệp và các thành phố lớn.
Hình thành các vùng nông sản hàng hoá xuất khẩu (cao su, hồ tiêu, điều). Như vùng chuyên canh cao su ở Đồng Nai, chuyên canh cà phê ở Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu; vùng chuyên canh hồ tiêu ở Bà Rịa - Vũng Tàu; vùng chuyên canh điều ở Bình Phước
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ SẢN PHẨM CHUYÊN MÔN HÓA Ở ĐNB
Điều Cao su
Hồ tiêu
6. Vùng đồng bằng sông Hồng
6.1. Thế mạnh phát triển nông nghiệp của vùng
- Vị trí địa lý: với diện tích: 14.799km2 (chiếm 4,5% diện tích), nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa trung du, miền núi phía Bắc và Tây Bắc với vùng biển phía Đông, đồng bằng sông Hồng có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, đối với phát triển nông nghiệp nói riêng.
- Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên:
+ Với diện tích đất đã được sử dịng trên 1 triệu ha. Đất rất thích hợp với việc thâm canh lúa nước và trồng màu cũng như trồng các cây công nghiệp ngắn ngày (đay, đậu tương, lạc, mía,), đất đai thường xuyên được phù sa của hai sông: sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp nên rất màu mỡ và ngày càng mở rộng ra biển (hàng năm chín cửa sông của vùng đồng bằng sông Hồng góp phần lấn ra biển hàng trăm ha đất mới).
+ Nước phục vụ phát triển nồng nghiệp rất dồi dào, được cung cấp từ hệ thống sông Hồng và hồ Hòa Bình và nhiều sông khác.
+ Khí hậu tương đối thuận lợi cho phát triển nồng nghiệp. Đặc biệt, ở đây có một mùa đông lạnh từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Đồng thời mùa này cũng là mùa khô thuận lợi cho việc canh tác các loại cây và rau vụ đông.
Như vậy, ta thấy điều kiện tự nhiên ở đây rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, còn một số kho khăn do điều kiện tự nhiên mang lại như:
+ Độ màu mỡ của đất do sự khác nhau trong đê và ngoài đê, đất trong đê ngày càng xấu đi do bạc màu, và diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp do sự tăng lên của đất thổ cư,
+ Nước phụ thuộc nhiều vào mùa, mùa lũ nước gây ứ đọng trên sông, còn mùa cạn thì lượng nước rất ít, lòng sông thường khô cạn rất thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp lẫn sinh hoạt và các lĩnh vực khác.
+ Khí hậu là sự quá dư thừa nước trong mùa mưa và thiếu nước trong mùa khô. Do vậy, để ổn định việc phát triển sản xuất, đặc biệt là trong nông nghiệp, đòi hỏi phải có hệ thống thủy nông nhằm chủ động tưới tiêu.
- Điều kiện kinh tế - xã hội:
+ Đồng bằng sông Hồng với nguồn lao động dồi dào (mật độ 994 người/Km2, 2015) đáp ứng được nhu cầu cần nhiều lao động của ngành nông nghiệp.
+ Người lao động có kinh nghiệm trồng lúa nước và trình độ thâm canh cao, xen canh, gối vụ, do đồng bằng sông Hồng là cái nôi của nền văn minh lúa nước, có lịch sử hình thành rất sớm.
+ Nguồn lao động có trình độ học vấn và kỹ thuật cao.
+ Sự phát triển mạnh của công nghiệp và giao thông vận tải có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nồng nghiệp.
+ Đồng bằng sông Hồng với hệ thống đê bao phát triển mạnh đảm bảo cho sự phát triển liên tục của ngành nông nghiệp được ổn định quanh năm.
Tóm lại, đồng bằng sông Hồng có điều kiện tự nguyên và kinh tế - xã hội rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và thực tế đồng bằng sông Hồng là một trong những vùng nông nghiệp phát triển nhất cả nước, đặc biệt là vùng lương thực - thực phẩm lớn thứ hai cả nước chỉ sau đồng bằng sông Cửu Long.
6.2. Những ngành nông nghiệp chính
a. Ngành trồng trọt
+ Trồng cây lương thực:
Đồng bằng sông Hồng, với tư cách là một trong những vựa lúa lớn nhất cả nước (cùng với đồng bằng sông Cửu Long), đồng bằng sông Hồng góp phần vào việc giải quyết lương thực cho số dân đông đảo của vùng (85% sản lượng) và còn cung cấp khoảng 5% cho các vùng lân cận. Chẳng những thế, vùng còn với đồng bằng sông Cửu Long xuất khẩu một lượng lớn lương thực ra thế giới (đồng bằng sông Hồng xuất khẩu 10% giá trị sản xuất lương thực cho vùng), đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới (chỉ sau Thái Lan).
Cùng với xu hướng phát triển nông nghiệp của cả nước, nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng chủ yếu là trồng lúa nước (chiếm gần 90% trong tổng diện tích ngành trồng trọt). Cơ cấu nông nghiệp của vùng có sự mất cân đối giữa tròng trọt và chăn nuôi, cả trong ngành trồng trọt cũng có sự mất cân đối giữa cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày.
Về hiện trạng sử dụng đất, do đồng bằng sông Hồng được khai thác từ lâu đời, cùng với đội ngũ khoa học kỹ thuật cao, cơ sở thủy nông, hạ tầng phát triển mạnh, đồng bằng đã sử dụng gần như triệt để diện tích đất có thể phát triển nông nghiệp với 57,65% diện tích đất tự nhiên của vùng. Khả năng mở rộng diện tích đất từ khai hoang là rất hạn chế. Tuy nhiên, ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, dân số, diện tích đất thổ cư tăng lên cũng góp phần làm giảm diện tích đất nông nghiệp, sự phát triển đất chuyên dụng, đất xây dựng các công trình dân dụng, làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Tuy nhiên, diện tích đất nông nghiệp của vùng vẫn đảm bảo bằng cách mở rộng diện tích theo hình thức thâm canh (tăng hệ số sử dụng đất).
Với điều kiện thuận lợi: đất đồng bằng được phù sa sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp, nước được cung cấp dâyd đủ, nguồn lao động đông và có kinh nghiệm trong thâm canh lúa nước, có hệ thống sản xuất phân lân, phân đạm, phân super phot phat cùng các nhà máy chế biến và giao thông thủy lợi khá phát triển, nên cây lương thực giữ vị trí hàng đầu trong nông nghiệp nói chung và cây ngắn ngày nói riêng (cây công nghiệp hàng năm chiếm 89,15% diện tích đất nông nghiệp, trong đó, phần lớn dùng để trồng cây lương thực). Phát huy truyển thống thâm canh tăng vụ, diện tích cây lương thực giữ vị trí hàng đầu trong nông nghiệp, diện tích cây lương thực năm 2015 là 1201,7 ha (chiếm 13,3 % diện tích cây lương thực cả nước), trong đó 1110,4 triệu ha là trồng lúa.
Đồng bằng sông Hồng có trình độ thâm canh cao và cũng là vùng áp dụng khoa học kỹ thuật vào phát triển nông nghiệp rất lớn nên năng suất lúa của vùng đạt cao nhất cả nước (năng suất trung bình đạt 60,6 tạ/ha). Sản lượng cao và ngày càng tăng: năm 2013 đạt sản lượng gần 6655,4 nghìn tấn, năm 2015 đạt sơ bộ khoảng 6734,5 nghìn tấn lúa. Sản lượng lương thực quy thóc đạt 6,9 triệu tấn. Về cơ cấu sản lượng lương thực, lúa chiếm 97%, hoa màu 3% (chủ yếu là ngô, khoai, sắn trồng ở các bãi ven sông hoặc vùng đất cao trên đồng bằng luân canh với cây ngắn ngày khác).
Một điểm đặc biệt của vùng đồng bằng sông Hồng là khí hậu một mùa đông lạnh gần 6 tháng (từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau) nên vùng khác với đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng có những vùng thâm canh, chuyên canh rau quả làm thực phẩm xuất khẩu, nhiều nhất là vụ đông xuân (còn gọi là thực phẩm vụ đông), phân bố chủ yếu ở Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình, Hải Dương, Nam Định, Hà Nam.
+ Cây công nghiệp: chủ yếu là cây công nghiệp ngắn ngày được trồng nhiều ở đồng bằng sông Hồng là chuyên canh cây đai và cói.
b. Ngành chăn nuôi
Đặc trưng của vùng đồng bằng sông Hồng là chăn nuôi tiểu gia súc và gia cầm. Đàn lợn thường gắn với vùng sản xuất lương thực. Đến năm 2015 đã có 7061,2 nghìn con lợn (chiếm 25,7 % đàn lợn cả nước); đàn gia cầm trên 90 triệu con (chiếm 26,6 % đàn gia cầm của cả nước). Đàn trâu thì có chiều hướng giảm từ 168,3 nghìn con năm 2010 xuống 130,5 nghìn con năm 2015. Như vậy, chỉ trong 10 năm trở lại đây, đàn trâu đã giảm 37,8 nghìn con. Đàn bò giảm từ 651,7 nghìn con năm 2010 xuống còn 496,6 nghìn con năm 2015. Đáng chú ý là việc phát triển bò sữa ở ngoại thành thành phố Hà Nội với qui mô nhỏ, hộ gia đình.
6.3. Định hướng phát triển nông nghiệp đồng bằng sông Hồng
- Đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, góp phần cùng đồng bằng sông Cửu Long trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Hình thành các vùng sản xuất lúa, ngô chất lượng cao.
- Khai thác tiềm năng đất đai một cách có hiệu quả để xây dựng và phát triển nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng, chất lượng cao; phát triển và làm giàu môi trường sinh thái, tiết kiệm đất đai trong phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng.
- Xây dựng các vùng chuyên canh, phát triển sản xuất râu, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, hoa và vật nuôi nhằm tăng nhanh tỉ trọng của các ngành này trong giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp. Phát triển nuôi trồng thủy sản ven bờ, đánh bắt thủy sản ven bờ.
- Phát triển nông nghiệp đi đôi với công nghiệp chế biến, với xây dựng nông thôn mới; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền nông nghiệp và nông thôn. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến.
- Đẩy mạnh ngoại giao, tìm kiếm nhiều thị trường xuất khẩu có tiềm năng lâu dài và ổn định.
- Tạo thương hiệu sản phẩm và tăng cường quảng bá trên thị trường.
7. Vùng nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long
7.1. Thế mạnh phát triển nông nghiệp của vùng đồng bằng sông Cửu Long
- Vị trí địa lý: diện tích 37.717,3 km2, chiếm 12% diện tích tự nhiên cả nước.
+ Đây là vùng tận cùng phía Tây Nam của Tổ quốc.
+ Là một trong những đồng bằng châu thổ rộng và phì nhiêu ở Đông Nam Á và thế giới. Là vùng sản xuất lương thực lớn nhất và cũng là vùng thủy sản, vùng cây ăn trái nhiệt đới lớn của nước ta.
+ Nằm giữa một khu vực kinh tế năng động, liền kề vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, vùng phát triển năng động nhất nước (Đông Nam Bộ) và gần các nước trong khu vực.
+ Nằm trên đường hàng hải và hàng không quốc tế, do đó thuận lợi cho giao lưu kinh tế với khu vực và thế giới.
Với vị trí này, đồng bằng sông Cửu Long thuận lợi phát triển kinh tế biển và trở thành vùng xuất khẩu gạo lớn nhất của cả nước.
- Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên:
+ Địa hình: vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long diện tích khoảng 4 triệu ha, chủ yếu do bồi tụ của sông Mê Kông, hiện hàng năm còn mở rông về phía biển từ 80 – 100m. Đây là vùng đồng bằng có qui mô lớn nhất nước ta. Trội hơn cả là tiềm năng nông nghiệp. Diện tích rộng lớn và độ cao địa hình thấp (trung bình 3 – 5m, có khu vực chỉ cao 0,5 – 1m, độ dốc trung bình 1cm/km) nên mùa mưa thoát lũ chậm. Ngược lại, về mùa khô thì sự xâm lấn của nước mặn lại tăng cường (nhất là vào năm 2016). Thêm vào đó là do sự bồi tụ không đều nhau nên đồng bằng có sự phân hóa, nên đồng bằng còn có sự phân hóa thành các vùng cao thấp khác nhau (vùng trũng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, và vùng đất cao giữa sông Tiền và sông Hậu,).
Với địa hình như trên rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, đặc biệt là thâm canh cây lúa nước. Nhưng để khai thác hợp lý và có hiệu quả, vùng cần giải quyết hàng loạt vấn đề: phát triển hệ thống thủy lợi để dùng nước ngọt cải tạo đất “tháo chua, rửa mặn”, bố trí cơ cấu cây trồng thích hợp, đắp đê ngăn mặn, đắp bờ bao,
+ Khí hậu:
Đồng bằng sông Cửu Long có khí hậu nhiệt đới ẩm với tính chất cận xích đạo, với nền nhiệt cao từ 24 – 27oC. Sự biến động nhiệt ngày đêm, theo mùa nhỏ, gần như suốt năm là mùa nóng (tổng nhiệt hoạt động từ 9.500 – 10.000oC), số giờ nắng trung bình là 2.400 – 2.600 giờ.
Sự phân hóa khí hậu không lớn giữa các miền, cùng với sự phân hóa của địa hình, rất thích hợp cho sinh vật tăng trưởng và phát triển. Đó là tiền đề cho việc thâm canh, tăng vụ. Ở vùng này, ngoài hai vụ lúa chính, ngày càng nhiều địa phương đã tăng lên sản xuất ba vụ trong năm (hoặc ba vụ lúa: vụ đông xuân, hè thu và vụ mùa, hoặc hai vụ lúa và một vụ màu,).
+ Đất đai:
Tài nguyên đất của vùng khá phong phú và đa dạng: đất phù sa ven sông, đất phèn, đất mặn, đất xám, trong đó, quan trọng nhất là đất phù sa ngọt ở ven và giữa hệ thống sông Tiền và sông Hậu với tổng diện tích khoảng 29,7% diện tích toàn vùng và khoảng 1/3 tổng diện tích đất phù sa cả nước.
Ngày nay, các loại đất khác: đất phèn, đất mặn đã và đang được khai thác mạnh vào sản xuất nông nghiệp.
Nhìn chung, đó là cơ sở quan trọng để phát triển các ngành sản xuất lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp theo hướng chuyên môn hóa sâu và mạnh trong vùng. Đây là thế mạnh tự nhiên mà các vùng khác ở nước ta không có được.
+ Nguồn nước:
Với hai sông lớn: sông Tiền và sông Hậu cùng hệ thống kênh rạch chằng chịt, lượng nước phong phú quanh năm là nguồn cung cấp nước cho viễc tưới tiêu trong nông nghiệp. Nguồn nước ở đây còn chứa nhiều phù sa có tác dụng bồi đắp, mở rộng đồng bằng. Nguồn nước còn có tác dụng tháo chua, rửa mặn góp phần tăng diện tích dất nông nghiệp cho vùng.
Với nguồn nước dồi dào như vậy nên là điều kiện rất thuận lợi cho phát triển các ngành kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng.
- Điều kiện kinh tế - xã hội:
+ Dân số hiện nay là 17,5 triệu người, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên cao cộng với cơ cấu dân số trẻ đó là nguồn lao động dồi dào, đặc biệt là lao động trong nông nghiệp.
Người dân lại có kinh nghiệm trồng lúa nước, cây ăn trái và đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản.
Trình độ văn hóa của người dân càng tăng lên cùng với trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng cao ngày càng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hàng hóa.
+ Có hệ thống trạm trại, trủy lợi , giao thông vận tải, trung tâm lai tạo giống, dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp ngày càng phát triển. Ví dụ: Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long, khoa Nông nghiệp trường Đại học Cần Thơ, là nơi lai tạo nhiều giống lúa mới và từng bước phát triển công nghệ chế biến sản phẩm nông nghiệp,
Hiện nay, được sự quan tâm và đầu tư của Nhà nước, việc áp dụng và đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất làm cho các loại nông sản hàng hóa của vùng ngày càng chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài nước (bưởi Năm Roi, xoài cát Hào Lộc, các loại hải sản, trái cây đóng hộp,)
7.2. Các ngành nông nghiệp chính của vùng đồng bằng sông Cửu Long
a. Ngành trồng cây lương thực:
Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, cây lương thực chiếm ưu thế tuyệt đối. Đến năm 2002 diện tích cây lương thực là trên 3,8 triệu ha và sản lượng đạt trên 17 triệu tấn, chiếm 46,2% diện tích và 48,3% sản lượng lương thực cả nước.
- Cây lúa: chiếm vị trí hàng đầu trong cây lương thực và đóng 72 – 75% giá trị gia tăng ngành trồng trọt với 3,81 triệu ha gieo trồng và đạt sản lượng 17,4 triệu tấn (51% diện tích và 51,5% sản lượng lúa của cả nước).
- Năng suất ngày càng tăng dẫn đến sản lượng tăng do những n¨m gần đây vùng tăng cường đầu tư vốn, khoa học kỹ thuật để cải tạo đất phèn, mặn, Vả lại, tạo ra được những giống lúa mới (ngắn ngày, kháng sâu bệnh,) thích hợp với điều kiện sinh thái trên từng khu vực, tăng vụ,
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng xuất khẩu gạo lớn nhất cả nước (năm 2002 khoảng 3 triệu tấn).
- Ngoài lúa, vùng còn phát triển hoa màu nhưng qui mô nhỏ. Nhiều nhất là ngô, trồng ở các bãi ven sông, nhiều nhất ở An Giang, khoai lang tròng nhiều ở Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, sắn ở Long An, Vĩnh Long, Trà Vinh.
Cây thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả chiếm khoảng 22 – 25% giá trị gia tăng ngành trồng trọt.
Cây ăn quả ngày càng tăng diện tích, đặc biệt là những vùng chuyên canh cây ăn quả đặc sản. Các cây ăn quả đặc trưng là cam, chuối, quýt, canh, xoài, ổi, nhãn, dứa, sầu riêng, chôm chôm, măng cụt,
b. Ngành chăn nuôi:
Có nhiều điều kiện phát triển cả chăn nuôi gia súc lớn, gia súc nhỏ, gia cầm và cả nuôi trồng thủy hải sản.
+ Đàn trâu có xu hướng giảm từ 329 nghìn con năm 2010 xuống 36,6 nghìn con năm 2015, đàn trâu được nuôi nhiều ở Châu Đốc (An Giang), Bến Tre, Long An.
+ Lợn năm 2010 có 2,3 triệu con, năm 2015 là 3,15 triệu con (chiếm 13,6% đàn lợn của cả nước).
+ Đồng bằng sông Cửu Long có truyền thống nuôi vịt đàn do tận thu nguồn lúa rơi và tôm cá phong phú. Hiện nay có khoảng 34,9 triệu con gia cầm, trong đó vịt là chủ yếu, đàn vịt chiếm 26% đàn gia cầm của cả nước (2015) và được nuôi nhiều ở Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Kiên Giang, Đồng Tháp.
KẾT LUẬN
Tổ chức lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nói riêng là một trong những vấn đề đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học cũng như các nhà hoạch định chiến lược phát triển ở mỗi quốc gia, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. Đối với những nước này, việc khai thác các nguồn lực trong nước cũng như quốc tế cho quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước có hiệu quả hay không phụ thuộc không nhỏ vào công tác tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. Sự vận dụng và phát triển một cách khéo léo các lí thuyết về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đã giúp cho nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đạt được những thành tựu có tính chất bước ngoặt với sự phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng.
Ở Việt Nam, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp cũng hết sức đa dạng và đang phát huy những hiệu quả kinh tế nhất định, trong đó nổi bật là sự phát triển của các vùng nông nghiệp tập. Trong hoàn cảnh thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, các hình thức này vẫn không ngừng được hoàn thiện và phát triển nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Doãn Vịnh - Nghiên cứu chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
2. Bùi Huy Đáp, Nguyễn Điền - Nông nghiệp Việt Nam bước vào thế kỷ XXI.
3. Đặng Văn Phan, Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam, Nxb. Giáo dục,Hà Nội, 2008.
4. Đặng Văn Phan, Vũ Như Vân, Tổ chức không gian lãnh thổ kinh tế - xã hội Việt Nam: nhận thức và hành động hướng tới sự phát triển bền vững,Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ 3, Hà Nội, tháng 12/2008.
5. Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức, Giáo trình địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam, Tập 1, 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2003.
6. Lê Thông (chủ biên), Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ, Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2011.
7. Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên), Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông, Địa lí kinh tế - xã hội đại cương, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2005.
8. Chu Tiến Quang (chủ biên), Lưu Đức Khải, Kinh tế hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam, thực trạng và giải pháp phát triển, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.
9. Website Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, Ngày 29/01/2010.
PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ NHÓM 4
STT
Thành viên thực hiện
Nội dung công việc
1
Đỗ Anh Chiến
- Nhóm trưởng
- Tổng hợp bản word và powerpoint
- Đại diện nhóm tổng hợp phần thuyết trình
2
Lê Thị Minh Huệ
- Thực hiện chương cơ sở lý luận (phần 1 và 2)
- Đại diện nhóm trả lời các câu hỏi
3
Vũ Thị Nhuân
- Thực hiện chương cơ sở lý luận (phần 3, 4 và 5)
- Làm và tổng hợp powerpoint
- Thuyết trình
4
Phạm Thị Bích Thảo
- Thực hiện chương cơ sở lý luận (phần 6)
- Làm powerpoint
- Tổng hợp bản word
- Thuyết trình
5
Đinh Thị Vân
- Thực hiện chương các hình thức tổ chức LTNN (mục xí nghiệp nông nghiệp)
- Làm powerpoint
- Thuyết trình
6
Nguyễn Thị Yến
- Thực hiện chương các hình thức tổ chức LTNN (mục thể tổng hợp nông nghiệp và băng chuyền địa lí)
- Làm powerpoint
7
Trình Tiến Đức
- Thực hiện chương các hình thức tổ chức LTNN (mục vùng nông nghiệp)
- Làm powerpoint
8
Nguyễn Thị Phố
- Thực hiện chương tổ chức LTNN Việt Nam (mục xí nghiệp nông nghiệp)
- Làm powerpoint
9
Phạm Thị Kim Liên
- Thực hiện chương tổ chức LTNN Việt Nam (mục thể tổng hợp nông nghiệp)
- Làm powerpoint
10
Nguyễn Hà Trang
- Thực hiện chương tổ chức LTNN Việt Nam (mục vùng nông nghiệp: Trung du miền núi Bắc Bộ, Đông Nam Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên)
- Làm powerpoint
11
Nguyễn Thị Vân Thu
- Thực hiện chương tổ chức LTNN Việt Nam (mục vùng nông nghiệp: đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và đánh giá chung)
- Làm powerpoint
- Tổng hợp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_dieu_kien_ve_to_chuc_lanh_tho_nganh_nong_nghiep.doc