Lời nói đầu
Cùng với những vấn đề thiết yếu của cuộc sống con người là việc làm và thu nhập, thì bảo hiểm xã hội trong bất kỳ một chế độ xã hội nào cũng là một vấn đề luôn luôn được xem xét, bởi vì rủi ro luôn là một vấn đề dễ xảy ra với mọi người. BHXH là chính sách xã hội được nhiều quốc gia coi trọng nhằm đảm bảo về mặt thu nhập cho người lao động khi họ tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. Bảo hiểm xã hội đã trở thành quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động gắn liền với quyền về
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1563 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Bàn về việc thu & chống thất thu quỹ Bảo hiểm xã hội ở cơ quan Bảo hiểm xã hội quận Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc làm và thu nhập. Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm ngay từ khi mới thành lập nước và nó đã đóng góp to lớn cho sự phát triển của đất nước. Hoạt động của bảo hiểm xã hội ngày càng hiệu quả hơn đặc biệt là sau năm 1995 khi mà quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành độc lập nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. Quỹ bảo hiểm xã hội là xương sống của bất kỳ một hệ thống bảo hiểm xã hội nào vì chế độ bảo hiểm xã hội đều nhằm mục đích bảo đảm an toàn về thu nhập cho người lao động, muốn vậy thì cơ quan bảo hiểm xã hội phải có một lượng tiền nhất định.
Cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa được thành lập và bắt đầu hoạt động từ tháng 10 năm 1995 cho đến nay đã thu được nhiều thành tự như: phí thu được ngày càng nhiều, chi trả đúng đối tượng ... Tuy nhiên trong quá trình hoạt động vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế như: thu bảo hiểm xã hội vẫn chưa đạt kết quả cao, nhiều đơn vị vẫn còn lợi dụng kẽ hở pháp luật để trốn nộp bảo hiểm xã hội, vẫn tồn tại trục lợi bảo hiểm xã hội ... Điều này đã làm cho hiệu quả hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội còn chưa cao và còn phải nhờ vào Ngân sách Nhà nước. Như vậy, vấn đề thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội có một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của chế độ xã hội Việt Nam cũng như bảo hiểm xã hội các tỉnh, huyện trong cả nước trong đó có bảo hiểm xã hội quận Đống Đa. Do vậy mà em chọn đề tài: “Bàn về việc thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan Baỏ hiểm xã hội quận Đống đa “
Mục đích của đề tài:
- Làm rõ thu và chống thất thu bảo hiểm xã hội là gì?
- Đánh giá thực trạng công tác thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội quận Đống Đa giai đoạn 1995 – 2001?
- Đề xuất ý kiến và giải pháp nhằm nâng cao công tác thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội quận Đống Đa trong thời gian tới
Nội dung của chuyên đề bao gồm:
Lời nói đầu
Chương I: Khái chung về bảo hiểm xã hội và thu quỹ bảo hiểm xã hội
Chương II: Thực trạng công tác thu, và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa .
Chương III: Một số ý kiến nhằm nâng cao công tác thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa.
Kết luận.
Chuyên đề này được hoàn thành là nhờ sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo GS- TS Nguyễn cao thường và tập thể cán bộ công nhân viên của cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa. Mặc dù bản thân em đã có nhiều cố gắng nhưng do trình độ còn hạn chế và bảo hiểm xã hội là một vấn đề lớn và quan trọng nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong thầy giáo và các cán bộ trong cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa đóng góp ý kiến để chuyên đề được hoàn chỉnh hơn.
Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2001.
Sinh viên
Lê khánh việt.
Chương I
khái quát chung về bảo hiểm xã hội
và thu quỹ bảo hiểm xã hội
I. Khái quát chung về BHXH
1. Khái niệm và sự cần thiết khách quan của BHXH
Bảo hiểm xã hội ( BHXH ) ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước Châu Âu. Như vậy, BHXH là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và đến nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. So với các loại hình bảo hiểm khác, đối tượng, chức năng và tính chất của BHXH có những điểm khác biệt do bản chất của nó chi phối.
Con người muốn tồn tại và phát triển thì trước hết phải thoả mãn những nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc, ở, đi lại do vậy họ phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiếp. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế không phải lúc nào con người cũng gặp thuận lợi, có thu nhập và điều kiện sống bình thường mà ngoài ra có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập và các điều kiện sinh sống khác. Những trường hợp như ốm đau, tai nạn lao động, mất khả năng lao động do tuổi tác... những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần có người chăm sóc, nuôi dưỡng... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: đi vay, san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi xin hoặc sự cứu trợ của Nhà nước ... Nhưng rõ ràng các cách đó hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn công nhân trở lên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc đảm bảo cho người làm thuê có số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may họ bị tai nạn, ốm đau, thai sản ... Trong thực tế nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi trả một đồng nào, tuy nhiên nhiều khi nó lại xảy ra dồn dập buộc họ phải bỏ ra một lúc một khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ thợ phát sinh. Giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc giới chủ và thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán một cách chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vậy, "BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội".
Qua khái niệm về bảo hiểm xã hội ta có thể thấy được sự cần thiết của BHXH đối với người lao động và xã hội. BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập cũng sẽ được hưởng trợ cấp cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ gặp phải biến cố làm giảm hay mất thu nhập. Số lượng những người này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang. Phân phối lại giữa những người có thu nhập cao và thu nhập thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm đau phải nghỉ việc... Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó người lao động luôn yên tâm gắn bó tận tình với công việc và với nơi làm việc. Từ đó họ rất tích cực lao động, sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng xuất lao động cá nhân và kéo theo năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động... Thông qua BHXH những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế chính trị và xã hội được phát triển, an toàn hơn.
2. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH.
BHXH đã xuất hiện từ rất lâu mà mầm mống của nó từ thế kỷ 13 ở Nam Âu khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển. Tuy nhiên, ban đầu BHXH chỉ mang tính chất sơ khai, với phạm vi nhỏ hẹp. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt động nghề nghiệp họ đã thành lập nên các loại quỹ tương trợ để giúp nhau.( ở Anh năm ) đã thành lập hội "bằng hữu" để giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau hau tai nạn nghề nghiệp).
Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, BHXH lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, phát triển rất phong phú, đa dạng và có nhiều thay đổi bổ sung. BHXH ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là một trong các trung tâm chú ý của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế.
Theo Công ước Giơnever - 1952 của Tổ chức Lao động Quốc tế(TLO) đã xác định BHXH gồm 9 chế độ sau:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Nhưng trên thực tế không phải nước nào cũng thực hiện được toàn bộ 9 chế độ trên và không phải nước nào cũng có phạm vi, đối tượng nguồn hình thành quỹ giống nhau. Có nghĩa là việc thực hiện BHXH ở những nước khác nhau thì khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước và hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn phát triển mà mỗi nước có những hình thức áp dụng khác nhau cho phù hợp.
Trên thế giới có 35 nước thực hiện được 9 chế, 37 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 ( trợ cấp thất nghiệp), 67 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 và chế độ thứ sáu ( trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp gia đình).
TạiViệt Nam dưới chính quyền Pháp thuộc, chúng đã thực hiện BHXH đối với công chức và quân nhân Việt Nam hưởng lương phục vụ trong bộ máy hành chính và quân đội Pháp ở Đông Dương khi họ ốm đau, tuổi già hoặc chết. Còn đối với công nhân Việt Nam việc thực hiện BHXH hết sức khó khăn, gần như chính quyền Pháp không công nhận một quyền lợi nào về BHXH. Công nhân Việt Nam chết, ốm đau, tai nạn trong các nhà máy, đồn điền cao su không được mai táng, chữa bệnh, phụ nữ sinh đẻ vẫn phải làm việc, trẻ em sinh ra yếu ớt không được chăm sóc.
Từ khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được thành lập. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH.Sắc lệnh 54SL ngày 14\6\1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức. Hai sắc lệnh này quy định công chức phải đóng bảo hiểm và trong quỹ hưu bổng có phần đóng thêm của nhà nước . Sắc lệnh 76/SL ngày 20\5\1950 ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí , thai sản và chăm sóc y tế, tai nạn và tiền tuất đối với công chức. Trong khu vực sản xuất lúc này chưa thành lập quỹ BHXH , Nhưng sắc lệnh 29\SL ngày 12\3\1947 và sắc lệnh 77/SL ngày 22\5\1950 đã ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí . tai nạn lao động , ốm đau , thai sản , tử tuất đối với công nhân.
Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc , thực hiện hiến pháp năm 1949 Hội đồng chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân vieen chức nhà nước kèm theo nghị định 218/CP ra ngày 27\12\1961 của hội đồng chính phủ quy điịnh như sau: Chế độ trợ cấp BHXH gồm 6 loại :
Trợ cấp ốm đau .
Trợ cấp Thai sản.
Trợ cấp Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Trợ cấp hưư trí .
Trợ cáp mất sức lao động
Trợ cấpTử tuất.
Do môthành phần kinh tế thời kỳ dài bao cấp , nhìn chung 6 chế độ này đã đáp ứng được yêu cầu của người lao động và của xã hội.Gop phần vào việc thực hiện nhiều chính sáchxã hội của đảng và nhà nước.Tuy nhiên khi chuyển sang kinh tế thị trường điều kiện kinh tế của nhà nước đã thay đổi vì vậy nghị định43\CP ra đời ngày 22/6/1993 và nghị định 12\ CP ngày 26\1\1995 đều thống nhất một quan điểm là chỉ thực hiện 5 chế độ và bỏ trợ cáp mất sức lao động (MC)
3. Tính chất của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội gắn liền với người đời sống của người lao động, vì vậy nó có một số tính chất cơ bản sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội.
Trong quá trình lao động sản xuất người lao động có thể gặp phải nhiều biến cố, rủi ro khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém như: sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng và hợp đồng lao động luôn phải được đặt ra để thay thế v.v... Sản xuất càng phát triển, những rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử dụng lao động càng nhiều và trở nên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ – thợ ngày càng căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua bảo hiểm xã hội. Và như vậy, bảo hiểm xã hội ra đời hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước.
- Bảo hiểm có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của bảo hiểm xã hội. Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ bảo hiểm xã hội. Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian đến mức trợ cấp bảo hiểm xã hội theo từng chế độ cho người lao động v.v...
- Bảo hiểm vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội , đồng thời còn có tính dịch vụ.
Tính kinh tế thể hiện rõ nhất là ở chỗ, quỹ bảo hiểm xã hội muốn được hình thành, bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên phải được tính toán rất cụ thể dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại của tập hợp người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu dùng để trợ cấp cho người lao động theo các điều kiện của bảo hiểm xã hội. Thực chất, phần đóng góp của mỗi bên người lao động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận được là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với người sử dụng lao động việc tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội là để bảo hiểm cho người lao động mà mình sử dụng. Xét dưới góc độ kinh tế, họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang trải cho những người lao động bị mất hoặc giảm khả năng lao động. Với Nhà nước, bảo hiểm xã hội góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách, đồng thời quỹ bảo hiểm xã hội còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nên kinh tế quốc dân.
BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống đảm bảo xã hội vì vậy tính xã hội của nó thể hiện rất rõ. Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao động. Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính chấ dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế – xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính xã hội hoá của BHXH cũng ngày càng cao.
II: THU QUỹ BHXH Và VấN Đề CHốNG THấT THU.
1. Quỹ bảo hiểm xã hội
a. Khi niệm về quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH là tập hợp đóng góp bằng tiền của các bên tham gia bảo hiểm: người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước nhằm mục đích chi trả cho các chế độ BHXH và đảm bảo hoạt động của hệ thống BHXH.
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước.
b. Đặc điểm
- Là một quỹ tiền tệ tập trung, giữ vị trí là khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Là tổ chức tài chính nằm giao thoa giữa ngân sách Nhà nước với các tổ chức tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp và sau đó là tài chính dân cư.
- Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn trả. Tính không hoàn trả của quỹ BHXH được áp dụng với những người đã tham gia BHXH trong suốt qúa trình lao động nhưng không ốm đau, tai nạn lao động, sinh con.
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển của BHXH gắn liền với chức năng vốn có của Nhà nước là vì quyền lợi của người lao động chứ không vì mục đích kiếm lời, đồng thời nó cũng phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Khi nền kinh tế càng phát triển thì càng có nhiều chế độ BHXH được thực hiện, và bản thân từng chế độ cũng được áp dụng rộng rãi hơn, nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâng cao. Mặt khác, khi nền kinh tế phát triển thì mức thu nhập của người lao động càng cao và họ càng có khả năng tham gia vào nhiều chế độ BHXH.
- Một mặt, quỹ BHXH mang tính tiêu dùng được thể hiện thông qua mục tiêu, mục đích của nó là chi trả cho các chế độ BHXH. Nhưng mặt khác nó lại mang tính dự trữ vì thông thường, khi người lao động đóng góp vào quỹ BHXH thì họ không được quỹ này chi trả ngay khi gặp rủi ro mà phải có đủ thời gian dự bị.
- Hoạt động của quỹ BHXH đặt ra yêu cầu và hình thành tất yếu chế độ tiết kiệm bắt buộc của xã hội và người lao động dành cho ốm đau, hưu trí. Đó cũng là quá trình phân phối lại thu nhập của cá nhân và cộng đồng.
c. Nguồn quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước.
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp.
- Người lao động đóng góp.
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm.
-Người tự nguyện tham gia BHXH đóng.
- Các nguồn thu khác( như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi ...).
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ – thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ – thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của Nhà nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng nhiều hình thức khác nhau, Nhà nước không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau.
Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí Quản lý BHXH v.v...
Bảng 1: Mức đóng BHXH ở một số nước trên thế giới
Tên nước
Chính phủ
Tỷ lệ đóng góp của người lao động so với tiền lương (%)
Tỷ lệ đóng góp của người sử dụng lao động so với quỹ lương(%)
CHLB Đức
Bù thiếu
14,8 – 18,8
16,3 – 22,6
CH Pháp
Bù thiếu
11,82
19,68
Inđônêxia
Bù thiếu
3,0
6,5
Philipin
Bù thiếu
2,85 – 9,25
6,85 – 8,05
Malaixia
Chi toàn bộ chế độ ốm đau,thai sản
9,5
12,75
(Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới)
ở nước ta, từ năm 1962 đến năm 1987, quỹ BHXH chỉ được hình thành từ hai nguồn: các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lương của xí nghiệp, phần còn lại do ngân sách Nhà nước đài thọ. Thực chất là không tồn tại quỹ BHXH độc lập. Từ năm1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp 15% quỹ lương của đơn vị. Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngay 22/06/1993 và Điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995, trong các văn bản này đều quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất.
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động.
- Các nguồn khác.
Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa học. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thể có những căn cứ tính toán khác nhau:
- Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sở xác định mức phí đóng.
- Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó mới xác định mức hưởng.
- Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định được mức phí phải đóng.
- Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhưng xác định phí BHXH lại khá phức tạp vì nó liên quan đến cả người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định phí BHXH vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc : cân bằng thu chi , lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất.
Phí BHXH được xác định theo công thức:
P= f1+f2+f3
Trong đó: P: Phí BHXH
f1: phí thuần tuý trợ cấp BHXH
f2: phí dự phòng
f3: phí quản lý
Phí thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngăn hạn và dài hạn. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn( thường là 1 năm) như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ ... Vì vậy, số đóng góp BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với chế độ BHXH dài hạn như: hưu trí , trợ cấp mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp nặng v.v... quá trình đóng và quá trình hưởng BHXH tương đối độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên sự cân bằng giữa đóng góp và hưởng BHXH phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế, ngoài phí thuần tuý phải có phí dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
d. Mục đích sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ bảo hiểm xã hội bao gồm 3 bộ phận: phí thuần, phí quản lý và phí dự trữ. Như vậy, quỹ bảo hiểm xã hội được sử dụng cho 3 mục đích: chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội, chi cho việc quản lý hệ thống bảo hiểm xã hội và chi trích lập quỹ dự phòng cho những trường hợp tổn thất lớn.
Trong cơ cấu chi bảo hiểm xã hội thì chi cho các chế độ bảo hiểm xã hội là rất lớn và chiếm đa phần lớn nguồn quỹ này vì đây là mục tiêu cơ bản nhất của bảo hiểm xã hội: đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động, đảm bảo ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị, tổ chức. Thực tế cho thấy việc chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội diễn ra thường xuyên và liên tục với số lượng lớn trên phạm vi rất rộng. Một trong những khoản chi thường xuyên là chi lương hưu cho những người đã nghỉ công tác; và chi trả trợ cấp hàng tháng cho thân nhân của người lao động khi họ đã qua đời.
Nguồn chi thứ hai trong bảo hiểm xã hội là chi cho việc quản lý nghiệp vụ bảo hiểm xã hội. Đây là nguồn chi không lớn trong cơ cấu chi bảo hiểm xã hội nhưng nó cũng là một khoản chi ngày càng lớn. Bởi vì các chế độ bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng để đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của người lao động, do đó đội ngũ cán bộ phục vụ bảo hiểm xã hội ngày càng nhiều dẫn đến chi lương cán bộ ngày càng lớn. Mặt khác, xã hội càng phát triển thì nhu cầu về điều kiện làm việc ngày càng tăng. Vì vậy, chi phí cho việc xây dựng cơ bản , mua sắm máy móc, trang thiết bị văn phòng ngày càng tăng lên.
Mục đích thứ ba của quỹ bảo hiểm xã hội là chi dự trữ. Thực chất đây là quá trình tích luỹ trong quá trình sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội. Định kỳ hàng tháng (quý, năm) cơ quan bảo hiểm xã hội tiến hành giữ lại một phần quỹ của mình để thành lập nên quỹ dự trữ bảo hiểm xã hội. Quỹ này chỉ được sử dụng trong trường hợp nhu cầu chi trả lớn dẫn đến thâm hụt quỹ bảo hiểm xã hội hoặc trong lúc đồng tiền mất giá.
2.Nội dung của công tác thu
a. Đối tượng đóng bảo hiểm xã hội
Theo quy định về quản lý thu BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định số 177/BHXH ngày 30 tháng 12 năm 1996 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam ) đối tượng thu BHXH là người sử dụng lao động và người lao động (kể cả người lao động được cử đi học, đi thực tập, điều dưỡng, công tác ở trong, ngoài nước vẫn thuộc danh sách trả lương hoặc tiền công của cơ quan và đơn vị) làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức sau đây:
- Các doanh nghiệp Nhà nước.
- Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực chế xuất, khu công nghiệp.
- Các tổ chức kinh doanh, dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, Đoàn thể.
- Các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức Quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
- Các đơn vị sự nghiệp gán thu bù chi, đơn vị sự nghiệp hưởng nguồn thu bằng viện trợ nước ngoài( kể cả viện trợ của tổ chức phi Chính phủ) để trả lương cho công nhân viên chức trong đơn vị.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, Đoàn thể, hội quần chúng, dân cử, từ Trung ương đến cấp huyện.
Ngoài ra, còn chú ý một số trường hợp sau:
- Cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang được cử sang làm việc tại các doanh nghiệp, liên kết, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hưởng lương của tổ chức này cũng thuộc đối tượng nộp bảo hiểm xã hội.
- Người lao động đã được đăng ký hợp đồng lao động nhưng trong thời gian đầu đang được học nghề, tập nghề, thử việc để sau đó làm việc cho người sử dụng lao động thì người lao động và người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội ngay từ khi ký hợp đồng lao động.
+ Trường hợp các cơ quan, đơn vị, tổ kinh tế bị giải thể, sáp nhập, phá sản, chuyển quyền sở hữu, cổ phần hoá đều phải đóng đủ BHXH theo các quy định hiện hành của Nhà nước.
+ Trường hợp một người lao động ký kết hợp đồng lao động ở nhiều nơi với nhiều chủ sử dụng lao động khác nhau thì chỉ đóng BHXH ở một nơi ; nơi nào quản lý lao động chính thì phải đóng BHXH và đăng ký cấp sổ BHXH cho người đó; hoặc do người lao động chọn đơn vị đóng BHXH cho mình thông qua hợp đồng lao động khi ký kết.
+ Cán bộ công tác tại phường, xã hưởng sinh hoạt phí.
- Các đối tượng chưa hoặc không thu BHXH :
+ Những người lao động làm việc theo hình thức hợp đồng theo vụ, việc có thời hạn dưới 3 tháng sau đó kết thúc không ký lại hợp đồng hoặc làm những công việc có tính chất tạm thời khác đã được tính gộp tiền BHXH trong tiền lương, tiền công.
+ Lao động tự do, người sử dụng lao động không quản lý về mặt nhân sự, điều kiện và phương tiện làm việc tự nguyện tham gia.
+ Người lao động đang nghỉ hưởng chế độ BHXH như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động.
+ Người lao động đã nghỉ hưu, mất sức lao động, nghỉ hưởng trợ cấp 1 lần đã quá độ tuổi lao động nhưng vẫn tiếp tục hợp đồng lao động.
b. Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội
Tiền lương là cấp bậc, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ cấp( phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp thâm niên, phụ cấp tái cử, hệ số bảo lưu nếu có) của từng người. Các khoản phụ cấp ngoài quy đị._.nh trên không thuộc diện phải đóng BHXH và cũng không được đóng để tính vào tiền lương hưởng BHXH.
Đối với đơn vị sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thấp, tiền lương tháng trả cho người lao động không đủ mức lương cấp bậc, chức vụ của từng người để đăng ký đóng BHXH thì được đóng BHXH theo mức tiền lương đơn vị thực trả cho người lao động, nhưng mức đóng cho từng người không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Mức lương tối thiểu theo Thông tư 06 hướng dẫn thực hiện Nghị định 25, 26 của Chính phủ từ ngày 01 tháng 4 năm 1993 đến 30 tháng 12 năm 1996 là 120.000 đồng/tháng và mức lương tối thiểu được quy định tại Nghị định 06/CP ngày 21 tháng 01 năm1997 và Nghị định 28/CP ngày 28 tháng 3 năm 1997 của Chính phủ là 144.000 đồng/ tháng. Nghị định 175/CP ngày 15 tháng 12 năm 1999 của Chính phủ thì tiền lương tối thiểu được quy định tại Nghị định này là 180.000 đồng/ tháng và đến Nghị định 77/2000/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu là 210.000 đồng/ tháng.
Mức lương tối thiểu của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, các văn phòng đại diện kinh tế thương mại nước ngoài hoạt động tại Việt Nam có thuê lao động Việt Nam tiền lương tính băng đô la Mỹ(USD) được quy định trong quyết định số 385/LĐ- TBXH ngày 01 tháng 04 năm 1996 của Bộ lao động - Thương binh xã hội áp dụng cho khu vực Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là 45 USD
Đối với người lao động đi làm việc có thời gian ở nước ngoài theo quy định tại Thông tư số 05/LB-TBXH ngày 16 tháng 01 năm 1996 của Liên Bộ Tài chính - Lao động Thương binh Xã hội kể từ tháng 01 năm 1996 tổ chức hợp tác đưa người đi làm việc ở nước ngoài hàng tháng phải đóng 15% của 2 lần mức lương tối thiểu do Chính phủ Việt Nam quy định trong từng thời kỳ.
Theo Thông tư 17/TT - LĐTBXH ngày 24 tháng 01 năm 1997 thì đối với người lao động đã có quá trình tham gia đóng bảo hiểm xã hội thì mức đóng bảo hiểm xã hội trước khi ra nước ngoài làm việc bao gồm: Tiền lương cấp bậc, chức vụ, hợp đồng, hệ số chênh lệch bảo lưu và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ( nếu có).
Đối với lao động tham gia bắt buộc ở trong nước hoặc người đã có thời gian làm việc và đóng bảo hiểm xã hội ở trong nước nhưng thời gian làm việc và đóng bảo hiểm xã hội ở trong nước đã được giải quyết chế độ ở thì mức đóng bảo hiểm xã hội hàng tháng bằng 15% của 2 lần mức lương tối thiểu của công nhân viên chức Nhà nước( hiện nay là 210.000 đồng/tháng).
c. Cách xác định tổng quỹ tiền lương.
Cộng tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của từng người lại sẽ được tổng quỹ lương của đơn vị làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy, muốn biết tổng quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của cả đơn vị, nhất thiết phải lập danh sách lao động thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội gồm các tiêu thức sau:
Số TT
Họ và tên
Năm sinh
Nghề nghiệp cấp bậc, chức vụ
Hệ số bậc lương
Mức lương
Các khoản phụ cấp
Tiền lương làm căn cứ đóng BHXH
Cách xác định mức đóng bảo hiểm xã hội của từng người và của cả đơn vị khi đã có danh sách lao động và tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, ta chỉ việc lấy tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của từng người nhân với 20%( tức 0.2) sẽ được mức đóng của mỗi người. Mức đóng của cả đơn vị sẽ bằng tổng quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội nhân với 20% ( tức 0.2) hoặc bằng số tiền đóng bảo hiểm xã hội của từng người cộng lại.
d. Thời gian và phương thức đóng bảo hiểm xã hội.
Theo quy định ngay sau ngày trả lương hàng tháng nếu trả lương tháng 2 kỳ thì đóng bảo hiểm xã hội vào sau ngày trả lương kỳ thứ 2 trong tháng và có thể đóng bảo hiểm xã hội theo quý. Nhưng phải đóng vào tháng giữa quý.
(Ví dụ: Quý I đóng vào tháng 2, quý II đóng vào tháng 5, quý III đóng vào tháng 8, quý IV đóng vào tháng 11).
Nếu đóng chậm tháng nào phải nộp lãi suất tiền gửi Ngân hàng ở thời điểm nộp chậm( quy định tại Thông tư số 58/TC-HCSN ngày 24 tháng 5 năm 1995 của Bộ Tài chính).
Và tại Điều 4 phần III Thông tư số 85-1998/TT-BTC ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Tài chính quy định:
" Trường hợp các đơn vị sử dụng chậm nộp bảo hiểm xã hội từ 30 ngày trở lên so với kỳ hạn phải nộp, thì ngoài việc phải nộp phạt theo quy định tại điểm 8 Điều 11 trong Nghị định số 38/CP ngày 25 tháng 06 năm 1996 quy định xử phạt hành chính về vi phạm pháp luật lao động còn phải nộp số tiền chậm nộp theo mức lãi suất tiền vay quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tại thời điểm truy nộp, đồng thời bảo hiểm xã hội các cấp được quyền yêu cầu kho bạc, Ngân hàng trích tiền từ tài khoản của đơn vị sử dụng lao động để nộp tiền bảo hiểm xã hội và tiền phạt chậm nộp bảo hiểm xã hội ( nếu có) mà không cần có sự chấp nhận thanh toán của đơn vị sử dụng lao động"
Hàng tháng, hàng quý các cơ quan, đơn vị sử dụng lao động đóng, căn cứ vào kế hoạch Quỹ tiền lương để đăng ký mức đóng với cơ quan bảo hiểm xã hội. Đồng thời với việc trả lương, đơn vị sử dụng lao động trích nộp 20% tổng Quỹ tiền lương trong đó 15% tổng quỹ tiền lương do người sử dụng lao động đóng góp và 5% tiền lương của người lao động.
Cuối mỗi quý các cơ quan, đơn vị sử dụng lao động cùng cơ quan bảo hiểm xã hội đối chiếu danh sách trả lương và Quỹ tiền lương, lập bảng xác nhận số nộp bảo hiểm xã hội. Nếu có chênh lệch giữa số đã nộp và số phải nộp sẽ phải nộp tiếp trong quý sau( nếu có chênh lệch thiếu) hoặc coi như nộp trước cho quý sau( nếu chênh lệch thừa) và được quyết toán trong năm.
Những đơn vị sử dụng lao động cố tình vi phạm thời hạn nộp bảo hiểm xã hội thì cơ quan bảo hiểm xã hội các cấp có quyền từ chối việc chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội đối với tất cả những người lao động của đơn vị sử dụng lao động đó. Đồng thời lập hồ sơ chuyển sang cơ quan pháp luật đối với chủ sử dụng lao động.
Vì vậy, đóng bảo hiểm xã hội là nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị người sử dụng lao động và người lao động. Kết quả đóng bảo hiểm xã hội là cơ sở để thực hiện tốt các chế độ hưởng bảo hiểm xã hội.
e. Tính đặc thù của nghiệp vụ thu BHXH
Quá trình thu BHXH có những đặc thù sau:
- Việc qui định đóng BHXH đã thành mối quan hệ 3 bên: người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, giữa các bên có sự ràng buộc giám sát lẫn nhau về mock đóng và thời gian đóng BHXH đến từng người suốt quá trình tham gia BHXH, lấy đó làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các chế độ BHXH theo luật định. Đây là một nội dung của nghiệp vụ thu BHXH không giống với các nghiệp vụ khác.
- Yêu cầu theo dõi kết quả đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị theo từng tháng, để từ đó ghi nhận kết quả đóng BHXH cho từng người, tương đương với mức lương làm căn cứ đóng BHXH. Đây là công việc đòi hỏi tính chính xác cao, thường xuyên, liên tục kéo dài hàng chục năm, lại có sự biến động về mức đóng. Đồng thời việc theo dõi ghi chép kết quả đóng BHXH của mỗi người là căn cứ pháp lý để thực hiện chế độ BHXH, do đó mỗi lần giải quyết chế độ BHXH là mỗi lần kinh tế, xác định độ chuẩn xác của nghiệp vụ BHXH.
- Trong nghiệp vụ Quản lý thu BHXH, ngoài nghiệp vụ kế toán thực hiện quản lý theo chế độ tài chính thực hiện thu tập trung vào một tài khoản của cơ quan BHXH các tỉnh, thành phố chuyển lên quỹ BHXH trung ương đúng kịp thời; còn có nghiệp vụ quản lý thu BHXH theo danh sách lao động đăng ký đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị cùng với sổ BHXH của từng người mà việc quản lý theo dõi phảI được thực hiện ở cả 3 cấp là : BHXH thành phố quản lý danh sách, lao động, tiền lương đơn vị, cơ quan đăng ký đóng BHXH cơ bản tăng, giảm hàng tháng để ghi nhận kết quả đóng lập thành hồ sơ gốc. BHXH quận, huyện làm nhiệm vụ đôn đốc và đối chiếu kết quả đóng của cơ quan, đơn vị theo địa bàn quản lý, từ đó hướng dẫn cơ quan, đơn vị ghi kết qủa đóng BHXH vào sổ BHXH của từng người. Đây là căn cứ để giải quyết chế độ hưởng BHXH.
Chính vì những đặc thù trên mà hoạt động thu BHXH đòi hỏi phải được tập trung thống nhất, có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên xuống dưới, đảm bảo an toàn tuyệt đối về tài chính tiền tệ, đảm bảo độ chính xác trong việc ghi chép kết quả đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị đến từng lao động theo tiền lương, lấy đó làm căn cứ đóng BHXH từng tháng trong nhiều năm, kể cả trường hợp liên tục cũng như gián đoạn, làm việc một nơi hay nhiều nơi ... Như vậy, quá trình theo dõi ghi kết quả thu BHXH đòi hỏi liên tục trong nhiều năm, kể cả thời gian ngừng đóng BHXH vẫn phải lưu giữ để đảm bảo khi người lao động tiếp tục đóng hoặc yêu cầu giải quyết chế độ đều được thực hiện ngay. Hoạt động thu của BHXH là hoạt động của cả đời người, có tính kế thừa, cho nên nghiệp vụ quản lý thu, lưu giữ sổ biều là không có giới hạn và thời gian.
3. Tổ chức và quản lý BHXHVN
Theo nghị định19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ, hệ thống BHXH được thành lập đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, sự quản lý Nhà nước của Bộ lao động – thương binh xã hội và các cơ quan Quản lý Nhà nước có liên quan, sự giám sát của Tổ chức công đoàn.
Cơ cấu tổ chức:
Chính phủ
Hội đồng
quản lý BHXH
BHXH Việt Nam
Bộ LD TB và XH
BHXH tỉnh,
thành phố
Sở ldtb và xh tỉnh, thành phố
BHXH quận, huyện
Phòng lđ tb xh quận, huyện
Đại diện của
BHXH ở cơ sở
(chi nhánh BHXH
xã phường)
Quan hệ ngang
Quan hệ dọc
Tổ chức bộ máy Bảo hiểm xã hội Việt Nam như sau:
Hội đồng Quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan quản lý cao nhất của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến địa phương, gồm có: ở trung ương: Bảo hiểm xã hội Việt Nam
ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là tỉnh) là Bảo hiểm xã hội tỉnh trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
ở các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh( gọi chung là huyện) là Bảo hiểm xã hội huyện trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam do Tổng giám đốc quản lý và điều hành thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau:
Cơ cấu tổ chức bộ máy giúp Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam như sau:
- Ban quản lý chế độ chính sách bảo hiểm xã hội.
- Ban quản lý thu bảo hiểm xã hội .
- Ban quản lý chi bảo hiểm xã hội .
- Ban kiểm tra – pháp chế.
- Ban kế hoạch – tài chính.
- Ban tổ chức cán bộ.
- Văn phòng.
- Trung tâm thông tin – khoa học.
Nhiệm vụ, quyền hạn và biên chế của các đơn vị nói trên do Tổng giám đốc quy định.
Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm chức vụ lãnh đạo của các tổ chức nói trên do Tổng giám đốc quyết định.
Bảo hiểm xã hội tỉnh thực hiện các nhiệm vụ về bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh theo quy định của Tổng giám đốc bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội tỉnh do một giám đốc quản lý và điều hành. Giúp việc giám đốc có 1 – 2 phó giám đốc. Giám đốc, các phó giám đốc bảo hiểm xã hội tỉnh do Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam bổ nhiệm và miễn nhiệm.
Nhiệm vụ, quyền hạn, biên chế các phòng chuyên môn nghiệp vụ nói trên do Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam quyết định.
Bảo hiểm xã hội huyện có nhiệm vụ là tiếp nhận đăng ký hưởng chế độ bảo hiểm xã hội do bảo hiểm xã hội tỉnh chuyển đến; thực hiện việc đôn đốc, theo dõi nộp bảo hiểm xã hội đối với người sử dụng lao động và người lao động trên địa bàn: tổ chức mạng lưới hoặc trực tiếp chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người được hưởng trên địa bàn huyện.
Bảo hiểm xã hội huyện do một giám đốc quản lý và điều hành. ở các huyện có khối lượng công việc nhiều có thể có phó giám đốc giúp việc giám đốc bảo hiểm xã hội tỉnh bổ nhiệm và miễn nhiệm theo phân cấp của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Bảo hiểm xã hội huyện không có cơ cấu tổ chức phòng. Biên chế của bảo hiểm xã hội huyện do giám đốc bảo hiểm xã hội tỉnh quyết định trong phạm vi tổng biên chế của bảo hiểm xã hội tỉnh được Tổng giám đốc phân bổ.
Giám đốc bảo hiểm xã hội huyện quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng viên chức thuộc quyền quản lý.
Việc thành lập bảo hiểm xã hội huyện do Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam quy định căn cứ vào khối lượng công việc, số lượng người và đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội trên địa bàn. Tại những nơi chưa có đủ điều kiện thành lập bảo hiểm xã hội huyện thì giám đốc bảo hiểm xã hội tỉnh cử người đại diện tại huyện để thực hiện việc chi trả và đôn đốc theo dõi việc thu, nộp bảo hiểm xã hội trên địa bàn.
Chương II: thực trạnG HOạT ĐộNG thu và chống thất thu ở cơ quan bảo hiểm xã hội
quận Đống đa.
I. vàI nét về BHXH thành phố hà nội.
1.Qúa trình hình thành và phát triển của BHXH Thành phố Hà Nội
BHXH là một chính sách lớn của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới nhằm bảo về quyền lợi cho người lao động. ở nước ta chính sách này đã được Đảng và Nhà nước chú trọng ngay từ khi mới thành lập. Nhưng phải đến năm 1995 thì chúng ta mới có một hệ thống bảo hiểm xã hội đầy đủ và hoàn chỉnh với sự ra đời của BHXH Việt Nam và 61 cơ quan BHXH tại 61 tỉnh và thành phố trong cả nước. BHXH Thành phố Hà Nội cũng thuộc vào hệ thống này nhưng quá trình phát triển của nó thì lại bắt đầu ngay từ đầu thập niên 90.
Năm 1990 Thủ đô Hà Nội được Chính phủ cho phép tổ chức thí điểm BHXH. Mười năm qua được sự quan tâm của Thành uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội cùng với sự kết hợp của các cấp, các ngành, BHXH Thành phố Hà Nội đã từng bước đổi mới về tổ chức và cơ chế hoạt động theo hướng tập trung thống nhất vào một đầu mối phù hợp với cơ chế kinh tế nhiều thành phần, tạo tiền đề đi vào hoạt động theo hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam, triển khai thực hiện BHXH theo Luật lao động, góp phần ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế thủ đô phát triển. Quá trình phát triển của BHXH Hà Nội trải qua một số giai đoạn chủ yếu sau:
- Từ tháng 1 năm 1990 đến tháng 12 năm 1992
Đầu năm 1990, Hà Nội là một trong 5 tỉnh, thành phố được Nhà nước chọn cho tổ chức thực hiện thí điểm bản dự thảo Điều lệ BHXH đối với lao động ngoài quốc doanh.
Công ty BHXH đối với lao động ngoài quốc doanh được thành lập theo Quyết định 79/QĐ-UB ngày 09 tháng 01 năm 1990 của UBND Thành phố Hà Nội đặt trực thuộc Sở Lao động - Thương binh Xã hội, trụ sở đặt tại 22 Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm. Ngay từ khi thành lập, Thành uỷ, UBND Thành phố Hà Nội đã xác định lấy việc nghiên cứu ứng dụng đổi mới đảm bảo BHXH cho phù hợp với cơ chế kinh tế nhiều thành phần là chủ yếu. Việc áp dụng dự thảo Điều lệ BHXH đối với người lao động ngoài quốc doanh chỉ mang tính thử nghiệm, thực hiện thí điểm. Kết quả nghiên cứu có tính khả thi, đã được Bộ lao động - Thương binh và Xã hội và UBND Thành phố Hà Nội cho phép ứng dụng trên toàn địa bàn.
- Sau khi xem xét kết quả nghiên cứu của Công ty BHXH đối với lao động ngoài quốc doanh Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 1992 Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội đã ký Quyết định số 2645/QĐ- UB cho phép thành lập BHXH Hà Nội trên cơ sở Công ty BHXH đối với người lao động ngoài quốc doanh Hà Nội và phần sự nghiệp bb đối với công nhân viên chức Nhà nước do Sở Lao động và Thương binh xã hội quản lý, trụ sở chuyển về 72 Triệu Việt Vương- Quận Hai Bà Trưng.
Như vậy, tại Hà Nội sự nghiệp BHXH thuộc ngành Lao động - Thương binh xã hội đã được tập trung vào một mối, một tổ chức. Đây là thời điểm đột phá có tính chất quyết định cho cả quá trình nghiên cứu và đổi mới các bước tiếp theo đồng thời xác lập mô hình tổ chức thống nhất BHXH trong quốc doanh và ngoài quốc doanh. Đó là một cơ sở quan trọng tạo tiền đề, tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu, tổ chức triển khai thực hiện Nghị định 43/CP ngày 22 tháng 06 năm1993 của Chính phủ, với nội dung đổi mới sự nghiệp BHXH theo hướng tập trung thống nhất vào một đầu mối. Đây cũng là thời kỳ ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn, đi đôi với tiếp tục nghiên cứu đổi mới cơ chế hoạt động BHXH theo hướng công khai, dân chủ, công bằng xã hội.
+ Từ tháng 06 năm 1995 BHXH Thành phố Hà Nội được thành lập theo Nghị định 19/CP ngày 16 tháng12 năm 1995 của Chính phủ trên cơ sở BHXH Hà Nội tiếp nhận thêm cả phần sự nghiệp BHXH từ Liên đoàn Lao động chuyển sang, và nhiệm vụ thu BHXH từ ngành Tài chính và Thuế chuyển sang. BHXH Thành phố Hà Nội trực thuộc BHXH Việt Nam.
Từ đây triển khai thực hiện BHXH theo quy định của Luật lao động trên cơ sở Điều lệ bảo hiểm xã hội mới ban hành, đồng thời tiếp tục nghiên cứu đổi mới nhằm hoàn thiện cơ chế hoạt động bảo hiểm xã hội đáp ứng yêu cầu thu, chi bảo hiểm xã hội đúng, đủ kịp thời, an toàn; xây dựng mối quan hệ ba bên người lao động , người sử dụng lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện bình đẳng, công khai, công bằng xã hội theo nguyên tắc có đóng bảo hiểm xã hội mới được hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội.
Đến nay, Hà Nội là địa phương đi đầu trong cả nước về việc thống nhất sự nghiệp bảo hiểm xã hội vào một mối, với 12 quận, huyện, 228 phường, xã, có 4.700 cơ quan đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội với trên 650.000 người được bảo hiểm xã hội trong đó trên 420.000 đang tham gia đóng và hưởng bảo hiểm xã hội; 230.000 người hưởng hưu trí hoặc trợ cấp hàng tháng.
Thực hiện chi trả lương hưu và trợ cấp, đảm bảo an toàn kịp thời, đúng đối tượng được hưởng, trước ngày 10 hàng tháng.
2. Cơ cấu tổ chức của BHXH Thành phố Hà Nội
BHXH Thành phố Hà Nội cũng như các cơ quan BHXH khác mang tính nhân văn sâu sắc, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, vì vậy, cơ cấu tổ chức và hoạt động mang những nét riêng biệt. Cũng như các ngành, lĩnh vực khác thì ngành BHXH cũng có những thay đổi cơ cấu hoạt động trong các thời kỳ sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong từng thời kỳ đó, BHXH Thành phố Hà Nội cũng không nằm ngoài quy luật đó. Từ khi được thành lập đến nay, BHXH Thành phố Hà Nội cũng đã ba lần thay đổi cơ cấu tổ chức hoạt động của mình. Cơ cấu tổ chức của BHXH Thành phố Hà Nội qua các giai đoạn phát triển được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ quá trình đổi mới tổ chức bảo hiểm xã hội thành phố hà nội 1990 - 1995
BHXH
Thuôc liên đoàn LĐ thu và chi trả 3 chế độ : TC ốm đau, thai sản và TNLĐ-BNN
BHXH thuộc ngành LĐ - TBXH quản lý
BHXH trong khu vực NN quản lý. Phòng BHXH thực hiện hai chế độ hưu trí, MSLĐ và tử tuất
Công ty BHXH đối với lao động ngoài QD
1990-1992.Trụ sở: 22 Lý Thái Tổ
BHXH Hà Nội(1993-1995)
Thuộc sở LĐ - TBXH Hà Nội thống nhất trong quốc doanh và ngoài quốc doanh vào một đầu mối. Thực hiện 3 chế độ: hưu trí, MSLĐ, tử tuất, 6 phòng nghiệp vụ: Trụ sở 72 Triệu Việt Vương
Phòng nghiệp vụ thu BHXH
Phòng nghiệp vụ BHXH
Phòng kế hoạch tài vụ
Phòng hồ sơ
Phòng vi tính
Văn phòng
Từ năm 1995 thực hiện Nghị định 19/CP ngày 16 tháng 2 năm 1995 của Chính phủ thành lập BHXH Việt Nam
BHXH Thành phố Hà Nội
Trực thuộc BHXH Việt Nam gồm 8 phòng nghiệp vụ và 12 BHXH Quận huyện
Phòng quản lý thu BHXH
Phòng quản lý CĐ chính sách
Phòng máy tính
Phòng kế hoạch Tài vụ
Phòng quản lý hồ sơ
Phòng cấp sổ BHXH
Phòng kiểm tra
Phòng tổ chức hành chính
Bảo hiểm xã hội quận
Bảo hiểm xã hội huyện
Hai Bà Trưng
Ba Đình
Tây Hồ
Thanh Xuân
Đống Đa
Cầu Giấy
Gia Lân
Đông Anh
Thanh Trì
Sóc Sơn
Từ Liêm
Hoàn Kiếm
Dưới đây là chức năng cụ thể của từng phòng ban tại trụ sở của BHXH Thành phố Hà Nội:
- Phòng quản lý thu BHXH: có chức năng theo dõi việc đóng BHXH của các cơ quan đơn vị thuộc diện bắt buộc phải đóng BHXH trên địa bàn thành phố cũng như tự nguyện đóng BHXH cho nhân viên của họ. Hàng tháng, hàng quý phòng tổ chức tập hợp số liệu đối chiếu thu BHXH của các cơ quan BHXH các quận huyện để phát hiện ra những đơn vị chậm đóng hoặc cố tình không đóng BHXH từ đó đề ra các biện pháp phối hợp với các cơ quan chức năng đôn đốc họ trong việc nộp BHXH.
- Phòng quản lý chế độ chính sách: Bộ phận tiếp nhận hồ sơ, và lập các giấy tờ liên quan, cần thiết cho việc chi trả các chế độ, các loại trợ cấp cho các đối tượng.
- Phòng quản lý hồ sơ: Duy trì hồ sơ gốc của người lao động, trên cơ sở những tài liệu này mà công tác thanh tra, kiểm tra, tìm kiếm, sao chụp cũng như rút hồ sơ được tiến hành nhanh chóng.
- Phòng kế hoạch tài vụ: Bộ phận đánh giá các kết quả đã đạt được và những khó khăn tồn tại cần tháo gỡ, xây dựng các phương án, kế hoạch, phương hướng phát triển cho từng giai đoạn, thời kỳ. Ngoài ra, còn tiếp nhận ngân sách và các nguồn kinh phí khác cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đảm bảo cấp kịp thời đầy đủ các khoản chi phí cần thiết cho việc chi trả các chế độ chính sách tại các quận, huyện...
- Phòng kiểm tra: Tiến hành các đợt thanh tra, kiểm tra các công tác đề ra của BHXH Việt Nam và BHXH Thành phố Hà Nội...
- Phòng tổ chức hành chính: Quản lý nhân sự trong cơ quan và tiến hành mua sắm thêm trang thiết bị.
- Phòng cấp sổ BHXH: Tập hợp các tờ khai cấp sổ BHXH của người lao động đăng ký tại cơ quan BHXH các quận, huyện sau đó tiến hành kiểm tử tuất tính chính xác của tờ khai và tiến hành cấp sổ BHXH cho người lao động, đồng thời tiến hành lập hồ sơ theo dõi sự biến động của số lượng người lao động đã được cấp sổ,...
- Phòng máy tính:
Tiến hành điều tra, nghiên cứu các phần mềm chuyên dụng trong quản lý của cơ quan BHXH, xây dựng kế hoạch cung cấp các trang thiết bị máy tính cho các cơ quan BHXH các quận, huyện. Bộ phận này cũng tiến hành đào tạo hướng dẫn sử dụng các phần mềm cho người trực tiếp phụ trách công tác này tại các quận, huyện.
3. Thực trạng hoạt động của BHXH Thành phố Hà Nội trong những năm qua
3.1. Những kết quả đạt được
a. Về thu BHXH:
Hà Nội có hơn 650.000 đăng ký danh sách đóng BHXH với mức thu trên 692 tỷ đồng/năm( số liệu 2001) trong đó khu vực ngoài quốc doanh chiếm 1/4 tổng thu toàn thành phố. Thực tế khu vực ngoài quốc doanh số người tham gia BHXH năm sau cao hơn năm trước, song vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa tham gia BHXH, chủ yếu là doanh nghiệp có sử dụng 10 lao động trở lên.
Hà Nội thực hiện thu BHXH tập trung vào 1 khoản thu nên kết quả thu đến đâu chuyển ngay lên quỹ BHXH Việt Nam, đảm bảo tuyệt đối an toàn nguồn thu BHXH. BHXH các quận, huyện làm nhiệm vụ theo dõi đôn đốc đối chiếu kết quả thu và hướng dẫn việc ghi sổ BHXH làm cơ sở thực hiện các chế độ BHXH theo luật định.
Số liệu cụ thể từng năm như sau:
Bảng 2: Số người đăng ký đóng BHXH và số thu BHXH qua các năm
Năm
Tổng số người
Tổng số tiền (tỷ đồng)
Riêng khu vực ngoài quốc doanh
Số người
Số tiến(tỷ)
Trước tháng 6 năm 1995
15.497
12
12,094
6 tháng cuối năm 1995
258.738
99
15.986
21,005
1996
319.717
287
16.763
34,460
1997
316.845
382
19.703
70,000
1998
368.308
415
23.648
97,939
1999
381.632
456
26.838
121,800
2000
415.852
554
36.392
135,154
2001
650.000
692
(Nguồn: BHXH Thành phố Hà Nội).
b. Về giải quyết hưởng chế độ:
Bảng 3: Số lượt người hưởng các loại trợ cấp BHXH giai đoạn 1995-2001
Năm
Tổng số
Hưu trí
MSLĐ
Trợ cấp 1 lần
Tuất
TNLĐ BNN
1995
4.060
3.158
1.902
1996
8.475
3.262
3.045
1.952
216
1997
9.992
3.331
3.003
3.390
238
1998
14.319
4.274
6.336
3.539
179
1999
18.000
6.000
7.500
4.200
300
2000
20400
7000
8300
5100
450
2001
23700
8945
9247
5210
537
Nhìn chung, việc giải quyết chế độ hưởng BHXH theo quy định người có đóng mới có hưởng thuận lợi hơn trước, nhất là khi Hà Nội thực hiện giải quyết theo quy trình khép kín, tập trung vào một đầu mối, đảm bảo kịp thời, an toàn, công khai và công bằng, tạo mối quan hệ ràng buộc với nhau giữa các phần nghiệp vụ, mối quan hệ gắn bó chặt chẽ mật thiết đoàn kết, hiểu biết và tin cậy lẫn nhau.
Bảng 4: Chi trả lương hưu và trợ cấp hàng tháng
Năm
Tổng số tiền
(tỷ đồng)
Chia ra
Nguồn ngân sách
Nguồn quỹ BHXH
1996
642,297
622,755
39,452
1997
778,003
704,983
73,050
1998
797,443
619,870
105,576
1999
818,831
696,259
122,571
2000
1.030,264
843,457
186,807
2001
1.643,254
1.412,356
230,898
(Nguồn: BHXH Thành Phố Hà Nội)
d. Thực hiện cấp sổ BHXH:
Quá trình thực hiện cấp sổ BHXH có sự phân công, phân cấp và phối hợp giữa BHXH với Liên đoàn lao động thành phố, giữa thành phố với quận, huyện; giữa BHXH với cơ quan đơn vị sử dụng lao động, giữa chủ sử dụng lao động với công đoàn nên mọi vướng mắc được tháo gỡ, thực hiện đúng quy định.
3.2. Những khó khăn, tồn tại
- Văn bản của Nhà nước quy định về BHXH( Nghị định 12/CP ) mới chỉ quy số đối tượng bắt buộc phải tham gia BHXH mà chưa bắt buộc mọi người lao động. Do đó số lượng người ở Hà Nội tham gia BHXH còn thấp chỉ mới tập trung ở các cơ quan đơn vị của Nhà nước và các cơ quan Đảng. Đặc biệt là số lượng lao động làm việc trong khu vực ngoài quốc doanh tham gia BHXH còn thấp. Có thể do:
+ Về phía người lao động: Chưa có nhận thức đúng và đầy đủ về nghĩa vụ và quyền lợi khi tham gia BHXH hoặc có nhận thức đủ nhưng không giám đòi hỏi quyền lợi vì sợ bị ảnh hưởng đến công việc hoặc không muốn đóng vì thu nhập quá thấp.
+ Về phía người sử dụng lao động: Có thể do gặp khó khăn trong công việc kinh doanh, tài chính hạn hẹp hoặc không muốn trích 15% quỹ lương đóng BHXH cho người lao động mà để hỗ trợ sản xuất, cắt giảm chi phí,... Do đó, quyền lợi của người lao động không được đảm bảo, tình trạng trốn tránh đóng hoặc nợ đọng BHXH xảy ra thường xuyên.
- Số thu không đủ yêu cầu chi trả cho các chế độ BHXH do đó tỷ lệ chi trả từ nguồn quỹ BHXH so với ngân sách Nhà nước còn rất nhỏ.
- Các chế độ quy định tại NĐ 12/CP còn nhiều điểm bất cập chưa đầy đủ và hợp lý.
- Thủ tục chi trả đòi hỏi nhiều các loại giấy tờ đặc biệt là chế độ tuất và cả những giấy tờ đã cấp từ thời chiến tranh
Nhìn chung, đứng trước những khó khăn, tồn tại nhưng BHXH Hà Nội đạt được thành tích đáng khâm phục. Với những thành tích đáng khâm phục. Với những thành tích đó, BHXH Thành phố Hà Nội đã được Nhà nước tặng huân chương lao động hạng ba, chính phủ tặng cờ thường thi đua xuất sắc và bằng khen, UBND Thành phố tặng giải thưởng Thăng long về công trình nghiên cứu đổi mới sự nghiệp bảo hiểm xã hội giai đoạn 1991-1995 cũng nhiều bằng khen của các bộ, ngành Trung ương và Hà Nội.
ii. tổ chức BHXH quận đống đa
Tổ chức bộ máy và hoạt động chuyên môn nghiệp vụ
*. Chức năng, nhiệm vụ
Quận Đống Đa là một trong những quận tập trung nhiều khu công nghiệp lớn, khu dân cư đông đảo và đang trên đà đô thị hoá của Thành phố Hà Nội. Với địa bàn rộng, trên 36 vạn dân và được chia thành 26 phường do đó để đảm bảo quyền lợi cho người lao động và đưa BHXH vào cuộc sống, ngày 12 tháng 07 năm 1995 Quyết định 01 của Giám đốc BHXH thành phố Hà Nội quyết định thành lập BHXH quận Đống Đa. BHXH quận Đống Đa trực thuộc BHXH Thành phố Hà Nội, thực hiện nhiệm vụ do BHXH Thành phó giao cho, cụ thể:
- Hướng dẫn, theo dõi đôn đốc các cơ quan đơn vị trên lãnh thổ quận. Lập danh sách lao động thuộc diện áp dụng loại hình BHXH bắt buộc để thực hiện đóng BHXH theo Luật định.
Hàng tháng phải nắm được danh sách, số lượng công nhân viên chức trước đây trong biên chế, hợp đồng dài hạn tham gia đóng BHXH.
- Tổ chức, triển khai thực hiện chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp theo Điều lề BHXH quy định.
- Tổ chức theo dõi di biến động trong cơ quan đơn vị về người đóng, hưởng BHXH.
Hàng tháng đơn vị làm phiếu báo tăng giảm mức đóng BHXH so với danh sách đăng ký đóng BHXH để kịp thời điều chỉnh đến từng người lao động.
- Tổ chức tiếp nhận người đến đăng ký hưởng BHXH, làm thủ tục di chuyển đi nơi khác theo quyết định của BHXH.
- Tổ chức chi trả lương hưu, trợ cấp mất sức, các chính sách xã hội đảm bảo an toàn đúng đối tượng.
- Lập dự toán, thanh quyết toán trợ cấp theo quy định của Bộ Tài chính và Kiểm toán Nhà nước.
- Quản lý lưu trữ hồ sơ, khai thác danh sách đóng BHXH.
- Thực hiện chế độ tử tuất đối với người hưởng hưu trí hoặc đi công tác theo quy định của Nhà nước ban hành.
- Thanh tra xác minh các đơn thư khiếu nại, có kết luận kịp thời trước khi đối tượng yêu cầu.
- Thực hiện điều chỉnh lương hưu và trợ cấp theo quy định của Nhà nước và hướng dẫn của BHXH cấp trên.
- Quản lý cán bộ, tài sản, quỹ lương và kinh phí hoạt động thuộc BHXH quận.
Để thực hiện 11 nhiệm vụ được BHXH Thành phố Hà Nội giao cho, cơ quan BHXH quận Đống Đa phân chia thành 4 phòng nghiệp vụ để thực hiện chức năng một cách cụ thể. Mỗi bộ phận có một chức năng và nhiệm vụ riêng. Làm tốt nhiệm vụ đó có nghĩa là hoàn thành nhiệm vụ của BHXH Thành phố đề ra.
b. Cơ cấu tổ chức của cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa:
Cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa chia thành các bộ phận sau:
*. Bộ phận thu và cấp sổ bảo hiểm:
Để thực hiện chỉ tiêu thu năm sau cao hơn năm trước, giải quyết tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội và đốc thu theo đúng kế hoạch, thu đủ, chính xác, cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa chủ trương phân chia mỗi cán bộ được giao quản lý công tác đốc thu ở một vài phường nhất định. Mỗi cán bộ trực tiếp làm việc với các đơn vị sử dụng lao động, gặp gỡ cán bộ phụ trách công tác bảo hiểm xã hội ở đơn vị đó, hướng dẫn đôn đốc, theo dõi ghi chép kết quả đóng bảo hiểm xã hội, đồng thời xác nhận để thanh toán hai chế độ ốm đau, thai sản và hướng dẫn đơn vị viết tờ khai cấp sổ bảo hiểm, đối chiếu tờ khai cấp sổ với hồ sơ gốc để thực hiện việc cấp sổ bảo hiểm xã hội. Kể từ tháng 09 năm 1996 thì cơ quan đã thực hiện việc cấp sổ cho 97 - 98% số tham gia đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 01 năm 1995 trở về trước.
*. Bộ phận chính sách.
Để thực hiện được chính sách bảo hiểm xã hội cho người lao động một cách kịp thời, nhanh chóng, cơ quan bảo hiểm xã hội quận giao cho 2 cán bộ phụ trách làm nhiệm vụ:
+ Tiếp nhận chuyển đến, chuyển đi các cán bộ hưu trí, mất sức lao động.
+ Thanh toán chế độ mai táng phí và giải quyết chế độ tuất.
*. Bộ phận kế toán tài vụ.
Vào sáng thứ hai, thứ tư và thứ sáu hàng tuần, bộ phận kế toán tài vụ làm nhiệm vụ trực tiếp chi trả tiền lương và chính sách xã hội của đối tượng chưa lĩnh, thanh toán mai táng phí, lập chứng từ chi trả trực tiếp chế độ ốm đau, tai nạn lao động. Ngoài ra, bộ phận còn xây dựng nhiệm vụ kế hoạch với cấp trên và với kho bạc Nhà nước, cuối cùng thực hiện thanh quyết toán với bảo hiểm xã hội cấp trên.
*. Bộ phận lưu trữ hồ sơ
Việc bảo quản lưu trữ hồ sơ cho người lao động là công việc hết sức quan trọng trong công tác quản lý của ngành, do đó ở bộ phận này, cơ quan bảo hiểm xã hội quận giao cho công tác quản lý về:
+ Quản lý về mặt hồ sơ của cán bộ hưu trí - mất sức, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: thực hiện cập nhật theo danh sách chi trả của công tác chi trả.
+ Quản lý về mặt._.hu bảo hiểm xã hội.
Luật bảo hiểm xã hội chưa ban hành cũng gây trở ngại không nhỏ trong quá trình thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội. Bởi phần đông người lao động khi đã hiểu biết về chính sách bảo hiểm xã hội thì họ đều có mong muốn tham gia bảo hiểm xã hội để cuộc sống của họ được ổn định và đảm bảo hơn. Nhưng hiện nay, do tình trạng thừa người, việc thiếu nhất là ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã buộc người lao động không có sự phản kháng nào đối với chủ sử dụng lao động của mình để đòi hỏi quyền lợi bảo hiểm xã hội vì họ cho rằng có việc làm có thu nhập ổn định là một điều tốt lắm rồi.
- Về phía chủ doanh nghiệp: Chủ sử dụng lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhận thức chưa đầy đủ về nghĩa vụ, trách nhiệm trong việc thực hiện đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động theo luật định.
Hiện nay, hầu hết chủ sử dụng lao động với phương châm sản xuất kinh doanh chỉ "thích ứng" chứ không "lâu dài", do vậy, việc né tránh trốn đóng bảo hiểm xã hội, nợ đọng bảo hiểm xã hội vẫn thường xuyên xảy ra.
Lợi dụng kẽ hở pháp luật và sự kém hiểu biết của người lao động, chủ doanh nghiệp trốn đóng, không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động để sử dụng vào mục đích khác: đầu tư cho sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường và mang lại nhiều lợi nhuận hơn.
Bên cạnh những doanh nghiệp cố tình không đóng bảo hiểm xã hội thì có nhiều doanh nghiệp muốn đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động nhưng do gặp phải khó khăn trong sản xuất kinh doanh do thị trường biến động, cạnh tranh với các đối thủ khác, do nguồn vốn kinh doanh hạn hẹp, tình hình tài chính thường không ổn định nên không đủ đóng bảo hiểm xã hội liên tục cho người lao động.
- Về phía người lao động: người lao động còn hiểu biết rất mơ hồ về bảo hiểm xã hội, hiểu biết rất lơ mơ, đại khái, chung chung về Luật lao động, Điều lệ bảo hiểm xã hội còn lầm lẫn giữa bảo hiểm xã hội với loại hình bảo hiểm khác do đó, họ chưa có ý thức tự giác tham gia bảo hiểm xã hội. Do thu nhập thấp, đồng lương eo hẹp so với nhu cầu cuộc sống. Lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là lao động ngoại tỉnh nên ngoài nhu cầu chi tiêu sinh hoạt bản thân còn có nghĩa vụ, trách nhiệm giúp đỡ gia đình vì vậy bản thân họ không muốn đồng lương eo hẹp của mình bị "chia sẻ" để đóng bảo hiểm xã hội cho dù họ biết là như thế là cần thiết. Họ chỉ thấy lợi ích trước mắt mà không nhìn thấy lợi ích lâu dài.
Ngoài ra, do sức ép trong việc làm, do tâm lý sợ mất việc hoặc bị cắt bớt tiền lương nên không dám đấu tranh đòi hỏi chủ sử dụng lao động đóng bảo hiểm xã hội cho mình.
- Cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa: Chỉ tiêu thu bảo hiểm xã hội ở khu vực ngoài quốc doanh chưa được giao thành chỉ tiêu pháp lệnh nên ở bảo hiểm xã hội quận Đống Đa có thể triển khai hoặc chưa triển khai. Đơn vị nào có ý thức trách nhiệm với người lao động thì mới triển khai công tác này.
+ Hiện nay, cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa có 20 cán bộ nhưng chỉ có 8 cán bộ làm công tác chuyên thu, một số cán bộ khác vừa làm công tác thu lại vừa thực hiện một số công việc khác. Trong khi đó khối lượng cơ sở đơn vị thuộc diện quản lý lại rất lớn, năm 2001 có 638 đơn vị với tổng số lao động là 59.517 lao động. Đây là khối lượng rất lớn đối với 8 cán bộ chuyên thu, nên chưa có cán bộ chuyên thu và quản lý về mảng thu ngoài quốc doanh, cán bộ thu ở cơ quan được xé lẻ, mỗi người phụ trách một số đơn vị, một số địa bàn nhất định, bám sát cơ sở theo kiểu "nằm vùng" để đôn đốc thu, thực chất là vận động thu.
Vì đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác thu nói chung còn thiếu, lại kiêm thêm nhiều việc khác dẫn đến tình trạng quá tải trong công việc nhất là khi cơ quan bảo hiểm xã hội quận thực hiện khoán biên chế, khoán quỹ lương để nâng cao hiệu quả công việc. Do đó nảy sinh hiện tượng ngồi chờ doanh nghiệp đến đóng, hoặc gọi điện nhắc nhở,... nếu không đến thì không tập trung tìm hiểu điều tra thu thập số liệu, nắm bắt những thông tin cần thiết để xúc tiến thủ tục khai thác thu.
+ Chưa tập trung chỉ đạo và tiến hành điều tra, khảo sát, nắm tình hình thực trạng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên từng địa bàn cụ thể, trong quá trình thực hiện chưa thực sự coi trọng việc khai thác nguồn thu này, thiếu tập trung tìm ra các biện pháp hữu hiệu.
+ Chưa đầu tư lớn cho công tác tuyên truyền chính sách bảo hiểm xã hội, nghĩa vụ và quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc khu vực ngoài quốc doanh.
+ Chưa chủ động phối hợp với các ban ngành chức năng đề xuất biện pháp tích cực yêu cầu chủ doanh nghiệp tham gia bảo hiểm xã hội, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp cố tình không tham gia bảo hiểm xã hội theo luật định vẫn không hề bị kiểm tra, xử phạt vì thế các doanh nghiệp thường dựa dẫm, nhìn nhau để trốn tránh không tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động một cách đầy đủ.
+ BHXH Thành phố Hà Nội phân cấp quản lý thu ngoài quốc doanh cho bảo hiểm xã hội các quận huyện nhưng chưa thể hiện hết vai trò quản lý định hướng cho cấp dưới, chưa kịp thời tìm ra những giải pháp đồng bộ để bảo hiểm xã hội quận tổ chức thực hiện tốt hơn.
+ BHXH quận còn phụ thuộc vào cơ chế tài chính của ngành, không có nguồn tài chính nhất định phục vụ cho công tác thu đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó không khuyến khích được sự hỗ trợ của các ngành chức năng và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ thu.
Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác, như ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thuộc các thành phần kinh tế khác thì nhiều nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn hoặc có thành lập nhưng không có chi bộ Đảng để lãnh đạo hoặc ở doanh nghiệp đó công đoàn cơ sở chưa dám đấu tranh, đòi hỏi quyền lợi chính đáng cho người lao động cũng như cho cả chính mình với nhiều lý do khác nhau, chẳng hạn do sức ép về việc làm ngày càng tăng gay gắt, cán bộ công đoàn cũng là người làm công ăn lương tại đó, kiêm nhiệm, thiên về công tác chuyên môn hơn công tác công đoàn vì đó là nguồn sống của họ, bị lệ thuộc vào chủ sử dụng lao động.
Nói tóm lại, mặc dù có nhiều hạn chế trong việc thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về chủ quan, nguyên nhân thuộc về khách quan. Do đó, để tăng cường, thúc đẩy công tác thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh cần phải phân tích các nguyên nhân từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục hạn chế trong công tác thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh.
c. Bài học kinh nghiệm
Từ thực tế công tác thu bảo hiểm xã hội trong thời gian qua, đã đạt được kết quả rất đáng khích lệ, có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích để từ đó tổ chức triển khai công tác thu bảo hiểm xã hội ở loại hình này càng đi vào nề nếp, và hiệu quả hơn. Cụ thể:
-Khen thưởng động viên đối với một số đơn vị làm tốt công tác BHXH như : Công ty khách sạn Kim liên, XN vận dụng toa xe khách , Trung tâm viễn thông khu vực I , Công ty tư vấn XD thuỷ lợi I , Bệnh viện Bạch mai,XN Dược phẩm TƯ I,…
- Người làm công tác thu bảo hiểm xã hội luôn đặt lợi ích chính đáng của người lao động lên hàng đầu, từ đó tạo được sự nhất trí của cấp Uỷ, chính quyền, đoàn thể cơ quan bảo hiểm xã hội và phối hợp chặt chẽ với các ngành triển khai chính sách bảo hiểm xã hội ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
- Mối quan hệ gắn bó với cấp uỷ Đảng, các ban ngành, Đoàn thể địa phương đặc biệt là các cơ quan Thuế, Viện kiểm soát, Liên đoàn lao động quận cung cấp thông tin, phối hợp kiểm tra, tổ chức tuyên truyền chế độ chính sách bảo hiểm xã hội trên các phương tiện thông tin đại chúng, giúp người lao động hiểu rõ quyền lợi trước người sử dụng lao động.
- Cơ quan bảo hiểm xã hội luôn cải tiến quy trình quản lý và thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội cho gọn nhẹ, hợp lý. Thường xuyên phối hợp với cơ quan chủ quản của các doanh nghiệp thực hiện đúng chính sách bảo hiểm xã hội.
- Và một điều không thể thiếu nữa là: Trong công tác tổ chức người lãnh đạo đơn vị luôn xác định yếu tố con người là cơ bản nhất. Để phát huy được sức mạnh tổng hợp, mỗi người phải đặt đúng vị trí phù hợp với khả năng. Người lãnh đạo phải hết sức công minh gương mẫu trong chỉ đạo điều hành và tạo nên sự thống nhất cao trong nội bộ sẽ là động lực mạnh mẽ giúp cho đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chính vì vậy, trong năm 2000 - 2001 cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa đã nhận được bằng khen của bảo hiểm xã hội Việt Nam, tặng cờ đơn vị xuất sắc hoàn thành chỉ tiêu của Thành phố Hà Nội.
Để đạt được những thành tích trên là sự nỗ lực của tập thể cán bộ công chức, sự đoàn kết thống nhất trong công tác quản lý của ban giám đốc bảo hiểm xã hội quận Đống Đa, đồng thời được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp, ngành địa phương.
Chương III: Một số ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả công tác THU Và CHốNG THấT THU qua bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội quận Đống Đa.
1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội , xây dựng luật bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội ở nước ta ra đời muộn, lại hoạt động trong hoàn cảnh đất nước vừa trải qua hai cuộc chiến tranh, đang khôi phục nền kinh tế để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề tổ chức bảo hiểm xã hội ở nước ta còn nhiều tồn tại cần giải quyết trong đó có việc ban hành các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội. Với một hệ thống văn bản khá cồng kềnh do nhiều cơ quan chức năng ban hành đã làm cho việc hướng dẫn thực hiện, kiểm tra, kiểm soát các văn bản trên gặp nhiều khó khăn, tạo ra nhiều kẽ hở dẫn đến hoạt động bảo hiểm xã hội kém hiệu quả, quỹ bảo hiểm xã hội trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Việc thay đổi thường xuyên các văn bản hướng dẫn với nội dung không rõ ràng, không thống nhất với nhau đã gây khó khăn cho các cán bộ bảo hiểm xã hội và phản ứng từ phía chủ sử dụng lao động và người lao động. Vì vậy, xây dựng hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách và rất cần thiết. Cụ thể:
- Để hình thành hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội đồng bộ và có hiệu lực, trước hết cần phải sắp xếp và rà soát lại toàn bộ các văn bản bảo hiểm xã hội từ trước tới nay, xem xét hiệu quả việc thực hiện các văn bản đó để loại bỏ hoặc điều chỉnh, đổi mới cho phù hợp với nhu cầu quản lý mới của nền kinh tế thị trường. Các văn bản không phải mang tính mệnh lệnh đơn thuần mà phải phù hợp với nguyện vọng của phía người tham gia để việc thực hiện đạt kết quản cao.
- Nâng cao chất lượng cũng như khả năng thực thi của các văn bản mang tính pháp lý về hoạt động bảo hiểm xã hội, hình thành hệ thống các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội phù hợp với mọi thành phần kinh tế và mọi hoạt động kinh tế trong cả nước để đảm bảo tính chất xã hội hoá của bảo hiểm xã hội. Luật bảo hiểm xã hội phải đáp ứng được tiến trình đổi mới kinh tế xã hội của đất nước, đáp ứng được mục tiêu chiến lược về con người trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cần xác định rõ trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, vai trò của công đoàn, để đảm bảo đầy đủ quyền lợi hợp pháp và quyền bình đẳng cho mọi đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Luật xác định rõ hệ thống tổ chức của bảo hiểm xã hội , hệ thống hoạt động có cơ chế kiểm tra, kiểm soát đảm bảo quyền lợi cho người lao động và nguồn quỹ lớn mạnh.
- Chính phủ cần tăng cường sự điều hành với bảo hiểm xã hội, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc ban hành các văn bản điều chỉnh hoạt động bảo hiểm xã hội và đề ra các chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp, tránh tình trạng những hậu quả xấu không biết quy trách nhiệm cho ai, cho cơ quan nào.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra và kiểm soát việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội để phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm hoặc những điểm không phù hợp với thực tế.
2. Có chương trình quy hoạch đào tạo và sử dụng cán bộ
Đội ngũ cán bộ của ngành bảo hiểm xã hội hiện nay được chuyển từ Liên đoàn Lao động và Phòng lao động thương binh và xã hội sang. Đại đa số các cán bộ chưa qua đào tạo đại học, thiếu kinh nghiệm quản lý. Một số cán bộ ở cấp tỉnh, huyện trong quá trình làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính, tiếp cận với các văn bản của Nhà nước một cách thụ động thiếu tính sáng tạo, phong cách làm việc còn mang tính chất hành chính quan liêu. Vì vậy, việc đổi mới xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ ngành bảo hiểm xã hội là một vấn đề cấp thiết mang tính khách quan. Gần đây ở một số địa phương đã giải quyết cho cán bộ vừa làm vừa đi học tại chức để họ nâng cao được trình độ nghiệp vụ cũng như quản lý. Song đó mới chỉ là giải pháp mang tính chất tình thế nên khó tránh khỏi tình trạng chắp vá cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, chúng ta phải xây dựng một định hướng đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ của toàn ngành bảo hiểm xã hội:
- Hình thành trung tâm đào tạo về đại học tại chức, nghiệp vụ tài chính kế toán, quản lý kinh tế, tin học riêng cho ngành bảo hiểm xã hội ở cấp tỉnh. Cần phải có chương trình đào tạo phù hợp, đáp ứng được cả nhu cầu hiện tại và trong tương lai. Ngoài ra thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ bảo hiểm xã hội các quận, huyện.
- Đối với việc tuyển dụng cán bộ ngành bảo hiểm xã hội không chỉ chú ý đến số lượng mà phải quan tâm đến chất lượng cán bộ, đặc biệt là đối với chức danh giám đốc và kế toán trưởng. Cần lựa chọn các có nhân tiêu biểu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có quan điểm lập trường đúng đắn, có tình thương yêu đồng chí, đồng nghiệp, gắn bó với người lao động.
- Coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ:
Một phương án hữu hiệu đang được nhiều ngành mũi nhọn áp dụng đó là lực lượng sinh viên. Để thu hút nhân tài nên đi thẳng vào các trường đại học có chuyên ngành bảo hiểm, hỗ trợ tiền cho các sinh viên xuất sắc theo hợp đồng thoả thuận khi họ tốt nghiệp sẽ về công tác cho cơ quan bảo hiểm xã hội.
Tóm lại, muốn xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội của Việt Nam vững mạnh thì Đảng và Nhà nước phải tăng cường đầu tư cho ngành này để có một chương trình đào tạo và sử dụng hợp lý và khoa học. Bên cạnh đó bản thân ngành bảo hiểm xã hội cũng phải nỗ lực triển khai các chương trình đào tạo đó.
3. Mở rộng nguồn thu bảo hiểm xã hội
Xuât phát từ nguyện vọng của người lao động và phương hướng xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động ở tất cả các thành phần kinh tế. Khi mọi người lao động đều được tham gia bảo hiểm xã hội chính là đã tạo ra mạng lưới bảo vệ rộng khắp, che chắn cho mọi người lao động không bị rơi vào cảnh túng quẫn, một xã hội có sự liên kết cộng đồng tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Để mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, Nhà nước ta cần ban hành các chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện. Hình thức bảo hiểm xã hội này đã được Bộ luật Lao động và Nghị định 12/CP khẳng định song vẫn chưa được thực hiện. Đây là hoạt động vừa mang tính chất thương mại vừa mang tính chất xã hội nên phải có đối tượng tham gia và phải hình thành nguồn quỹ có khả năng đáp ứng nhu cầu chi trả đồng thời phải có sự giúp đỡ của Nhà nước. ậ nước ta đang thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, thực hiện cơ cấu nhiều thành phần nên số lượng lao động ngày càng tăng kéo theo sự gia tăng của các đối tượng tham gia và hưởng bảo hiểm xã hội. Đối tượng của bảo hiểm xã hội hiện nay mới chỉ dừng lại ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, Đoàn thể và các đơn vị có sử dụng từ 10 lao động trở lên. Mà nước ta là một nước nông nghiệp, 80% dân số sống bằng nghề nông, ngoài ra còn có thợ thủ công, người buôn bán nhỏ... Các đối tượng này chiếm đại bộ phận trong tổng số lao động nước ta vẫn chưa được tham gia bảo hiểm xã hội. Trên thực tế mới chỉ có khoảng 4 triệu lao động tham gia bảo hiểm xã hội còn hơn 30 triệu lao động chưa có điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội. Do vậy, Nhà nước cần có biện pháp hữu hiệu để cho mọi người lao động đều được tham gia bảo hiểm xã hội. Có thể có các hướng giải quyết sau:
- Mức góp hiện nay dựa trên tiền lương cơ bản (gồm lương cấp bậc, chức vụ, hợp đồng, hệ số chênh lệch bảo lưu và các khoản phụ cấp thâm liên, chức vụ bầu cử, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ). Trong khi đó thu nhập thực tế của người lao động lại không ngừng tăng lên. Hiện tại nhiều doanh nghiệp có thu nhập bình quân trên 1 triệu đồng/tháng/người. Do vậy, nên có hình thức bảo hiểm xã hội bổ sung, khuyến khích người lao động tự nguyện đóng góp cao hơn, ứng với thu nhập thực tế, xem xét mức thưởng của họ sao cho phù hợp để đảm bảo có sự đảm bảo an toàn cho quỹ bảo hiểm xã hội và quyền lợi của họ. Trong hình thức này chủ sử dụng lao động không có liên quan.
- ở nước ta hiện nay số lượng doanh nghiệp có quy mô nhỏ dưới 10 lao động tương đối lớn. Vì thế, nên mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội đến các doanh nghiệp này.
Để đẩy mạnh công tác thu cần ban hành ngay các văn bản pháp luật buộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải đóng bảo hiểm xã hội. Nên có quy định buộc các doanh nghiệp này khi đăng ký kinh doanh phải đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội thì mới cấp giấy phép kinh doanh. Đây là một vấn đề bức xúc cần được làm ngay. Đồng thời có các văn bản hướng dẫn công tác chi trả để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chi.
- Đối với các đối tượng chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì cần áp dụng hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện đặc biệt là đối với nông dân. Hiện nay, nước ta có khoảng 28 triệu lao động nông thôn chiếm khoảng 71% tổng số lao động cả nước, hầu hết chưa tham gia bảo hiểm xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp bình quân 4,3% năm, đóng góp khoảng 40% GDP, 40% kim ngạch xuất khẩu, đời sống của người nông dân hơn 10 năm đổi mới đã được nâng lên rõ rệt. Theo tính toán của ESCAP, số người cao tuổi ở Việt Nam năm 1998 khoảng gần 5 triệu người, đến năm 2000 lên tới 5,4 triệu người và năm 2025 là 12,3 triệu người. Trong số người cao tuổi ở nông thôn chỉ có một tỷ lệ không đáng kể là cán bộ công nhân viên, bộ đội... về hưu hoặc nghỉ mất sức lao động có chế độ bảo hiểm xã hội. Một số khác thuộc đối tượng chính sách của Nhà nước, còn lại đại bộ phận là không có chế độ bảo hiểm xã hội. Qua điều tra khảo sát 50% người về hưu, mất sức lao động ở nông thôn có thu nhập từ bảo hiểm xã hội dưới mức lương tối thiểu, 90% số người cao tuổi ở nông thôn vẫn đang phải làm việc để tăng thu nhập (72% phải dựa vào con cháu, 28% phải có sự trợ giúp khẩn cấp của Nhà nước và cộng đồng). Vì vậy, mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội cho lao động nông thôn là tất yếu khách quan, là nguyện vọng của hàng triệu lao động nông thôn hiện nay. Tuy nhiên đây là vấn đề hết sức phức tạp cần phải được nghiên cứu kỹ cả về lý luận lẫn thực tiễn. Sau đây là một vài kiến nghị về mô hình bảo hiểm xã hội cho lao động nông thôn:
+ Nên thực hiện ở vùng đồng bằng trước vì đây là nơi tập trung nhiều lao động nông thôn.
+ Các chế độ ốm đau, thai sản, hưu trí, tử tuất cần được thực hiện trước.
+ Khuyến khích các hộ giàu tham gia trước sau đó giúp đỡ các hộ nghèo, gia đình chính sách tham gia.
+ Quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu do người lao động tham gia đóng góp, Nhà nước hỗ trợ khi cần thiết.
Nhà nước cần phải thiết kế chính sách và hệ thống bảo hiểm xã hội cho lao động nông thôn nằm trong hệ thống quản lý thống nhất của bảo hiểm xã hội Việt Nam.
4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam mới đi vào hoạt động theo cơ chế mới, hạch toán độc lập, cân đối thu chi nên việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội là hết sức cần thiết. Công tác thông tin, tuyên truyền về bảo hiểm xã hội trong những năm qua đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả đáng ghi nhận:
Đó là nâng cao nhận thức xã hội đối với bảo hiểm xã hội, đưa ra những hình thức tuyên truyền hiệu quả hơn và đã xây dựng được đội ngũ đông đảo cộng tác viên. Nhưng so với yêu cầu và nhiệm vụ chung của ngành, công tác thông tin tuyên truyền về bảo hiểm xã hội còn nhiều hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Nhìn chung số đông người lao động, chủ sử dụng lao động chưa có hiểu biết rõ ràng về bảo hiểm xã hội, thêm vào đó công tác tuyên truyền chưa được quan tâm một cách đúng mức, kinh phí tuyên truyền còn quá ít ỏi, hiệu quả tuyên truyền thấp. Để nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền cần phải thực hiện theo các hướng sau:
- Về nội dung:
Ngoài tuyên truyền chính sách, pháp luật và các chế độ bảo hiểm xã hội, giải đáp hướng dẫn việc thực hiện các chế độ, kết quả các mặt hoạt động của ngành... Cần đặc biệt quan tâm đến nội dung mà lâu nay ít được đề cập đến đó là tuyên truyền về mục đích, bản chất nhân đạo nhân văn của bảo hiểm xã hội. Nếu chúng ta làm được điều đó thì sẽ từng bước thay đổi được tâm lý nặng nề của họ hiện nay là bắt buộc phải đóng bảo hiểm xã hội. Từ đó hình thành ở họ thái độ tự giác, tự nguyện tham gia bảo hiểm xã hội và có trách nhiệm nộp bảo hiểm xã hội. Trước đây chúng ta thường tuyên truyền nhiều về nội dung thu chi, quản lý quỹ bảo hiểm xã hội và giải quyết về bảo hiểm xã hội là chưa đủ. Đó mới chỉ là biện pháp để thực hiện mục đích nhân đạo. Nội dung tuyên truyền mới chỉ dành riêng cho nội bộ ngành, chưa thu hút được đông đảo người lao động, chủ sử dụng lao động và các thành viên khác trong xã hội.
- Về hình thức tuyên truyền:
Tạp chí bảo hiểm xã hội Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc lịch sử trong công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội. Thời gian qua, các bài báo viết chủ yếu là của các nhà quản lý bảo hiểm xã hội, đội ngũ cộng tác viên chưa đáp ứng được số lượng, chất lượng bài viết. Để phục vụ độc giả tốt hơn, tạp chí bảo hiểm xã hội phải đa dạng hoá nội dung và hình thức thực hiện. Trước hết là đội ngũ phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên phải có những bài viêt với chất lượng cao. Bài viết không dừng lại ở thông tin một cách đơn thuần những kết quả đã đạt được mà phải dựa trên sự phân tích một cách khoa học, mang tính lập luận nghiệp vụ về bảo hiểm xã hội. Bài viết đăng trên tạp chí phải đầy đủ thông tin cần thiết và chính xác cập nhật. Đòi hỏi đội ngũ biên tập viên, cộng tác viên trong và ngoài ngành phải có trình độ chuyên môn, trách nhiệm cao.
Tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tin đại chung (Đài truyền hình, truyền thanh, báo chí...) để tuyên truyền sâu rộng hơn về bảo hiểm xã hội. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu, gây được sự chú ý của mọi người.
Tổ chức thực hiện một số hình thức tuyên truyền trực quan sinh động: in tờ gấp, tranh cổ động, áp phích, sách hỏi đáp giới thiệu về pháp luật và các chế độ bảo hiểm xã hội, phát hành rộng rãi đến từng đơn vị sử dụng lao động.
Có biện pháp để thu hút các nhà chuyên môn, chuyên gia nổi tiếng trên các lĩnh vực: văn hoá, hội hoạ, nhạc kịch... Sáng tác các tác phẩm có tinh hoa văn hoá nghệ thuật cao,có nội dung tuyên truyền được quần chúng ưa thích. Các bài hát, bài thơ, các vở kịch, phim tranh cổ động phải được dàn dựng, thể hiện và trình bày công phu để giới thiệu rộng rãi đến toàn xã hội với cách tốt nhất là thông qua đài truyền hình, qua các cuộc thi.
Tổ chức các hội nghị, các cuộc họp trong đó có các đại diện của cơ quan bảo hiểm xã hội, chủ sử dụng lao động, đại diện của người lao động để nhằm mục đích tuyên truyền về bảo hiểm xã hội giúp các bên tham gia hiểu rõ tính pháp luật của các bảo hiểm xã hội, nắm được quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Đồng thời qua đó thu nhập tổng hợp các ý kiến thắc mắc đóng góp từ phía người lao động, chủ sử dụng lao động để đưa ra các biện pháp phù hợp với nguyên vọng của họ.
Phấn đấu mỗi cán bộ bảo hiểm xã hội là một tuyên truyền viên vì hơn ai hết họ hiểu rõ mục đích, bản chất, tác dụng và cách thức thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội .
Hiệu quả của tuyên truyền phải được đánh giá bởi mức độ ảnh hưởng thay đổi nhận thức, thái độ của đối tượng tham gia theo mục đích đã định, số lượng đối tượng được tuyên truyền, chi phí cho tuyên truyền.
5. Hoàn thiện nghiệp vụ quản lý thu và chống thất thu quỹ BHXH.
Công tác thu quỹ bảo hiểm xã hội có yêu cầu rất cao đối với những cán bộ làm công tác này, nó đòi hỏi người cán bộ phải năng động, sáng tạo, nhiệt tình trong công việc. Do vậy cần có những chế độ ưu đãi đối với họ như: phương tiện đi lại, thanh toán công tác phí theo chế độ riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh đó chúng ta cũng nên quan tâm đến các tổ chức, đơn vị mà chúng ta quản lý. Chúng ta có thể tiến hành các hình thức khen thưởng, cám ơn đến các đơn vị luôn thực hiện đúng tiến độ thu bảo hiểm xã hội. Còn đối với các đơn vị nộp chậm, nộp thiếu tiền bảo hiểm xã hội thì chúng ta nên xem xét tình hình cụ thể của đơn vị. Nếu đơn vị thực sự gặp khó khăn thì đề nghị các cơ quan chức năng tạo điều kiện thuận lợi, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn. Nếu đơn vị cố tình chiếm dụng quỹ trong khi có đủ khả năng nộp tiền bảo hiểm xã hội thì phải có các biện pháp xử phạt nghiêm khắc. Chúng ta không thể dừng lại ở các biện pháp xử phạt hành chính vì nhiều đơn vị sẵn sàng chấp nhận nộp phạt nếu như họ thấy tiền lãi thu được do việc chiếm dụng quỹ bảo hiểm xã hội vào hoạt động sản xuất kinh doanh lớn hơn số tiền họ phải nộp phạt mà trong một số trường hợp chúng ta phải mạnh dạn đề nghị các cơ quan thực thi pháp luật tiến hành truy tố họ vì không đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Đối với các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chất thời vụ thì cần xác định thời điểm thu hợp lý để tạo điều kiện cho họ nộp đúng, nộp đủ.
6 . ứng dụng tin học vào trong công tác quản lý
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang dần bắt kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới. Chúng ta đang mạnh mẽ áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý, vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Ngành bảo hiểm xã hội cũng đã đưa hệ thống tin học vào hoạt động của mình nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ "có máy vi tính". Hiện nay ở hầu hết các cơ quan bảo hiểm xã hội đều có hơn 2 chiếc máy vi tính nhưng số lượng cán bộ bảo hiểm xã hội biết sử dụng thành thạo nó thì có rất là ít, thậm chí có nơi không có. Các cán bộ của ngành bảo hiểm xã hội mới chỉ dừng lạỉ việc bắt đầu biết sử dụng máy tính mà chưa khai thác được hết hiệu quả mà máy tính đem lại trong công tác thu chi quỹ bảo hiểm xã hội. Mặt khác do chưa được quan tâm đúng mức nên hệ thống các chương trình phần mềm chuyên ngành của ngành bảo hiểm xã hội chưa đuợc đồng bộ, chưa tạo ra sự thuận tiện cho các cán bộ khi làm việc trực tiếp với máy tính. Bên cạnh đó hệ thốn phần mềm này còn thiếu tính năng bảo mật nên rất dễ bị đánh cắp số liệu. Chính vì vậy mà trong những năm tiếp theo Nhà nước nên cung cấp kinh phí cho ngành bảo hiểm xã hội để họ có đủ điều kiện đưa hoạt động tin học trong quản lý có hiệu quả cao thông qua việc mua máy vi tính, mua phần mềm quản lý cũng như việc mở các lớp đào tạo tin học cho tất cả các cán bộ trong toàn ngành bảo hiểm xã hội cả về các kỹ năng sử dụng máy tính và kỹ năng khai thác hiệu quả phần mềm chuyên ngành.
7. Bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội
Muốn công tác chi trả được thực hiện tốt hơn và để đảm bảo khả năng chi trả thì phải có các biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội. Để bảo tồn được giá trị của quỹ cần phải sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm quỹ, cần tăng nguồn thu, chi đúng mục đích, đối tượng và tăng cường công tác kiểm tra sử dụng quỹ. Do vậy, cần phải đầu tư quỹ sao cho có hiệu quả cao nhất trên nguyên tắc đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro. Trong những năm tới chúng ta vẫn phải tiến hành đầu tư trên các lĩnh vực quen thuộc như: mua tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ, cho các tổ chức tín dụng của Nhà nước vay, đầu tư vốn vào các doanh nghiệp lớn được sự bảo hộ của Nhà nước. Bên cạnh đó chúng ta sẽ phải tiến hành đầu tư vào những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao hơn mặc dù yếu tố rủi ro cũng tăng lên để đa dạng hoá các loại hình đầu tư. Đây là hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới vừa đem lại lợi nhuận cao hơn vừa hạn chế được yếu tổ rủi ro.
8. Cải cách thủ tục hành chính
Đây là vấn đè cần phải được quan tâm ở bất kỳ cơ quan nhà nứơc nào.ở cơ quan BHXH quận Đống Đa cũng vậy ,rất nhiều người phàn nàn về thủ tục hành chính quá rườm rà (nhất là trong khâu tiếp nhận ,di chuyển hưu trí hoặc khâu giải quyết chế độ như tử tuất ...)
Cải cách thủ tụchành chính tức là giảm bớt những phần công việc, giấy tờ không cần thiết . Khách ở đây chủ yếu là các bác đã về hưu ( có tuổi ) rất ngại phải đi lại nên có thể linh động cho các bác tạm thiéu một số giấy tờ không quan trọng nào đó.
Tóm lại cơ quan BHXH Hà Nội nên tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng hưởng.
Kết luận
Bảo hiểm xã hội là một nhu cầu cần thiết và khách quan của người lao động nói chung ở tất cả các quốc gia trên thế giới . Vì vậy nó đã trở thành một trong những quyền về con người và được Đại hội đồng liên hợp quốc thông qua trong tuyên ngôn về nhân quyền ngày 10/12/1948. BHXH ngày nay là một trong những chính sách xã hội lớn của quốc gia , chính sách này thể hiện trình độ văn minh , tiềm lực và sức mạnh kinh tế , khả năng tổ chức và quản lý nhà nước.
Việc phân tích tình hình thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội của đề tài đã khẳng định được vai trò của chính sách BHXH .Để hoàn thiện công tác thu và chống thất thu hiện nay đề tài đã đưa ra một số vấn đề cơ bản . Để thực hiện vấn đề đó được tốt hơn cần thiết phải làm công tác tuyên truyền , phổ biến chính sách BHXH , đồng thời cần sự hỗ trợ tich cực của các ban ngành liên quan, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động BHXH , công tác thu và chống thất thu quỹ BHXH , góp phần ổn định và phát triển quỹ bhxh , ổn định kinh tế xã hội , trật tự và an toàn xã hội .
Qua quá trình thực hiện đề tài này, em xinh chânh thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cơ quan BHXH quận Đống đa và thầy giáo Nguyễn Cao Thường . Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do trình độ bản thân và thời gian có hạn nên bản chuyên đề còn có những thiếu xót nhất định . Kính mong thầy giáo và cán bộ cơ quan BHXH Quận Đống đa tận tình chỉ bảo để em hoàn thành được tốt hơn.
Hà nội ,ngày 30-4-2002.
Sinh viên
Lê khánh Việt
TàI liệu tham khảo.
Giáo trình Kinh tế bảo hiểm , Trường đại học kinh tế quốc dân.
Tạp chí BHXH số 1,2 năm 2001.Số 1 năm 2002.
Báo cáo tổng kết năm 2001 của cơ quan bảo hiểm quận Đống đa.
Báo cáo tổng kết năm 2001 của BHXH Hà nội.
Các văn bản pháp luật của nhà nước về BHXH.
Tài liệu thu chi các năm của cơ qan BHXH Đống đa.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0001.doc