Báo cáo Đánh giá thực trạng và phương hướng hoàn thiện kết quả kinh doanh với việc phân tích tình hình tài chính Doanh nghiệp

Tài liệu Báo cáo Đánh giá thực trạng và phương hướng hoàn thiện kết quả kinh doanh với việc phân tích tình hình tài chính Doanh nghiệp: ... Ebook Báo cáo Đánh giá thực trạng và phương hướng hoàn thiện kết quả kinh doanh với việc phân tích tình hình tài chính Doanh nghiệp

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1490 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Đánh giá thực trạng và phương hướng hoàn thiện kết quả kinh doanh với việc phân tích tình hình tài chính Doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Báo cáo tài chính doanh nghiệp luôn giữ một vai trò rất quan trọng trong doanh nghiệp. Mọi thực trạng tài chính, kết quả kinh doanh, hoạt động của doanh nghiệp đều được phản ánh trên hệ thống báo cáo tài chính, hay nói cách khác nó là đại diện cho hiện thực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy mọi đối tượng quan tâm tới doanh nghiệp đều tìm hiểu doanh nghiệp trước hết qua hệ thống báo cáo tài chính. Nó có ý nghĩa to lớn không chỉ với cơ quan, đơn vị và cá nhân bên ngoài doanh nghiệp mà nó còn có ý nghĩa to lớn trong việc chỉ đạo, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bằng việc xem xét, phân tích báo cáo tài chính, người sử dụng thông tin có thể đánh giá chính xác sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng của đơn vị. Do vậy báo cáo tài chính là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng khác nhau như Ban giám đốc, Hội đồng quản trị, các nhà đầu tư, các cổ đông, ngân hàng, các nhà bảo hiểm, các chủ nợ…kể cả các cơ quan chính phủ và bản thân người lao động. Việt Nam đã gia nhập WTO, nền kinh tế của nước ta đang hòa mình vào với sự phát triển chung của thế giới, đồng thời với đó là thị trường chứng khoán đang phát triển rất nhanh và rất nóng, các công ty đều có xu hướng cổ phần hóa và niêm yết trên thị trường chứng khoán, số lượng các cổ đông cũng ngày một đông đảo. Việc minh bạch và công khai các báo cáo tài chính là một yêu cầu bắt buộc với các doanh nghiệp. Vì vậy các báo cáo tài chính của doanh nghiệp càng được nhiều đối tượng trong xã hội lưu tâm, để ý hơn. Mặt khác, báo cáo tài chính chính là sản phẩm cuối cùng của bộ phận kế toán trong doanh nghiệp, đối với mỗi người kế toán viên việc am hiểu và trình bày các báo cáo tài chính là vô cùng quan trọng. Trong mọi hệ thống báo cáo tài chính của các nước trên thế giới thì báo cáo kết quả kinh doanh là một bộ phận không thể thiếu được, nó phản ánh kết quả hoạt động trong kì của doanh nghiệp. Trong đề án này em xin được làm rõ một số vấn đề về báo cáo kết quả kinh doanh và việc phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp . Do thời gian và trình độ còn hạn chế nên bài viết sẽ không tránh khỏi những sai sót. Em kính mong cô sẽ thông cảm và cho ý kiến để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội ngày 20 tháng 11 năm 2007 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN I) Tìm hiểu chung về báo cáo tài chính , báo cáo kết quả kinh doanh 1) Khái niệm: Theo quy định của chế độ kế toán hiện hành có định nghĩa: Báo cáo tài chính của doanh nghiệp là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, vốn chủ sở hữu và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kì của doanh nghiệp. Nói cách khác, báo cáo tài chính là phương tiện trình bày khả năng sinh lời và thực trạng tài chính của doanh nghiệp cho những người quan tâm. Báo cáo tài chính là những báo cáo mang tính bắt buộc do Nhà nước quy định. Thông tin được phản ánh trên các báo cáo tài chính là những thông tin tóm tắt, khái quát tình hình chung của doanh nghiệp . Số lượng và nội dung các chỉ tiêu trên các báo cáo tài chính không phải do doanh nghiệp quy định mà phải theo chế độ Nhà nước ban hành. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một báo cáo tài chính phản ánh tổng hợp doanh thu, chi phí và kết quả của các hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp. Đây là một báo cáo bắt buộc phải lập trong hệ thống báo cáo tài chính. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau mỗi kì hoạt động. Các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kì gồm có: kết quả hoạt động kinh doanh ( hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ, hoạt động tài chính ) và hoạt động khác. 2) Vai trò của báo cáo tài chính nói chung và báo cáo kết quả kinh doanh nói riêng đối với việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp Báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống , quá trình hoạt động và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Nó là tài liệu hữu ích đối với việc quản trị doanh nghiệp và đồng thời cũng là nguồn thông tin tài chính chủ yếu cho các đối tượng quan tâm ở bên ngoài doanh nghiệp .Bằng việc xem xét, phân tích báo cáo tài chính , người sử dụng thông tin có thể đánh giá được sức mạng tài chính, khả năng sinh lãi, triển vọng phát triển của doanh nghiệp . Cụ thể về một số vai trò cơ bản của báo cáo tài chính như sau: - Báo cáo tài chính cung cấp những chỉ tiêu kinh tế tài chính cần thiết giúp cho việc kiểm tra một cách toàn diện và có hệ thống tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thực hiện các mục tiêu kinh tế tài chính chủ yếu của doanh nghiệp , tình hình chấp hành các chế độ kinh tế tài chính của doanh nghiệp . - Báo cáo tài chính cung cấp thông tin cho các chủ doanh nghiệp , Hội đồng quản trị, Ban giám đốc…. về tiềm lực của doanh nghiệp , tình hình công nợ, tình hình thu chi tài chính, khả năng tài chính, khả năng thanh toán, kết quả kinh doanh…để đề ra các kế hoạch chiến lược trong kinh doanh, quyết định về những công việc phải làm, phương pháp tiến hành, kế hoạch đầu tư mở rộng hay thu hẹp quy mô của một bộ phận hoặc của toàn doanh nghiệp … - Báo cáo tài chính cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, chủ nợ, các ngân hàng, đại lí, các đối tác kinh doanh về thực trạng tài chính, sản xuất, kinh doanh, triển vọng tăng trưởng, thu nhập, khả năng thanh toán, nhu cầu về vốn của doanh nghiệp….để quyết định hướng đầu tư, quy mô đầu tư, quyết định có cho vay hay thu hồi lại vốn, quyết định có liên doanh hay không… - Báo cáo tài chính cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng, cơ quan quản lí Nhà nước đế kiểm soát tình hình kinh doanh của đơn vị có đúng chính sách, đúng chế độ luật pháp hay không, để ra những quyết định cho những vấn đề xã hội…..và đặc biệt đó là cơ sở để xác định các khoản thuế phải nộp, nghĩa vụ của doanh nghiệp. - Báo cáo tài chính cung cấp các chỉ tiêu, các số liệu làm tiền đề để tính ra các chỉ tiêu kinh tế khác nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả của các quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp . - Báo cáo tài chính là căn cứ quan trọng trong việc phân tích, nghiên cứu, phát hiện những khả năng tiềm tàng và là căn cứ quan trọng để đưa ra các quyết định về quản lí, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư vào doanh nghiệp của chủ sở hữu, các nhà đầu tư, các chủ nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp . - Báo cáo tài chính còn là căn cứ quan trọng để xây dựng các kế hoạch kinh tế kĩ thuật, tài chính của doanh nghiệp , là những căn cứ khoa học để đề ra hệ thống các biện pháp xác thực nhằm tăng cường quản trị doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, không ngừng tăng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp . Báo cáo kết quả kinh doanh là một bộ phận cấu thành nên hệ thống báo cáo tài chính vì vậy các vai trò của hệ thống báo cáo tài chính đều ẩn chứa trong đó vai trò của báo cáo kết quả kinh doanh , hay nói cách khác vai trò của báo cáo kết quả kinh doanh là một phần chính yếu cấu thành nên vai trò của báo cáo tài chính . 3) Phân loại báo cáo kết quả kinh doanh : Báo cáo kết quả kinh doanh có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Ví dụ như: Theo kì lập báo cáo: có các loại báo cáo kết quả kinh doanh năm, báo cáo kết quả kinh doanh giữa niên độ hoặc theo tuần, tháng, 6 tháng, 9 tháng… Theo phạm vi lập báo cáo thì có báo cáo kết quả kinh doanh của đơn vị độc lập, báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất của Tổng công ty hoặc tập đoàn kinh tế hoặc ngân hàng và tổ chức tín dụng tương tự, báo cáo kết quả kinh doanh của các đơn vị đặc thù…… II) Chuẩn mực kế toán quốc tế về trình bày báo cáo tài chính nói chung và báo cáo kết quả kinh doanh nói riêng: Trong hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế (International Accounting Standards) hiện hành thì chuẩn mực đầu tiên đó là chuần mực quy định về việc lập và trình bày báo cáo tài chính doanh nghiệp ( Presentation of Financial Statements - IAS I ). Do mỗi quốc gia có trình độ phát triển khác nhau, do đó chế độ kế toán giữa từng quốc gia cũng có nhiều điểm khác nhau và chế độ báo cáo tài chính cũng không giống nhau. Vì vậy chuẩn mực này không đưa ra các mẫu chuẩn tuyệt đối mà chỉ đưa ra các quy định chung, thiết lập khuôn khổ và trách nhiệm của việc trình bày các báo cáo tài chính, hướng dẫn cấu trúc và yêu cầu nội dung tối thiểu trên các báo cáo tài chính và được áp dụng cho tất cả các báo cáo tài chính trên cơ sở chuẩn mực kế toán quốc tế. Theo IAS I thì một hệ thống báo cáo tài chính đầy đủ gồm có: - Bảng cân đối kế toán - Báo cáo kết quả kinh doanh - Báo cáo khác phản ánh tình hình thay đổi vốn chủ sở hữu, cụ thể là: * Những thay đổi về vốn chủ sở hữu * Những thay đổi của vốn chủ sở hữu ngoài các nghiệp vụ góp vốn và phân chia cho chủ sở hữu. - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ - Các chính sách kế toán và các thuyết minh khác. Ngoài ra các đơn vị được khuyến khích trình bày thêm vào trong báo cáo tài chính các thông tin tài chính và phi tài chính có liên quan. Các báo cáo tài chính được yêu cầu đầu tiên là trình bày trung thực tình trạng tài chính, hoạt động tài chính và dòng tiền của một doanh nghiệp. Ngoài ra, một số yêu cầu chủ yếu cần được bảo đảm tuân thủ khi trình bày báo cáo tài chính là : - Tính kịp thời - Tính khả dụng của các phương pháp được áp dụng. - Nêu các chuẩn mực áp dụng trước kia - Cơ sở cho việc lựa chọn một chính sách kế toán và cách thức trình bày các cơ sở này. - Quy tắc cho việc bù trừ tài sản và công nợ, bù trừ chi phí và doanh thu. - Các chỉ tiêu mang tính so sánh. Các nguyên tắc cơ bản phải tuân theo khi lập báo cáo tài chính là: - Nguyên tắc hoạt động liên tục. - Nguyên tắc nhất quán với năm trước - Nguyên tắc dồn tích - Nguyên tắc trọng yếu. Về báo cáo kết quả kinh doanh hay còn gọi là báo cáo thu nhập( Income statement) phải được trình bày theo những hoạt động mà doanh nghiệp tiến hành, nghĩa là phải trình bày thu nhập (lãi, lỗ) theo hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động đầu tư. Theo IAS I, các thông tin tối thiểu cần phải được trình bày trên báo cáo kết quả kinh doanh đó là: Doanh thu Giá vốn hàng bán Lãi (lỗ) gộp Thu nhập khác từ hoạt động sản xuất kinh doanh Chi phí bán hàng Chi phí quản lí doanh nghiệp Chi phí khác từ hoạt động sản xuất kinh doanh Lãi (lỗ) từ hoạt động kinh doanh Thu nhập từ hoạt động tài chính. Thu nhập từ hoạt động đầu tư Lãi (lỗ) trước thuế thu nhập doanh nghiệp Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp Lãi (lỗ) thuần của kì Lợi nhuận giữ lại (lợi nhuận chưa phân phối) đầu kì Lợi nhuận giữ lại (chưa phân phối) cuối kì. Các thông tin khác có thể được trình bày trên báo cáo kết quả kinh doanh hoặc trong các thuyết minh: Phân tích chi phí theo bản chất (hay nội dung như chi phí nguyên vật liệu, chi phí khấu hao, chi phí nhân viên….) và theo chức năng (giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lí doanh nghiệp…) Nếu đơn vị phân loại theo chức năng của chi phí thì phải công bố: -Chi phí khấu hao tài sản hữu hình -Chi phí hao mòn tài sản vô hình -Chi phí cho nhân viên Cổ tức trả cho từng cổ phiếu được công bố hoặc dự tính Bên cạnh hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp độc lập, hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế còn có các chuẩn mực khác cũng đề cập đến hệ thống báo cáo tài chính hoặc các yếu tố trong hệ thống báo cáo tài chính như IAS 27 : báo cáo tài chính hợp nhất và kế toán hoạt động đầu tư vào công ty con, IAS 18 : doanh thu, IAS 29 : báo cáo tài chính trong các nền kinh tế siêu lạm phát, IAS 27 : báo cáo tài chính hợp nhất và thanh toán các khoản đầu tư vào công ty con, IAS 30 : nội dung công bố trong báo cáo tài chính của các ngân hàng và tổ chức tín dụng tương tự, IAS 31 : báo cáo tài chính cho các khoản góp vốn trong liên doanh, IAS 34 : báo cáo tài chính giữa kì. III)Kinh nghiệm lập và sử dụng báo cáo tài chính nói chung và báo cáo kết quả kinh doanh nói riêng của một số nước trên thế giới: 1) Mỹ: Hệ thống báo cáo tài chính tại Mỹ bao gồm có: Báo cáo của quản lí Báo cáo của kiểm toán viên độc lập Các báo cáo cơ bản ( Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Báo cáo về sự thay đổi của vốn chủ sở hữu) Sự thảo luận của đội ngũ quản lí và phân tích tình hình kinh doanh, tình hình tài chính. Thuyết minh báo cáo tài chính Báo cáo so sánh về tình hình kinh doanh trong 5 hoặc 10 năm Các dữ liệu theo quý khác. Khác với rất nhiều nước khác, kế toán của Mỹ không được quy định bởi luật pháp mà được quy định bởi một số tổ chức kinh tế là “Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính- FASB”, “Ủy ban chứng khoán và ngoại hối- SEC” và viện Kế toán viên công chứng – AICPA. Hệ thống báo cáo tài chính của Mỹ không có các yêu cầu mang tính pháp lí trong việc công bố các báo cáo tài chính đã được kiểm toán theo định kì. Về báo cáo kết quả kinh doanh, các chỉ tiêu cũng gần với chuẩn mực kế toán quốc tế, cụ thể xem tại bảng phụ lục, trang 36. 2) Anh : Anh là nước có nền kinh tế sớm phát triển , đó là nước đầu tiên trên thế giới xây dựng và phát triển ngành kế toán, di sản của chế độ kế toán ở Anh để lại cho thế giới thực sự là có giá trị. Hệ thống báo cáo tài chính của Anh gồm có: Báo cáo của giám đốc điều hành Tài khoản lãi (lỗ ) và bảng cân đối kế toán Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Báo cáo tổng các khoản lãi (lỗ) Báo cáo về các chính sách kế toán Thuyết minh báo cáo tài chính Báo cáo của kiểm toán viên (Với báo cáo kết quả kinh doanh xem bảng phụ lục trang 37 ) 3) Pháp: Cộng hòa Pháp là nước đi đầu trong việc ủng hộ một hệ thống kế toán thống nhất. Theo hệ thống kế toán thống nhất hiện hành của Pháp thì hệ thống các báo cáo tài chính bao gồm: Bảng cân đối kế toán Báo cáo kết quả kinh doanh Các thuyết minh báo cáo tài chính Báo cáo của giám đốc điều hành Báo cáo của kiểm toán viên Ngoài ra với các công ty lớn còn bắt buộc phải lập các quy định liên quan tới sự phá sản của các doanh nghiệp và các báo cáo xã hội khác. Đây là điểm khác biệt chỉ có tại Pháp. Và để có được các báo cáo tài chính đảm bảo yêu cầu trung thực thì các báo cáo tài chính phải tuân thủ theo luật. (Với báo cáo kết quả kinh doanh xem bảng phụ lục) Khác với Việt Nam, các báo cáo tài chính của đa số các nước đặc biệt là các nước phát triển đều yêu cầu bắt buộc phải có sự kiểm toán của các kiểm toán viên. Việt Nam hiện nay đã gia nhập WTO , việc tuân theo các chuẩn mực kế toán quốc tế và tiến gần hơn với hệ thống kế toán của các nước đang phát triển là một điều rất cần thiết, chúng ta nên bổ sung báo cáo này trong hệ thống báo cáo tài chính trở thành một báo cáo bắt buộc chứ không chỉ là báo cáo đính kèm của các công ty đã thực hiện kiểm toán. IV) Thực trạng báo cáo kết quả kinh doanh tại Việt Nam 1) Sự biến đổi của báo cáo kết quả kinh doanh theo các thời kì lịch sử: Đất nước ta sau bao năm phải chiến tranh và chịu đô hộ nên nền kinh tế còn nhiều lạc hậu so với các nước trên thế giới. Tuy nhiên trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, hệ thống kế toán cũng đã phát triển từng bước và là công cụ phục vụ đắc lực cho việc quản lí kinh tế, đáp ứng nhu cầu về thông tin cho các đối tượng sử dụng. Đánh dấu cho sự ra đời của hệ thống báo cáo kế toán đó là Quyết định 223/CP ban hành ngày 1/12/1970 của Hội đồng Chính phủ. Kể từ đó đến nay, hệ thống báo cáo kế toán đã có nhiều những biến đổi theo từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước. Chỉ xét riêng trong giai đoạn từ sau đổi mới (từ sau năm 1986) đã có rất nhiều các quyết định, các thông tư hướng dẫn về việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Cụ thể như sau: @Trong giai đoạn 10 năm sau đổi mới (từ năm 1987 đến năm 1996): Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình đổi mới, cùng với việc xác định lại chức năng của quản lí kinh tế của Nhà nước, giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , Nhà nước đã ban hành đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng đổi mới, xóa bỏ bao cấp. +Trên tinh thần chung đó, Bộ tài chính đã ban hành Chế độ báo cáo kế toán định kì áp dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh theo quyết định số 224-TC/CĐKT ngày 18/4/1990. Theo quyết định này thì hệ thống báo cáo tài chính gồm có : Bảng tổng kết tài sản. Báo cáo kết quả kinh doanh Báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố Bản giải trình kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo kế toán tổng hợp phản ánh tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Báo cáo này gồm 2 phần chính là: - Phần I : Thu nhập và phân phối thu nhập : Phần này phản ánh thu nhập và chi phí của các loại hoạt động kinh doanh, và nó được trình bày theo kiểu 2 bên, tách biệt bên chi phí và bên thu nhập. Bên trái là “Chi phí” phản ánh toàn bộ chi phí của từng loại hoạt động kinh doanh và kết quả thu nhập. Còn bên phải là “Thu nhập” phản ánh thu nhập của từng loại hoạt động kinh doanh và phân phối kết quả kinh doanh của doanh nghiệp - Phần II : Thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước phản ánh số phai nộp và số đã nộp (trong kì và lũy kế từ đầu năm) theo từng nội dung. Ngoài ra với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (đơn vị, xí nghiệp, công ty tư doanh, các hợp tác xã và tổ chức kinh doanh tập thể ) thì Bộ Tài chính có quy định chế độ lập và nộp báo cáo theo quyết định 598-TC/CĐKT ngày 8/12/1990. Theo quyết định này, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ phải lập và nộp 3 báo cáo định kì là : Bảng tổng kết tài sản, Báo cáo kết quả kinh doanh, và Báo cáo tồn kho vật liệu, sản phẩm, hàng hóa. Về cơ bản các báo cáo này thống nhất với các báo cáo kế toán định kì của các doanh nghiệp quốc doanh tuy có đơn giản hơn. + Sau một thời gian vận dụng vào thực tế, hệ thống báo cáo tài chính theo quyết định 224-TC/CĐKT ngày 18/4/1990 của Bộ Tài chính đã bộc lộ khá nhiều những khiếm khuyết, chưa thực sự phù hợp với hoàn cảnh, yêu cầu của nền kinh tế lúc bấy giờ. Vì vậy, Bộ Tài chính đã tiến hành nghiên cứu, xây dựng và ban hành hệ thống kế toán doanh nghiệp cải cách theo cơ chế thị trường theo quyết định số 1206 QĐ/CĐKT ngày 14/12/1994 và thực hiện thí điểm ở một số đơn vị rồi tổng kết và ban hành chính thức theo Quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995, áp dụng cho các doanh nghiệp (trong đó có chế độ báo cáo tài chính doanh nghiệp ). Đây có thể được coi là một trong những cơ sở, nền tảng để xây dựng và hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính sau này. Theo quyết định này thì hệ thống báo cáo tài chính cũng bao gồm 4 biểu mẫu là : Bảng cân đối kế toán (Mẫu số B-01 DN), Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Mẫu B-02 DN), Lưu chuyển tiền tệ (Mẫu B-03 DN) và Thuyết minh báo cáo tài chính (Mẫu B-09 DN). Ngoài ra để phục vụ cho yêu cầu quản lí kinh tế, chỉ đạo điều hành… các ngành, các công ty liên doanh, tập đoàn sản xuất… có thể quy định thêm các báo cáo chi tiết khác. Trong quá trình áp dụng, nếu thấy cần thiết thì có thể sửa đổi bổ sung hoặc chi tiết các chỉ tiêu cho phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị nhưng phải được Bộ Tài chính chấp nhận. Báo cáo tài chính được lập và gửi vào cuối mỗi quý và cuối mỗi niên độ kế toán để phản ánh tình hình tài chính của quý đó, niên độ đó. Các doanh nghiệp có thể lập báo cáo tài chính hàng tháng phục vụ cho việc quản lí và điều hành. Kết cấu của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo quyết định 1141 TC/QĐ/CĐKT gồm có 2 phần: *Phần I: phản ánh tình hình kết quả kinh doanh của doanh nghiệp gồm hoạt động kinh doanh và hoạt động khác. Tất cả các chỉ tiêu này đều trình bày kèm theo cả số liệu ở kì trước, tổng số phát sinh trong kì báo cáo và số lũy kế từ đầu năm đến cuối kì báo cáo, rất tiện lợi cho việc so sánh và phân tích số liệu của năm nay với các năm trước. Phần này gồm các chỉ tiêu : Tổng doanh thu Các khoản giảm trừ Doanh thu thuần Giá vốn hàng bán Lợi tức gộp Chi phí bán hàng Chi phí quản lí doanh nghiệp Lợi tức thuần từ hoạt động kinh doanh Thu nhập hoạt động tài chính Chi phí hoạt động tài chính Lợi tức hoạt động tài chính Các khoản thu nhập bất thường Chi phí bất thường Lợi tức bất thường Tổng lợi tức trước thuế Thuế lợi tức phải nộp Lợi tức sau thuế. *Phần II: phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp với Nhà nước về các vấn đề : Thuế, BHXH, BHYT, KPCĐ và các khoản phải nộp khác. Các chỉ tiêu này cũng trình bày theo các nội dung: số còn phải nộp kì trước, số phải nộp kì này, số đã nộp trong kì này, số còn phải nộp đến cuối kì này. Ở phía dưới còn phản ánh thêm chỉ tiêu “tổng số thuế còn phải nộp năm trước chuyển sang kì này” trong đó chi tiết theo chỉ tiêu “Thuế lợi tức”. (Mẫu báo cáo kết quả kinh doanh theo quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT trích ở phần phụ lục trang 28) @ Giai đoạn từ 1997 đến 2006: Nền kinh tế mở cửa và xu hướng toàn cầu hóa kéo theo sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu quản lí doanh nghiệp, ngày 25/10/2000 Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành quyết định 167/2000/QĐ/BTC quy định chế độ báo cáo tài chính thống nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp .(Và sau đó có thông tư hướng dẫn làJ Về cơ bản thì số lượng và nội dung của các báo cáo chủ yếu vẫn dựa trên hệ thống báo cáo tài chính ban hành theo quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995. Tuy nhiên số lượng và nội dung các chỉ tiêu cùng với trật tự sắp xếp và thời hạn lập thì đã có những thay đổi. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, báo cáo tài chính phải lập và nộp hàng quý, hàng năm; còn đối với các loại hình doanh nghiệp khác (như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần, công ty TNHH….) báo cáo tài chính phải được lập và nộp hàng năm. Số lượng các báo cáo tài chính bắt buộc phải lập và nộp cũng giống như trong quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT. Về báo cáo kết quả kinh doanh đã có sự thay đổi rõ rệt so với trước. Đó là việc tách riêng phần thuế GTGT thành một phần mới. Cụ thể báo cáo kết quả kinh doanh gồm 3 phần : +Phần I: “Lãi, lỗ” : phản ánh tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác. Tất cả các chỉ tiêu đều được trình bày : tổng số phát sinh trong kì báo cáo; số liệu của kì trước ( để so sánh) ; số lũy kế từ đầu năm đến cuối kì báo cáo. Nhìn chung các chỉ tiêu trong phần này đều tương tự như báo cáo kết quả kinh doanh ban hành theo quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT trước đây cả về nội dung, thứ tự sắp xếp. +Phần II: “Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước” : phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về thuế , phí, lệ phí và các khoản phải nộp khác. Các chỉ tiêu được trình bày: số còn phải nộp đầu kì, số đã nộp trong kì báo cáo, số phải nộp lũy kế từ đầu năm và số lũy kế đã nộp từ đầu năm đến cuối kì báo cáo, số còn phải nộp đến cuối kì báo cáo. +Phần III: “Thuế GTGT được khấu trừ, thuế GTGT được hoàn lại, thuế GTGT hàng bán nội địa” : phản ánh số thuế GTGT được khấu trừ, đã khấu trừ, còn được khấu trừ cuối kì; thuế GTGT được hoàn lại, đã hoàn lại, còn được hoàn lại cuối kì; thuế GTGT được giảm, đã giảm và còn được giảm cuối kì; thuế GTGT hàng bán nội địa còn phải nộp đầu kì, thuế GTGT đầu ra phát sinh, thuế GTGT hàng bán nội địa đã nộp vào Ngân sách nhà nước và còn phải nộp cuối kì. Phần này được chi tiết theo 4 mục: Thuế GTGT được khấu trừ Thuế GTGT được hoàn lại Thuế GTGT được giảm Thuế GTGT hàng bán nội địa (Mẫu chi tiết của báo cáo kết quả kinh doanh theo quyết định 167/2000/QĐ/BTC trích ở phần phụ lục trang 30 ) Mặc dù quyết định này được quy định áp dụng thống nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp nhưng do quá phức tạp và nhiều chỉ tiêu nên rất khó áp dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì vậy, Bộ Tài chính đã ra thêm quyết định 144/2001/QĐ-BTC về việc áp dụng chế độ kế toán trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ (bao gồm các công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã- trừ hợp tác xã nông nghiệp và hợp tác xã tín dụng) hàng năm phải lập 3 báo cáo là : Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh , thuyết minh báo cáo tài chính . Đối với báo cáo tài chính gửi cho cơ quan thuế phải lập và gửi thêm 2 phụ biểu là: Bảng cân đối tài khoản và tình hình thực hiện nghĩa vụ với NSNN. Nhìn chung các báo cáo này dựa trên cơ sở là quyết định 167/2000/QĐ/BTC, tuy nhiên đã được lược bớt các chỉ tiêu và nội dung của các chỉ tiêu thì cũng đơn giản hơn. Bước sang năm 2006, Việt Nam tích cực chuẩn bị cho tiến trình hội nhập WTO, theo đó chế độ kế toán cũng cần có những sự thay đổi để phù hợp thời đại mới, tiến gần hơn đến chế độ và chuẩn mực kế toán quốc tế. Ngày 20/3/2006, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã kí quyết định 15/2006/QĐ/BTC về việc áp dụng chế độ kế toán mới trong hệ thống các doanh nghiệp. 2) Đánh giá khái quát về báo cáo kết quả kinh doanh qua các thời kì: Qua từng thời kì biến đổi của đất nước, hệ thống kế toán đã không ngừng hoàn thiện, cải tiến và đổi mới mình, giai đoạn sau luôn có bước phát triển, cải tiến hơn so với giai đoạn trước và phù hợp hơn với sự phát triển cơ chế quản lí kinh tế hiện tại. Đương nhiên, ngay tại thời điểm áp dụng, cũng không có một chế độ, một quyết định nào là hoàn hảo, ví dụ như quyết định 167/2000/QĐ/BTC thiết kế không được khoa học cho lắm.Trong Báo cáo kết quả kinh doanh, biểu mẫu cũng như việc bố trí các chỉ tiêu quá rối rắm, phức tạp, không hợp lí, không phù hợp với tính chất của báo cáo. Chính vì vậy luôn cần có sự điều chỉnh, thay đổi để hệ thống báo cáo tài chính ngày càng hoàn thiện hơn. 3)Yêu cầu và nguyên tắc lập và trình bày báo cáo kết quả kinh doanh theo quy định hiện hành: Báo cáo kết quả kinh doanh là một bộ phận quan trọng của hệ thống báo cáo tài chính , khi lập báo cáo kết quả kinh doanh cần phải tuân thủ các yêu cầu và nguyên tắc lập và trình bày báo cáo tài chính . Theo chuẩn mực kế toán số 21 : “Trình bày báo cáo tài chính” thì việc lập và trình bày báo cáo tài chính phải tuân thủ các yêu cầu sau: + Trung thực và hợp lý; phản ánh chính xác tình hình tài chính và kết quả kinh doanh và các luồng tiền của doanh nghiệp. Để đảm bảo yêu cầu trung thực và hợp lí thì hệ thống báo cáo tài chính phải được lập và trình bày trên nguyên tắc tuân thủ các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán, các văn bản, quy định pháp luật hiện hành. + Lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với qui định của từng chuẩn mực kế toán nhằm đảm bảo cung cấp thông tin thích hợp với nhu cầu ra các quyết định kinh tế của người sử dụng và cung cấp được các thông tin đáng tin cậy, khi: - Trình bày trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp; - Phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao dịch và sự kiện không chỉ đơn thuần phản ánh hình thức hợp pháp của chúng; - Trình bày khách quan, không thiên vị; - Tuân thủ nguyên tắc thận trọng; - Trình bày đầy đủ trên mọi khía cạnh trọng yếu + Mặt khác, báo cáo tài chính phải trình bày đầy đủ các thông tin kể cả các chính sách kế toán nhằm cung cấp thông tin phù hợp, đáng tin cậy, so sánh được và dễ hiểu kể cả các thông tin bổ sung khi quy định trong chuẩn mực kế toán không đủ để giúp cho người sử dụng hiểu được tác động của các giao dịch hoặc những sự kiện cụ thể đến tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp . Về nguyên tắc thì khi lập và trình bày báo cáo tài chính doanh nghiệp cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau : Nguyên tắc “hoạt động liên tục”: Khi lập và trình bày báo cáo tài chính, Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp cần phải đánh giá về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, trừ khi doanh nghiệp có ý định cũng như buộc phải ngừng hoạt động, hoặc phải thu hẹp đáng kể qui mô hoạt động của mình. Khi đánh giá, nếu Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp biết được có những điều không chắc chắn liên quan đến các sự kiện hoặc các điều kiện có thể gây ra sự nghi ngờ lớn về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp thì những điều không chắc chắn đó cần được nêu rõ. Nếu báo cáo tài chính không được lập trên cơ sở hoạt động liên tục, thì sự kiện này cần được nêu rõ, cùng với cơ sở dùng để lập báo cáo tài chính và lý do khiến cho doanh nghiệp không được coi là đang hoạt động liên tục. Để đánh giá khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp, Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp cần phải xem xét đến mọi thông tin có thể dự đoán được tối thiểu trong vòng 12 tháng tới kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán. Nguyên tắc “cơ sở kế toán dồn tích”: Nguyên tắc này yêu cầu doanh nghiệp phải lập báo cáo tài chính theo cơ sở kế toán dồn tích, ngoại trừ các thông tin liên quan đến các luồng tiền.Điều đó có nghĩa là: các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực thu, thực chi tiền và được ghi nhận vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của các kỳ kế toán liên quan. Các khoản chi phí được ghi nhận vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí. Nguyên tắc “nhất quán”: Nguyên tắc “nhất quán” đòi hỏi việc trình bày và phân loại các khoản mục trong báo cáo tài chính phải nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác, trừ khi có sự thay đổi đáng kể về bản chất các hoạt động của doanh nghiệp hoặc khi xem xét lại việc trình bày báo cáo tài chính cho thấy rằng cần phải thay đổi để có thể trình bày một cách hợp lý hơn các giao dịch và các sự kiện; hoặc một chuẩn mực kế toán khác yêu cầu có sự thay đổi trong việc trình bày. Nguyên tắc này cũng cho phép doanh nghiệp có thể trình bày báo cáo tài chính theo một cách khác khi mua sắm hoặc thanh lý lớn các tài sản, hoặc khi xem xét lại cách trình bày báo cáo tài chính. Việc thay đổi cách trình bày báo cáo tài chính chỉ được thực hiện khi cấu trúc trình bày mới sẽ được duy trì lâu dài trong tương lai hoặc nếu lợi ích của cách trình bày mới được xác định rõ ràng. Khi có thay đổi, thì doanh nghiệp phải phân loại lại các thông tin mang tính so sánh sao cho bảo đảm tính so sánh được, ngoài ra phải giải trình lý do và ảnh hưởng của sự thay đổi đó trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Nguyên tắc “trọng yếu và tập hợp” : Khi trình bày báo cáo tài chính, một thông tin được coi là trọng yếu nếu không trình bày hoặc trình bày thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào quy mô và tính chất của các khoản mục được đánh giá trong các tình huống cụ thể nếu các khoản mục này không được trình bày riêng biệt. Tuỳ theo các tình huống cụ thể, tính chất hoặc quy mô của từng khoản mục có thể là nhân tố quyết định tính trọng yếu. Ví dụ, các tài sản riêng lẻ có cùng tính chất và chức năng được tập hợp vào một khoản mục, kể cả khi giá tr._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36012.doc