Lời mở đầu
Thuế là vấn đề đại cục của mỗi quốc gia. Ngày nay trong tiến trình hội nhập, thuế lại đang có vị thế lớn trong chiến lược toàn cầu hoá. Vì vậy, việc quản lý thuế mặc nhiên trở thành một giác độ tiếp cận bức xúc của Nhà nước, đặc biệt là quản lí thuế giá trị gia tăng (GTGT).
Trong thời đại phát triển và hội nhập kinh tế như hiện nay, việc vận dụng thuế GTGT là một xu thế tất yếu. ở Việt Nam, thuế GTGT vẫn còn là một sắc thuế rất mới bởi vì loại thuế này mới được đưa vào áp dụng cách
43 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1533 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Bàn về công tác quản lý và tổ chức hạch toán kế toán thuế giá trị gia tăng (VAT) trong các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đây 4 năm, do đó công tác quản lí và hạch toán thuế GTGT còn rất nhiều hạn chế. Trước tình hình đó, Bộ Tài chính thường xuyên ban hành các văn bản quy định về công tác quản lí và thực hiện thuế GTGT nhằm giúp các doanh nghiệp có cái nhìn tổng quát và cụ thể hơn về loại thuế này, từ đó tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và để hiểu biết đầy đủ, sâu sắc hơn hơn về các qui định, công tác quản lý và phương pháp hạch toán kế toán thuế GTGT trong từng loại hình doanh nghiệp, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Bàn về công tác quản lý và tổ chức hạch toán kế toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”. Dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ to lớn của thầy giáo Trần Văn Thuận em đã hoàn thành đề án này với nội dung được trình bày làm hai phần:
Phần I. Cơ sở lý luận chung về thuế GTGT và kế toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp.
Phần II. Thực trạng thực hiện thuế GTGT, kế toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay và một số ý kiến đề xuất.
Phần I
Cơ sở lý luận chung về thuế giá Trị Gia Tăng và kế toán thuế giá Trị Gia Tăng trong
các doanh nghiệp
I. Những vấn đề chung về thuế GTGT
1. Lịch sử ra đời và phát triển của thuế GTGT
Việc nghiên cứu thuế GTGT được tiến hành bắt đầu sau những năm chiến tranh thế giới thứ nhất do nhà kinh tế người Đức Carlp Rilordrich Sienvens đề xuất năm 1918 nhưng không được chính phủ Đức phê duyệt. Đến năm 1947, thuế GTGT lại được đề cập đến trong tác phẩm về “cải tổ hệ thống thuế” của nhà kinh tế học người Mĩ tên là Chao. Tại Nhật Bản, một dự án về thuế này cũng được đề trình ra quốc hội năm 1953 nhưng cũng không được thông qua.
Trên thực tế thì thuế GTGT được nghiên cứu và áp dụng đầu tiên tại Cộng Hoà Pháp ngày 1 tháng 7 năm 1954. Vì Pháp là một trong những nước có nền công nghiệp rất phát triển (tiến hành cách mạng công nghiệp sớm), mặt khác Pháp cũng là nước rất quan tâm đến lĩnh vực tài chính mà trọng tâm đổi mới là thuế gián thu. Ban đầu thuế GTGT ở Pháp ra đời chỉ nhằm vào một số ngành cá biệt, mãi đến năm 1968 thuế GTGT mới được áp dụng cho mọi ngành nghề và trong mọi lĩnh vực.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường đã chứng minh được sự thành công của việc điều tiết nền kinh tế bằng phương pháp gián tiếp là chủ yếu. Trong bối cảnh đó, với những ưu điểm đặc biệt của thuế GTGT mà nó đã được nhanh chóng triển khai và áp dụng rộng rãi. Từ năm 1954 đến giữa năm 1988 chỉ có 47 nước áp dụng loại thuế này, cho đến tháng 7 năm 1991 đã có 100 nước đưa loại thuế này vào hệ thống thuế khoá của mình.
Riêng tại Châu á theo nhận định của quĩ tiền tệ Quốc tế IMF, thuế GTGT ngày càng trở thành một sắc thuế phổ biến trong khu vực này. Khởi đầu tại Korea (1977), Indonesia (1984), Đài Loan (1986), Philipines (1988), Nhật Bản (1988), Thái Lan (1992)...
Hiện nay trên thế giới đã có nhiều nước chuyển sang áp dụng thuế GTGT, để hợp nhất và hiện đại cơ cấu thuế quan của nước mình như: Chilê, Haiti, Mehico... Có những nước nhờ áp dụng thuế GTGT đã đạt được những tiến bộ to lớn về khoa học kĩ thuật, cải thiện nền kinh tế đất nước như: Anh quốc áp dụng mức thuế suất 15%, Đan Mạch 25%, Thụy Điển với 3 mức thuế 6%, 15%, 22% ngoài ra còn có một số các nước khác và đỉnh cao nhất của sự hoàn thiện này vẫn là Cộng hoà Pháp. Các nước thành viên EC đã chọn thuế GTGT như một giải pháp tốt nhất để thống nhất việc đánh thuế, khuyến khích quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tăng năng suất lao động.
Qua khảo sát cho thấy sau khi thay thế thuế doanh thu hoặc thuế bán hàng bằng thuế GTGT đã làm tăng số thu Ngân sách ở 11 nước, tạo ra nguồn thu bằng với trước đây ở 22 nước, còn trường hợp thất thu chỉ ghi nhận ở 1 nước. ở Việt nam, Thuế GTGT được nghiên cứu từ khi tiến hành cải cách thuế bước 1 (1990), áp dụng thử nghiệm năm 1993 ở 11 ngành (ngành đường, dệt... và xi măng). Thuế GTGT đã được ban thàng luật và thông qua tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá IX ngày 10/ 05/ 1997 và đến ngày 01/01/1999 thuế GTGT chính thức được áp dụng ở Việt Nam. Việc áp dụng loại thuế này ngoài mục đích từng bước hoà nhập với chính sách thuế của các nước trong khu vực và trên thế giới, còn vươn tới việc cải cách hệ thống thuế khoá thích hợp cho việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Khái niệm và đặc điểm của thuế GTGT
2.1. Khái niệm
Thuế GTGT là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ phát sinh trong qúa trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được nộp vào Ngân sách theo mức độ tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ.
2.2. Đặc điểm của thuế GTGT
Thuế GTGT có phạm vi thu thuế rất rộng, đối tượng phải nộp thuế là toàn bộ các cơ sở hoạt động sản xuất, kinh doanh kể cả gia công chế biến và các hoạt động dịch vụ có thu tiền, thuế GTGT được thu đối với các sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ trong nuớc, kể cả hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, một số hàng hoá và dịch vụ cũng có thể được miễn thuế GTGT. Các hàng hoá dịch vụ miễn thuế được qui định tuỳ thuộc vào mỗi nước trong từng thời kỳ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ một nước nào khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, đồng thời phải rà soát lại phạm vi và thuế suất của các chính sách thuế khác.
Các cở sở sản xuất, kinh doanh hàng, hoá dịch vụ thu thuế GTGT qua việc bán các hàng hoá, dịch vụ này. Tiền thuế ẩn trong giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ được các cơ sở sản xuất kinh doanh nộp vào Ngân sách Nhà nước thay cho người tiêu dùng. Thuế GTGT là loại thuế gián thu có tính chất điển hình và vì vậy, đây cũng là chính sách thuế tốt xét về mặt “trách nhiệm chính trị”.
Thuế GTGT không đánh vào đầu tư vì thuế nằm ngoài giá trị tài sản cố định và giá thành sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Người mua phải trả thêm tiền thuế GTGT và tiền thuế này sẽ được tách riêng để khấu trừ khi tính thuế GTGT phải nộp ở giai đoạn sau.
Thuế GTGT được tính dựa trên giá trị sản phẩm hàng hoá và dịch vụ chứ không căn cứ vào hình thái hiện vật, cũng như công dụng của chúng.
Một đặc điểm quan trọng của thuế GTGT là cho dù sản phẩm có trải qua bao nhiêu giai đoạn thì tổng số thuế phải nộp cũng không thay đổi. Đó chính là số thuế mà người tiêu dùng cuối cùng phải trả.
Tổng thuế GTGT phải nộp của 1 sản phẩm
=
Thuế suất
*
Giá mua của người tiêu dùng cuối cùng
Thuế GTGT ở mỗi khâu nhiều hay ít tuỳ thuộc vào GTGT ở khâu đó, vì vậy thuế GTGT không làm tăng giá đột biến khi sản phẩm trải qua nhiều giai đoạn sản xuất lưu thông, cung ứng dịch vụ nên không gây xáo trộn lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thuế GTGT là loại thuế mang tính tập trung cao. Xét về cơ bản, thuế GTGT không can thiệp sâu vào mục tiêu khuyến khích hay hạn chế sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ, tiêu dùng theo ngành nghề cụ thể. Nó không gây phức tạp trong việc xem xét từng mặt hàng, ngành nghề, có thuế suất chênh lệch nhau nhiều, không khuyến khích việc hội nhập doanh nghiệp theo chiều dọc để tránh thuế. Mục tiêu của thuế GTGT không phải để trực tiếp điều chỉnh sự chênh lệch về thu nhập hay tài sản như thuế thu nhập, thuế tài sản. Vì thế, thuế GTGT thường ít mức thuế suất, số đối tượng được miễn giảm rất hạn chế, đảm bảo tính đơn giản, rõ ràng và ít gây sự rối loạn hay méo mó.
GTGT của hàng hoá dịch vụ phát sinh là căn cứ để tính số thuế GTGT phải nộp. Điều quan trọng là phải xác định một cách đúng đắn phần GTGT thực sự phát sinh qua mỗi giai đoạn sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ đến tiêu dùng. Để thực hiện được điều đó, các cơ sở sản xuất kinh doanh cần phải áp dụng nghiêm ngặt chế độ sử dụng hoá đơn chứng từ. Các đối tượng nộp thuế cần có đầy đủ hoá đơn đầu ra vá hoá đơn đầu vào tương ứng.
Thuế suất thuế GTGT căn cứ vào loại hàng hoá dịch vụ chứ không phân biệt ngành nghề và giá trị sử dụng của hàng hoá dịch vụ.
3. Phạm vi áp dụng thuế GTGT
3.1. Đối tượng chịu thuế GTGT
Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT của nhà nước qui định đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam.
Hàng hoá chịu thuế GTGT bao gồm:
Hàng hoá, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Hàng hoá, dịch vụ được nhập khẩu để tiêu dung trong nước.
Hàng hoá, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng nội bộ.
Hàng hoá, dịch vụ được mua, bán dưới mọi hình thức bao gồm cả trao đổi bằng hiện vật (không thanh toán bằng tiền).
Trong luật thuế GTGT ở nước ta cũng qui định rõ danh mục 26 loại hàng hoá, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế GTGT. Những hàng hoá, dịch vụ này thường có một trong các tính chất sau:
+ Là sản phẩm của một số ngành đang còn khó khăn, cần khuyến khích tạo điều kiện phát triển như: sản xuất nông nghiệp, sản xuất muối, tưới tiêu nước phục vụ cho nông nghiệp, thiết bị máy móc nhập khẩu mà trong nước chưa sản xuất được, chuyển giao công nghệ... .
+ Các hàng hoá, dịch vụ thuộc các hoạt động không mang tính chất kinh doanh vì lợi nhuận, thuộc các hoạt động được ưu đãi vì các mục tiêu xã hội, nhân đạo: vũ khí, khí tài phục vụ an ninh, quốc phòng, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh, sửa chữa các công trình văn hoá nghệ thuật, công trình công cộng, một số hàng hoá xuất khẩu có tính chất viện trợ, quà tặng từ nước ngoài...
+ Một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu phục vụ nhu cầu đời sống sản xuất, cộng đồng, không đặt vấn đề điều tiết tiêu dùng như: dịch vụ y tế, văn hoá giáo dục, đào tạo, thông tin đại chúng, vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt...
+ Tổ chức cá nhân mua, bán, nhập khẩu hàng hoá, cung ứng dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT không được khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ này ở khâu không chịu thuế GTGT.
3.2. Đối tượng nộp thuế GTGT
Đối tượng nộp thuế GTGT theo quy định tại Điều 3 của Luật Thuế giá trị gia tăng là các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và các tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu thuế gía trị gia tăng (gọi chung là người nhập khẩu).
4. Căn cứ và phương pháp tính thuế GTGT
4.1. Căn cứ tính thuế GTGT
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất.
4.1.1.Giá tính thuế
Giá tính thuế GTGT đối với hàng hoá, dịch vụ theo qui định tại điều 7 của Luật thuế GTGT, cụ thể như sau:
Đối với hàng hoá, dịch vụ là giá bán chưa có thuế GTGT.
Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu.
Đối với hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, sử dụng nội bộ, biếu tặng là giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này.
Đối với hoạt động cho thuê tài sản là số tiền thuế thu được từng kỳ.
Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp là giá bán của hàng hoá, tính theo giá bán trả một lần, không tính theo số tiền trả từng kỳ.
Đối với hoạt động gia công hàng hoá là giá gia công chưa có thuế bao gồm: tiền công, tiền nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và các chi phí khác để gia công.
Đối với xây dựng, lắp đặt:
Đối với trường hợp xây dựng, lắp đặt có bao thầu nguyên vật liệu thì giá tính thuế bao gồm cả giá trị nguyên vật liệu.
Đối với trường hợp xây dựng, lắp đặt không bao thầu nguyên vật liệu thì giá tính thuế là giá trị xây dựng, lắp đặt không bao gồm giá trị nguyên vật liệu.
Trường hợp xây dựng, lắp đặt thực hiện thanh toán theo hạng mục công trình hoặc giá trị khối lượng xây dựng, lắp đặt hoàn thành bàn giao thì việc giá tính thuế theo giá trị hạng mục công trình hoặc giá trị khối lượng công việc hoàn thành bàn giao chưa có thuế GTGT.
Đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ hưởng tiền công hoặc tiền hoa hồng như đại lý mua, bán hàng hoá, đại lý tàu biển, dịch vụ môi giới, uỷ thác xuất, nhập khẩu hưởng hoa hồng, giá tính thuế là tiền công hoặc tiền hoa hồng được hưởng chưa trừ một khoản phí tổn nào mà cơ sở thu được từ việc thực hiện hoạt động này. Hàng hoá do đại lý bán ra vẫn phải tính thuế GTGT trên giá hàng bán ra.
Đối với hàng hoá dịch vụ có tính chất đặc thù dùng cho các chứng từ như tem bưu chính, vé cước vận tải, vé xổ số kiến thiết... ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì giá chưa có thuế được xác định như sau:
Giá thanh toán (tiền bán vé, bán tem...)
Giá chưa có thuế GTGT =
1+ (%) thuế suất của hàng hoá, dịch vụ đó
Trong đó giá thanh toán bao gồm cả các khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở kinh doanh được hưởng.
Đối với các trường hợp khác theo qui định của pháp luật.
4.1.2.Thuế suất
Luật thuế GTGT qui định 4 mức thuế suất khác nhau: 0%, 5%, 10%, 20% áp dụng đối với từng mặt hàng sản xuất hoặc nhập khẩu. Việc qui định các mức thuế khác nhau thể hiện chính sách điều tiết thu nhập và hướng dẫn tiêu dùng đối với hàng hoá, dịch vụ.
Thuế 0% được áp dụng đối với các hàng hoá sau:
Hàng hoá xuất khẩu bao gồm cả hàng gia công xuất khẩu, hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt xuất khẩu, sản phẩm phần mềm máy tính xuất khẩu.
Sửa chữa máy móc, phương tiện vận tải, cung ứng dịch vụ phần mềm cho nước ngoài, cho doanh nghiệp chế xuất, dịch vụ xuất khẩu lao động.
Một số trường hợp hàng hoá được coi như xuất khẩu áp dụng thuế suất thuế GTGT là 0%.
Những hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, phục vụ trực tiếp cho sản xuất và tiêu dùng được áp dụng thuế suất thấp là 5%.
Những hàng hoá, dịch vụ thông thường áp dụng mức thuế suất phổ thông là 10%.
Những hàng hoá, dịch vụ không thiết yếu, cần điều tiết có mức thuế suất cao là 20%.
4.2. Phương pháp tính thuế
4.2.1. Phương pháp khấu trừ
Đối tượng áp dụng: là các đơn vị tổ chức kinh doanh bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần, hợp tác xã và các đơn vị tổ chức kinh doanh khác trừ các đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT. Yêu cầu chung nhất của các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ là phải có đầy đủ các căn cứ, chứng từ hợp pháp để xác định số thuế GTGT được khấu trừ đầu vào.
Phương pháp tính:
Số thuế GTGT phải nộp
=
Thuế GTGT đầu ra
-
Thuế GTGT đầu vào
Trong đó:
Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế của hàng hoá dịch vụ chịu thuế bán ra * khối lượng hàng hoá bán ra * thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ tương ứng.
Thuế GTGT đầu vào là số thuế được ghi trên hoá đơn mua hàng của hàng hoá dịch vụ mà cơ sở đó mua vào hoặc chứng từ nộp thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu.
Các qui định khấu trừ thuế GTGT đầu vào: Các cơ sở sản xuất, kinh doanh chỉ được khấu trừ thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng vào sản xuất, kinh doanh các hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT. Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh thuộc diện chịu thuế GTGT mua vào tháng nào sẽ được kê khai khấu trừ toàn bộ số thuế phải nộp trong tháng đó, không phân biệt đã xuất dùng hay chưa xuất dùng.
Trong trường hợp cơ sở sản xuất chế biến mua hàng hoá là các mặt hàng nông, lâm, thuỷ, hải sản chưa qua chế biến của người sản xuất, phế liệu thu gom mà không có hoá đơn thuế GTGT và một số trường hợp đặc biệt khác, số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ sẽ tính theo một tỉ lệ phần trăm nhất định trên giá mua đầu vào. Tỉ lệ khấu trừ đối với từng loại hàng hoá do chính phủ qui định.
4.2.2. Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT
Đối tượng áp dụng: các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh là người Việt Nam; tổ chức cá nhân là người nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. Riêng đối với cơ sở kinh doanh mua, bán vàng bạc, đá quí, ngoại tệ vẫn là những đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng.
Phương pháp tính thuế:
Thuế GTGT phải nộp = Giá trị gia tăng của hàng hoá dịch vụ* thuế suất thuế GTGT tương ứng.
GTGT của hàng hoá dịch vụ chịu thuế được xác định như sau:
GTGT của hàng hoá, dịch vụ
=
Giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ bán ra
-
Giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ mua vào tương ứng
Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra là số tiền bên mua phải thanh toán cho bên bán, bao gồm cả thuế GTGT và các khoản phụ thu, phí thu thêm mà bên mua phải trả.
Giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ mua vào tương ứng là giá trị của hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở sản xuất, kinh doanh đã dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT bán ra trong kỳ.
Nếu cơ sở kinh doanh chỉ chứng minh đầy đủ được chứng từ, hoá đơn hợp lệ của hàng hoá, dịch vụ bán ra và xác định đúng được doanh thu trong kỳ, nhưng không có đủ chứng từ, hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ tương ứng thì GTGT được tính bằng doanh thu nhân với tỉ lệ GTGT tính trên doanh thu.
Các cơ sở sản xuất kinh doanh là đối tượng nộp thuế khoán, GTGT được tính bằng % GTGT tính trên doanh thu khoán.
Tỉ lệ % GTGT tính trên doanh thu sẽ do cơ quan thuế ấn định.
Nếu cơ sở sản xuất, kinh doanh không hạch toán được doanh số hàng hoá, dịch vụ bán ra thì doanh số này được xác định như sau:
Giá vốn hàng bán = tồn kho đầu kỳ + doanh số mua trong kỳ - tồn kho cuối
II. Công tác quản lý và tổ chức hạch toán kế toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp
1. Công tác quản lý thuế GTGT
1.1.Những điều kiện áp dụng thuế GTGT
Thuế GTGT là loại thuế tiến bộ. Sự tiến bộ và tính ưu việt của thuế GTGT được thể hiện ngay ở phương pháp tính và cơ chế vận hành của nó. Nghiên cứu về thuế GTGT cho chúng ta thấy cần phải có môi trường và điều kiện thuận lợi mới có thể áp dụng thành công luật thuế này. Những điều kiện đó bao gồm:
1.1.1. Kinh tế phát triển ổn định
Theo các nhà nghiên cứu kinh tế, thuế GTGT là sắc thuế của nền kinh tế phát triển vì ở đó giá cả hàng hoá thường xuyên ổn định. Nền kinh tế ổn định đảm bảo cho giá cả khâu sau thường cao hơn khâu trước, khi đó thuế đầu ra thường xuyên lớn hơn thuế đầu vào. Trường hợp phải hoàn thuế rất ít khi xảy ra.
1.1.2. Nhà nước phải thực sự quản lý được nền kinh tế bằng pháp luật
Thu thuế và quản lý thuế của Nhà nước đối với nền kinh tế là hai mặt của một quá trình thống nhất biện chứng với nhau. Trong trường hợp áp dụng thuế doanh thu, thuế được thu đứt ở từng khâu và từng cơ sở kinh doanh nên nếu như có thất thu thuế ở một cơ sở hay một khâu nào đó chỉ là hiện tượng riêng lẻ, độc lập tạm thời. Đối với thuế GTGT nếu Nhà nước không quản lý được nền kinh tế không những không thu được thuế, thu được ít mà có thể mất đi một phần thuế của các khâu trước đó do phải hoàn thuế.
1.1.3. Các cơ sở kinh doanh đều thực hiện việc ghi chép, sổ sách kế toán phải thống nhất và hoá đơn chứng từ phải được sử dụng trong mọi giao dịch
Việc tính toán theo dõi và quản lý của cơ quan thuế chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở chế độ kế toán thống nhất, hoá đơn chứng từ đầy đủ. Vì vậy, mặc dù nền kinh tế có tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp, nhưng các doanh nghiệp đều phải được bình đẳng trước pháp luật, hệ thống tài khoản phải thống nhất. Điều đó chỉ có thể thực hiện được trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
1.1.4. Quan hệ thanh toán trong nền kinh tế phải phát triển
Khi mà đại bộ phận các quan hệ thanh toán, giao dịch đều được thực hiện qua hệ thống Ngân hàng thì cũng có nghĩa là nhà nước thông qua ngân hàng kiểm tra, giám sát được tất cả các hoạt động của các doanh nghiệp. Cơ quan thuế nhờ đó cũng kiểm tra được việc kê khai, tính thuế và nộp thuế GTGT của các doanh nghiệp.
1.1.5. Trình độ của cán bộ quản lý, thu thuế
Cán bộ quản lý, thu thuế phải được đào tạo, đủ trình độ và năng lực, để thực hiện các qui trình, kĩ thuật, quản lý thu thuế đúng theo qui định của luật thuế và Nhà nước.
1.1.6. Các cơ sở kinh doanh phải có ý thức chấp hành pháp luật nói chung và tính tự giác trong kê khai nộp thuế nói riêng
1.1.7. Trình độ dân trí tương đối cao. Người dân phải hiểu về nghĩa vụ đóng thuế, biết ghi chép, đọc, viết, lưu giữ hoá đơn chứng từ. Đó là cơ sở của việc tính thuế.
1.1.8. Phải có sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật hiện đại trong quản lý thu thuế. Cụ thể là cần có hệ thống máy tính nối mạng giữa các cơ sở kinh doanh và các cơ quan thuế cũng như nội bộ ngành thuế.
1.2.Quản lý thu thuế GTGT
1.2.1. Đăng ký thuế
Tất cả các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo quy định của luật thuế GTGT, kể cả các đơn vị, chi nhánh trực thuộc cơ sở kinh doanh chính, đều phải đăng ký với cơ quan thuế nơi cơ sở kinh doanh về các nội dung và các chỉ tiêu liên quan theo hướng dẫn của cơ quan thuế.
Đối với các cơ sở mới thành lập, phải tiến hành đăng kí nộp thuế ngay sau khi cơ sở được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trường hợp cơ sở chưa được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhưng có hoạt động kinh doanh, cơ sở phải đăng ký nộp thuế trước khi kinh doanh.
Các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT, nếu thực hiện đầy đủ các điều kiện về chế độ hoá đơn, chứng từ, sổ sách kế toán và tự nguyện đăng kí áp dụng thuế theo phương pháp khấu trừ, sẽ được cơ quan thuế xem xét, nếu đủ điều kiện sẽ được chuyển sang tính thuế theo phương pháp khấu trừ.
1.2.2. Kê khai, nộp thuế và quyết toán thuế GTGT
Cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT phải kê khai thuế hàng tháng và nộp các tờ khai thuế GTGT cho cơ quan thuế trong 10 ngày của tháng tiếp theo.
Tổ chức cá nhân nước ngoài không có văn phòng hay trụ sở chính tại Việt Nam, nhưng có cung ứng dịch vụ , hàng hoá chịu thuế GTGT cho các đối tượng ở Việt Nam, thì các đối tượng này sẽ phải kê khai và nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài. Số thuế GTGT phải nộp được tính trên giá hàng hoa, dịch vụ trả cho phía nước ngoài.
Các cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu có nhập khẩu hàng hoá chịu thuế GTGT, phải kê khai và nộp tờ khai thuế GTGT cùng với kê khai thuế nhập khẩu theo từng chuyến hàng nhập khẩu cho cơ quan thu thuế nhập khẩu.
Cơ quan thuế sẽ thực hiện quyết toán thuế GTGT hàng năm đối với các đối tượng nộp thuế.
I.2.3. Hoàn thuế GTGT
1.2.3.1. Các trường hợp được xét hoàn thuế GTGT
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế trong các trường hợp sau:
- Nếu có số thuế đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế đầu ra trong thời gian 3 tháng liên tiếp trở lên.
- Cơ sở kinh doanh đầu tư mới đã đăng kí nộp thuế với cơ quan thuế nhưng chưa phát sinh thuế đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ một năm trở lên sẽ được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm, hoặc từng quí, nếu số thuế đầu vào lớn hơn.
- Cơ sở kinh doanh đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, nếu số thuế đầu vào của tài sản đầu tư đã tính khấu trừ sau 3 tháng mà số thuế tính khấu trừ vẫn còn lớn.
- Những cơ sở kinh doanh xuất khẩu mặt hàng theo thời vụ hoặc theo từng kỳ với số lượng hàng lớn, nếu phát sinh số thuế GTGT đầu vào của hàng hoá xuất khẩu lớn so với thuế đầu ra thì được xét hoàn thuế từng kỳ.
- Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản có số thuế GTGT nộp thừa.
- Các dự án sử dụng vốn ODA.
- Tổ chức ở Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại của tổ chức, cá nhân nước ngoài mua hàng hoá tại Việt Nam được hoàn lại số thuế GTGT đã trả ghi trên hoá đơn thuế GTGT khi mua hàng hoá để viện trợ.
- Cơ sở kinh doanh có quyết định xử lý hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo qui định của pháp luật.
1.2.3.2. Thủ tục hoàn thuế
Các tổ chức, cá nhân thuộc diện được xét hoàn thuế phải gửi văn bản đề nghị, kèm theo hồ sơ hoàn thuế tới cơ quan quản lý thu thuế cơ sở. Cơ quan thuế tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra xác định số thuế được hoàn và làm thủ tục hoàn thuế cho cơ sở.
Hồ sơ hoàn thuế GTGT:
- Hồ sơ hoàn thuế đối với cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ và các cơ sở mới thành lập, đầu tư tài sản mới đã đăng kí nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế nhưng chưa có phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế GTGT đầu ra gồm:
Công văn đề nghị hoàn thuế GTGT nêu rõ lý do hoàn thuế, số thuế đề nghị hoàn, thời gian hoàn.
Bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế đầu vào được khấu trừ, số thuế đã nộp (nếu có), số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra đề nghị hoàn lại.
Bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra trong kỳ liên quan đến việc xác định thuế GTGT đầu vào, đầu ra.
Trường hợp việc kê khai thuế hàng tháng đã đầy đủ và chính xác, phù hợp với bảng kê khai tổng hợp, cơ sở không phải nộp bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào bán ra các tháng đề nghị hoàn thuế. Trường hợp có điều chỉnh thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, thuế GTGT đầu ra của các tháng trong thời gian hoàn thuế thì cơ sở phải kê khai số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, thuế GTGT đầu ra phát sinh từng tháng trong thời gian hoàn thuế, số thuế điều chỉnh phải giải trình rõ lý do.
- Hồ sơ hoàn thuế đối với các cơ sở kinh doanh khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản có thuế GTGT nộp thừa gồm:
Công văn đề nghị hoàn thuế GTGT nộp thừa vào Ngân sách Nhà nước.
Quyết định sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản của cấp có thẩm quyền.
Quyết toán thuế GTGT đến thời điểm sáp nhập, giải thể.
- Hồ sơ hoàn thuế đối với các đơn vị có sử dụng vốn ODA gồm:
Công văn đề nghị hoàn thuế GTGT nêu rõ lý do hoàn thuế, số thuế đề nghị hoàn, thời gian hoàn.
Bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế đầu vào được khấu trừ, số thuế đã nộp (nếu có), số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra đề nghị hoàn lại.
Bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra trong kỳ liên quan đến việc xác định thuế GTGT đầu vào, đầu ra.
Quyết định đầu tư của cơ quan có thẩm quyền (bản sao có xác nhận của cơ sở).
Xác nhận bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền về dự án sử dụng nguồn vốn ODA không hoàn lại (hoặc sử dụng nguồn vốn ODA vay thuộc diện được ngân sách đầu tư không hoà trả) thuộc đối tượng được hoàn thuế GTGT (bản sao có xác nhận của cơ sở.
Hồ sơ hoàn thuế đối với các tổ chức ở Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại của tổ chức, cá nhân nước ngoài để mua hàng hoá tại Việt Nam gồm:
Công văn đề nghị hoàn thuế GTGT nêu rõ lý do hoàn thuế, số thuế đề nghị hoàn, thời gian hoàn.
Bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế đầu vào được khấu trừ, số thuế đã nộp (nếu có), số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra đề nghị hoàn lại.
Bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra trong kỳ liên quan đến việc xác định thuế GTGT đầu vào, đầu ra.
Bản sao quyết định phê duyệt các khoản viện trợ của cấp có thẩm quyền.
Văn bản xác nhận của Ban quản lý tiếp nhận viện rợ Bộ Tài chính về khoản tiền viện trợ của tổ chức phi Chính phủ nước ngoài, trong đó nêu rõ tên của tổ chức viện trợ, giá trị khoản viện trợ, cơ quan tiếp nhận, quản lý tiền viện trợ (bản sao có xác nhận của cơ sở).
2. Phương pháp hạch toán kế toán thuế GTGT
2.1.Chứng từ - hoá đơn
2.1.1. Hoá đơn GTGT
Được sử dụng cho các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Khi lập hoá đơn này, cơ sở kinh doanh phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố qui định và ghi rõ:
+ Giá bán (chưa có thuế GTGT)
+ Thuế suất thuế GTGT
+ Tổng giá thanh toán (đã có thuế GTGT)
Trường hợp trên hoá đơn không ghi tách riêng giá bán chưa có thuế và thuế GTGT, mà chỉ ghi chung giá thanh toán (trừ những chứng từ đặc thù) thì đơn vị mua hàng hóa, dịch vụ cũng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
2.1.2. Hoá đơn bán hàng
Sử dụng khi cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp. Giá bán hàng hoá, dịch vụ ghi trên hoá đơn là giá thanh toán.
2.1.3. Hoá đơn tự in - chứng từ đặc thù
Chỉ được sử dụng sau khi Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản. Hoá đơn tự in phải phản ánh đầy đủ các nội dung thông tin theo qui định. Các hàng hoá dịch vụ đặc thù như bưu điện, hàng không... có sử dụng chứng từ đặc thù như tem, vé... giá ghi trên tem, vé là giá đã có thuế GTGT.
2.1.4. Bảng kê bán lẻ hàng hoá, dịch vụ
Sử dụng trong trường hợp cơ sở kinh doanh trực tiếp bán lẻ hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện phải lập hoá đơn bán hàng.
2.1.5. Bảng kê thu mua hàng nông sản, lâm sản, thuỷ sản của người trực tiếp sản xuất
Sử dụng đối với các cơ sở sản xuất, chế biến mua hàng nông, lâm, thuỷ sản chưa qua sơ chế của người trực tiếp sản xuất bán ra không có hoá đơn theo chế độ qui định.
2.2. Tài khoản sử dụng
Để theo dõi tình hình thanh toán các khoản với Ngân sách Nhà nước về các khoản thuế, phí, lệ phí… kế toán sử dụng tài khoản 333 “ Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước”. Tài khoản này được mở chi tiết theo tình hình thanh toán từng khoản nghĩa vụ (phải nộp, đã nộp, còn phải nộp, nộp thừa). Mọi khoản thuế, phí, lệ phí theo qui định được tính bằng tiền Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp nộp thuế bằng ngoại tệ, phải qui đổi ra tiền Việt Nam theo tỷ giá thực tế để ghi sổ.
* Tài khoản 333 có kết cấu như sau:
+ Bên Nợ.
- Các khoản đã nộp Ngân sách Nhà nước.
- Các khoản trợ cấp, trợ giá được Ngân sách duyệt.
- Các nghiệp vụ khác làm giảm số phải nộp ngân sách .
+ Bên Có:
- Các khoản phải nộp Ngân sách Nhà nước.
- Các khoản trợ cấp, trợ giá đã nhận.
+ Dư Có: Các khoản còn phải nộp Ngân sách Nhà nước.
+ Dư Nợ (nếu có): Số nộp thừa cho Ngân sách hoặc các khoản trợ cấp, trợ giá được Ngân sách duyệt nhưng chưa nhận.
* Tài khoản 333 được chi tiết thành các tiểu khoản tương ứng:
-3331: Thuế GTGT
33311: Thuế GTGT đầu ra.
33312: Thuế GTGT của hàng nhập khẩu.
-3332: Thuế tiêu thụ đặc biệt.
-3333: Thuế xuất, nhập khẩu.
-3334: Thuế thu nhập doanh nghiệp.
-3335: Thu trên vốn.
-3336: Thuế tài nguyên.
-3337: Thuế nhà, đất, tiền thuê đất.
-3338: Các loại thuế khác.
-3339: Phí, lệ phí và các khoản phải nộp khác.
Bên cạnh tài khoản 333, kế toán còn sử dụng tài khoản 133 “ Thuế GTGT được khấu trừ”. Tài khoản này chỉ sử dụng đối với các doanh nghiệp thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Nội dung phản ánh của tài khoản 133 như sau:
+ Bên Nợ: Tập hợp số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ thực tế phát sinh.
+ Bên Có:
- Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ trong kỳ.
- Các nghiệp vụ khác làm giảm thuế GTGT đầu vào (số không được khấu trừ, số đã được hoàn lại, số thuế của hàng mua trả lại...)
+ Dư Nợ: phản ánh số thuế GTGT đầu vào còn được khấu trừ hay._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35354.doc