MỤC LỤC
Ơ
LỜI NÓI ĐẦU
Tài sản cố định (TSCĐ) là cơ sở vật chất không thể thiếu trong mỗi doanh nghiệp, kế toán TSCĐ là một phần hành đóng vai trò quan trọng trong các phần hành kế toán. Trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, do chịu tác động của nhiều nguyên nhân nên TSCĐ bị hao mòn dần. Do vậy, để thu hồi lại giá trị của TSCĐ do sự hao mòn trên cần phải tiến hành trích khấu hao. Tuy nhiên, do tính chất TSCĐ khác nhau, do việc hạch toán kế toán TSCĐ trong mỗi doanh nghiệp
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1669 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Bàn về chế độ hạch toán khấu hao tài sản cố định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là khác nhau, do đó mỗi doanh nghiệp sử dụng một phương pháp tính khấu hao thích hợp tùy thuộc vào đặc điểm của doanh nghiệp mình. Khấu hao TSCĐ là một khoản chi phí cần thiết trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tính đúng, đủ số khấu hao TSCĐ vào chi phí kinh doanh tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có khả năng bảo toàn vốn, đổi mới máy móc thiết bị theo hướng áp dụng công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại phù hợp với yêu cầu kinh doanh và sự phát triển của nền kinh tế.
Qua đề tài “Bàn về chế độ hạch toán khấu hao tài sản cố định” em xin đưa ra một số ý kiến và giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ kế toán hiện hành.
Nội dung của đề án môn học gồm 2 phần:
Phần1: Chế độ kế toán hiện hành về khấu hao tài sản cố định
Phần 2: Hoàn thiện chế độ kế toán khấu hao tài sản cố định trong doanh nghiệp.
Mặc dù đã rất cố gắng trong việc nghiên cứu, tìm hiểu đề tài nhưng do còn nhiều hạn chế nên đề án của em không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong thầy và các bạn góp ý kiến để đề án của em được hoàn thiện tốt hơn.
Phần 1: CHẾ ĐỘ KẾ TOÁN HIỆN HÀNH VỀ KHẤU HAO
TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHẤU HAO TÁI SẢN CỐ ĐỊNH
1.1. Khái niệm về hao mòn và khấu hao tài sản cố định:
1.1.1. Hao mòn tài sản cố định.
Hao mòn TSCĐ là một phạm trù mang tính khách quan, muốn xác định giá trị hao mòn của một TSCĐ nào đó thì cơ sở có tính khách quan nhất là thông qua giá cả thị trường, tức là phải so sánh giá cả của tài sản cũ với TSCĐ mới cùng loại. Tuy nhiên, TSCĐ được mua sắm là để sử dụng cho quá trình sản xuất, kinh doanh , do vậy các doanh nghiệp không thể xác định giá trị hao mòn TSCĐ theo phương pháp trên. Nhận thức được sự hao mòn TSCĐ có tính khách quan nên khi sử dụng TSCĐ , các doanh nghiệp phải tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá của TSCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh trong từng kì hạch toán.
Trong quá trình sản xuất, tài sản cố định của doanh nghiệp bị hao mòn hữu hình và vô hình và dịch chuyển dần giá trị của nó vào sản phẩm hoàn thành.
Khấu hao: là sự phân bổ một cách có hệ thống giá trị phải khấu hao của TSCĐ hữu hình trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của tài sản đó.
Giá trị phải khấu hao: là nguyên giá của TSCĐ hữu hình ghi trên báo cáo tài chính, trừ giá trị thanh lý ước tính của tài sản đó.
Thời gian sử dụng hữu ích: là thời gian mà TSCĐ phát huy được tác dụng cho sản xuất kinh doanh được tính bằng:
Thời gian mà doanh nghiệp dự tính sử dụng TSCĐ hữu hình, hoặc:
Số lượng sản phẩm, hoặc các đơn vị tính tương tự mà doanh nghiệp dự tính thu được từ việc sử dụng tài sản.
Hao mòn hữu hình: là sự giảm dần về giá trị sử dụng do tác động về mặt lý, hoá, khi sử dụng tài sản cố định bị hao mòn, do ma sát, va chạm...Mức độ hao mòn hữu hình tỷ lệ thuận với thời gian và cường độ sử dụng TSCĐ.
Hao mòn vô hình: là sự giảm dần về giá trị của tài sản. Yếu tố tác động đến hao mòn này là sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Bởi sau một thời gian máy móc cũ được thay thế bằng một máy móc thiết bị mới với nhiều ưu điểm về tính năng kỹ thuật, công suất cao hơn, nhưng chi phí về giá thành sản phẩm mới có thể thấp hơn hoặc bằng so với máy cũ. Như vậy hao mòn vô hình không phụ thuộc vào việc sử dụng tài sản lâu hay mau, cường độ nhanh hay chậm, mà phụ thuộc vào tốc độ của sự tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Như vậy, hao mòn tài sản cố định là sự giảm dần giá trị và giá trị sử dụng của tài sản do tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, do bào mòn của tự nhiên, do tiến bộ của khoa học kỹ thuật...trong quá trình hoạt động của TSCĐ. Lợi ích kinh tế do TSCĐ hữu hình đem lại được doanh nghiệp khai thác dần bằng cách sử dụng những tài sản đó. Tuy nhiên, các nhân tố khác như sự lạc hậu về kỹ thuật, sự hao mòn về tài sản do chúng không được sử dụng thường dẫn đến sự suy giảm về lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp ước tính các tài sản đó sẽ đem lại. Do đó, khi xác đinh thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ hữu hình phải xem xét các yếu tố sau:
Mức độ sử dụng ước tính của doanh nghiệp đối với tài sản đó. Mức độ sử dụng được đánh giá thông qua công suất hoặc sản lượng dự tính;
Mức độ hao mòn phụ thuộc vào các nhân tố liên quan trong quá trình sử dụng tài sản như: số ca làm việc, việc sửa chữa và bảo dưỡng của doanh nghiệp đối với tài sản, cũng như việc bảo quản chúng trong thời kỳ không hoạt động;
Hao mòn vô hình phát sinh do việc thay đổi hay cải tiến dây truyền công nghệ hay do sự thay đổi nhu cầu của thị trường về sản phẩm hoặc dịch vụ do tài sản đó sản xuất ra;
Giới hạn có tính pháp lý trong việc sử dụng tài sản, như ngày hết hạn hợp đồng của tài sản thuê tài chính.
1.1.2. Khấu hao tài sản cố định.
Để tính toán hao mòn của TSCĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm thu hồi lại giá trị mà TSCĐ đã dịch chuyển vào sản phẩm, phần giá trị TSCĐ bị hao mòn khi sử dụng được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm mới được tạo ra được gọi là khấu hao TSCĐ. Sau khi sản phẩm được tiêu thụ, số tiền khấu hao được trích để bù đắp lại dần dần và tích luỹ thành quỹ khấu hao TSCĐ. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tuỳ theo mức độ hao mòn tài sản mà người ta vừa phải đổi mới toàn bộ vừa phải đổi mới từng bộ phận.
Khấu hao TSCĐ thông thường đựơc chia làm hai loại: Khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn. Quỹ khấu hao cũng được chia thành quỹ khấu hao cơ bản và quỹ khấu hao sửa chữa lớn.
Khấu hao TSCĐ là việc tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá của TSCĐ vào chi phí kinh doanh trong thời gian sử dụng của tài sản cố định. Qua đó việc hao mòn TSCĐ mang tính tất yếu trong quá trình tham gia vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, còn việc khấu hao TSCĐ do nhận thức của con người qua công việc tính toán sự hao mòn đó theo các phương pháp sao cho số tiền khấu hao phù hợp với sự hao mòn của tài sản cố định, tức là khi TSCĐ đã hết hạn sử dụng thì số tiền trích khấu hao đủ để tái tạo TSCĐ đó. Trong thực tế, việc tính toán của con người thường mang tính chủ quan, do đó thường xảy ra tình trạng là số tiền khấu hao không tương thích với giá trị hao mòn của TSCĐ, nên dẫn đến việc có những TSCĐ đã hết thời gian sử dụng nhưng số tiền trích khấu hao không đủ với nguyên giá và ngược lại, số tiền khấu hao đã đủ theo nguyên giá nhưng TSCĐ vẫn còn tiếp tục được sử dụng trong một thời gian nữa.
Việc tính toán khấu hao TSCĐ là một yếu tố chi phí sản xuất cấu thành vào giá thành sản phẩm. Nên có nhiều phương pháp tính khấu hao để thực hiện ý đồ kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy, mục đích của việc trích khấu hao TSCĐ là giúp cho các doanh nghiệp tính đúng, tính đủ chi phí sử dụng TSCĐ và thu hồi vốn đầu tư để tái tạo TSCĐ khi chúng bị hư hỏng hoặc thời gian kiểm soát hết hiệu lực. Khấu hao TSCĐ là một hoạt động có tính chủ quan, là con số giả định về sự hao mòn của TSCĐ trong quá trình sử dụng. Về phương diện kế toán, giá trị hao mòn của TSCĐ được tính bằng số khấu hao lũy kế đến thời điểm xác định.
1.2. Vai trò của khấu hao
Khấu hao TSCĐ phản ánh phần giá trị đã hao mòn của TSCĐ. Việc tính toán số lập trích qũy khấu hao có ý nghĩa rất quan trọng . Trong thực tế có những TSCĐ chỉ trích khấu hao cơ bản, có những TSCĐ chỉ trích khấu hao sửa chữa lớn. Bởi vậy việc tính toán xác định số khấu hao sẽ làm cho việc tính toán giá thành, chi phí lưu thông và tích lũy tiền tệ ở các doanh nghiệp được chính xác.
Khấu hao cho phép doanh nghiệp phản ánh được giá trị thực của tài sản (giá trị còn lại).
Khấu hao sẽ làm giá trị của tài sản nhưng lại làm tăng giá trị của những tài sản tương ứng như tiền…điều này cho phép doanh nghiệp đầu tư mua sắm TSCĐ mới. Quỹ khấu hao TSCĐ được dùng làm nguồn vốn để tái sản xuất TSCĐ. Do vậy, việc tính toán số khấu hao còn là một đảm bảo để tiến hành tái sản xuất giản đơn từng bộ phận và toàn bộ TSCĐ, không những thế trong điều kiện kỹ thuật sản xuất và năng suất xã hội được nâng cao, lao động hao phí để sản xuất các loại TSCĐ có thể giảm bớt, số tiền khấu hao được tích lũy lại trong nhiều trường hợp có thể dùng để mua sắm TSCĐ nhiều hơn hoặc mua TSCĐ có công suất cao hơn TSCĐ cũ. Do đó, tính toán chính xác số tiền trích khấu hao không những chỉ có tác động đảm bảo tái sản xuất giản đơn TSCĐ mà còn có tác dụng đảm bảo tái sản xuất mở rộng TSCĐ.
Khấu hao TSCĐ là yếu tố cấu thành chi phí sản xuất chung, do vậy nó ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản xuất sản phẩm. Hạch toán đúng chi phí khấu hao sẽ giúp doanh nghiệp tính toán đúng giá thành sản phẩm, đảm bảo nguyện tắc giữa doanh thu và chi phí.
Khấu hao là một khoản chi phí, được trừ vào lợi nhuận trước thuế để tính ra số lợi nhuận sau thuế, do đó khấu hao TSCĐ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.
Do vậy, hạch toán khấu hao TSCĐ là công tác cần được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm nhằm tăng cường công tác quản lý, sử dụng TSCĐ có hiệu quả, trích khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp đảm bảo hạch toán đúng chi phí sử dụng TSCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh. Trích khấu hao TSCĐ phù hợp sẽ giúp doanh nghiệp có những kế hoạch trong việc sửa chữa, nâng cấp, thay thế TSCĐ khi có hư hỏng, lạc hậu, giúp doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới máy móc thiết bị kĩ thuật hiện đại phù hợp với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và nhu cầu của thị trường.
2. Phương pháp hạch toán.
2.1. Tài khoản sử dụng
Tài khoản 214 – Hao mòn tài sản cố định.
Bên Nợ:
Giá trị hao mòn tài sản cố định, bất động sản đầu tư giảm do TSCĐ, bất động sản đầu tư thanh lý, nhượng bán, điều động cho đơn vị khác, góp vốn liên doanh...
Bên Có:
Giá trị hao mòn TSCĐ, bất động sản đầu tư tăng do trích khấu hao TSCĐ, bất động sản đầu tư.
Số dư bên Có:
Giá trị hao mòn luỹ kế của TSCĐ, bất động sản đầu tư hiện có ở đơn vị.
Tài khoản 214 – Hao mòn tài sản cố định, có 4 tài khoản cấp 2:
Tài khoản 2141 – Hao mòn tái sản cố định hữu hình: phản ánh giá trị hao mòn của TSCĐ hữu hình trong quá trình sử dụng do trích khấu hao TSCĐ và những khoản tăng, giảm hao mòn khác của TSCĐ hữu hình.
Tài khoản 2142 – Hao mòn tài sản cố định thuê tài chính: phản ánh giá trị hao mòn của TSCĐ thuê tài chính trong quá trình sử dụng do trích khấu hao TSCĐ thuê tài chính và những khoản tăng, giảm hao mòn khác của TSCĐ thuê tài chính.
Tài khoản 2143 – Hao mòn tài sản cố định vô hình: phản ánh giá trị hao mòn của TSCĐ vô hình trong quá trình sử dụng do trích khấu hao TSCĐ vô hình và những khoản làm tăng, giảm hao mòn khác của TSCĐ vô hình.
Tài khoản 2147 – Hao mòn bất động sản đầu tư: tài khoản này phản ánh giá trị hao mòn bất động sản đầu tư trong quá trình nắm giữ chờ tăng giá, cho thuê hoạt động các bất động sản đầu tư của doanh nghiệp.
2.2. Phương pháp hạch toán kế toán
Theo chế độ kế toán doanh nghiệp, ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ- BTC, ngày 20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, quy định:
- Định kỳ tính, trích khấu hao TSCĐ vào chi phí sản xuất, kinh doanh, chi phí khác:
Nợ TK 623 – Chi phí sử dụng máy thi công
Nợ TK 627 – Chi phí sản xuất chung
Nợ TK 641 – Chi phí bán hàng
Nợ TK 642 – Chi phí quản lý doanh nghiệp
Nợ TK 811 – Chi phí khác
Có TK 214 – Hao mòn tài sản cố định
Tài sản cố định đã sử dụng, nhận được do điều chuyển nội bộ Tổng công ty, công ty:
Nợ TK 211 – Tài sản cố định hữu hình (Nguyên giá)
Có TK 411 – Nguồn vốn kinh doanh (Giá trị còn lại)
Có TK 214 – Hao mòn tài sản cố định (Giá trị hao mòn)
Đối với TSCĐ dùng cho hoạt động sự nghiệp,dự án, khi tính hao mòn vào thời điểm cuối năm tài chính:
Nợ TK 466 - Nguồn kinh phí đã hình thành tài sản cố định
Có TK 214 – Hao mòn tài sản cố định
Đối với TSCĐ dùng cho hoạt động văn hoá, phúc lợi, khi tính hao mòn vào thời điểm cuối năm tài chính:
Nợ TK 4313 - Quỹ phúc lợi đã hình thành tài sản cố định
Có TK 214 – Hao mòn tài sản cố định.
Định kỳ tính, trích khấu hao bất động sản đầu tư đang nắm giữ chờ tăng giá, đang cho thuê hoạt động:
Nợ TK 632 – Giá vốn hàng bán
Có TK 214 (2147) – Hao mòn tài sản cố đinh.
Trường hợp giảm TSCĐ, bất động sản đầu tư thì đồng thời với việc ghi giảm nguyên giá TSCĐ phải ghi giảm giá trị đã hao mòn của TSCĐ, bất động sản đầu tư.
Trường hợp vào cuối năm tài chính doanh nghiệp xem xét lại thời gian trích khấu hao và phương pháp khấu hao TSCĐ, nếu có sự thay đổi mức khấu hao cần phải điều chỉnh số khấu hao ghi trên sổ kế toán:
+ Nếu do thay đổi phương pháp khấu hao và thời gian trích khấu hao TSCĐ, mà mức khấu hao TSCĐ định tăng lên so với số đã trích trong năm, số chênh lệch khấu hao tăng:
Nợ TK 623, 627, 641, 642 (Số chênh lệch khấu hao tăng )
Có TK 214 – Hao mòn tài sản cố định.
+ Nếu do thay đổi phương pháp khấu hao và thời gian trích khấu hao TSCĐ, mà mức khấu hao TSCĐ giảm so với số đã trích trong năm, số chênh lệch khấu hao giảm, ghi:
Nợ TK 214 – Hao mòn tài sản cố định
Có TK 623, 627, 641, 642 (Số chênh lệch khấu hao giảm).
3. Các phương pháp tính khấu hao.
Giá trị phải khấu hao của TSCĐ được phân bổ một cách có hệ thống trong thời gian sử dụng hữu ích của chúng. Phương pháp khấu hao phải phù hợp với lợi ích kinh tế mà tài sản đem lại cho doanh nghiệp. Số khấu hao của từng kỳ được hạch toán vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ. Việc lựa chọn phương pháp tính khấu hao thích hợp với từng doanh nghiệp là biện pháp quan trọng để khắc phục hao mòn vô hình còn là căn cứ quan trọng để xác định thời gian hoàn vốn đầu tư TSCĐ, đồng thời cũng là căn cứ để lựa chọn phương án đầu tư thích hợp của mỗi doanh nghiệp. Bởi vậy, công việc lựa chọn phương pháp tính khấu hao cũng là một nội dung quan trọng của công tác quản lý vốn cố định và vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong từng doanh nghiệp. TSCĐ của doanh nghiệp có nhiều thứ, nhiều loại với đặc tính hao mòn khác nhau, cho nên các doanh nghiệp phải xác định phương pháp tính khấu hao phù hợp với từng TSCĐ. Tuy nhiên, các phương pháp tính khấu hao khác nhau sẽ cho những kết quả khác nhau về chi phí khấu hao TSCĐ và qua đó ảnh hưởng đến thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Do vậy, việc vận dụng phương pháp khấu hao TSCĐ phải nằm trong khuôn khổ quy định của nhà nước. Theo chế độ tài chính hiện hành doanh nghiệp có thể tính khấu hao theo 3 cách: phương pháp khấu hao theo đường thẳng; phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh; phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản xuất.
3.1. Phương pháp khấu hao theo đường thẳng:
Đối với những TSCĐ được mua sắm hoặc đầu tư mới thì số năm sử dụng dự kiến phải nằm trong khoảng thời gian sử dụng tối đa và tối thiểu do nhà nước quy định. Tuy nhiên, để xác định số năm sử dụng dự kiến cho từng TSCĐ cụ thể, doanh nghiệp phải dựa vào những căn cứ chủ yếu:
+ Tuổi thọ kỹ thuật của TSCĐ theo thiết kế
+ Hiện trạng TSCĐ
+ Tuổi thọ kinh tế của TSCĐ: được quyết định bởi thời gian kiểm soát TSCĐ hoặc yếu tố hao mòn vô hình do sự tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Xác định mức khấu hao bình quân năm của tài sản cố định:
Trong đó:
Nguyên giá tài sản cố định: là toàn bộ các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được TSCĐ tính đến thời điểm đưa tài sản đó vào trạng thái sẵn sàng sử dụng.
Số năm sử dụng:
+ Đối với TSCĐ hữu hình thì việc lựa chọn thời gian sử dụng tối đa, tối thiểu trong khung thời gian do Bộ Tài chính quy định cho từng loại tài sản cố định theo Quyết định 206/2003/QĐ-BTC ban hành ngày 12/12/2003.
+Đối với tài sản cố định vô hình: doanh nghiệp tự xác định nhưng thời gian tối đa không quá 20 năm.
Trong đó:
Ưu điểm:
Cách tính này đơn giản, dễ làm với từng loại tài sản cố định. Mức khấu hao được phân bổ vào giá thành hoặc chi phí lưu thông một cách đều đặn, ít gây biến động lớn về chi phí giữa các kì, ổn định công việc tính khấu hao của doanh nghiệp, thuận lợi, dễ dàng cho công tác tính toán, kiểm tra.
Nhược điểm:
Do mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao hàng năm được trích một cách đồng đều nên khả năng thu hồi vốn chậm không phản ánh đúng lượng hao mòn thực tế nhất là hao mòn vô hình do sự phát triển của khoa học kĩ thuật, doanh nghiệp không có điều kiện để nhanh chóng đầu tư trang thiết bị mới .Hiện nay đây là phương pháp được dùng phổ biến trong các doanh nghiệp ở Việt Nam.
3.2. Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh.
Phương pháp này được áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khả năng đòi hỏi phải thay đổi , phát triển nhanh và TSCĐ phải thỏa mãn đồng thời các điều kiện:
+ Là TSCĐ đầu tư mới
+ Là loại máy móc, thiết bị, dụng cụ, làm việc, đo lường. thí nghiệm.
Trong đó:
Hệ số điều chỉnh xác định theo thời gian sử dụng của TSCĐ quy định tại bảng:
Thời gian sử dụng của TSCĐ
Hệ số điều chỉnh
Đến 4 năm ( t 4 năm)
1,5
Trên 4 đến 6 năm ( 4 t6năm)
2,0
Trên 6 năm ( t > 6 năm)
2,5
Những năm cuối, nếu mức khao năm tính theo phương pháp số dư giảm dần có điều chỉnh bằng hoặc thấp hơn giá trị còn lại của những năm cuối chia cho số năm sử dụng còn lại của những năm cuối thì bắt đầu từ năm đó mức khấu hao năm được tính bằng giá trị còn lại chia cho số năm sử dụng còn lại.
Ưu điểm:
Phương pháp khấu hao nhanh so với phương pháp đường thẳng, khấu hao nhanh sẽ giúp nhà đầu tư thu hồi vốn nhanh hơn, giảm bớt được tổn thất do hao mòn vô hình. Cho nên tránh được sự lạm phát làm mất giá đồng tiền theo thời gian, giảm thuế những năm đầu làm cho thu nhập để lại nhiều hơn, luồng tiền sẽ được doanh nghiệp đầu tư sang việc khác. Đây là một biện pháp hoãn thuế trong những năm đầu của doanh nghiệp.
Phương pháp khấu hao nhanh phản ánh chính xác hơn mức hao mòn TSCĐ vào giá trị sản phẩm. Phương pháp này đặc biệt thích hợp với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, cần nhanh chóng đổi mới máy móc thiết bị để theo kịp sự phát triển của khoa học kĩ thuật và đòi hỏi ngày càng cao của thị trường.
Nhược điểm:
Có thể gây nên sự đột biến về giá thành sản phẩm trong những năm đầu do chi phí khấu hao lớn, sẽ bất lợi trong cạnh tranh. Do vậy đối với những doanh nghiệp kinh doanh chưa ổn định, chưa có lãi thì không nên áp dụng các phương pháp khấu hao nhanh.
3.3. Phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản xuất.
Tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu hao theo phương pháp này là các loại máy móc, thiết bị thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:
Trực tiếp liên quan tới việc sản xuất sản phẩm
Xác định được tổng số lượng, khố lượng sản phẩm sản xuất theo công suất thiết kế của tài sản cố định
Công suất sử dụng thực tế bình quân tháng trong năm tài chính không thấp hơn 50% công suất thiết kế
Xác định mức trích khấu hao trong tháng theo công thức:
Trong đó:
Mức khấu hao năm = tổng mức khấu hao đã trích của 12 tháng trong năm
Hoặc:
Ưu điểm:
Phương pháp này phản ánh được đúng bản chất của chi phí, đồng thời giúp doanh nghiệp phân bổ được chi phí khấu hao lên mỗi sản phẩm tương đối đồng đều, cho phép doanh nghiệp tính chi phí khấu hao nhiều kì sản xuất vào sản phẩm, phản ánh được bản chất kỳ nào hoạt động nhiều thì chi phí nhiều và ngược lại.
Nhược điểm:
Doanh nghiệp rất khó xác định mức độ phục vụ của các TSCĐ. Trong các kì có nhiều biến động khác nhau về sản lượng, mức sản lượng để tính nên có thể khác biệt rất lớn so với mức sản lượng thực tế, từ đó rất khó xác định một mức khấu hao TSCĐ phân bổ cho từng kỳ một cách phù hợp.
Phần 2. HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ KẾ TOÁN KHẤU HAO TÀI SẢN CỐ ĐỊNH TRONG DOANH NGHIỆP.
1. Nhận xét, đánh giá về chế dộ kế toán khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp hiện nay
1.1. Về mặt chế độ kế toán khấu hao TSCĐ
- Theo quy định tại điểm 1 mục III phần B Thông tư số 128/2003/TT-BTC, ngày 22/12/2003 của Bộ tài chính hướng dẫn về thuế thu nhập doanh nghiệp thì: Mức trích khấu hao TSCĐ được hạch toán vào chi phí hợp lý theo quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính về chế độ quản lý, sử dụng và khấu hao tài sản cố định. Theo điều 10, mục III Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ ban hành kèm theo quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng Bộ tài chính thì: Đối với TSCĐ còn mới, chưa qua sử dụng, doanh nghiệp phải căn cứ vào khung thời gian sử dụng quy định tại phụ lục 1 ban hành theo quyết định 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng Bộ tài chính để xác định thời gian sử dụng của TSCĐ. Trường hợp doanh nghiệp muốn xác định thời gian sử dụng của TSCĐ khác với khung thời gian sử dụng quy định tại phụ lục 1 kèm theo quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng Bộ tài chính, doanh nghiệp phải giải trình rõ các căn cứ để xác định thời gian sử dụng của TSCĐ đó để Bộ tài chính xem xét, quyết định
Cũng theo quy định tại thông tư 128/2003/TT-BTC và Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC thì cơ sở kinh doanh áp dụng phương pháp khấu hao theo đường thẳng được khấu hao nhanh nhưng tối đa không quá 2 lần mức khấu hao theo phương pháp đường thẳng để nhanh chóng đổi mới công nghệ. TSCĐ đó phải là máy móc, thiết bị; dụng cụ đo lường, thì nghiệm; thiết bị và phương tiện vận tải; dụng cụ quản lý; súc vật, vườn cây lâu năm, khi thực hiện khấu hao nhanh cơ sở kinh doanh phải đảm bảo có lãi.
Như vậy, thực chất khấu hao nhanh cũng đồng nghĩa với việc xác định thời gian sử dụng của TSCĐ khác với khung thời gian sử dụng quy định tại phụ lục 1 ban hành theo quyết định số 206/2003/QĐ-BTC , nhưng nếu doanh nghiệp muốn xác định thời gian sử dụng của TSCĐ khác với khung thời gian được quy định thì doanh nghiệp phải giải trình rõ các căn cứ xác định thời gian sử dụng của TSCĐ đó để Bộ tài chính xem xét, quyết định.
- Hiện nay cùng một lúc có hai quy định về chế độ quản lý TSCĐ vốn nhà nước và TSCĐ của doanh nghiệp khác nói chung. Một là thông tư số 33/2005/TT-BTC của Bộ tài chính hướng dẫn một số điều tại quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác; hai là chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ. Áp dụng hai quy định trên nảy sinh những vấn đề:
+ Nếu TSCĐ thuộc doanh nghiệp khác ngoài nhà nước chỉ có thể được trích khấu hao và tính vào chi phí trong kì khi trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh thì tất cả TSCĐ nhà nước đều phải trích khấu hao. Trong đó khấu hao TSCĐ dùng trong sản xuất kinh doanh hạch toán vào chi phí kinh doanh; khấu hao TSCĐ không dùng, chưa dùng, chờ thanh lý hạch toán vào chi phí khác (Mục 1, phần B, chương II, thông tư 33/2005/TT-BTC) nếu là tài sản thuộc 100% vồn nhà nước thì đã rõ, vấn đề là nếu TSCĐ nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác thì việc quản lý cũng như hạch toán phức tạp hơn bởi đòi hỏi phải có sự phân biệt giữa các loại tài sản khác nhau tại doanh nghiệp. Trong tế điều này dễ gây tâm lý không bình đẳng trong việc quản lý TSCĐ trong các doanh nghiệp.
+TSCĐ trong các doanh nghiệp phải chịu mức khống chế về tỷ lệ khấu hao nhanh là không quá 2 lần so với mức khấu hao bình thường nếu áp dụng phương pháp khấu hao đường thẳng. Trong khi đó TSCĐ nhà nước thì không khống chế về mức khấu hao tối đa. Với quy định này, trong những trường hợp nhất định, các doanh nghiệp thành phần khác sẽ thiếu bình đẳng so với doanh nghiệp nhà nước.
Những phân tích trên cho thấy sự khác nhau giữa các quy định trong quản lý tài sản nhà nước và quản lý tài sản trong các doanh nghiệp nói chung không thuộc vốn nhà nước. Chính những điểm khác nhau trên dẫn đến những cách hiểu khác nhau về khoản chi phí hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp có tài sản nhà nước, điều này dễ nảy sinh so sánh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
- Theo quy định của Thông tư số 128/2003/TT-BTC, TSCĐ được trích khấu hao vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế phải đảm bảo các điều kiện đó là: TSCĐ phải sử dụng vào sản xuất kinh doanh, có đầy đủ hóa đơn, chứng từ và các giấy tờ hợp pháp khác chứng minh TSCĐ thuộc quyền sở hữu của cơ sở kinh doanh; được quản lý, theo dõi, hạch toán trong sổ sách kế toán của cơ sở kinh doanh theo chế độ quản lý và hạch toán kế toán hiện hành. Theo Bộ luật dân sự, TSCĐ của doanh nghiệp được chia làm hai loại là động sản và bất động sản. Với động sản thì việc thực hiện theo quy định trên là phù hợp. Tuy nhiên, áp dụng đối với bất động sản trong tình hình thực tế hiện nay còn một số bất cập về hóa đơn, chứng từ và các giấy tờ hợp pháp khác. Do vậy, mỗi nơi có thể hiểu một cách riêng, không thống nhất nếu không có hướng dẫn cụ thể thì sẽ dẫn đến khó khăn cho doanh nghiệp . Trong thực tế, không ít các doanh nghiệp tư nhân được chuyển đổi từ các hộ kinh doanh. Do vậy họ có sử dụng các TSCĐ của cá nhân vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song do yếu tố lịch sử để lại nhiều TSCĐ của họ không có hóa đơn chứng từ; nhà ở, nhà xưởng, công trình xây dựng trên đất … cũng không có giấy chứng nhận quyền sở hữu. Trong trường hợp này xét về nguyên tắc, các TSCĐ có thực sự tham gia vào quá trình sản xuất, doanh nghiệp hạch toán đúng quy định nhưng vẫn không đủ điều kiện để tính và trích khấu hao vào chi phí hợp lý khi tính thu nhập chịu thuế vì không có giấy tờ hợp pháp chứng minh.
1.2. Về mặt thực tế vận dụng.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là nguồn thu cơ bản của ngân sách nhà nước. Việc tính số khấu hao TSCĐ vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định lãi ròng của doanh nghiệp – cơ sở để tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp có thể lợi dụng việc quy đinh chưa rõ ràng trong việc trích khấu hao để trốn thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ưu điểm của phương pháp khấu hao nhanh là giúp thu hồi vốn được nhanh hơn, doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới thiết bị, công nghệ hiện đại, tiên tiến hơn, theo kịp với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và nhu cầu thị trường. Khi doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu hao nhanh thì mức khấu hao sẽ được phân bổ nhiều trong những năm đầu và giảm dần trong các năm tiếp theo. Như vậy. trong những năm đầu chi phí khấu hao của doanh nghiệp sẽ cao hơn so với những năm tiếp theo và như vậy số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp là nhỏ và tăng dần trong những năm tiếp theo. Tổng chi phí khấu hao trong toàn bộ thời gian sử dụng của TSCĐ là không đổi, sử dụng phương pháp khấu hao nhanh không làm ảnh hưởng đến tổng số thuế mà các doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước.
Trên thực tế hiện nay, số lượng cũng như tỷ trọng TSCĐ đã khấu hao hết nguyên giá nhưng vẫn còn sử dụng được trong các doanh nghiệp là khá lớn. Điều này chứng tỏ số khấu hao mà doanh nghiệp trích vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ là chưa phù hợp, do đó sẽ có sự chênh lệch giữa giá trị còn lại của TSCĐ trên sổ kế toán với giá trị thực tế của TSCĐ.
Nhằm khuyến khích đầu tư, phát triển kinh tế thì Nhà nước tiến hành miễn giảm thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác liên doanh… Đối với những doanh nghiệp được ưu tiên miễn giảm thuế này có đủ điều kiện trích khấu hao theo phương pháp khấu hao nhanh, nhưng doanh nghiệp lại lựa chọn phương pháp khấu hao theo đường thẳng để san bằng số thuế phải nộp trong các năm. Như vậy sẽ làm thất thoát ngân sách nhà nước.
2. Giải pháp hoàn thiện chế độ kế toán khấu hao tài sản cố định trong doanh nghiệp.
Nhà nước cần đưa giá trị thu hồi ước tính vào công thức tính số khấu hao phải trích.
Công thức tính:
Nguyên giá TSCĐ là toàn bộ các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được TSCĐ tính đến thời điểm đưa tài sản đó vào trạng thái sẵn sàng sử dụng. Nguyên giá TSCĐ hữu hình được hình thành do mua sắm,xây dựng hoặc tự xây dựng… được xác định theo VAS 03. Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều TSCĐ khi thanh lý sẽ thu hồi được với một giá trị lớn, nếu không tính toán tới phần giá trị này thì ta đã gián tiếp làm cho mức khấu hao tính vào chi phí sản xuất kinh doanh lớn hơn thực tế. Giá trị thanh lý là giá trị ước tính thu được khi hết thời gian sử dụng hữu ích của tài sản sau khi trừ chi phí thanh lý ước tính. Thời gian sử dụng ghi trong công thức là thời gian hữu ích, đó là thời gian mà TSCĐ hữu hình phát huy được tác dụng cho sản xuất kinh doanh, được tính bằng thời gian mà doanh nghiệp dự tính sử dụng TSCĐ hữu hình; hoặc số lượng sản phẩm hoặc các đơn vị tính tương tự mà doanh nghiệp dự tính thu được từ việc sử dụng tài sản. Doanh nghiệp căn cứ vào khung thời gian sử dụng các loại TSCĐ ban hành theo Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC và căn cứ vào đặc điểm, tính chất sử dụng TSCĐ hữu hình để xác định thời gian sử dụng hữu ích.Như vậy, để phù hợp và nhất quán với VAS 03 thì công thức trích khấu hao TSCĐ hữu hình theo phương pháp đường thẳng sẽ là:
2.2. Nhà nước cần có những quy định chi tiết hơn về khung thời gian sử dụng TSCĐ và điều kiện áp dụng phương pháp tính khấu hao.
Thời gian sử dụng của TSCĐ được nhà nước quy đinh tại phụ lục 1 ban hành kèm theo quyết định 206/2003/QĐ-BTC, ngày 12 tháng 12 năm 2003 của Bộ trưởng Bộ tài chính. Nhưng khoảng cách giữa thời gian sử dụng tối thiểu và thời gian sử dụng tối đa là khá lớn, điều này dễ làm cho các doanh nghiệp rút ngắn thời gian sử dụng thực tế của TSCĐ mà vẫn đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc tính và trích khấu hao TSCĐ theo quy định.
Nếu doanh nghiệp rút ngắn thời gian tính và trích khấu hao thì mức khấu hao phải trích trong một kỳ sẽ tăng lên, làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Chi phí sản xuất trong kì tăng lên sẽ làm cho chi phí thuế thu nhập trong kỳ của doanh nghiệp giảm xuống, trong khi đó giá trị của tài sản ghi trên sổ kế toán sẽ nhỏ hơn giá trị thực tế của tài sản đó. Khi đã khấu hao hết giá trị của TSCĐ nhưng tài sản đó vẫn còn sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì doanh nghiệp không phải tiếp tục tính khấu hao.
Hiện nay ở nước ta đang áp dụng 3 phương pháp tính khấu hao: phương pháp khấu hao theo đường thẳng, phương pháp khấu hao nhanh và phương pháp khấu hao theo sản lượng. Như đã phân tích ở trên, đối với những doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, nhạy cảm với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật hiện đại để đáp ứng nhu cầu thị trường và có đủ điều kiện để áp dụng phương pháp khấu hao nhanh nhưng doanh nghiệp lại lựa chọn phương pháp khấu hao theo đường thẳng để làm giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Vì vậy, nhà nước nên đưa ra những điều kiện để bắt buộc các doanh nghiệp phải sử dụng phương pháp khấu hao nhanh.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp áp dụng việc tổ chức làm tăng ca tức làm thêm ca đêm để nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc và làm giảm hao mòn vô hình của tài sản, giúp doanh nghiệp tăng nhanh năng suất sản xuất ki._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36034.doc