Lời mở đầu
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, môi trường cạnh tranh ở nước ta hiện nay ngày càng trở nên gay gắt. Mặt khác hoà chung vào sự phát triển của nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang thực hiện chính sách mở cửa, giao lưu hợp tác kinh tế với các nước, do đó tính cạnh tranh càng trở nên khốc liệt hơn và vượt ra khỏi phạm vi quốc gia. Để đứng vững và giành ưu thế đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải không ngừng đầu tư, đổi mới và cải tiến công nghệ. Vì đó là yếu
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Bàn về cách tính khấu hao và phương pháp kế toán khấu hao tài sản cố định theo chế độ hiện hành trong các Doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tố quan trọng quyết định đến giá thành và chất lượng sản phẩm và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được. Nhưng trong hoạt động đầu tư doanh nghiệp không chỉ đối mặt với vấn đề làm thế nào để huy động được vốn đầu tư mà quan trọng hơn là sự hao mòn của tài sản cố định (TSCĐ). Bởi trong quá trình đầu tư và sử dụng, dưới tác động của môi trường tự nhiên và điều kiện làm việc cũng như tiến bộ kỹ thuật tài sản cố định bị giảm dần về mặt giá trị và giá trị sử dụng. Với vai trò cung cấp thông tin cho nhà quản lý trong việc ra quyết định kinh doanh nói chung và quyết định đầu tư TSCĐ nói riêng, công tác kế toán trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, đặc biệt là kế toán TSCĐ và kế toán khấu hao TSCĐ.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, hệ thống chế độ kế toán của Việt Nam đã có những chuyển biến rất căn bản để công tác kế toán vận hành có hiệu quả hơn, đảm bảo tính thống nhất chế độ kế toán trong các lĩnh vực, các thành phần kinh tế tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách với thông lệ kế toán quốc tế. Tuy nhiên, trước sự biến đổi to lớn trong hoạt động kinh tế, các qui định đã bộc lộ rõ những hạn chế nhất định. Tiêu biểu nhất là những qui định về kế toán khấu hao TSCĐ.
Mà do vai trò và vị trí quan trọng của công tác kế toán khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp nên những bất cập trong kế toán khấu hao TSCĐ cần phải có phương hướng, giải pháp khắc phục kịp thời. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này nên em đã chọn đề tài “Bàn về cách tính khấu hao và phương pháp kế toán khấu hao TSCĐ theo chế độ hiện hành trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay” để làm đề án môn học.
Bố cục đề án ngoài lời mở đầu và kết luận, gồm 3 phần:
Phần I: TSCĐ và yêu cầu đối với công tác quản lý TSCĐ
Phần II: Khấu hao TSCĐ trong các doanh nghiệp
Phần III: Một số vấn đề cần hoàn thiện về cách tính khấu hao & phương pháp kế toán khấu hao TSCĐ theo chế độ hiện hành trong các doanh nghiệp hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Trần Thị Nam Thanh đã hướng dẫn tận tình để em có thể hoàn thành bài viết này. Tuy nhiên, dù đã rất cố gắng song do trình độ còn hạn chế nên bài viết này không tránh khỏi sai sót và chưa đầy đủ. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn.
Phần I
TSCĐ và yêu cầu đối với công tác quản lý TSCĐ trong doanh nghiệp
1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của TSCĐ trong hoạt động kinh doanh
TSCĐ là những tư liệu lao động có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức tốt công tác quản lý và sử dụng có hiệu quả những TSCĐ hiện có.Việc phân biệt TSCĐ với một số công cụ và dụng cụ có giá trị lớn là rất quan trọng và cần thiết. Theo Quyết định số 166/BTC/2000, tiêu chuẩn để nhận biết TSCĐ là:
Thời gian sử dụng hoặc thời gian hữu ích là từ 1 năm trở lên
Giá trị của TSCĐ không nhỏ hơn 5.000.000 đ
Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, TSCĐ bị hao mòn dần và giá trị của nó được chuyển dịch từng phần vào chi phí kinh doanh. Khác với đối tượng lao động, TSCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh và giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu cho đến lúc hư hỏng.
2. Phân loại TSCĐ
Do TSCĐ trong doanh nghiệp có nhiều loại với nhiều hình thái biểu hiện, tính chất đầu tư, công dụng và tình hình sử dụng khác nhau..nên để thuận lợi cho việc quản lý và hạch toán TSCĐ, cần sắp xếp TSCĐ vào từng nhóm theo những đặc trưng nhất định như phân theo quyền sở hữu, phân theo nguồn hình thành, phân theo hình thái biểu hiện, phân theo hình thái biểu hiện kết hợp tính chất đầu tư...Mỗi một cách phân loại có tác dụng khác nhau đối với công tác hạch toán và quản lý. Chẳng hạn, theo hình thái biểu hiện kết hợp tính chất đầu tư, toàn bộ TSCĐ trong sản xuất được chia thành :
-TSCĐ hữu hình: Là những tài sản có hình thái vật chất do doanh nghiệp nắm giữ để sản xuất kinh doanh, phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam(chuẩn mực 03), các tài sản được ghi nhận là TSCĐ hữu hình phải thoả mãn đồng thời tất cả 4 tiêu chuẩn sau:
Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó
Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy
Thời gian sử dụng ước tính trên 1 năm
Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo qui định hiện hành
- TSCĐ vô hình: là những tài sản cố định không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (chuẩn mực 04), các tài sản được ghi nhận là TSCĐ vô hình phải thoả mãn đồng thời tất cả 4 tiêu chuẩn giống như TSCĐ hưũ hình ở trên.
- TSCĐ thuê tài chính: là TSCĐ mà doanh nghiệp đi thuê dài hạn và được bên cho thuê trao quyền quản lý và sử dụng trong hầu hết thời gian tuổi thọ của TSCĐ. Tiền thu về cho thuê đủ cho người cho thuê trang trải được chi phí của tài sản cộng với khoản lợi nhuận từ loại đầu tư đó.
Trong từng loại TSCĐ kể trên, lại được chi tiết thành từng nhóm theo kết cấu, theo đặc điểm, theo tính chất...
3.Xác định giá trị ghi sổ của TSCĐ
Trong mọi trường hợp, TSCĐ phải được đánh giá theo nguyên giá và giá trị còn lại. Do vậy, việc ghi sổ phải đảm bảo phản ánh được tất cả 3 chỉ tiêu về giá trị của TSCĐ là nguyên giá, giá trị hao mòn và giá trị còn lại:
Giá trị còn lại =Nguyên giá - Giá trị hao mòn
Cần lưu ý rằng, đối với các cơ sở thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ, trong chỉ tiêu nguyên giá TSCĐ không bao gồm phần thuế giá trị gia tăng đầu vào. Ngược lại, đối với các cơ sở thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp hay trường hợp TSCĐ mua sắm dùng để sản xuất kinh doanh những mặt hàng không thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, trong chỉ tiêu nguyên giá TSCĐ lại bao gồm cả thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Tuỳ theo từng loại TSCĐ cụ thể mà nguyên giá TSCĐ sẽ được xác định khác nhau. Xem xét cụ thể như sau:
3.1. Xác định nguyên giá TSCĐ hữu hình
Phân loại TSCĐ hữu hình theo cách thức hình thành, nguyên giá TSCĐ được xác định cụ thể như sau:
TSCĐ mua sắm ( bao gồm cả mua mới và cũ):nguyên giá TSCĐ mua sắm gồm giá mua thực tế phải trả trừ (-) các khoản chiết khấu thương mại được hưởng và cộng (+) các khoản thuế ( không bao gồm các khoản thuế được hoàn lại) cùng các khoản phí tổn mới trước khi dùng (phí vận chuyển, bốc dỡ, thuế trước bạ, chi phí sửa chữa, tân trang trước khi dùng…)
TSCĐ do bộ phận xây dựng cơ bản tự làm bàn giao: nguyên giá là giá thành thực tế của công trình xây dựng cùng với các khoản chi phí khác có liên quan và thuế trước bạ nếu có. Khi tính nguyên giá, cần loại trừ các khoản lãi nội bộ, các khoản chi phí không hợp lý, các chi phí vượt quá mức bình thường trong quá trình tự xây dựng hoặc tự chế.
TSCĐ do bên nhận thầu (bên B) bàn giao: nguyên giá là giá phải trả cho bên B cộng với các khoản phí tổn mới trước khi dùng (chạy thử, thuế trước bạ…) trừ đi các khoản giảm trừ (nếu có).
TSCĐ được cấp, được điều chuyển đến:
+ Nếu là đơn vị hạch toán độc lập: nguyên giá bao gồm giá trị còn lại ghi sổ ở đơn vị cấp (hoặc giá trị đánh giá thực tế của hội đồng giao nhận) cộng với các phí tổn mới trước khi dùng mà bên nhận phải chi ra (vận chuyển, bốc dỡ …)
+ Nếu điều chuyển giữa các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc: nguyên giá, giá trị còn lại và số khấu hao luỹ kế được ghi theo sổ của đơn vị cấp. Các phí tổn mới trước khi dùng được phản ánh trực tiếp vào chi phí kinh doanh mà không tính vào nguyên giá TSCĐ .
TSCĐ nhận vốn góp liên doanh, nhận tặng thưởng, viện trợ, nhận lại vốn góp liên doanh…Nguyên giá tính theo giá trị đánh giá thực tế của hội đồng giao nhận cùng các phí tổn mới trước khi dùng (nếu có).
3.2.Nguyên giá TSCĐ thuê dài hạn
Theo chế độ tài chính quy định hiện hành, ở Việt Nam, khi đi thuê dài hạn TSCĐ, bên thuê căn cứ vào các chứng từ liên quan do bên cho thuê chuyển đến để xác định nguyên giá TSCĐ đi thuê. Nói cách khác, nguyên giá ghi sổ TSCĐ thuê dài hạn được căn cứ vào nguyên giá do bên cho thuê chuyển giao.
3.3.Nguyên giá TSCĐ vô hình
Nguyên giá TSCĐ vô hình là toàn bộ các chi phí thực tế phải bỏ ra để có đựơc TSCĐ vô hình tính đến thời điểm đưa tài sản đó vào sử dụng theo dự tính. Cụ thể, theo chuẩn mực số 04 (chuẩn mực kế toán Việt Nam), việc xác định nguyên giá TSCĐ vô hình trong các trường hợp như sau:
TSCĐ vô hình mua ngoài: nguyên giá bao gồm giá mua trừ (-) chiết khấu thương mại hoặc giảm giá, cộng (+) các khoản thuế (không gồm các khoản thuế được hoàn lại) và các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào sử dụng theo dự tính.Trường hợp quyền sử dụng đất được mua cùng nhà cửa, vật kiến trúc trên đất thì giá trị quyền sử dụng đất phải được xác định riêng biệt và ghi nhận là TSCĐ vô hình.
TSCĐ vô hình được nhà nước cấp hoặc được biếu tặng: nguyên giá được xác định theo giá trị hợp lý ban đầu cộng (+) các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa TSCĐ vào sử dụng theo dự tính.
TSCĐ vô hình được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp:nguyên giá là toàn bộ chi phí phát sinh trực tiếp hoặc được phân bổ theo tiêu thức hợp lý và nhất quán từ khâu thiết kế, xây dựng, sản xuất thử nghiệm đến chuẩn bị đưa tài sản đó vào sử dụng theo dự tính.
3.4.Thay đổi nguyên giá TSCĐ
Nguyên giá TSCĐ chỉ thay đổi khi doanh nghiệp đánh giá lại TSCĐ, sửa chữa nâng cấp TSCĐ, tháo gỡ hoặc bổ sung một số bộ phận của TSCĐ. Khi thay đổi nguyên giá doanh nghiệp phải lập biên bản ghi rõ các căn cứ thay đổi và xác định lại chỉ tiêu nguyên giá, giá trị còn lại, số khấu hao luỹ kế của TSCĐ và phản ánh kịp thời vào sổ sách.
Phần II
Khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp
1. Hao mòn và khấu hao TSCĐ
Trong quá trình đầu tư và sử dụng, dưới tác động của môi trường tự nhiên và điều kiện làm việc cũng như tiến bộ kỹ thuật, TSCĐ bị hao mòn. Hao mòn này được thể hiện dưới hai dạng:
Hao mòn hữu hình: là sự hao mòn vật lý trong quá trình sử dụng do bị cọ sát, bị ăn mòn, bị hư hỏng từng bộ phận.
Hao mòn vô hình: là sự giảm giá trị của TSCĐ do tiến bộ khoa học kỹ thuật đã sản xuất ra những TSCĐ cùng loại có nhiều tính năng với năng suất cao hơn và chi phí ít hơn.
Để thu hồi giá trị hao mòn của TSCĐ, người ta tiến hành trích khấu hao bằng cách chuyển phần giá trị hao mòn của TSCĐ vào sản phẩm làm ra.
Như vậy, hao mòn là hiện tượng khách quan làm giảm giá trị và giá trị sử dụng của TSCĐ, còn khấu hao là một biện pháp chủ quan trong quản lý nhằm thu hồi lại giá trị đã hao mòn của TSCĐ.
Về phương diện kinh tế, khấu hao cho phép doanh nghiệp phản ánh được giá trị thực của tài sản, đồng thời làm giảm lợi nhuận ròng của doanh nghiệp.
Về phương diện tài chính, khấu hao là một phương tiện tài trợ giúp doanh nghiệp thu được bộ phận giá trị đã mất của TSCĐ.
Về phương diện thuế khoá, khấu hao là một khoản chi phí được trừ vào lợi nhuận chịu thuế, tức là được tính vào chi phí kinh doanh hợp lệ.
Về phương diện kế toán, khấu hao là việc ghi nhận sự giảm giá của TSCĐ.
2. Phương pháp tính khấu hao
Việc tính khấu hao có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau. Việc lựa chọn phương pháp tính khấu hao nào là tuỳ thuộc vào quy định của Nhà nước về chế độ quản lý tài chính đối với doanh nghiệp và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
Phương pháp khấu hao được lựa chọn phải đảm bảo thu hồi vốn nhanh, đầy đủ và phù hợp với khả năng trang trải chi phí của doanh nghiệp.
Hiện nay, các doanh nghiệp có thể sử dụng một trong các phương pháp tính khấu hao sau đây:
2.1. Phương pháp khấu hao đều
Phương pháp này còn được gọi là phương pháp khấu hao tuyến tính hay phương pháp khấu hao bình quân.Có nghĩa là mỗi kỳ kế toán đều tính theo số tiền như nhau cho đến khi TSCĐ hết thời gian hữu ích.
Cách tính khấu hao theo phương pháp này như sau:
Mức khấu hao phải trích bình quân năm
=
Nguyên giá TSCĐ bình quân
x
Tỉ lệ khấu hao bình quân năm
=
Nguyên giá TSCĐ
Số năm sử dụng
Mức khấu hao phải trích bình quân tháng
Mức khấu hao bình quân năm
12
Ưu điểm của phương pháp này là: phương pháp này cố định theo thời gian nên có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, tăng số lượng sản phẩm làm ra để hạ giá thành, tăng lợi nhuận.
Nhược điểm của phương pháp này là: việc thu hồi vốn chậm, không theo kịp mức hao mòn thực tế, nhất là hao mòn vô hình (do tiến bộ khoa học kỹ thuật) nên doanh nghiệp không có điều kiện để đầu tư trang bị TSCĐ mới.
Hiện nay, đây là phương pháp được dùng phổ biến trong các doanh nghiệp ở Việt Nam.
2.2. Phương pháp khấu hao theo sản lượng
Cách tính này cố định mức khấu hao trên một đơn vị sản lượng nên muốn thu hồi vốn nhanh khắc phục được hao mòn vô hình đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng ca kíp, tăng năng suất lao động để làm ra nhiều sản phẩm.
Công thức tính khấu hao theo phương pháp này như sau:
Mức khấu hao phải trích trong tháng
=
Sản lượng hoàn thành trong tháng
x
Mức khấu hao bình quân trên một đơn vị sản lượng
Trong đó:
Mức khấu hao bình quân trên một đơn vị sản lượng
Tống số khấu hao phải trích trong thời gian sử dụng
Sản lượng tính theo công suất thiết kế
2.3.Phương pháp khấu hao nhanh
Bên cạnh khấu hao theo thời gian và khấu hao theo sản lượng, các doanh nghiệp còn có thể tính khấu hao theo giá trị còn lại. Phương pháp này gọi là phương pháp khấu hao nhanh. Sau đây chúng ta sẽ xem xét hai phương pháp khấu hao nhanh:
2.3.1. Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần
Trong những năm đầu TSCĐ còn mới, khả năng sản xuất cao nên tính khấu hao cao còn những năm về sau TSCĐ đã cũ dần (mất dần tính hữu ích), năng lực sản xuất thấp hơn nên tính chi phí khấu hao thấp hơn.
Công thức tính khấu hao theo phương pháp này là:
Tổng mức khấu hao bình quân năm
2 x Giá trị còn lại của TSCĐ
Số năm tính khấu hao
Phương pháp này giúp doanh nghiệp có khả năng thu hồi nhanh vốn đầu tư, mua sắm đổi mới TSCĐ, phản ánh chính xác hơn mức hao mòn TSCĐ vào giá trị sản phẩm, phù hợp với hầu hết các sản phẩm có giá bán lúc đầu cao sau đó có xu hướng giảm dần. Đặc biệt nó phù hợp với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới mà TSCĐ có tốc độ hao mòn vô hình cao, đòi hỏi phải khấu hao, thay thế, đổi mới nhanh để theo kịp sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật.
Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần là một phương pháp tiên tiến, phù hợp với xu thế phát triển của khoa học công nghệ kỹ thuật.Tuy nhiên, việc thực hiện phương pháp này phức tạp hơn phương pháp khấu hao đều nên đòi hỏi cán bộ làm công tác kế toán phải có trình độ cao, cán bộ thuế phải am hiểu về các phương pháp tính khấu hao, và nó ảnh hưởng đến ngân sách trong những năm đầu. Mặt khác phương pháp này chỉ áp dụng được ở những doanh nghiệp mà giá thành hoặc chi phí có khả năng chịu được (doanh nghiệp có lãi).
Theo phương pháp này, giá trị còn lại của TSCĐ không khi nào bằng 0. Do đó khi bán TSCĐ này phần giá trị còn lại của nó phải được trừ đi trong doanh thu nhượng bán TSCĐ để tính kết quả bất thường chính xác.
Hiện nay, ở nước ta, Bộ tài chính quyết định thực hiện thí điểm trong hai năm chế độ khấu hao theo phương pháp số dư giảm dần có điều chỉnh ( đó là sự kết hợp khấu hao theo số dư giảm dần trong những năm đầu và khấu hao đều trong những năm còn lại nhằm khấu hao hết toàn bộ giá trị TSCĐ theo đúng thời gian sử dụng).
2.3.2. Phương pháp khấu hao theo tổng số năm
Theo phương pháp này, tỉ lệ khấu hao được xác định theo từng năm dựa trên tổng số năm phải tính khấu hao theo công thức:
n
Ti n - i+ 1
i=1
Σ i
Trong đó: Ti là tỉ lệ khấu hao năm thứ i
n là tổng số năm khấu hao
Mức khấu hao năm thứ i = Giá trị phải khấu hao x Ti
Tuy nhiên phương pháp này chưa được vận dụng ở nước ta, nó mới dừng lại trên phạm vi lý thuyết.
2.4.Qui định khi tính khấu hao
Trong trường hợp doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu hao đường thẳng và mức khấu hao được xác định hàng tháng thì tổng mức khấu hao hàng tháng được xác định theo công thức sau:
Số khấu hao phải trích tháng này
=
Số khấu hao đã trích trong tháng trước
+
Số khấu hao của những TSCĐ tăng thêm trong tháng trước
-
Số khấu hao của những TSCĐ giảm đi trong tháng trước
Do khấu hao TSCĐ được tính vào ngày 1 hàng tháng (nguyên tắc tròn tháng) nên để đơn giản cho việc tính toán, quy định những TSCĐ tăng (hoặc giảm) trong tháng này thì tháng sau mới tính (hoặc thôi) tính khấu hao.
Đối với TSCĐ đã khấu hao hết mà vẫn được sử dụng thì không được trích khấu hao nữa kể từ thời điểm khấu hao hết.
Đối với những TSCĐ chưa khấu hao hết mà đã hư hỏng phải tiến hành thanh lý thì giá trị còn lại phải được xử lý thu hồi một lần và không tính khấu hao ở các kỳ tiếp theo.
Đối với những TSCĐ được sửa chữa nâng cấp hoàn thành thì phải xác định lại giá trị phải khấu hao và thời gian khấu hao. Mức trích khấu hao hàng tháng được tính theo công thức sau:
Mức khấu hao phải trích trong tháng
Giá trị còn lại trước khi nâng cấp + Giá trị nâng cấp
Số năm ước tính sử dụng sau khi sửa chữa x 12
Trong tháng kế toán tiến hành tính khấu hao TSCĐ và phân bổ chi phí khấu hao theo mục đích hay theo bộ phận sử dụng.
3.Những qui định về quản lý số khấu hao luỹ kế
Các doanh nghiệp có thể sử dụng toàn bộ số khấu hao luỹ kế của TSCĐ để tái đầu tư, thay thế, đổi mới TSCĐ; mọi hoạt động đầu tư xây dựng phải thực hiện theo đúng các qui định tại điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành.
Khi chưa có nhu cầu đầu tư đổi mới TSCĐ, doanh nghiệp có quyền sử dụng linh hoạt số khấu hao luỹ kế phục vụ yêu cầu kinh doanh của mình.
4.Phương pháp hạch toán khấu hao TSCĐ
4.1.Tài khoản sử dụng
Để theo dõi tình hình hiện có, biến động tăng, giảm khấu hao, kế toán sử dụng tài khoản 214 “Hao mòn TSCĐ “. Tài khoản này dùng để phản ánh giá trị hao mòn của toàn bộ TSCĐ hiện có tại doanh nghiệp (trừ TSCĐ thuê ngắn hạn)
Kết cấu của tài khoản này như sau:
Bên Nợ: Phản ánh các nghiệp vụ phát sinh làm giảm giá trị hao mòn của TSCĐ như nhượng bán, thanh lý...
Bên Có: phản ánh các nghiệp vụ làm tăng giá trị hao mòn của TSCĐ (do trích khấu hao, đánh giá tăng...)
Dư Có: Giá trị hao mòn của TSCĐ hiện có.
Tài khoản 214 được phân tích thành các khoản tiểu khoản:
TK 2141: Hao mòn TSCĐ hữu hình.
TK 2142: Hao mòn TSCĐ đi thuê tài chính.
TK 2143: Hao mòn TSCĐ vô hình.
Bên cạnh đó, kế toán còn sử dụng tài khoản 009 “Nguồn vốn khấu hao cơ bản” để theo dõi tình hình hình thành và sử dụng số vốn khấu hao cơ bản TSCĐ . TK 009 là tài khoản ghi đơn. Kết cấu của tài khoản này như sau:
Bên Nợ: phản ánh các nghiệp vụ tăng nguồn vốn khấu hao cơ bản
Bên Có: phản ánh các nghiệp vụ làm giảm nguồn vốn khấu hao (nộp cho cấp trên, cho vay, đầu tư, mua sắm TSCĐ..)
Dư Nợ: Số vốn khấu hao cơ bản hiện còn.
4.2.Phương pháp hạch toán
4.2.1.Hạch toán khấu hao TSCĐ hữu hình
- Định kỳ (tháng, quý, năm) kế toán tiến hành trích khấu hao TSCĐ và phân bổ vào chi phí sản xuất kinh doanh:
Nợ TK 627, 641, 642
Có TK 2141: Tổng số khấu hao phải trích
Đồng thời phản ánh tăng nguồn vốn khấu hao:
Nợ TK 009
Số khấu hao phải nộp ngân sách hoặc cấp trên (nếu có):
Nợ TK 411: Ghi giảm nguồn vốn kinh doanh nếu không được hoàn lại
Nợ TK 136 (1368): Ghi tăng khoản phải thu nội bộ nếu được hoàn lại
Có TK 336: Số phải nộp cấp trên.
- Trường hợp giảm giá trị hao mòn do nhượng bán, thanh lý:
Nợ TK 2141: Giá trị hao mòn luỹ kế.
Nợ TK 811: Giá trị còn lại
Có TK 211: Nguyên giá TSCĐ
- Trường hợp giảm giá trị hao mòn do góp vốn liên doanh bằng TSCĐ hữu hình:
Nợ TK 222: Giá trị vốn góp liên doanh dài hạn được ghi nhận.
Nợ TK 128: Giá trị vốn góp liên doanh ngắn hạn được ghi nhận.
Nợ TK 2141: Giá trị hao mòn luỹ kế
Nợ (Có) TK 412: Chênh lệch đánh giá tài sản
Có TK 211: Nguyên giá TSCĐ hữu hình
-Trường hợp giảm giá trị hao mòn do trả vốn góp liên doanh:
Nợ TK 2141: Giá trị hao mòn
Nợ TK 411 (chi tiết vốn kinh doanh): Giá trị còn lại theo thoả thuận
Nợ (Có) TK 412: Phần chênh lệch
Có TK 211: Nguyên giá
-Trường hợp thiếu TSCĐ khi kiểm kê
Nợ TK 2141: Giá trị hao mòn luỹ kế
Nợ TK 138 (1381): Giá trị thiếu chờ xử lý
Có TK 211: Nguyên giá
-Trường hợp giảm do chuyển thành công cụ, dụng cụ nhỏ:
Nợ TK 2141: Giá trị hao mòn luỹ kế
Nợ TK 627,641,642
Có TK 211: Nguyên giá TSCĐ
Nếu giá trị còn lại lớn sẽ đưa vào chi phí trả trước để phân bổ dần vào chi phí kinh doanh:
Nợ TK 2141: Giá trị hao mòn luỹ kế
Nợ TK 142: Giá trị còn lại
Có TK 211: Nguyên giá
4.2.2.Hạch toán khấu hao TSCĐ thuê tài chính
- Cuối kỳ, trích khấu hao theo chế độ quy định tính vào chi phí kinh doanh:
Nợ TK 627, 641, 642
Có TK 2142: Số khấu hao phải trích
Đồng thời ghi tăng nguồn vốn khấu hao cơ bản:
Nợ TK 009
- Khi kết thúc hợp đồng thuê TSCĐ :
+Nếu trả lại TSCĐ cho bên cho thuê mà chưa trích đủ khấu hao thì giá trị còn lại của TSCĐ thuê ngoài phải tính vào chi phí chờ phân bổ (nếu giá trị lớn) hoặc phân bổ hết vào chi phí kinh doanh trong kỳ (nếu giá trị còn lại nhỏ) :
Nợ TK 142 (1421): Chuyển giá trị còn lại chưa khấu hao hết (nếu có)
Nợ TK 2142: Giá trị hao mòn luỹ kế
Có TK 212: Nguyên giá TSCĐ đi thuê
+Nếu được quyền sở hữu hoàn toàn hay mua lại TSCĐ, thì sau khi kết chuyển nguyên giá TSCĐ phải kết chuyển giá trị hao mòn:
Nợ TK 2142
Có TK 214 (2141, 2143): Giá trị hao mòn luỹ kế
4.2.3.Hạch toán khấu hao TSCĐ vô hình
-Trong kỳ, trích và phân bổ khấu hao vào chi phí kinh doanh
Nợ TK 627, 641, 642
Có TK 2143: Giá trị hao mòn
Đồng thời ghi tăng nguồn vốn khấu hao:
Nợ TK 009
- Các trường hợp nhượng bán, giảm TSCĐ vô hình do góp vốn liên doanh, trả vốn góp liên doanh: phản ánh tương tự như hạch toán khấu hao TSCĐ hữu hình. Ngoài ra, khi đã trích đủ khấu hao phải xoá sổ TSCĐ :
Nợ TK 2143: Giá trị hao mòn luỹ kế
Có TK 213: Nguyên giá TSCĐ vô hình
-Cuối năm tài chính doanh nghiệp cần xem xét lại thời gian trích khấu hao và phương pháp khấu hao TSCĐ vô hình, nếu có sự thay đổi mức khấu hao cần điều chỉnh số khấu hao ghi trên sổ kế toán như sau:
+Nếu mức khấu hao TSCĐ vô hình tăng lên so với số đã trích trong năm, số khấu hao chênh lệch tăng, ghi:
BT 1) Nợ TK 627, 641, 642: Số chênh lệch khấu hao tăng
Có TK 2143: Giá trị hao mòn tăng thêm
BT 2) Nợ TK 009
+Nếu mức khấu hao TSCĐ vô hình giảm so với số đã trích trong năm thì số chênh lệch khấu hao giảm ghi:
Nợ TK 2143: Hao mòn TSCĐ
Có TK 627, 641, 642: Số chênh lệch khấu hao giảm
5.Kế toán quốc tế về khấu hao TSCĐ
Do điều kiện kinh tế và chế độ xã hội ở mỗi nước khác nhau là khác nhau nên yêu cầu về quản lý cũng khác nhau. Mà kế toán là công cụ quản lý kinh tế do đó chế độ kế toán ở từng quốc gia có sự khác biệt. Chế độ kế toán khấu hao là một điển hình. Sau đây chúng ta sẽ xem xét hai chế độ kế toán khấu hao tiêu biểu của thế giới, đó là Pháp và Mỹ để thấy sự khác biệt của kế toán khấu hao Việt Nam so với thế giới.
5.1.Kế toán khấu hao TSCĐ của Mỹ
ở Mỹ, cơ sở được thiết lập cho việc khấu hao TSCĐ là nguyên gía TSCĐ và giá trị thu hồi của TSCĐ. Trong đó giá trị thu hồi là phần ước tính có thể thu hồi tại thời điểm thanh lý hoặc nhượng bán TSCĐ. Và khi thiết lập công thức tính khấu hao, thì giá trị thu hồi ước tính là yếu tố không thể thiếu bất kể đó là phương pháp nào. Lấy ví dụ về phương pháp khấu hao đều theo thời gian:
Số khấu hao phải trích hàng năm
Nguyên giá TSCĐ - Giá trị thu hồi ước tính
Số năm hữu dụng ước tính
Theo chế độ qui định các doanh nghiệp có thể sử dụng một trong các phương pháp tính khấu hao sau:
- Phương pháp khấu hao đều theo thời gian
- Phương pháp khấu hao theo thời gian sử dụng máy thực tế
- Phương pháp khấu hao theo sản lượng sản xuất
- Phương pháp khấu hao giảm dần: Có nhiều phương pháp khấu hao giảm dần có thể áp dụng, tuy nhiên có hai phương pháp được áp dụng phổ biến hiện nay đó là: khấu hao giảm dần với tỷ suất giảm dần và khấu hao giảm dần với tỷ suất không đổi.
- Ngoài ra còn có các phương pháp khấu hao theo nhóm hoặc đa hợp
Từ trên ta thấy sự khác biệt lớn nhất của kế toán khấu hao TSCĐ ở Mỹ so với Việt Nam đó là Mỹ sử dụng giá trị thu hồi TSCĐ trong công thức tính khấu hao. Đó là sự đúng đắn vì như thế mới phản ánh chính xác giá trị hao mòn của TSCĐ, qua đó xác định chi phí sản xuất kinh doanh hợp lý hơn.
Một sự khác biệt nữa là: ở Mỹ phương pháp khấu hao nhanh được các doanh nghiệp sử dụng một cách phổ biến. Đây là phương pháp khấu hao ưu việt, nó cho phép doanh nghiệp thu hồi vốn đầu tư nhanh để đầu tư, đổi mới công nghệ...ở Việt Nam phương pháp này mới đang được thí điểm ở một số doanh nghiệp thuộc ngành công nghệ cao.ở
5.2. Kế toán khấu hao TSCĐ của Pháp
Giống như Mỹ và Việt Nam, ở Pháp cũng có nhiều phương pháp tính khấu hao TSCĐ. Nhưng có hai phương pháp tính khấu hao được sử dụng phổ biến đó là phương pháp khấu hao cố định (phương pháp khấu hao đều) và phương pháp khấu hao giảm dần.
Theo qui định của chế độ kế toán Pháp, TSCĐ đưa vào sử dụng ngày nào thì tính khấu hao từ ngày đó. Nếu TSCĐ đang được sử dụng mà đem nhượng bán hoặc thanh lý thì sẽ tính khấu hao đến ngày nhượng bán hoặc thanh lý. Do đó, thời gian sử dụng trong năm có thể tính khấu hao theo năm, theo tháng, hoặc theo ngày tuỳ theo thời gian sử dụng TSCĐ. Điều này giúp cho việc xác định giá trị hao mòn của TSCĐ chính xác hơn việc tính khấu hao TSCĐ theo nguyên tắc tròn tháng, tròn năm ở Việt Nam.
Phần III
Một số vấn đề cần hoàn thiện về cách tính khấu hao TSCĐ và phương pháp kế toán khấu hao TSCĐ theo chế độ hiện hành trong các doanh nghiệp.
1.Về thời gian khấu hao
Thời gian sử dụng TSCĐ là chỉ tiêu quan trọng có ảnh hưởng đến mức khấu hao phải trích định kỳ. Thời gian sử dụng TSCĐ đã được Bộ tài chính xác định theo từng loại đối tượng. Tuy nhiên trên thực tế, một số doanh nghiệp lại muốn thay đổi thời gian khấu hao so với qui định để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của doanh nghiệp mình. Như một số doanh nghiệp trong ngành dệt, giấy, vận chuyển chất lỏng bằng đường ống... đề nghị kéo dài thời gian khấu hao TSCĐ. Nhưng ngược lại, đối với các máy móc thiết bị điện tử và tin học thì các doanh nghiệp lại có xu hướng muốn khấu hao nhanh hơn so với khung qui định hiện hành. Dựa vào 3 tiêu thức để xác định thời gian khấu hao TSCĐ là tuổi thọ kỹ thuật của TSCĐ theo thiết kế, hiện trạng TSCĐ; và mục đích, hiệu suất sử dụng ước tính của TSCĐ thì các kiến nghị trên của các doanh nghiệp này cũng là hợp lý.
Bên cạnh đó, thực tế còn có hiện tượng một số doanh nghiệp Nhà nước phải đi vay nợ để đầu tư TSCĐ. Nếu cứ theo qui định thì doanh nghiệp sẽ không tìm ra nguồn để trả nợ vì thời hạn trả nợ và thời gian khấu hao là không trùng nhau. Xét về bản chất khấu hao TSCĐ thì việc cho phép khấu hao nhanh để trả nợ là không hợp lý nhưng lại hợp tình bởi nó khuyến khích các doanh nghiệp dám đầu tư đổi mới TSCĐ, hiện đại hoá công nghệ sản xuất. Vì thế Nhà nước nên mở thêm cho họ một lối nhỏ để họ có thể khấu hao nhanh, thu hồi vốn đầu tư để trả nợ.
Nắm bắt vấn đề, chế độ khấu hao TSCĐ mới ban hành kèm theo Quyết định 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999 của Bộ tài chính ra đời đã sửa đổi khung thời gian khấu hao TSCĐ cho phù hợp hơn đối với một số ngành như dệt, giấy.. các TSCĐ được hình thành từ nguồn vốn vay được phép khấu hao nhanh trong khuôn khổ không vượt quá 30% thời gian so với khung thời gian qui định theo quyết định 1062/1998/QĐ.
Cùng với việc tiếp tục nghiên cứu xác định thời gian khấu hao TSCĐ cho phù hợp với đặc trưng riêng của từng ngành, từng doanh nghiệp, Nhà nước nên tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các qui định của từng doanh nghiệp để tránh tình trạng: doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ nên muốn kéo dài thời gian khấu hao để giảm chi phí hấu hao đi cho sổ sách kế toán bớt xấu, hay kinh doanh có lãi thì muốn tăng chi phí khấu hao để giảm lợi nhuận chịu thuế.
2.Về phương pháp khấu hao
Có thể nói phương pháp khấu hao đều đã và đang được sử dụng phổ biến trong các doanh nghiệp ở nước ta. Nó không chỉ đơn giản, dễ sử dụng, tiện lợi đối với doanh nghiệp mà còn thuận lợi cho công tác thuế. Tuy nhiên, đối với một số ngành hoạt động trong môi trường công nghệ kỹ thuật thay đổi từng giờ như công nghệ thông tin, điện tử, phần mềm tin học...thì phương pháp này đã không còn phù hợp. Bởi những TSCĐ này có tốc độ hao mòn vô hình cao, do đó đòi hỏi được khấu hao nhanh để thu hồi vốn, đầu tư đổi mới công nghệ nhằm theo kịp tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Để phù hợp với đặc trưng của loại TSCĐ này, phương pháp khấu hao tối ưu nhất đó là khấu hao nhanh (phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần). Hiện nay phương pháp này đang được thực hiện thí điểm trong các doanh nghiệp thuộc ngành công nghệ cao ở nước ta.
Với lợi thế là giúp doanh nghiệp nhanh thu hồi vốn đầu tư, phương pháp này trong tương lai sẽ được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp ở nước ta. Do vậy Nhà nước nên nhanh chóng triển khai sử dụng phương pháp này trên diện rộng.
3.Về việc sử dụng giá trị thu hồi của TSCĐ trong công thức tính khấu hao
Giá trị thu hồi ước tính của TSCĐ là phần ước tính có thể thu hồi tại thời điểm thanh lý hoặc nhượng bán TSCĐ.
Một trong những đặc điểm cơ bản của TSCĐ là dù tài sản có cũ, lạc hậu, hư hỏng... tới mức nào thì vẫn còn là một lượng giá trị cố định có thể thu hồi được, kể cả trong trường hợp hình thái vật chất của TSCĐ được thu hồi dưới dạng phế liệu. Nhưng theo chế độ kế toán khấu hao của ta thì giá trị thu hồi ước tính không được đưa vào công thức xác định mức trích khấu hao. Việc làm này giúp cho cách tính đơn giản hơn nhưng chưa phù hợp vì:
Thực tế cho thấy có rất nhiều TSCĐ khi thanh lý sẽ thu được số tiền lớn. Như vậy nếu không tính tới giá trị thu hồi thì ta đã làm cho mức khấu hao được hạch toán vào chi phí sản xuất cao hơn thực tế. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm mà còn ảnh hưởng đến nguồn thu của ngân sách Nhà nước vì chi phí khấu hao là chi phí hợp lý để tính lợi nhuận chịu thuế.
Việc sử dụng giá trị thu hồi sẽ làm cho TSCĐ không bao giờ được phép khấu hao hết nguyên giá. Ví dụ, 1 TSCĐ có nguyên giá là 105 triệu đồng, giá trị thu hồi ước tính là 5 triệu đồng, thời gian sử dụng là 10 năm. Như vậy mức khấu hao 1 năm là 10 triệu((105-5)/10), sau năm thứ 10 nếu TSCĐ vẫn còn được sử dụng tại doanh nghiệp thì doanh nghiệp không phải trích khấu hao nhưng giá trị ghi trên sổ sách kế toán vẫn là 5 triệu. Điều này có tác dụng tăng cường trách nhiệm quản lý của doanh nghiệp đối với TSCĐ, đồng thời nếu có hiện tượng làm mất mát hư hỏng TSCĐ ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33798.doc