Bàn về khái niệm quản lý - Quản lý kinh doanh & quản lý doanh nghiệp những vấn đề có thể rút ra từ ba khái niệm này

A. Mở đầu Từ xa xưa khi các hoạt động trong xã hội còn tương đối đơn giản với quy mô chưa lớn, công tác quản lý được thực hiện trên cơ sở kinh nghiệm với sự linh hoạt nhạy bén của người đứng đầu tổ chức. Kinh nghiệm ngày càng phong phú và người ta rút ra được những từ đó những điều mang tính quy luật có thể vận dụng trong nhiều tình huống tương tự. Ngày nay hoạt động quản lý chủ yếu dựa trên cơ sở khoa học; qua tổng kết khái quát từ thực tiễn sinh động để trở thành khoa học quản lý. Trong xã h

doc13 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Bàn về khái niệm quản lý - Quản lý kinh doanh & quản lý doanh nghiệp những vấn đề có thể rút ra từ ba khái niệm này, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội theo nghĩa rộng quản lý có thể là quản lý cả một đất nước. Nhưng ở đây em chỉ muốn đề cập đến việc quản lý kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện nhiều và phát triển một cách nhanh chóng. Nhưng cũng có không ít các doanh nghiệp cũng phải phá sản hoặc chuyển sang loại hình doanh nghiệp khác là do việc quản lý không phù hợp, lỏng lẻo, chưa coi đó là cái cột chính để đỡ nóc nhà mặc dù nền móng là nhân lực và vốn đã vững chắc. Đó chính là lý do để chúng ta thấy quản trị có vị trí như thế nào trong doanh nghiệp. Nó vừa có nghĩa bao gồm quản lý con người (hoặc nhiều người) giới vô sinh (máy móc thiết bị, đất đai, thông tin)... hoặc giới sinh vật (cây trồng, vật nuôi...) kinh doanh để phát triển sản xuất và doanh nghiệp. Vì lý do đó em đã chọn đề tài tiểu luận về: "Bàn về khái niệm quản lý - quản lý kinh doanh và quản lý doanh nghiệp những vấn đề có thể rút ra từ 3 khái niệm này". B. Nội dung Chương I: Khái niệm quản lý và quản lý kinh doanh * Thuật ngữ quản trị và quản lý Quản trị tiếng Anh là Management, vừa có nghĩa là quản lý vừa có nghĩa là quản trị, nhưng được dùng chủ yếu với nghĩa quản trị. Ngoài ra tiếng Anh còn dùng một thuật ngữ khác nữa là Administration với nghĩa là quản lý hành chính, quản lý chính quyền. Tiếng Pháp cũng có 2 từ ngư tương đương: Gestion (tương đương với từ Management của tiếng Anh) là quản trị kinh doanh, còn Administration trong tiếng Anh cũng là quản lý các hành động hành chính, chính quyền. Như vậy có thể tạm coi quản lý là thuật ngữ được dùng với các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý xã hội nói chung và quản lý kinh tế nói riêng, còn giá trị là thuật ngữ được dùng đối với cấp cơ sở trong đó các tổ chức kinh doanh - các doanh nghiệp. Quản trị và quản lý là logic giống nhau của vấn đề quản lý, nhưng điểm khác là nội dung và quy mô cụ thể của vấn đề quản lý đặt ra một bên là phạm vị cả nước, một bên là phạm vi từng cơ sở. I. Khái niệm quản lý 1. Quản lý chức năng vốn có của mọi tổ chức. Chức năng này phát sinh từ sự cần thiết phải phối hợp hành động của các cá nhân, các bộ phận trong tổ chức, nhằm thực hiện mục tiêu chung được đặt ra cho tổ chức. 2. Khái niệm quản lý Quản lý là một khái niệm có * hàm xác định song lâu nay thường có các cách định nghĩa, cách hiểu khác nhau và được thể hiện bằng thuật ngữ khác nhau. Thực chất của quản lý là gì? (hoặc quản lý trước hết, chủ yếu là gì? ) cũng có những quan niệm không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên với sự phát triển của khoa học, quản lý đã cơ bản được làm sáng tỏ để có một cách hiểu thống nhất. Quản lý là chức năng vốn có của mọi tổ chức, mọi hành động của các cá nhân, các bộ phận trong tổ chức có sự điều khiển từ trung tâm, nhằm thực hiện mục tiêu chung của tổ chức. Quản lý là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý một cách liên tục, có tổ chức, liên kết các thành viên trong tổ chức hành động nhằm đạt tới mục tiêu với kết quả tốt nhất. Quản lý bao gồm các yếu tố: + Phải có một chủ thể quản lý là các tác nhân tạo ra tác động quản lý và một một đối tượng bị quản lý. Đối tượng bị quản lý phải tiếp nhận và thực hiện tác động quản lý. Tác động quản lý có thể chỉ là một lần mà cũng có thể là liên tục nhiều lần. + Phải có mục tiêu đặt ra cho cả chủ thể và đối tượng. Mục tiêu này là căn cứ chủ yếu để tạo ra các tác động. Chủ thể quản lý có thể là một người, nhiều người. Còn đối tượng bị quản lý có thể là người hoặc giới vô sinh (máy móc, thiết bị, đất đai, thông tin, hầm mỏ...) hoặc giới sinh vật (vật nuôi, cây trồng...) Từ những khái niệm nêu trên ta thấy đối tượng chủ yếu và trực tiếp của quản lý là những con người trong tổ chức; thông qua đó tác động lên các yếu tố vật chất (vốn, vật tư, công nghệ) để tạo ra kết quả cuối cùng của toàn bộ hành động. Vì vật khi xét về thực chất, quản lý trước hết và chủ yếu là quản lý con người (trong bất cứ hành động nào). Xác định như vậy để thấy con người là yếu tố quyết định trong mọi hành động, hoàn toàn không có nghĩa là nội dung các chức năng quản lý nhân sự (một bộ phận trọng yếu của quản lý). Điều này đã được nhiều nhà khoa học quản lý nhấn mạnh qua cách thể hiện như: "Quản lý là một quá trình làm cho những hành động được hoàn thành với hiệu quả cao, bằng và thông qua những người khác (S.P.Robbing) và "Các nhà quản lý có trách nhiệm duy trì các hành động làm cho các cá nhân có thể đóng góp tốt nhất và các mục tiêu của nhóm" (H. Koontz, C.O' donnell,...) 3. Các chức năng quản lý Để quản lý, chủ thể quản lý phải thực hiện nhiều loại công việc khác nhau. Những loại công việc quản lý này được gọi là các chức năng quản lý. Như vậy các chức năng quản lý là những công việc quản lý khác nhau mà chủ thể quản lý (các nhà quản lý) phải thực hiện trong quá trình quản lý một tổ chức. Phân tích chức năng quản lý nhằm trả lời câu hỏi: các nhà quản lý phải thực hiện các công việc gì trong quá trình quản lý? Có nhiều ý kiến khác nhau về sự phân chia các chức năng trong quá trình quản lý. Vào những năm 1930, Gulick và urwich nêu lên 7 chức năng của quản lý trong từ viết tắt POSDCORB: P: Planning - lập kế hoạch, O: organnizing - tổ chức, S: Staffing - Quản trị nhân sự, D: Directing - chỉ huy, CO: Coordinating - phối hợp, R: Reviewing - kiểm tra, B: Budgeting - tài chính. Herni Fayol nêu 5 chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra. Trong những năm 60, Koontx và O'Donnell nêu 5 chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, quản trị nhân sự, điều khiển và kiểm tra. Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, giữa các giáo sư đại học Mỹ cũng không có sự thống nhất về cách thức phân chia các chức năng quản trị, James Stoner chia thành 4 chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Cũng tương tự như thế, Stephen Ropbbin chia thành 4 chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Andang và Stearns chia thành 4 chức năng: Lập kế hoạch, tổ chức và quản trị nhân sự, điều khiển và kinh tế. Các chức năng như lập kế hoạch. Tổ chức, điều hành, kiểm tra và điều chỉnh là phổ biến đối với mọi nhà quản trị, dù đó là tổng giám đốc một Công ty lớn, hiệu trưởng một trường đại học, trưởng phòng chuyên môn trong một cơ quan, hay tổ trưởng một tổ gồm 5 - 7 công nhân. Có thể nói, các chức năng quản lý trên đây chung nhất đối với mọi nhà quản lý, không phân biệt cấp bậc, ngành nghề, quy mô lớn nhỏ của tổ chức và môi trường xã hội, dù ở Mỹ, Nhật hay Việt Nam. Dĩ nhiên, phổ biến hay chung nhất không có nghĩa là đồng nhất. ở những tổ chức khác nhau, những cấp bậc khác nhau, có sự khác nhau về mức độ và sự quan tâm cũng như phương thức thực hiện các chức năng chung này. II. Quản lý kinh doanh và quản lý doanh nghiệp 1. Khái niệm Một doanh nghiệp cần phải được quản lý, quản lý này được gọi là quản lý kinh doanh. Quản lý kinh doanh là quá trình tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ doanh nghiệp lên tập thể những người lao động trong doanh nghiệp. Sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội để thực hiện một cách tốt nhất mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm đạt mục tiêu đề ra theo đúng luật định và thông lệ xã hội. Sơ đồ lô-gig của khái niệm quản lý kinh doanh Mục tiêu doanh nghiệp Khách hàng Các cơ hội, các rủi ro Các đối thủ cạnh tranh Những người cung ứng đầu vào Luật định và thông lệ xã hội Chủ thể doanh nghiệp C Tác động Các đầu vào Thị trường Những người lao động trong doanh nghiệp 2. Thực chất của quản lý kinh doanh Xét về mặt tổ chức và kỹ thuật của hoạt động quản lý, quản lý chính là sự kết hợp của mọi nỗ lực của con người trong doanh nghiệp để đạt tới mục dích chung của doanh nghiệp và mục tiêu riêng của mỗi người một cách khôn khéo và có hiệu quả nhất. Quản lý ra đời chính là để tạo ra hiệu quả hoạt động cao hơn hẳn so với lao động của từng cá nhân riêng rẽ trong cùng một nhóm người, khi họ tiến hành các hoạt động lao động chung. Nói một cách khác, thực chất của quản lý kinh doanh là quản lý con người trong doanh nghiệp, thông qua đó, sử dụng có hiệu quả nhất mọi tiềm năng và cơ hội của doanh nghiệp để thực hiện các hoạt động kinh doanh theo mục tiêu đã định. 3. Bản chất của quản lý kinh doanh Xét về mặt kinh tế xã hội của quản lý, quản lý doanh nghiệp là vì mục tiêu lợi ích của doanh nghiệp, bảo đảm cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển lâu dài, trang trải vốn và lao động, bảo đảm tính độc lập và cho phép thoả mãn những đòi hỏi xã hội của chủ doanh nghiệp và của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Mục tiêu của doanh nghiệp do chủ doanh nghiệp đề ra, họ là chủ sở hữu của doanh nghiệp và là người nắm giữ quyền lực doanh nghiệp. Nói một cách khác, bản chất của quản lý kinh doanh tuỳ thuộc vào chủ sở hữu của doanh nghiệp. Chính bản chất của kinh doanh xã hội chủ nghĩa khác kinh doanh tư bản chủ nghĩa, cho nên nó phải có thêm câu hỏi "sản xuất cái đó để làm gì" rõ ràng các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa có thể sản xuất băng hình "con heo", còn với doanh nghiệp xã hội chủ nghĩa thì Nhà nước không cho phép làm điều đó. 4. Quản lý kinh doanh mang tính khoa học, tính nghệ thuật và là một nghề. a. Quản lý kinh doanh mang tính khoa học Tính khoa học của quản lý kinh doanh xuất phát từ tính quy luật của các quan hệ quản lý trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, baogồm những quy luật về kinh tế, kinh doanh kỹ thuật, xã hội... Những quy luật này nếu được các nhà quản lý nhận thức và vận dụng trong quá trình quản lý doanh nghiệp sẽ giúp họ đạt kết quả mong muốn, ngược lại sẽ gánh chịu những hậu quả khôn lường. Tính khoa học của quản lý kinh doanh đòi hỏi các nhà quản lý trước hết phải nắm vững những quy luật liên quan đến quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Đó không chỉ là những quy luật kinh tế và kinh doanh, mà còn hàng loạt những loại quy luật khác như quy luật tâm lý- xã hội, quy luật kỹ thuật, đặc biệt là những quy luật quản lý... Nắm quy luật, thực chất là nắm vững hệ thống lý luận về kinh doanh và quản lý kinh doanh. Tính khoa học của quản lý kinh doanh còn đòi hỏi các nhà quản lý phải biết vận dụng các phương pháp đo lường định lượng hiện đại, những thành tựu tiến bộ của khoa học kỹ thuật như các phương pháp dự đoán, phương pháp tâm lý xã hội học, các công cụ xử lý lưu trữ, truyền thông: máy vi tính, máy fax, điện thoại, mạng internet... b. Quản lý kinh doanh mang tính nghệ thuật Tính nghệ thuật của quản lý kinh doanh xuất phát từ tính đa dạng, phong phú, tính muôn hình muôn vẻ của các sự vật và hiện tượng trong kinh tế, kinh doanh và trong quản lý. Không phải mọi hiện tượng đều mang tính quy luật và cũng không phải mo0ị quy luật có liên quan đến hoạt động kinh doanh đều đã được nhận thức thành lý luận. Tính nghệ thuật của quản lý kinh doanh còn xuất phát từ bản chất của quản lý kinh doanh, suy đến cùng là tác động tới con người với những nhu cầu hết sức đa dạng, phong phú, với những toan tính, tâm tư, tình cảm khó có thể cân đo, đong đếm được. Những mối quan hệ con người luôn luôn đòi hỏi nhà quản lý phải xử lý khéo léo, linh hoạt "nhu" hay "cương", "cứng" hay "mềm" và khó có thể trả lời một cách chung nhất như thế nào là tốt hơn? Tính nghệ thuật của quản lý kinh doanh còn phụ thuộc vào những thuộc tính tâm lý cá nhân của từng nhà quản lý, vào cơ may, vận rủi... c. Quản lý kinh doanh là một nghề (nghề quản lý) Theo nghĩa ai cũng có thể di học nghề để tham gia các hoạt động kinh doanh, nhưng có thành công hay không? Có giỏi nghề hay không lại tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố của nghề (học nghề ở đâu? ai dạy cho? Cách học nghề ra sao? Chương trình thế nào? người dạy có thực tâm truyền hết nghề hay không? năng khiếu nghề nghiệp của người học nghề ra sao? Các tiền đề tối thiểu về vật chất ban đầu cho sự hành nghề có bao nhiêu?). Như vậy muốn điều hành các hoạt động kinh doanh có kết quả một cách chắc chắn, thì trước tiên chủ doanh nghiệp phải được đào tạo về nghề nghiệp (kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm) một cách chu đáo, để phát hiện, nhận thức một cách chuẩn xác và đầy đủ các quy luật khách quan xuất hiện trong quá trình kinh doanh, đồng thời có phương pháp nghệ thuật thích hợp, nhằm thực hiện tuân thủ đúng các đòi hỏi của các quy luật đó. Chương II Những vấn đề rút ra từ 3 khái niệm: quản lý, quản lý kinh doanh và quản lý doanh nghiệp. Thực chất của 3 vấn đề: quản lý, quản lý kinh doanh và quản lý doanh nghiệp đó là sự tác động có tổ chức của chủ thể quản trị lên các đối tượng bị quản trị nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức. Sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội để thực hiện một cách tốt nhất mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Và tác động một cách liên tục lên các đối tượng bị quản lý dù là vật chất hay con người nhưng mục tiêu của nó là làm sao để hoàn thành một cách xuất sắc các mục tiêu đề ra của tổ chức. Quản lý kinh doanh mang tính khoa học vì chỉ có nắm vững tuân thủ đúng đòi hỏi của các quy luật khách quan xảy ra trong quá trình kinh doanh và quản lý kinh doanh mới đảm bảo cho việc kinh doanh đạt được kết qủa mong muốn. Giúp cho các nhà quản lý kinh doanh hiểu rõ, nắm vững phương tiện và công cụ cần thiết để tiến hành quản lý kinh doanh. Quá trình kinh doanh luôn đặt ra những nhiệm vụ mới cho các nhà quản lý. Hoàn thiẹn quản lý kinh doanh như là một yêu cầu thiết yếu trong quá trình phát triển doanh nghiệp. Để cứu vãn sự đổ vỡ của doanh nghiệp hoặc đưa doanh nghiệp sang một bước phát triển cao hơn về chất đều đòi hiỏi sự hoàn thiện những nhân tố quản lý kinh doanh. Phân tích kinh tế, chống lại rủi ro trong kinh doanh, đổi mới sự nghiệp. C. Kết luận Để tồn tại và không ngừng phát triển, con người không thể hành động riêng lẻ mà cần tổ chức phối hợp những nỗ lực cá nhân hướng vào những mục tiêu chung. Quá trình tổ chức sản xuất ra của cải vật chất và tổ chức cuộc sống an toàn của cộng đồng xã hội ngày càng được thực hiện trên quy mô lớn hơn với tính chất phức tạp hơn, đòi hỏi có sự phân công, điều khiển để liên kết các con người trong tổ chức. Chính sự phân công chuyên môn hoá lao động và sự quy định lẫn nhau giữa sự vận động của lao động vật hoá với lao động sống đã làm xuất hiện một chức năng đặc biệt: - Chức năng quản lý: C.Mác đã chỉ ra "mọi lao động xã hội trực tiếp hoặc lao động chung khi thực hiện trên mọi quy mô tương đối lớn, ở mức độ nhiều hay ít đều cần đến quản lý". Ông đã đưa ra một hình tượng dễ hiểu về vai trò của quản lý "Một nghệ sỹ vĩ cầm thì tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng". Sự quản lý cần thiết đối với mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội, từ mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân; từ một đơn vị dân cư đến một đất nước và những hành động trên phạm vi khu vực, phạm vi toàn cầu. Mục tiêu cụ thể và phương thức quản lý trên đại thể được chia ra 2 cấp độ: quản lý vi mô (trong phạm vi một đơn vi), quản lý vĩ mô (trên phạm vi một địa phương, một nước) - Trong hoạt động kinh tế có 5 yếu tố tạo thành kết quả đó là: tài nguyên, tiền vốn, công nghệ, lao động sống và lao động quản lý. Nhiệm vụ của quản lý là thông qua con người tác động tới các yếu tố còn lại để được hiệu quả cao. Hiệu quả kinh tế thể hiện ở việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nhất đối tượng lao động, giảm chi phí ở đầu vào và nâng cao hiệu quả oqr đầu ra (đó là số lượng sản phẩm, chất lượng sản phẩm và giá thành). Mục đích của quản lý là đạt được kết quả cao nhất cả về lượng và chất với chi phí ít nhất, từ đó có lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích đó quản lý phải xác định được mục tiêu rõ ràng, hoạch định được chiến lược và kế hoạch chu đáo, tổ chức hợp lý, điều hành phối hợp tốt và có sự kiểm tra chặt chẽ. Nó cũng cần có một môi trường hoạt động thuận lợi (trước hết là luật pháp, chính sách và sự hướng dẫn, điều tiết, kiểm tra, hỗ trợ Nhà nước). Mục lục Trang A. Mở đầu 1 B. Nội dung 2 Chương I. Khái niệm quản lý và quản lý kinh doanh 2 I. Khái niệm quản lý 2 1. Quản lý là một chức năng vốn có của mọi tổ chức 2 2. Khái niệm quản lý 2 3. Các chức năng quản lý 4 II. Quản lý kinh doanh và quản lý doanh nghiệp 5 1. Khái niệm 5 2. Thực chất của quản lý kinh doanh 6 3. Bản chất của quản lý kinh doanh 6 4. Quản lý kinh doanh mang tính khoa học, tính nghệ thuật và là một nghề 6 a. Quản lý kinh doanh mang tính khoa học 6 b. Quản lý kinh doanh mang tính nghệ thuật 7 c. Quản lý kinh doanh là một nghề 8 Chương II. Những vấn đề rút ra từ 3 khái niệm: Quản lý, quản lý kinh doanh và quản lý doanh nghiệp. 9 C. Kết luận 10 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0693.doc