Lời mở đầu:
Một trong những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đồi với khối doanh nghiệp nhà nước là phát triển các tổng công ty mạnh theo hướng lập tập đoàn kinh doanh. Trên thực tế, các doanh nghiệp này cũng đang trong quá trình chuẩn bị để hoạt động mô hình mới này. Việc hình thành các tập đoàn kinh tế đặt ra yêu cầu trình bày và cung cấp thông tin hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn như một thực thể kinh doanh độc lập. Hơn thế nữa, nền kinh tế Việt nam hiện nay đang chuyển đổi và hội
44 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Bàn về hệ thống tài chính hợp nhất trong các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Một số nhà đầu tư nước ngoài, ngân hàng... muốn đầu tư liên doanh vào các tập đoàn Việt nam, đều mong muốn nhận được báo cáo tài chính hợp nhất phản ánh trung thực toàn cảnh tình hình tài chính của tập đoàn mà họ dự định đầu tư và cho vay.
Tuy nhiên báo cáo tài chính hợp nhất của các tập đoàn kinh tế hiện nay là vấn đề mới mẻ. Hiện nay, hệ thống báo cáo tài chính tổng hợp áp dụng cho mô hình tổng công ty bộc lộ nhiều nhược điểm là không cung cấp được thông tin đầy đủ, tin cậy và có giá trị cho các đối tượng sử dụng. Để đảm bảo cho thông tin mà báo cáo tài chính hợp nhất cung cấp có chất lượng và độ tin cậy cao đáp ứng yêu cầu thông tin đa dạng của nhiều đối tượng cần phải xây dựng hệ thống báo cáo tài chính hợp nhất cho mô hình tập đoàn kinh tế hay các tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con tại Việt nam
Chính vì lý do đó, em đã chọn đề tài: “Bàn về hệ thống báo cáo tài chính hợp nhất trong các tập đoàn kinh tế ở Việt nam”
Nội dung của đề tài ngoài phần “mở đầu” và “kết luận” còn các phần chính sau:
Khái quát chung về tập đoàn kinh tế
Tập đoàn kinh tế tron điều kiện ở Việt nam
Khái quát chung về báo cáo tài chính hợp nhất trong các TĐKT
Phương pháp và cách thức hoàn thiện báo cáo tài chính hợp nhất
Phần I: Khái quát chung về tập đoàn kinh tế
Khái niêm về tập đoàn kinh tế
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về tập đoàn kinh tế. Có những quan niệm tập đoàn theo kiểu doanh nghiệp mẹ – doanh nghiệp con, trong đó doanh nghiệp mẹ kiểm soát chặt chẽ các doanh nghiệp con. Lại có những quan niệm khác cho rằng tập đoàn kinh tế là một thực thể kinh tế thực hiện sự liên kết giữa các thành viên là các doanh nghiệp có quan hệ với nhau về công nghệ và lợi ích.
Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm thống nhất về tập đoàn kinh tế vì có sự khác nhau về phương thức hình thành, nguyên tắc tổ chức và tư cách pháp nhân của tập đoàn kinh tế. Có những tập đoàn hình thành trên cơ sở mối liên kết lỏng như việc kí kết thoả thuận hợp tác giữa các doanh nghiệp, có những dạng lại được hình thành trên cơ sở sát nhập và hình thành một tổ chức liên kết cứng như một pháp nhân kinh tế; một số khác lại được hình thành trên cơ sở kí kết thoả thuận giữa các doanh nghiệp để thành lập một công ty tài chính riêng và công ty này đóng vai trò là công ty mẹ điều khiển hoạt động của các công ty thành viên.
Như vậy, nhìn chung tập đoàn kinh tế là khái niệm chỉ một tổ hợp kinh tế gồm công ty mẹ và các công ty con
Tập đoàn có thể là nhỏ, vừa hoặc lớn, thậm chí rất lớn, tuỳ theo vị trí của công ty mẹ và các công ty con trong nền kinh tế. Tập đoàn có thể chỉ hoạt động trong một địa phương hoặc cũng có thể hoạt động trong một vùng, trong cả nước hoặc xuyên quốc gia.
Muốn có một tập đoàn kinh tế mạnh thì phải có một công ty mẹ thực sự vững mạnh trên tất cả các mặt: vốn liếng, công nghệ, lĩnh vực hoạt động... để giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Không có công ty mẹ mạnh thì không thể có một tập đoàn kinh tế mạnh
ii. Đặc điểm của tập đoàn kinh tế
Thực ra hiện nay trên thế giới, những tập đoàn kinh tế được tổ chức theo những mô hình khác nhau và mang những tên gọi khác nhau. Tuy nó chưa có một khái niệm thống nhất nhưng có thể rút ra những đặc điểm chung của tập đoàn kinh tế là :
Tập đoàn kinh tế là một tổ hợp các công ty bao gồm công ty mẹ và các công ty thành viên
Đa số các tập đoàn kinh tế là sự kết hợp của nhiều đơn vị thành viên, các doanh nghiệp thành viên chịu sự chi phối của doanh nghiệp mẹ thông qua việc doanh nghiệp mẹ nắm cổ phần chi phối các doanh nghiệp thành viên. Tuy nhiên các doanh nghiệp thành viên cũng có thể nắm cổ phần của nhau, chi phối lẫn nhau tạo thành mối quan hệ đan chéo và gắn kết chặt chẽ
Có quy mô rất lớn về vốn, lao động, doanh thu và thị trường
Hầu hết các tập đoàn kinh tế đều có quy mô lớn và rất rộng có những tập đoàn kinh tế có quy mô mở rộng đến hàng trăm nước như : Cocacola, IBM, Toyota...
Tính kinh doanh đơn ngành và đa ngành
Xét về bản chât, tập đoàn kinh tế là một tổ chức kinh tế vừa mang tính hoạt động đơn lẻ của một đơn vị thành viên, vừa mang tính đặc trưng của một hiệp hội kinh tế phục vụ lợi ích chung của các đơn vị thành viên. Thực tiễn hoạt động của các tập doàn kinh tế trên thế giới cho thấy đặc điểm hoạt động của tập đoàn là đa ngành. Tuy nhiên, xu hướng hoạt động dơn ngành hay đa ngành đều có những hạn chế nhất định: hoạt động đa ngành thể hiện ở phạm vi rộng, phân tán rủi ro đồng thời tăng khả năng chi phối thị trường nhưng lại hạn chế ở điểm khó tập trung được năng lực mũi nhọn, thiếu tính chuyên sâu. Hoạt động đơn ngành thì có thế mạnh phát triển theo chuyên môn hoá sâu, khai thác được thế mạnh về chuyên môn, bí quyết công nghệ, uy tín trong ngành, nhưng lại hạn chế về phạm vi thị trường và dễ bị rủi ro khi ngành đó bị khủng hoảng về một lý do khách quan nào đó. Tuy nhiên qua thực tiễn hoạt động của các tập đoàn kinh tế, có thể thấy xu hướng hoạt động kinh doanh đa ngành tỏ ra rất phổ biến.
Tính đa dạng về tư cách pháp nhân:
Về tư cách pháp nhân của tập đoàn kinh tế, có những tập đoàn kinh tế là pháp nhân kinh tế gồm nhiều doanh nghiệp thành viên có quan hệ với nhau về sản xuất, kinh doanh và tài chính trên quy mô lớn. Một số tập đoàn khác có thể không phải là một pháp nhân kinh tế, mà các đơn vị thành viên lại là các pháp nhân kinh tế. Hoặc lại có dạng hỗn hợp: tập đoàn là pháp nhân kinh tế, còn các đơn vị thành viên có thể là pháp nhân kinh tế đầy đủ hoặc không đầy đủ.
Tính đa dạng về sở hữu
Sở hữu trong tập đoàn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như: sở hữu công ty mẹ đối với các công ty con, sở hữu giữa các công ty con với nhau, sở hữu của các nhà đầu tư bên ngoài thông qua việc mua cổ phần của doanh nghiệp. Tuy nhiên thường doanh nghiệp mẹ đóng vai trò chi phối về mặt tài chính và chiến lược phát triển đối với các doanh nghiệp thành viên.
III. Những mô hình liên kết chi phối giữa công ty mẹ – công ty con trong tập đoàn kinh tế
Trong thực tế hiện nay, việc liên kết giữa công ty mẹ với các công ty con rất phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào loại hình kinh doanh, vào sức mạnh và khả năng chi phối của công ty mẹ. Cụ thể có các dạng liên kết chủ yếu sau :
1. Mô hình liên kết chủ yếu bằng vốn:
Mô hình này đòi hỏi công ty mẹ có tiềm lực tài chính to lớn (thường là các ngân hàng hoặc các công ty tài chính), được hình thành thông qua con đường nhất thể hoá kinh doanh bằng cách thôn tính, sáp nhập xoá bỏ tư cách pháp nhân của một số danh nghiệp. Qua việc nắm giữ các cổ phần chi phối, thuê các doanh nghiệp có liên quan. Công ty mẹ nắm giữ quyền lãnh dạo các doanh nghiệp này trong việc đưa ra các quyết sách về nhân lực, vật lực, tài lực… biến chúng thành các doanh nghiệp cấp dưói trực tiếp (công ty con). Các công ty con nàyvẫn có tư cách pháp nhân, tiến hành các hoạt động kinh doanh độc lập tương đối. Bằng cách tham dự cổ phần vào một số doanh nghiệp, công ty mẹ biến những doanh nghiệp có tư cách pháp nhân khác thành các doanh nghiệp cấp nửa trực tiếp. (Công ty cháu ….)
Thực hiện mô hình liên kết bằng vốn kiểu này là các Chaebol Hàn Quốc nhhư: Daewoo, Sasung, các tập đoàn của Nhật Bản lấy hàng làm trung tâm như: Fuji, Mitsubishi…
2. Mô hình liên kết theo dây chuyền sản xuất kinh doanh.
Mô hình này thường áp dụng đối với những ngành mà sản phẩm có cấu tạo nhiều cấp, nhiều bộ phận. Công ty mẹ có tiềm năng lớn thực hiện chức năng trung tâm như xây dung chiến lược kinh doanh, tiếp thị, phát triển sản phẩm, huy động và phân bổ vốn đầu tư quan hệ đối ngoại, đào tạo nhân lực, lắp ráp hoàn chỉnh sản phẩm nổi tiếng… Công ty mẹ kiểm soát một mạng lưới các công ty con, các công ty cháu theo dạng hình chóp (cấp 1, cấp 2, cấp 3), tạo thành một quần thể doanh nghiệp khổng lồ. Sự phối hợp và kiểm soát hoạt động của công ty mẹ với các công ty con, công ty cháu được thực hiện rất chặt chẽ, thông qua chiến lược sản phẩm và kế hoạch kinh doanh đồng bộ từ trên xuống dưới. Công ty mẹ tham gia góp cổ phần, trợ giúp về mặt kỹ thuật, đào tạo cán bộ.
3. Mô hình liên kết giữa nghiên cứu khao học với sản xuât kinh doanh.
Theo dạng này, công ty mẹ thường là những trung tâm nghiên cứu ứng dụng lớn, lấy việc phát triển công nghệ mới là đầu mối cho sự liên kết. Các công ty con là những đơn vị sản xuất, kinh doanh có chức năng ứng dụng nhanh kết quả nghiên cứu công nghệ mới của công ty mẹ, biến nó thành sản phẩm có ưu thế trên thị trường. Năng lực cạnh tranh của cả tập đoàn chính là ở khả năng liên kết, từ nghiên cứu đến ứng dụng.
Tuy các dạng liên kết giữa công ty mẹ với công ty con dựa trên những nền tảng khác nhau, phù hợp với từng hình thức sản phẩm khác nhau, song suy cho cùng đều là sự chi phối bởi yếu tố tài sản, trong đó bào gồm cả tài sản hữu hình, xác định được bằng lương như: TSCĐ; TSLĐ…và tài sản vô hình, không xác định đuợc bằng lượng như: sỏ hữu công nghiệp, phát minh khao học, uy tín sản phấm, thị trương… sức mạnh chi phối của công ty mẹ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng nắm giữc các nguồn tài sản trên và chính những nguồn tài sản vô hình có tác dụng hỗ trợ hiệu quả, tạo cơ sở vững chắc để củng cố, tăng cường quan hệ hợp tác và lợi ích kinh tế giữa công ty mẹ với các công ty con.
IV. Điều kiện hình thành công ty mẹ – công ty con.
Theo chuẩn mực quốc tế thì mô hình công ty mẹ – công ty con phải thoả mãn những điều kiện sau:
Công ty mẹ là công ty có một hoặc nhiều công ty con. Công ty con là công ty có vốn đầu tư của công ty mẹ, bị công ty mẹ chi phối bằng việc nắm giữ quyền chỉ định đa số thành viên hội đồng quản trị hoặc nắm giữ quyền biểu quyết đa số trong hội động quản trị. Những công ty có vốn đầu tư của công ty mẹ mà công ty mẹ không nắm quyền chi phối thì không phải là công ty con. Như vậy để trở thành công ty mẹ của công ty khác cần có hai diều kiện:
+ Có vốn đầu tư vào công ty đó
+ Nắm quyền chi phối công ty đó.
Công ty mẹ và công ty con dều là doanh nghiệp độc lập và có tư cách pháp nhân đầy đủ, có vốn vâ tài sản riêng.
Công ty mẹ là một trong những chủ sở hữu của công ty con. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con là mối quan hệ của chủ sở hữu với doanh nghiệp có vốn đầu tư của mình.
V. Ưu, nhược điểm của mô hình tập đoàn kinh tế.
V.I. Ưu điểm:
Có tính linh hoạt trong việc hình thành mô hình:
Công ty mẹ – công ty con không phải là mô hình tổ chức. Nó được dùng để chỉ sự chi phối của một doanh nghiệp với một doanh nghiệp khác, nên nó không bị cứng nhắc với bất kì một cấp hành chính nào. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con đước xác định trong quy định của luật pháp và điều lệ công ty, nó tương đối ổn định.
Sự chi phối của công ty mẹ đối với công ty con được thực hiện qua hình thức đại hội cổ đông, quyền hạn của đại hội cổ đông được luật hiện hành quy định.
Khi đã là công ty mẹ góp vốn vào công ty con thì số tiền lời của công ty con sau mỗi năm hoạt động đương nhiên phải chia về cho công ty mẹ tương ứng với số vốn công ty mẹ đã góp. Như vậy quá trình tích tụ & tập trung vốn sẽ được thực hiện tốt hơn, nhanh hơn, khắc phục tình trạng phân tán vốn.
Công ty mẹ và công ty con có thể giải phóng sức sản xuất vì có sự liên hệ thực tế về tài chính không phải về cơ chế hành chính như một số mô hinh đang áp dụng. Thêm vào đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, quan hệ sản xuất theo cơ chế quản lý cũ không còn phù hợp.
Tăng quyền tự chủ cho doanh nghiệp: tiến hành liên kết trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lợi ích của nhau, giảm bớt sự liên kết theo kiểu mệnh lệnh hành chính ; thực hiện tổ chức bộ máy gọn nhẹ, gắn kết với nhau bằng cơ chế vốn linh hoạt.
V.2 Nhược điểm
Do công ty mẹ nắm giữ và chi phối vốn đầu tư nên luôn có quyền quyết định tối cao về chiến lược và nhân sự cấp cao
Các công ty con tuy hoạt động kinh doanh độc lập nhưng hoạt động của nó phải theo đúng định hướng chiến lược của công ty mẹ
Nếu công ty con gặp khó khăn hay phá sản thì công ty mẹ chỉ chịu thua lỗ chứ không làm công ty mẹ phá sản. nhưng ngược lại khi công ty mẹ gặp khó khăn, các công ty con sẽ chịu tác động nặng nề đặc biệt khi công ty mẹ phá sản thì các công ty con cũng bị phá sản theo
Mô hình công ty mẹ- công ty con chỉ thực sự đạt hiệu quả khi nó tuân theo quy luật tích tụ và tập trung của kinh tế thị trường. Trái điều này hẳn mô hình sẽ sụp đổ.
Phần II: Tập đoàn kinh tế trong điều kiện ở Việt Nam.
I.Tính tất yếu của việc hình thành các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam và những định hướng.
I.1. Tính tất yếu:
Do sự phát triển của kinh tế thị trường, sự tích tụ, tập trung chuyên môn hoá và sự hợp tác hoá sản xuất, do nhiều nhân tố khác của kinh tế – xã hội, khoa học công nghệ, khoa học quản lý, từ lâu nhiều doanh nghiệp đơn lẻ ở các nước kinh tế phát triển đã liên kết lại với nhau, dần hình thành những tổ hợp kinh tế quy mô lớn về ngành nghề và về lĩnh vực kinh doanh, phạm vi hoạt động không chỉ một địa phương mà liên kết toàn cầu. Năm 1980, thế giới có 12000 công ty xuyên quốc gia với 122 000 chi nhánh ở nước ngoài. Năm 1989, số công ty xuyên quốc gia đã lên tới 35000 với 150 000 chi nhánh ở nước ngoài. Hiện nay gần 40% tổng giá trị của nền kinh tế thế giới, 50% tổng kim ngạch mậu dịch, 90% tổng kim ngạch đầu tư trực tiếp, 90% công nghệ phát triển cao, 75% chuyển giao kỹ thuật, 90% mậu dịch kỹ thuật của các nước phát triển đều thông qua các công ty xuyên quốc gia. Đây là những khái quát chung về tình hình kinh tế thế giới hiện nay. Trong khi đó, khi đánh giá về bước phát triển vững mạnh và vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam năm 2003, Thủ tướng Phan Văn Khải đã nêu rõ: “Mặc dù nền kinh tế Việt Nam năm 2003 đã đạt những thành tựu lớn với GDP tăng 7,4% (đứng thứ 2 Châu á), thu ngân sách lần đầu tiên đạt 132 000 tỷ đồng và là năm thứ sáu liên tiếp vượt qua chỉ tiêu đề ra, nhưng quy mô sản xuất kinh doanh của nền kinh tế chúng ta còn quá nhỏ bé. Thu ngân sách của cả nước chưa bằng số đóng góp ngân sách của một tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới. Chính vì thế muốn kinh tế tiếp tục bứt phá và tăng trưởng bền vững, nhất định chúng ta phải xây dựng những tập đoàn kinh tế mạnh, có quy mô sản xuất lớn để đủ sức cạnh tranh, phát triển trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
I.2. Những định hướng về việc hình thành loại tập đoàn trong điều kiện Việt Nam.
Các tổng công ty theo mô hình TĐKT được thành lập theo quyết định 91/TTg mới chỉ là hình thức quá độ của mô hình TĐKT. Nó còn đơn điệu (chủ yếu là chỉ bao gồm các DNNN của một ngành) được thành lập theo ý chỉ của cơ quan cấp trên chứ chưa hoàn toàn là quá trình hình thành tự nhiên. Do vậy động lực và cơ sở hoạt động của quá trình hình thành tự nhiên. Trong khi đó, mô hình TĐKT mà chúng ta muốn thành lập lại cần tuân theo nguyên tắc đa dạng ngành nghề và đa sở hữu, trong đó các DNNN giữ vai trò chủ đạo trong các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.
Vì thế , nếu xét theo tính chất và trình độ của liên kết kinh tế thì ở nước ta trong những năm tới, hướng phát triển của các TĐKT sẽ là:
Phát triển các TĐKT theo dạng Cartel là chủ yếu, tức là phát triển TĐKT theo dạng chuyên môn hoá một ngành như: xi măng, than, điện… Hình thức này phù hợp và tỏ ra có hiệu quả hơn. Tập đoàn tổ chức theo mô hình này, qua quá trình tự tích luỹ từ kết quả sản xuất kinh doanh sẽ dần mở rộng sang các lĩnh vực khác như thương mại, dịch vụ để hướng tới kinh doanh đa ngành và dần dần thực hiện đa sở hữu.
TĐKT dạng concern – liên kết theo ngành dọc. Tập đoàn này có thể bao gồm các hoạt động sản xuất, thương mại dịch vụ có liên quan đến sản phẩm chuyên ngành. Loại hình TĐKT này có khả năng hoạt động tốt vì nó có cơ sở để hình thành trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay các công ty thương mại dịch vụ của tập đoàn sản xuất ban đầu sẽ hoạt động trong một số lĩnh vực chuyên môn hoá với một số loại sản phẩm dịch vụ của tập đoàn sản xuất chuyên ngành. Qua quá trình hoạt động, cùng với sự phát triển của tập đoàn, các công ty vệ tinh này sẽ mở rộng sang các lĩnh vực khác để hướng tới đa ngành.
Loại hình tập đoàn đa ngành: Loại hình này có đặc điểm là các công ty thành viên ít có mối quan hệ hoặc không cần có mối quan hệ về công nghệ nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ về tài chính, thực chất đây là việc một tổ chức tài chính thực hiện đầu tư vào các công ty kinh doanh tạo ra “một chùm” các doanh nghiệp tài chính – công nghiệp để hỗ trợ vốn đầu tư cho các công ty thành viên có hiệu quả cao.
Theo mô hình này, các đơn vị thành viên ít có quan hệ mật thiết, thậm chí không có quan hệ nào liên quan đến sản xuất. Mối quan hệ ở đây chủ yếu là hành chính và tài chính.
Tuy loại hình tập đoàn này thể hiện xu thế phát triển hiện nay nhưng lại là giai doạn cao của phát triển các tập đoàn, do đó đòi hỏi phải có những tiền đề cần thiết. Trong khi đó, hiện nay, chúng ta chưa hội tụ đủ những điều kiện nên lại hình tập đoàn này vượt quá khả năng và trình độ của chúng ta hiện nay. Nếu thành lập và phát triển loại hình này sẽ gặp nhiều khó khăn và không đem lại hiệu quả.
Tuy nhiên cho dù lựa chọn loại hình TĐKT nào, chúng ta cũng nên chủ động ngay từ đầu thành lập một công ty tài chính riêng của tập đoàn để khơi thông các luồn vôn phục vụ cho tích tụ đầu tư, nâng cao hiệu qủa của việc sử dụng vốn, dần đần tiến tới thành lập một ngân hàng trong tập đoàn. Hoạt động kinh doanh tài chính ngân hàng của tâp đoàn có vai trò rất lớn và cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của tập đoàn bởi vì xu hướng cơ bản của tập đoàn chủ yếu là kiểm soát, chi phối về tài chính, đầu tư đối với các đơn vị thành viên.
II. Về việc chuyển đổi các TCT sang các TĐKT theo kiểu mẹ – con ở Việt Nam.
Trên bước đường hình thành các TĐKT ở Việt Nam, việc chuyển các TCT sang hoạt động theo mô hình tập đoàn là một yếu cầu cấp thiết và mang tính tất yếu vì các TCT đang hoạt động hiện nay ở Việt Nam chính là hình thức quá độ của mô hình TĐKT và là một trong những tổ chức tiền thân của TĐKT.
Trong hơn mười năm phát triển kinh tế thị trường dưói sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế Việt Nam dã có những bước phát triển vượt bậc với sự ra đời của các TCT nhà nước và khẳng định được vai trò nòng cốt, chủ lực, xương sống của nền kinh tế. Tuy nhiên, với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cạnh tranh, tự do thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế hiệu qủa sản xuất kinh doanh của các tổng công ty nhà nước có xu hướng giảm dần. So với các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn về vốn (66%) nhưng mới taọ ra được 58% doanh thu và tổng công ty 90 chỉ chiếm 22% về vốn nhưng đạt tới 27% doanh thu. Quá trình tổ chức lại chưa thực sự tạo ra sự gắn kết về tài chính, công nghệ, thị trường. Do dó, hoạt động của TCT có phần rời rạc chưa phát huy được hiệu quả sức mạnh của TCT, một số cơ chế chính sách đối với TCT nhà nước đến nay không còn phù hợp khi so sánh với các TĐKT trên thế giới thì còn nhiều sự khác biệt, không chỉ ở quy mô kinh doanh, ở trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất mà ở cả cơ chế quản lý và vận hành. Trong mô hình hiện tại, các TCT có các công ty thành viên theo dạng hình chóp, trong đó các TCT là cơ quan quản lý, không trực tiếp kinh doanh, hoạt động dựa vào các khoản phí được nộp từ các đơn vị thành viên. quan hệ kinh tế giữa TCT với các đơn vị thành viên vẫn mang dáng dấp hành chính, trung gian, cấp trên cấp dưới, thiếu sự gắn kết về lợi ích kinh tế và động lực phát triển.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các TCT cần tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của các TCT hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 đã nêu những định hướng về cơ chế, chính sách và các giải pháp chủ yếu thực hiện nhiệm vụ kế hoạch 5 năm (2001 – 2005), trong đó đã khẳng định một nhiệm vụ quan trọng là “hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, tổ chức lại và đổi mới quản lý DNNN…” trong đó cần “kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu ủa của các TCT theo mô hình công ty mẹ – công ty con, kinh doanh đa ngành tổng hợp trên cơ sở ngành chuyên môn hoá, gọi vốn thuộc nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh, làm nòng cốt dể hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh ở một số ngành và lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân như bưu chính viễn thông, hàng không, dầu khí…
Với nhiệm vụ quan trọng như trên, chính phủ đang tiếp tục khẩn trương nghiên cứu để đưa ra những sửa đổi cần thiết trong luật DNNN, trong đó có quy định về tổ chức hoạt động và chuyển đổi tông công ty, DNNN theo mô hình công ty mẹ – con. Đây là vấn đề còn mới ở nước ta, các tập đoàn đa và xuyên quốc gia lớn đều áp dụng mô hình công ty mẹ – công ty con do những ưu điểm của nó. Đó là:
Địa vị pháp lý của các công ty con có tính độc lập tương đối, là những pháp nhân chịu trách nhiệm trước pháp luật như đối với công ty mẹ.
Các công ty con được bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong quyết định phương án đầu tư sản xuát, kinh doanh trong chiến lược phát triển chung của công ty.
Cơ chế giao vốn thay thế bằng cơ chế góp vốn rõ ràng, thể hiện rõ trách nhiệm và quyền hạn của công ry mẹ (hoặc công ty đầu tư tài chính trong công ty mẹ) trong việc đầu tư vốn cho các công ty con.
Các công ty con hoạt động theo tôn chỉ mục đích phát triển chung của công ty mẹ và có mối quan hệ chặt chẽ với các công ty con khác trong công ty mẹ.
Bảo đảm sự chặt chẽ trong hoạt động của các công ty, công ty mẹ vẫn thực hiện chế độ giám sát đối với các công ty con, công ty con thực hiện các chế độ BCTC, kết qủa sản xuất kinh doanh định kì với công ty mẹ. Với mô hình công ty mẹ – công ty con, như vậy , các công ty con đựoc tự chủ và tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Công ty mẹ với vai trò là người đầu tư vốn cho công ty con, có quyền hạn trong việc định hướng hoạt động của các công ty con.
Sự khác biệt giữa mô hình công ty mẹ – công ty con và mô hình tổng công ty
Tổng công ty
Công ty mẹ – công ty con
Quản lý chủ yếu bằng quan hệ hành chính
Có một công ty bao trùm lên các thành viên
Tổng công ty không phải là doanh nghiệp kinh doanh
Tổng vốn bằng tổng vốn các thành viên
Cơ cấu tài chính không có chiều sâu, ít hiệu quả
Chủ yếu bằng quan hệ tài chính
Không có doanh nghiệp nào bao trùm mà các thành viên phụ thuộc nhau
Công ty mẹ là một doanh nghiệp kinh doanh
Tổng vốn nhỏ hơn tổng vốn các thành viên
Cơ cấu tài chính có chiều sâu, hiệu quả hơn
Mối quan hệ giữa công ty mẹ- công ty con và tập đoàn
Công ty A
Công ty D
Công ty C
Công ty B
Tập đoàn
Công ty E
Công ty H
Công ty G
Giải thích
___ Quan hệ chi phối. Nắm giữ trên 50% quyền biểu quyết; hoặc nắm giữ quyền chỉ định đa số thành viên hội đồng quản trị;hoặc giữ quyền biểu quyết đa số trong hội đồng quản trị
---- Quan hệ không chi phối
+ Công ty A là mẹ công ty B, công ty C, đồng thời cũng là mẹ công ty G và công ty H
+ Công ty B, công ty C là con của công ty A
+ Công ty G, công ty H là con của công ty B đồng thời là con của công ty A
+ Công ty A với công ty D và công ty B với công ty E chỉ là mối liên kết không phải là mối quanf
hệ mẹ- con
Tập hợp công ty A, công ty B, công ty C, công ty G, công ty H là tập đoàn
Vậy tập đoàn là một tổ hợp gồm công ty mẹ và các công ty con
III. Những định hướng về cơ chế tài chính của mô hình công ty mẹ- công ty con
Về quản lý vốn và tài sản
+ Nguyên tắc cơ bản trong vận hành và hoạt động của tổng công ty theo mô hình công ty mẹ- công ty con là dựa trên các quan hệ về đầu tư và sở hữu về vốn, tài sản giữa công ty mẹ và công ty con
+ Công ty mẹ được phép sử dụng vốn và tài sản thuộc quyền quản lý sử dụng của mình để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp bao gồm: đầu tư thành lập doanh nghiệp có 100% vốn điều lệ thuộc sở hữu của công ty mẹ và do công ty mẹ là chủ sở hữu, góp vốn với các chủ sở hữu khác thành lập công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, mua lại cổ phần hoặc phần vốn của nhà đầu tư khác, các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật.
+ Công ty mẹ không được quyền tự ý điều động vốn , và tài sản mà công ty mẹ đã đầu tư vào các công ty con mà chỉ có thể thực hiện thông qua việc chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn của công ty mẹ đã đầu tư vào các công ty con. Việc chuyển nhượng tài sản của công ty mẹ dược chủ sở hữu phân cấp và quy định trong điều lệ của công ty. Nếu giá trị chuyển nhượng nhỏ hơn 50% giá trị tài sản theo sổ sách kế toán thì do hội đồng quản trị công ty mẹ quyết định, ngược lại nết trên 50% thì hội đồng quản trị phải được chủ sở hữu xem xét, phê duyệt.
+ Công ty mẹ được quyền cầm cố, thế chấp, cho thuê, nhượng bán, thanh lý các tài sản thuộc sở hữu của công ty, được thay đổi cơ cấu tài sản để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty sao cho có hiệu quả nhất. Việc nhượng bán, thanh lý các tài sản của công ty mẹ do chủ sở hữu phân cấp và quy định trong điều lệ công ty mẹ. Nếu giá trị tài sản, nhượng bán, thanh lý có giá trị dưới 50% tổng giá trị tài sản theo sổ sách kế toán của công ty mẹ thì do hội đồng quản trị quyết định, trên mức đó, hội đồng quản trị phải trình chủ sở hữu công ty mẹ xem xét, phê duyệt.
+ Công ty mẹ được quyền trích khấu hao cơ bản theo nguyên tắc mức trích khấu hao tối thiểu phải đảm bảo bù đắp được hao mòn hữu hình, hao mòn vô hình thực tế của tài sản không thấp hơn tỷ lệ trích khấu hao tối thiểu do Chính phủ quy định. Công ty có thể được chủ sở hữu quyết định cho trích tăng khấu hao để nhanh chóng thu hồi vốn.
+ Hàng năm, công ty mẹ phải thực hiện kiểm kê tài sản trước khi khoá sổ kế toán. tài sản thừa thiếu phải lập biên bản, xác định rõ nguyên nhân, những tài sản thiếu hụt do nguyên nhân chủ quan thì tập thể, cá nhân gây ra dự thiếu hụt phải bồi thường. Mức độ bồi thường do hội đồng quản trị quyết định theo quy định của pháp luật. Việc hạch toán giá trị tài sản dư thừa, thiếu hụt được thực hiện theo quy định chung của Nhà nước.
+ Việc hạch toán, xác định giá trị của tài sản lưu động là hàng hoá tồn kho phải thực hiện theo đúng quy định của chuẩn mực kế toán. Trường hợp giá gốc ghi trên sổ kế toán cao hơn giá trị thuần có thể thực hiện thì công ty phải trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
+ Các khoản nợ phải thu, phải trả công ty mẹ phải mở sổ sách theo dõi các khoản công nợ theo từng đối tượng, thường xuyên phân tích, đôn đốc thu hồi nợ phải thu và thanh toán nợ phải trả. Trước khi khoá sổ kế toán để lập BCTC hàng năm, công ty phải kiểm kê, đối chiếu từng khoản nợ với các chủ nợ và khách nợ. Các khoản nợ phải thu xác định là khó đòi, công ty phải trích lập dự phòng và được xử lý theo quy định.
Quản lý doanh thu và chi phí
+ Doanh thu, thu nhập của công ty mẹ là toàn bộ số tiền đã thu, hoặc sẽ thu do việc cung cấp sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, các hoạt động tài chính và hoạt động khác của công ty mẹ. Trường hợp công ty mẹ được chia lợi nhuận trước thuế thì số tiền thu được hạch toán vào thu nhập tài chính và phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Nếu được chia lợi nhuận sau thuế, công ty hạch toán vào thu nhập tài chính và không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản này.
+ Chi phí hoạt động kinh doanh của công ty mẹ là toàn bộ chi phí thực tế của công ty đã bỏ ra trong kỳ để phục vụ cho quá trình hoạt động kinh doanh, bao gồm cả giá trị tài sản tổn thất và trích lập các khoản dự phòng theo quy định.
+ Việc xác dịnh các khoản doanh thu, thu nhập nói trên cũng như việc hạch toán chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh, tính giá thành sản phẩm hàng hoá, chi phí dịch vụ thực hiện trong kì và xác định kết quả kinh doanh (lãi, lỗ) của công ty mẹ thực hiện theo đúng quy định hiện hành của Bộ tài chính và các văn bản hướng dẫn các chuẩn mực kế toán.
+ Các công ty con trong tổng công ty là các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân thực hiện tự chủ kinh doanh, tự chủ tài chính theo quy định của pháp luật và theo điều lệ do công ty mẹ duyệt. Việc xác định các khoản thu cũng được thực hiện theo đúng quy định của Bộ tài chính về ban hành và công bố các chuẩn mực kế toán Việt Nam và các văn bản hướng dẫn các chuẩn mực kế toán hiện hành
Lợi nhuận và phân phối lợi nhuận
Lợi nhuận của công ty mẹ bao gôm lợi nhuận hoạt động kinh doanh, lợi nhuận hoạt động tài chính và lợi nhuận hoạt động khác. Các khoản lợi nhuận thu được do việc đầu tư ra ngoài doanh nghiệp của công ty mẹ nếu đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp ở công ty con thì vẫn hạch toán vào lợi nhuận hoạt động tài chính nhưng khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ được loại trừ. Các khoản lợi nhuận mà công ty mẹ để lại cho công ty con bổ sung thêm vốn cũng phải hạch toán vào lợi nhuận hoạt động tài chính đồng thời hạch toán tăng vốn chủ sở hữu và tăng vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp.
Việc xác định lợi nhuận và phân phối lợi nhuận sau thuế của các công ty con được thực hiện theo các quy định pháp luật hiện hành liên quan và theo quy định của điều lệ công ty mẹ phê duyệt.
IV. Vai trò của các TDDKT đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam
Việc thành lập các TDDKT ở Việt nam hiện nay là một vấn đề tương đối lớn và khó khăn đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn yếu về mọi mặt cả về cơ sở vật chất lẫn trình độ công nghệ. Thế nhưng việc thành lập các TDDKT lại là cần thiết vì sự ra đời của các TDDKT sẽ góp phần thúc đảy sự phát triển kinh tế ở Việt Nam, đặc biệt là trên các giác độ như:
+ Giảm bớt sự ngăn cách, phân biệt giữa DNNN và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tạo ra sự kết hợp đan xen hài hoà trong các doanh nghiệp Việt nam có thể thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế nhanh chóng và có hiệu quả hơn.
+ Góp phần nâng cao năng lực huy động vốn và quản lý tài chính của doanh nghiệp.
+ Mở rộng lĩnh vực hoạt động và thị trường cho các ngành nghề khác nhau, chủ động hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.
+ Tạo ra một khoản đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước, góp phần quan trọng vào mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Phần III: Khái quát chung về báo cáo tài chính hợp nhất trong các tập đoàn kinh tế.
I. Khái niệm BCTC hợp nhất và sự cần thiết phải lập BCTC hợp nhất trong TĐKT.
Việc hình thành các TĐKT đặt ra yêu cầu trình bày và cung cấp thông tin về hoạt động sản xuất, kinh doanh của tập đoàn nhưu một doanh nghiệp đơn lẻ. Tập đoàn kinh tế bao gồm công ty mẹ và các công ty con. Công ty mẹ và các công ty con đều phải mở sổ kế toán để ghi chép kế toán và đều phải lập đầy đủ các BCTC, trình bày các thông tin về tình hình tài sản, nguồn vốn, doanh thu, chi phí, kết quả hoạt động, lượ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0245.doc