Lời nói đầu
Trước thực mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực chúng ta phải làm gì và làm như thế nào, nhằm nâng cao năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các DNNN, để chủ động cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước và vươn ra thị trường thế giới. Đây là vấn đề lớn mà các doanh nghiệp đang phải đối đầu,nhưng vấn còn nhiều lúng túng. Họ đang hướng về Nhà nước, kỳ vọng Nhà nước có những chính sách mạnh mẽ.
Cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng trong quá trình đổi mới DNN
50 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1490 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Bàn về các chính sách cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
N ở Việt Nam, và là một nội dung của chương trình tổng thể đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Nó đáp ứng được các yêu cầu,các đòi hỏi của xu thế biến động nền kinh tế đặc biệt là trong nền KTTT định hướng XHCN. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện CPH DNNN đã đặt được những thành tựu to lớn, bên cạnh đó còn có rất nhiều khó khăn, đặc biệt là trong những năm gần đây CPH ở các DNNN đang có xu hướng giảm dần, dẫn đến tính tri trệ va gây ra những tồn đọng trong quá trình phát triển của các doanh nghiệp. Đứng trước tình hình đó là yêu cầu đặt ra đối với Đảng và Nhà nước cần có các giải pháp, chính sách để giải quyết những tồn đọng,vướng đọng của các doanh nghiệp.
Đây là một vấn đề đang được rất nhiều quan tâm,và trong đề án môn học em chọn đề tài: "Bàn về các chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay".
Nội dung của đề tài bao gồm có 3 phần chính:
Chương I: Những vấn đề chung về doanh nghiệp Nhà nước và cổ phần hoá.
Chương II: Thực trạng tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Chương III: Một số chính sách nhằm đẩy mạnh việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
Đây là đề tài em rất quan tâm và rất thích, song do trong quá trình làm đề án kinh nghiệm còn thiếu và do hạn chế về mặt tài liệu và thông tin, nên không thể không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được cô giúp đỡ và góp ý cho em để em hoàn thiện tốt đề án môn học của mình.
Em xin chân thành cảm ơn cô!
Chương I: Những vấn đề chunG về dnnn và cph
Thời kỳ quá độ lên CNXH có nhiều đặc điểm, nhưng đặc biệt nhất là cơ cấu của nền kinh tế nhiều thành phần.Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tồn tại không phải do ý muốn chủ quan của Nhà nước, nó xuất hiện, tồn tại và phát triển phụ thuộc vao những tiền đề kinh tế và chính trị khách quan của nền kinh tế.Trong cơ cấu này, mỗi thành phần kinh tế luôn có vai trò vị trí và vận động, phát triển theo một xu hướng nhất định, song nền kinh tế Nhà nước giữ vai trò then chốt. Điều này đã được thực tế kiểm nghiệm trong 15 năm qua, nhất là từ đại hội VI cho đến nay: "hát triển nền KTTT định hướng XHCN trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo". Nói đến kinh tế Nhà nước chúng ta không thể không nhắc tới DNNN, và trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước đã có nhiều sự cải cách, cũng như chuyển đổi nền kinh tế từ phương thức hoạt động này sang hoạt động khác.
1.1 . Doanh nghiệp nhà nước
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp Nhà nước
1.1.1.1. DNND là gì?
Để từng bước thể chế hoá đường lối đổi mới của Đảng, ngày 30/4/1995, chủ tịch đã ký lệnh số 39 L/CTN ban hành luật DNNN: DNNN là một tổ chưc kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn,thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc công ích,nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, có thể chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi do doanh nghiệp quản lý.
1.1.1.2. Quan niệm về DNNN trong nền KTTT ở Việt Nam
KTTT ở nước ta đang trong quá trình phát triển và từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, cho nên khái niệm DNNN cần phải được nhận thức lại cho phù hợp.
Tiêu chí để xác định DNNN không những chỉ dựa vào mức độ sở hữu Nhà nước trong doanh nghiệp mà còn phải căn cứ vào mức độ khống chế, chi phối của Nhà nước đối với doanh nghiệp.Vì vậy doanh nghiệp Nhà nước không chỉ bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước chi phối, quản lý và kiểm soát. Quan niệm như thế vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đáp ứng được xu thế đẩy mạnh cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu hiện nay. Mặt khác, về lâu dài doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước sẽ thu hẹp dần. Những DNNN có sự tham gia của các thành phần kinh tế khác sẽ tăng lên và sẽ là loại hình doanh nghiệp phổ biến. Đây là xu hướng khách quan, là quy luật phát triển của KTTT.
Vì vậy doanh nghiệp Nhà nước phải được hiểu như sau:" DNNN là một tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ hoặc giữ cổ phần chi phối hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh tế của mình trong phạm vi số tài sản của doanh nghiệp".
1.1.2 Đặc điểm của DNNN.
- DNNN do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và là chủ sở hữu. Tuy nhiên, Nhà nước không thực hiện quyền sở hữu một cách trực tuyến lên lượng tài sản của doanh nghiệp. Nhà nước sở hữu doanh nghiệp, còn doanh nghiệp với tư cách là một pháp nhân có quyền hạn nhất định trên những tài sản do Nhà nước giao. DNNN co quyền quản lý, sử dụng vốn, tài nguyên, đất đai và các nguồn lực khác, có quyền chuyển nhượng thế chấp, cầm cố, cho thuê tài sản do Nhà nước giao trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
- Theo mục đích và tính chất hoạt động, DNNN bao gồm 2 loại: doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp hoạt động công ích.
-DNNN có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
Tuy nhiên, cho đến nay khai niệm DNNN theo luật dianh nghiệp Nhà nước hiện hành đã tỏ ra không phù hợp khi nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang KTTT và từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Do đó đặc điểm của DNNN trong giai đoạn này có những đặc điểm sau:
Một là: DNNN sẽ bao gồm DNNN đầu tư 100% vốn điều lệ và loại DNNN có cổ phần chi phối (cổ phần chi phối là cổ phần của Nhà nước chiếm trên 50% tổng số cổ phần của doanh nghiệp, hoặc cổ phần của doanh nghiệp hoặc cổ phần của Nhà nước, ít nhất gấp 2 lần cổ phần của cổ đông lớn nhất khác trong doanh nghiệp).
Hai là: DNNN bao gồm các doanh nghiệp hoat động công ích và doanh nghiệp hoạt động công ích.
Ba là: DNNN có trách nhiệm hữu hạn, có quyền và nghĩa vụ dân sự. Trang 30- báo tài chính thang 10/2001
1.1.3 Vị trí vai trò của DNNN trong nền KTTT định hướng XHCN
1.1.3.1 Điều kiện hình thành DNNN.
Một điều đặt ra đối với sự nhìn nhận của mỗi người là: một doanh nghiệp như thế nào được xem là một DNNN. Do có nhiều ý kiến khác nhau nên một doanh nghiệp là DNNN khi nó có đủ 3 điều kịên sau:
Thứ nhất: Nhà nước là cổ đông chính- có thể Nhà nước sở hữu đối với các loại hình doanh nghiệp đã trở thành xu thế chung của mọi nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường.Vấn đề là ở chỗ hình thức sở hữu nào chiếm ưu thế trong sự đan xen ấy sẽ quy định tính chất của doanh nghiệp. Đối với DNNN đã cổ phần hoá hoặc doanh nghiệp cổ phầndo Nhà nước nắm tỷ lệ cổ phần chi phối, cho nên Nhà nước là chủ sở hữu cơ bản nhất, từ đó cổ đông Nhà nước sẽ nắm quyền quyết định trong hội đồng quả trị. Như vậy, lợi ích của Nhà nước sẽ đảm bảo do nắm cổ phần áp đảo.
Thứ hai: Doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất ra hàng hoá dịch vụ để bán.
Thứ ba: Có hạch toán lỗ lãi.
1.1.3.2 Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp.
Mục tiêu hoạt động của các DNNN được chia làm ba nhóm với những tiêu chí tương ứng để đánh giá kết quả hoạt động.
Nhóm 1: Nhóm các DNNN hoạt động công ích-hoạt động theo các chính sách xã hội của Nhà nước phục vụ cho lợi ích trực tiếp của toàn xã hội hay lợi íc công cộng, chuyên sản xuất hàng quốc phòng, an ninh, y tế cộng đồng, văn hoá...Mục đích hoạt động của nhóm này không phải vì lợi nhuận nên không thể lấy lợi nhuận hay hiệu quả kinh tế làm thước đo. Tiêu chí hoạt động của DNNN nhóm này là hiệu quả chính trị- xã hội, tức là sự ổn định và an toàn xã hội gắn với môi trường chính trị, kinh tế, xã hội. Sự hoạt động của các doanh nghiệp nhóm này dựa vào yếu tố vào sự bao cấp tài chính của Nhà nước. Nhà nước giao vốn và chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước, sản xuất theo kế hoạch và đơn đặt hàng của Nhà nước.
Nhóm hai: Các DNNN bán công ích-sản xuất kinh doanh hàng hoá công ích.Về thực chất,hoạt động của nhóm này là bán kinh doanh, là loại doanh nghiệp nửa bao cấp, nửa kinh doanh. Để đánh giá hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhóm này cần căn cứ vào kết quả thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động và xã hội.
Nhóm ba: Nhóm các doanh nghiệp hoạt động thuần tuý kinh tế. Mục đích của nhóm này là sản xuất và kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận.
1.1.3.3 Vai trò của DNNN.
Các DNNN vừa là chủ thể tham gia kinh doanh, là lực lượng trực tiếp tạo cơ sở vật chất cho xã hội, vừa là lực lượng kinh tế nòng cốt để Nhà nước dẫn dắt, mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Như vậy hệ thống doanh nghiệp do Nhà nước thành lập và làm chủ sở hữu, vừa là các đơn vị kinh tế tự chủ, độc lập, vừa là kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Là chủ thể kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nướcphải hoạt động có hiểu quả để đóng góp tích cực cho ngân sách Nhà nước đã đâu tư cho cac doanh nghiệp này, là lực lượng kinh tế vĩ mô, các doanh nghiệp Nhà nước phải góp phần tạo ra môi trường, tiền đề thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh các loại hình doanh nghiệp khác, lôi cuốn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác vào quỹ đạo đi lên CNXH.
Vai trò hệ thống DNNN gắn liền với việc tham gia vào hoạt động kinh tế của Nhà nước.Vai trò này thể hiện trên ba khía cạnh: kinh tế, chính trị, văn hoá.
Nội dung của vai trò này được thể hiện như sau:
- Là công cụ chủ yếu tại ra sức mạnh vật chất để Nhà nước giữ vững sự ổn định xã hội ,điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN .
-Mở đường hỗ trợ cho các nến kinh tế khác phát triển, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế .
-Đảm nhận các lĩnh vực hoạt động có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế- xã hội. Cung ứng các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, nhất là trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng (giao thông, thuỷ lợi, điện, nước, thông tin liên lạc), xã hội (giáo dục, y tế-và an ninh -quốc phòng).
- Góp phần quan trọng khắc phục những khiếm khuyết của cơ chế thị trường. Những lĩnh vực mới, các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, công trình công cộng, vv... rủi ro cao, đòi hỏi vốn lớn, thu hồi chậm, lợi nhuận thấp là những ngành cần thiết và cần tạo điều kịên cho phát triển sản xuất, nhưng các thành phần kinh tế khác không muốn đầu tư hoặc chưa co khả năng, điều kiện làm thi DNNN cần phải đi đầu mở đường tạo điều kiện cho các thành phâng kinh tế khác.
-Là lực lượng xung kích tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nhanh việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ nhằm thực hiên CNH- HĐH đất nước
-Là lực lượng đối trọng trong cạnh tranh trên thị trường trong va ngoài nước, chống sự lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế trong điều kiện mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới.
-Thực hiện một số chính sách xã hội, như tạo việc làm cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, ở những khu vực khó khăn, kém phát triển, như biên giới, hải đảo, miên núi.
-Là lực lượng tạo nền tảng cho xã hội mới. sách kinh tế Nhà nước và quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước.
1.2. Cổ phần hoá
1.2.1 Khái niệm Cổ phần hoá DNNN .
Cổ phần hoá là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp từ chỗ có một chủ sở hữu thành công ty cổ phần, tức là doanh nghiẹp có nhiều chủ sở hữu. CPH nói chung có thể diễn ra tại các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh và tại các DNNN. CPH là quá trình đa dạng hoá tại doanh nghiệp.
Cổ phần hoá DNNN là quá trình chuyển đổi DNNN thành cộng ty cổ phần, trong đó Nhà nước có thể vẫn giữ tư cách là một cổ đông, tức là Nhà nước vẫn có thể là chủ sở hữu một bộ phận tài sản của doanh nghiệp. Cổ phần hoá DNNN không phải là quá trình chuyển sở hữu Nhà nước sang sở hữu của các cổ đông, mà có cả hình thức DNNN thu hút thêm vốn thông qua hình thức bán cổ phiếu để trở thành công ty cổ phần. Trang 148- sách kinh tế Nhà nước và quá trình chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước.
1.2.2 . Mục tiêu cổ phần hoá DNNN
1.2.2.1 Mục tiêu trực tiếp của cổ phần hoá DNNN. Trang 13-14 tạp chí quản lý Nhà nước.
Một là: Chuyển đổi sở hữu, thực hiện sở hữu ở những doanh nghiệp cụ thể nào đó, giảm sở hữu của Nhà nước, tăng sở hữu tư nhân, cá thể trong các doanh nghiệp được CPH . Hiện nay nhiều doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Nguyên nhân quan trọng là chế độ đại diện sở hữu nhiều cấp mà trách nhiệm vật chất không rõ ràng. Các DNNN ra đời trong cơ chế hành chính, tập trung bao cấp nên ngày càng bị quan liêu hoá, mất tính độc lập trong sản xuất kinh doanh. Các DNNN thuộc sở hữu toàn dân, nhưng về phương diện quản lý và kinh tế, toàn dân không thể thực hiện được quyền sở hữu của mình. Do vậy phải uỷ quyền cho Nhà nước. Nhà nước gồm nhiều cấp, từ trung ương đến địa phương, cũng không thể thực hiện được quyền sở hữu do dân uỷ quyền, nên phải uỷ nhiệm cho các bộ hoặc UBND các tỉnh. Đến lượt mình, các bộ hoặc UBND uỷ quyền cho các tổng công ty hoặc các sở, cứ như vậy giám đốc các DNNN mới là người trực tiếp quản lý sử dụng tài sản. Giám đốc chỉ là người đại diện, chủ sở hữu đích thực là toàn dân. Khi chuyển sang cơ ché thị trường, các DNNN phải được đổi mới và chọn lọc lại theo nguyên tắc xác định rõ trách nhiệm vật chất giữa Nhà nước và DNNN, thì cổ phần hoá là biện pháp quan trọng khắc phục tình trạng không có chủ sở hữu cụ thể của DNNN.
Hai là: CPH góp phần tách rời sở hữu ra khỏi chức năng quản lý kinh doanh giúp cho chuyên nghiệp hoá chức năng quản lý kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. CTCP là tổ chức đại diện cho nhiều sở hữu cổ phần, tập trung vốn giao cho người được đào tạo chuyên môn, có năng lực quản lý và tổ chức kinh doanh. Do vậy quản lý trở thành một nghề, có ý nghĩa quyết định tới việc nâng cao hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp.
Ba là: Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ. CPH như một chất keo gắn kết người lao động với hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, họ không chỉ là người công nhân mà còn là chủ nhân của doanh nghiệp đó. Việc cho công ty phát hành cổ phiếu ưu đãi, cổ phần nội bộ khiến vai trò cổ đông và vai trò người lao động thống nhất với nhau. Người lao động sẽ là người trực tiếp giám sát, kiểm tra tình hình giám sát kinh doanh của doanh nghiệp. Với ý nghĩa này, CPH biến doanh nghiệp thành liên hợp lợi ích của người lao động, là điểm mấu chốt làm cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Bên cạnh đó, các DNNN khi đó đã được CPH sẽ tránh được sự đièu hành theo kiểu mệnh lệnh hành chính, ảnh hưởng đến tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
Bốn là: Tăng khả năng huy động và tập trung vốn mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều DNNN khi chuyển sang lao động trong cơ chế thị trường đều rơi vào tình trạng thiếu vốn kinh doanh. Vốn Nhà nước giao cho bao gồm cả nợ khó đòi , sản phẩm, vật tư ứ đọng không có khả năng sử dụng hoặc không tổ chức ra xuất ra sản phẩm mà thị trường cần... Do vậy, bộ phận vốn lưu động dùng để kinh doanh thường xuyên thiếu. Mặt khác, sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ hiện đại, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới trang thiết bị nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh. Nếu chỉ dựa vào nguồn vốn nhà nước sẽ không đủ. Chi phí doanh nghiệp là cách giải quyết tốt cho những khó khăn về vốn của doanh nghiệp. Dù đó là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Năm là: Góp phần đổi mới và nâng và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước chuyển sang KTTT, Nhà nước phải thay đổi căn bản cách thức quản lý đến các DNNN nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Với tư cách là bộ máy quyền lực, Nhà nước tác động vào đời sống kinh tế , vào các hoạt động của chủ thể của hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế thông qua hệ thống pháp luật, thể chế, chính sách, các công cụ điều tiết và bằng chính thực lực kinh tế. Cụ thể là: Nhà nước thông qua các công cụ của mình điều tiết thị trường và thị trường sẽ điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp. Mặt khác với tư cách là đại diện của toàn dân, là chủ sở hữu đối với khu vực kinh tế nhà nước, nhà nước cũng phải thực hiện chế độ uỷ quyền quản lý, thực hiện việc giám sát, kiểm kê, kiểm soát, lựa chọn, thuê người quản lý và bảo vệ tài sản. Như vậy, nhà nước cần có cách quản lý khác cơ bản so với cơ chế cũ. Việc đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước không chỉ cho được thực hiện bởi sự cố gắng, tự đổi mới, tự hoàn thiện của hệ thống bộ máy nhà nước, mà còn có sự cộng tác quan trọng của bản thân đối tượng quản lý. Một khi đối tượng quản lý đã thay đổi căn bản, các CTCP ra đời và hoạt động theo những nguyên tắc của KTTT, tất yếu đến sự đổi mới phương thức quản lý của nhà nước.
Những mục tiêu cơ bản trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là tiền đề cho nhau phát triển.
1.2.2.2. Mục tiêu tổng quát của cổ phần hoá DNNN
Cổ phần hoá DNNN một mặt giúp cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, đứng vững và phát triển trong quá trình chuyển đổi của nền kinh tế. Mặt khác CPH còn là bước đi quan trọng để nhà nước thực hiện các mục tiêu chiến lược của công cuộc đổi mới kinh tế đất nước.
CPH góp phần quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế nước ta sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Đảng và nhà nước ta đã khẳng định quan điểm phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Để có cơ chế thị trường vận hành thông suốt phải có cơ cấu thị trường đầy đủ, đồng bộ nghĩa là phải có các loại thị trường phát triển trong một hệ thống hoàn chỉnh, thống nhất. Hiện nay ở nước ta chưa có thị trường đầy đủ (như thị trường hàng hoá, thị trường sức lao động, thị trường vốn...), chưa có thị trường phát triển.
Nhiệm vụ cấp bách hiện nay của Nhà nước là tạo mọi điều kiện thúc đẩy sự ra đời và phát triển các loại thị trường, hình thành các loại thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước không chỉ có sự tác động, quản lý điều tiết cơ chế thị trường mà trước hết là thúc đẩy sự ra đời, phát triển của hệ thống thị trường, trên cơ sở đó có cơ chế thị trường vận hành.
- Nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của nền kinh tế theo nguyên tác của KTTT. Đây là một mục tiêu tổng quát bao trùm và tác động đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Hiểu quả kinh tế-xã hội được hiểu theo nghĩa huy động mọi khả năng về vốn, kỹ thuật, lao động,năng lực quản lý... của cộng động dân tộc và của quốc tế vào sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế cuả đất nước một cách hiểu quả nhất.
1.3. cổ phần hoá DNNN cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn.
1.3.1. Cơ sở lý luận.
Từ những năm 70 của thế kỷ XX trên thế giới diễn ra quá trình giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thông qua tư nhân hoá và CPH DNNN . Nó bắt đầu từ nước Anh rồi lan sang các nước công nghiệp khác và các nước đang phát triển; đến đầu những năm 90 quy mô tư nhân hoá và CPH DNNN diễn ra chưa từng thấy, trở thành hiện tượng phổ biến, đến năm 1995 đã có hơn 100000 DNNN được tư nhân và CPH, hơn 80 nước cam kết thực hiện tư nhân hoá và CPH DNNN.
Cơ sở của việc xuất hiện hiện tượng này là:
Thứ nhất: Các DNNN phát triển tran lan, lại không được tổ chức và quản lý tốt. Quản lý kinh tế theo kiểu hành chính, qua nhiều cấp trung gian, hệ thống kinh tế hoạch tài chính cứng nhắc, thiếu khẳ năng thích ứng với nền KTTT. Tính chủ động trong sản xuất kinh doanh bị gò bó bởi nhiều quy chế xuất phát từ quyền sở hữu của Nhà nước. Sự độc quyền của các DNNN được pháp luật bảo vệ. Tất cả cái đó đã đánh mất động lực kinh tế trong hoạt động sản xuất- kinh doanh của các DNNN, làm kết quả hoạt động của chúng yếu kém triền miên.
Thứ hai: Do hoạt động kém hiểu quả nên các DNNN đã trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, trợ cấp trực tiếp và gián tiếp cho chúng, điều đó dẫn đến ngân sách bị thiếu hụt.
Thứ ba: Về nhận thức lý luận, có sự thay đổi quan điểm về vai trò của Nhà nước trong nền KTTT. Tứ “chủ nghĩa tư bản điều tiết" của keynes đến "chủ nghĩa tự do mới" rồi nền "kinh tế hỗn hợp" của samuelson; sự thay đổi nhận thức từ chỗ nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước đến chỗ coi trọng khu vực kinh tế tư nhân và vai trò tự điều tiết của cơ chế thị trường, và hiện nay là phổ biến của mô hình “nền kinh tế hỗn hợp giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân". Quan điểm này đã thay đổi tư duy kinh tế của các chính phủ, dẫn đến xu hướng đánh giá lại vai trò và hiểu quả kinh tế-xã hội, của hệ thống DNNN. CPH DNNN là giải pháp mà hầu hết các nước đều coi trọng, bắt nguồn từ sự thay đổi quan niệm nói trên.
Thứ tư: Sức hấp dẫn của các CTCP so với các doanh nghiệp bình thường khác, CTCP có sức sống mạnh hơn, hiểu quả kinh tế cao hơn rõ rệt và vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển kinh tế-xã hội, đáp ứng yêu cầu mới của sự phát triển KTTT. Hình thức thực hiện chế độ sở hữu rất đa dạng, phong phú. Thước đo sự đúng đắn của các hình thức đó là tác dụng thu hút, tập hợp và sử dụng có hiểu quả các nguồn vốn trong xã hội, tạo động lực cho sự phát triển. Thực tế phát triển KTTT cho thấy, loại hình CTCP hội tụ đủ các yếu tố trên, ngược lại loại hình doanh nghiệp đơn sở hữu (dù là sở hữu tư nhân hay sở hữu Nhà nước) sẽ bị hạn chế trong đầu tư và cạnh tranh.
CPH DNNN liên quan chặt chẽ tới việc tôn trọng và phát huy sở hữu cá nhân, không chỉ trong chế độ TBCN mà cả trong chế độ XHCN. Với tư cách vừa là cổ đông, vừa là người làm thuê trong CTCP, người lao động có quan hệ lợi ích chặt chẽ với doanh nghiệp, còn trong DNNN , chủ sở hữu là Nhà nước, là chung chung mơ hồ, không gắn liền quyền sở hữu và quyền sử dụng. CPH DNNN thật sự là một cuộc cách mạng triệt để thay đổi cách tổ chức hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp, thay đổi cơ bản mối quan hệ doanh nghiệp - Nhà nước và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thích ứng với hoạt động cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Trang 150- sách kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước.
1.3.2. Cơ sở thực tiễn.
CPH DNNN là vấn đề rất mới đối với Việt Nam. Vì vậy nghiên cứu kinh nghiệm CPH DNNN của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có điều kiện tương đồng như Trung Quốc, một số nước có nên kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu, cung như các nước trong khối Châu á: Nhật, Thái Lan,Singapore... để tìm kiếm kinh nghiệm có thể vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam là vô cùng quan trọng.
Ngày nay CTCP có ưu thế so với các doanh nghiệp khác: phát hành cổ phiếu rộng ra công chúng, cổ đông tham gia quản lý công ty, cổ phiếu chuyển nhượng trên thị trường chưng khoán, chuyển nhượng nội bộ làm co giá trị doanh nghiệp có tính công khai, trung thưc hơn.
Do nhiều năm thực thi một nền kinh tế kinh tế hoạch hoá tập trung, tuyệt đối hoá kinh tế Nhà nước đồng nhất với DNNN, nên trong một thời gian dài phát triển hệ thống DNNN với số lượng lớn và tràn lan.
Trong quá trình hoạt động DNNN đã bộc lộ những yếu kém, bất cập, đưa đất nước đến cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội . Chính vì vậy, việc đổi mới sắp xếp lại hệ thống DNNN là một đòi hỏi tất yếu. Việc định hướng XHCN nền KTTT đòi hỏi phải tạo cho kinh tế Nhà nước sức mạnh thật sự, trong đó DNNN là nòng cốt để đủ khẳ năng dẫn dắt, điều tiết và định hướng các thành phần kinh tế khác.
Xung quanh vấn đề này Đảng và Nhà nước đã có nhiều nỗ lực, đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Tuy vậy đến năm 1992, cuộc cách mạng DNNN có phần chững lại, lúng túng, cuộc sống đã đặt ra một loạt vấn đề bức xúc: Ai chịu trách nhiệm chính về việc bảo toàn, phát triển vốn và tài sản của Nhà nước? Ai bảo đảm quyền lợi chính đáng của người lao động như việc làm, đời sống, thu nhập, bảo hiểm xã hội ...?
Trong bối cảnh đó, buộc chúng ta phải tiếp tục đổi mới. Từ thực trang của nền kinh tế cùng với các điểm ưu việt của hình thức CTCP và CPH DNNN, Việt Nam hiện có thể vận dụng và cần thiết phải tiến hành chuyển một bộ phận DNNN thành CTCP.
Ngay từ đầu thập kỷ 90, Đảng đã có chủ trương chuyển một bộ phận DNNN thành CTCP cụ thể như sau:
- Nghị quyết hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2 khoá VII (11/ 1991) nêu rõ.“ chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành lập CTCP và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu trước khi mở rộng phạm vi thích hợp".
-Nghị quyết hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiện kỳ khoá VII (11/1994) đã nêu mụa đích, hình thức CPH và mức độ sở hữu Nhà nước tại DNNN CPH: “Để thu hut thêm vốn, tạo thêm động lực, nhăn chặn tiêu cực, thúc đẩy DNNN lám ăn có hiểu quả, cần thực hiện các hình thức CPH có mức độ thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh; trong đó sở hữu Nhà nước chiếm tỉ lệ cổ phần chi phối.
-Nghị quyết của bộ chính trị về tiếp tục đổi mới để pháp huy vai rò chủ đạo của DNNN (số 10/NQ-TW, ngày 17/3/1995) đã bổ sung thêm về phương châm tiến hành CPH, tỷ lệ bán cổ phần cho người trong và ngoài
- Doanh nghiệp: “Thực hiện từng bước vững chắc CPH một bộ phận doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn ".
-Trong kết luận của bộ tài chính về kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội 5 năm 1996-2000 (số 301 BBK/BTC ngày 12/9/1995) đã bổ sung thêm mục tiêu giữ vững định hướng XHCN của CPH DNNN và phân loại DNNN để CPH.
-Nghị quyết của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) chỉ đạo: "Tổng kết kinh nghiệm, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để triển khai tích cực, vững chắc CPH DNNN nhằm huy động thêm vốn, tạo động lực mới thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiểu quả, làm tài sản Nhà nước ngày một tăng lên, là sự kết hợp giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế nhân dân để phát triển đất nước chứ không phải để tư nhân hoá. Bên cạnh doanh nghiẹp 100% vốn Nhà nước, sẽ có nhiều doanh nghiệp mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối.
-Hội nghị lấn thứ 4 ban chấp hành TW khoá VIII (tháng 12/1997) nêu rõ giải pháp CPH như sau: “Phân loại doanh nghiệp công ích va doanh nghiệp kinh doanh, xác định danh mục loại doanh nghiệp cần giữ 100% vốn Nhà nước, loại DNNN cần nắm giữ cổ phần chi phối, loại hình DNNN chỉ nắm cổ phần ở mực thấp” và “đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm 100% vốn cần lập kế hoạch CPH để tạo động lực phát triển,thúc đẩy làm ăn hiểu quả”.
Bên cạnh đó là những thành tựu về CPH doanh nghiệp mà các nước ở trên thế giới đã thực hiện trong các lĩnh vực, ngành như chiến lược CPH ở một số công ty trong xu hướng sủ dụng tìên.
Người Nhật: xứng đáng danh hiệu tiết kiệm nhất, có thể là sau cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 cách đây 55 năm đủ trầm tích vào các thế hệ sau. Tổng số để dành của người Nhật thì:
55% giữ vào ngân hàng theo hình thức tiết kiệm dài hạn, đồng yên trong vài thập kỷ lên giá và tâm lý phòng thân là lý do.
30% dùng để mua các quỹ bảo hiểm, đầu tư.
Còn lại mua trái phiếu, các công cụ tài chính ít rủi ro.
Chỉ có 0.1% mua cổ phiếu...
Cứ 5 ngưới có một người mua cổ phiếu giá trị thấp, tổng giá trị cổ phiếu chỉ khoảng 5-6 tỷ USD = 20% tổng giá trị cổ phiếu, trong khi đó số người nước ngoài mua cổ phiếu ở Nhật chiếm 0.4% nhưng lại chiếm gần 6 % tổng số giá trị cổ phiếu.
Người Mỹ: mua nhiều cổ phiếu hơn có 50 triệu người mua cổ phiếu, tổng giá trị chiếm 20% số tiền để dành, điều này có thể là thị trường cổ phiếu ở Mỹ khá hấp dẫn. Giá cổ phiếu của một số công ty tăng không ngừng như hãng microsopt đạt kỷ lục trong 20 năm, hoặc các vụ đầu tư đặc biệt như trục vớt tàu, khai mỏ, chế tác sản phẩm có tính độc quyền... Môi trường kinh doanh đã chứng minh hiểu quả của đầu tư vào cổ phiếu,việc huy động của các CTCP là khá thuận lợi.
Người Mỹ quan niệm thu nhập của dân cư là cho tiêu dùng cá nhân và đầu tư cho kinh doanh, hệ thống bảo hiểm tốt nên mọi người có thể yên tâm để một số tiền vào bảo hiểm, số còn lại đưa vào đầu tư và tiêu dùng. Họ cho rằng như thế kích thích tính năng động của kinh doanh. Kinh doanh có đầu tư vào là vốn của dân và đầu ra là người dân tiêu tiền.
Chính phủ Trung Quốc: gần đây báo động về số tiền dư gửu tiết kiệm trong dân chúng tăng lên 12000 tỷ USD trong đó 60% là tiết kiệm dân cư. Tiết kiệm chuyển sang tâm lý thực lãi làm giảm tiêu dùng, tạo áp lực cho tín dụng sản xuất. Vì thế chính phủ đã đánh thuế 20% lãi tiết kiệm nhằm đẩy tiền vào tiêu dùng và đầu tư, đồng thời đưa ra các biện pháp kích thích thị trường cổ phiếu cùng với các dự án lớn mà chính phủ giao cho các công ty tham gia nhằm thu hút vốn trong xã hội.
Tóm lại: CTCP có ưu thế đối với các doanh nghiệp khác phát hành cổ phiếu rộng ra công chúng, cổ đông tham gia quản lý công ty, cổ phiếu chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán, chuyển nhượng nội bộ làm cho giá trị doanh nghiệp có tính công khai, trung thực hơn. Nhưng các CTCP đều vấp phải các xu hướng sủ dụng tiền của dân chúng và buộc họ phải có chiến lược huy động vốn. Điều khác biệt của vốn cổ phần là cổ đông và chịu trách nhiệm các khoản nợ công ty trong phạm vi vốn góp.
Chương II. Thực trạng tiến hành
cổ phần hoá dnnn
2.1. Tình hình thực hiện cổ phần hoá trong những năm qua
2.1.1.Những bước phát triển ban đầu.
CPH như một trong những giải pháp lớn để sắp xếp lại DNNN lần đầu tiên được đề ra tại hội nghị TW 2 khoá VII (tháng 11/1991), sau đó được cụ thể hoá tại chỉ thị 202/CT (6/1992) của chủ tịch hội đồng bộ trưởng về"thí điểm chuyển một số doanh nghiệp thành CTCP", chỉ thị 84-ttg(3/1993) về " xúc tiến thực hiện thí điểm CPH doanh nghiệp và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với DNNN". Thực hiện chủ trương này, ngày 1/7/1993 DNNN đầu tiên đã được chuyển thành CTCP. Đó là đại lý liên hiệp vận chuyển của tổng công ty hàng hải Việt Nam. Tính từ thời điểm đó đến nay đã hơn 11 năm, CPH không chỉ là một bước thí điểm nữa, mà đã trở thành một thực tế sinh động với các biện pháp chỉ đạo ngày một sát sao, khuôn khổ pháp lý ngày càng rõ ràng.Tình đến tháng 12/2000 các nước có 380 DNNN được chuyển thành CTCP và hoạt động của các công ty này cho thấy CPH là một hướng đi đúng đắn để sắp xếp lại DNNN.
2.1.1.1. Hình thành mô hình doanh nghiệp mới, gắn bó chặt chẽ quyền lợi và trách nhiệm. Trang 1- thông tin lý luận- số 12/2000.
Với việc đổi mới phương thức quản lý, chế độ bình bầu chọn giám đốc, hội đồng quản trị và các chức danh lãnh đạo doanh nghiệp đã làm cho đội ngũ này có trách nhiệm cao hơn do quyền lời vá nghĩa vụ gắn bó chặt chẽ với nhau. Không còn những giám đốc "há miệng chờ sung", chờ chỉ thị, chờ rót vốn, chờ chỉ tiêu nữa mà là những giám đốc xông xáo, năng động, bám sát thị trường, luôn tìm tói sáng tạo trong lập phương án kinh doanh, tìm kiếm đối tác, bạn hàng, mở mang thị trường. Tình trạng lãng phí của cải, tiền bạc để ăn nhậu xa hoa, phong bì, phong bao trong các kỳ hội họp giảm dần. Đội ngũ công nhân viên chức do được sàng lọc, ._.tinh gọn lại là các cổ đông của chính công ty nên chất lượng cũng như ý thức làm chủ, tự giác tiết kiệm được nâng lên rõ rệt. Tại CTCP Phú Gia (Hà Nội) sau CPH hàng tháng tiết kiệm được50% tiền điện và 30% chi phí hành chính khác. Chuyển biến tích cực này cũng được diễn ra ở nhiều doanh nghiệp được CPH khác.
2.1.1.2. Kết quả được nâng cao, lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân đều được đáp ứng.
Theo dõi hoạt động của các DNNN được CPH, điều dễ nhận thấy là kết quả sản xuất kinh doanh được nâng lên rõ rệt. Các chỉ tiêu vốn, lợi nhuận, nộp ngân sách, việc làm, thu nhập bình quân đều tăng đáng kể. Tại DNNN đầu tiên được CPH là đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc tổng công ty hàng hải Việt Nam, năm 1993, ở thời điểm CPH chỉ có số vốn là 6,2 tỷ đồng, sau 5 năm hoạt động số vốn đẵ tăng lên gấp 6 lần (đạt 37,6 tỷ đồng), lợi tức so với vốn tăng 150%. Xí nghiệp cơ khí điện lạnh thành phố Hồ Chí Minh, sau 3 năm hoạt dộng tăng vốn lên gấp 10 lần. Những năm gần đây do nhiều khó khăn khách quan và chủ quan, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp CPH tuy không đạt chỉ tiêu cao như vậy, song hiệu quả sản xuất kinh doanh vẫn được nâng lên rất rõ. Tại 22 doanh nghiệp được CPH thuộc bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, hiểu quả này phản ánh qua chỉ tiêu vốn năm 1999 tăng lên 359,5 tỷ đồng so với 280,1 tỷ của năm 1998 (tức đã huy động thêm được 79 tỷ). Trong ngành du lịch, 28 doanh nghiệp chuyển thành CTCP, qua khảo sát, đều cho thấy chỉ tiêu kinh tế cao hơn nhiều so với trước khi CPH. Những đơn vị có thời gian CPH từ 1 năm trở lên đều có những bước tiến quan trọng: doanh thu tăng 30%, lợi nhuận thực hiện tăng hơn 30%, nộp ngân sách từ 15-18%, thu nhập của người lao động tăng từ 1,2lần đến 1,5 lần so với trước CPH.
Xét trên địa bàn nhiều địa phương (không kể Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai nơi có nhiều thuận lợi để thực hiện CPH), CPH cũng đã chứng minh được tính hiệu quả của mình. Công ty vận tải ô tô Phú Thọ- công ty đầu của tỉnh này được CPH trong năm 1999 là một mô hình thành công, sau một năm hoạt động dưới hình thức CTCP, doanh thu công ty tăng từ 14,5 tỷ lên 19,8 tỷ. Các chỉ số tương tự là lợi nhuận từ 245 triệu lên đến 688 triệu. Nhờ làm ăn hiệu quả công ty đã có thể trích quỹ phát triển sản xuất 15%, dự phòng tài chính 5%, điều mà trước đây CPH không làm được. Và cho đến nay công ty dã phát triển và chiếm một vị trí hàng đầu trong hệ thống CTCP.
Nhờ kết quả sản xuất kinh doanh tốt, các doanh nghiệp được CPH thật sự trở thành mô hình "3 trong 1" vừa cứu vãn được nguy cơ đổ vỡ của nhiều doanh nghiệp, vừa tăng phần nộp ngân sách Nhà nước, vừa tăng thu nhập cho người lao động. Xét dưới góc độ lợi ích Nhà nước thì không chỉ có nguồn thu tăng nhờ các doanh nghiệp trích nộp ngân sách nhiều hơn, mà còn do không còn phải làm bà đỡ, không tốn phí bao cấp, ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp mà ngay cả nhờ việc bán cổ phiếu, Nhà nước đã thu được một lượng vốn.
2.1.2. Tiến trình chuyển DNNN thành các công ty cổ phần trong những năm gần đây.
2.1.2.1.Tình hình thực hiện.
Từ năm 1992-1997, số lượng DNNN chuyển sang CTCP rất ít, mặc dù hiệu quả hoạt động của các CTCP tiến bộ hơn hẳn so với các DNNN trước đây. Đến hết năm 1997, cả nước mới có 18 DNNN chuyển sang CTCP. Bước sang năm 1998, nhất là sau khi Chính phủ ban hành nghị định 44 số lượng DNNN chuyển sang CTCP tăng lên rõ rệt. Tính đến ngày 31/12/1998 đã có thêm 98 DNNN chuyển thành công sang CTCP lên 166 doanh nghiệp.
Quá trình thực hiện CPH ở các doanh nghiệp cho thấy người lao động đều được chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, về lợi ích cũng như việc làm khi doanh nghiệp thực hiện CPH nên đa số hưởng ứng thực hiện.Việc kiểm tra phê duyệt giá trị doanh nghiệp, cũng như các khâu khác như ra quyết định chuyển sang CTCP... đều được giải quyết nhanh chóng và thuận tiện tạo tâm lý tốt cho doanh nghiệp.
Một số vấn đề nảy sinh: Quá trình chuyển DNNN sang CTCP từ khi có NĐ 44 đã cho thấy một số vấn đề nảy sinh mới, cụ thể:
- Chính sách ưu đãi mới cho người lao động mới đáp ứng được một phần: đảm bảo sự công bằng song chưa biến thành hiện thực, đảm bảo cho người lao động thực hiện được. Trên thực tế người lao động ở doanh nghiệp đa phần là người nghèo, không có hoặc không có nhiều tiền để mua cổ phần mà người lao động chỉ được hưởng ưu đãi khi tham gia mua cổ phần nên cơ hội được hưởng ưu đãi là rất hạn chế. Tiêu chuẩn người lao động nghèo là rất khắt khe dẫn đến nhiều doanh nghiệp không có người lao động nghèo.
-Nảy sinh sự mâu thuẫn trong việc phân chia tài sản hình thành từ nguồn lợi nhuận để lại từ các DNNN. Tâm lý người lao động coi phần tài sản này là phần công sức mình tạo ra, chủ sở hữu thì coi tài sản được hình thành từ nguồn vốn sở hữu ban đầu (vốn Nhà nước). Người lao động muốn Nhà nước chia phần giá trị doanh nghiệp đó, còn Nhà nước lại tính toán toàn bộ vào giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
- Công tác xác định giá trị doanh nghiệp tuy đã có những bước đổi mới, song việc xác định giá trị tại nhiều địa phương còn mang tính chủ quan, không thống nhất với cách xử lý của TW như đánh giá cao giá trị doanh nghiệp nhằm thu hồi vốn, hay đánh giá thấp giá trị doanh nghiệp để đẩy nhanh CPH lấy thành tích, do đó hoặc làm chậm tốc độ CPH hoặc gây thất thoát về tài sản quốc gia.
- Công tác chuẩn bị và hỗ trợ cho các DNNN thực hiện CPH chưa tốt nên nhiều doanh nghiệp khi tiến hành CPH gặp không ít khó khăn, nhất là vấn đề giải quyết các tồn tại của DNNN trước đây hay giải quyết vấn đề người lao động dư thừa khi CPH. Hơn nữa nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn, nếu không có trợ giúp thì rất khó chuyển thành công sang CTCP.
Những thành tựu đạt được.
- Tiến độ CPH bước đầu được cải thiện.
Đã gần 10 năm trôi qua kể tư khi có chủ trương chuyển đổi một số DNNN sang CTCP. Tính đến giữa tháng 6/2000 cả nước ta đã CPH được 426 doanh nghiệp, trong đó từ tháng 6/1992 đến 4/1996 CPH được 5 doanh nghiệp, từ tháng 5/1996 đến tháng 6/1998 CPH được 25 doanh nghiệp và từ 7/1998 đến năm 2000 CPH được 396 doanh nghiệp.
Trước đây việc tiến hành CPH một DNNN được tiến hành thường kéo dài 2 năm, thậm chí 5 năm nhưng hiện nay khoảng cách về mặt thời gian đó đã được rút ngắn lại.
- Đối với doanh nghiệp đã CPH.
Huy động được lượng vốn lớn, thay đổi phương thức quản lý, điều hành DNNN, tạo sự đồng tình ủng hộ cao của người lao động và các nhà đầu tư trong và ngoài nước.Thực hiện CPH, các DNNN đã huy động được một lượng vốn rất quan troongjtwf cán bộ công nhân viên làm việc tại doanh nghiệp và trong dân cư để đầu tư phát triển. Tính đến thời điểm 2/6/1998, tại 30 DNNN đã CPH, số vốn thu hút được là 166.077 triệu đồng (= 50% tổng vốn điều lệ của doanh nghiệp này). Thông qua kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp lại có điều kiện gọi thêm vốn chính phủ để mở rộng quy mô hoạt động. Các cổ đông do có lợi íc nên sẵn sàng bỏ thêm vốn vào công ty. Đồng thời do tạo thêm được việc làm mới, người lao động mới gia nhập công ty cũng sẵn sàng bỏ vốn đầu tư vào công ty dưới hình thức cổ phần.
Nâng cao tính tự chủ, đổi mới quản tri trong doanh nghiệp. Chuyển DNNN thành CTCP là chuyển hoạt động của doanh nghiệp từ chỗ chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước sang Nhà nước quản lý thông qua các công cụ pháp luật, chính sách.... Hoạt động của doanh nghiệp chịu sự tác động trực tiếp của cơ chế thị trường. Điều này buộc doanh nghiệp phải đổi mới hoạt động chính trị từ tư tưởng dựa dẫm vào sự bao cấp Nhà nước sang tư tưởng tự lực, lơi ăn lỗ chịu.
Bộ máy Nhà nước cũng được bố trí tinh giảm, gọn nhẹ, giám đốc điều hành do hội đồng quản trị thuê. Hội đồng quản trị trong CTCP do đại hội đồng cổ đông trong công ty bầu ra, thực sự là đại diện cho cổ đông, khác vơi bộ máy quản lý trong doanh nghiệp do Nhà nước bổ nhiệm.
Mọi hoạt động trong CTCP được tiến hành theo điều lệ và quy định chặt chẽ của công ty. Đây là cơ chế cho phép phát huy tốt vai trò của chủ sở hữu, đông thời phát huy năng lực của người quản lý chuyên nghiệp, tạo điều kiện áp dụng những thành tựu mới trong quản trị doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Thu hút được người ngoài xã hội tham gia quản lý, điều hành CTCP.
- Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp được tăng lên rõ rệt: hầu hết các DNNN CPH đều có chuyển biến tích cực, toàn diện, kể cả những doanh nghiệp trước CPH thua lỗ.
Doanh thu bình quân hàng năm tăng trên 25% trong 6 tháng đầu năm 1999, có những CTCP đạt doanh thu gấp đôi của cả năm trước khi CPH.
Lợi nhuận trước thuế bình quân hàng năm trên 26%, có công ty đạt lợi nhuận gấp 2-3 lần so với trước khi CPH.
Nộp ngân sách tăng bình quân hàng năm trên 30%, một số công ty đạt gấp đôi so với trước khi CPH.
Thu nhập hàng tháng của người lao động tăng.
-Hình thành cơ chế phân phối mới ở các DNNN CPH theo hướng phát huy các nguồn lực trong điều kiện KTTT.
Trước CPH, việc phân phối thu nhập ở các DNNN do Nhà nước trực tiếp quy định mang nặng tính binh quân. Sau khi chuyển thành CTCP, người lao động mua cổ phiếu và trở thành cổ đông, họ vừa là người chủ doanh nghiệp, vừa là người làm thuê. Điều đặc biệt trong các DNNN CPH đã hạn chế được tình trạng lãng phí, thất thoát vốn, giảm các chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khẳ năng cạnh tranh trong doanh nghiệp trên thị trường. Điển hình như khách sạn Phú Gia (Hà Nội) sau khi CPH đã tiết kiệm được hơn 50% tiền điện, gần 30% chi phí hành chính và vệ sinh.
Đối với Nhà nước:
-Sở hữu Nhà nước bước đầu được cấu trúc lại theo yêu cầu phát triển nền KTTT, tăng cường vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước. Qua bán cổ phiếu Nhà nước đã huy động được một lượng vốn quan trọng từ người lao động trong doanh nghiệp và trong dân cư vào đầu tư phát triển. Tại 370 DNNN đã CPH, tính đến hết năm 1999, Nhà nước đã thu hút được 1.349 tỷ đồng đầu để đầu tư vào các DNNN khác và giải quyết một số chính sách cho người lao động trong DNNN thực hiện CPH.
CPH không chỉ cơ cấu lại sở hữu Nhà nước, hệ thống DNNN phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mà còn tạo điều kiện để Nhà nước đầu tư theo chiều sâu, đổi mới kỹ thuật, công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống DNNN, qua đó tăng cường vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước trong nền KTTT. Thông qua cổ phiếu của mình trong các CTCP và bằng luật pháp, chính sách của Nhà nước vẫn phát huy tốt vai trò điều tiết, định hướng nền kinh tế.
-Vốn và tài sản Nhà nước không chỉ được bảo toàn mà còn tăng vốn đáng kể. Hàng năm Nhà nước thu được lợi tức từ cổ phần Nhà nước tại CTCP, các khoản lãi do cho người lao động vay mua chịu cổ phiếu, các khoản thuế mua từ thuế của CTCP. Do chuyển sang CTCP các doanh nghiệp làm ăn ngày càng hiểu quả hơn, Tính đến hết năm 1996, phần lợi tức Nhà nước thu được tại các DNNN đã CPH là 6.995 triệu đồng, tiễn lai do cho người lao động vay mua chịu cổ phiếu là 522 triệu đồng, nộp ngân sách Nhà nước của 16 CTCP đầu tiên đã hoạt động được trên một năm bình quân tăng 260% so với trước khi CPH.
-Nhà nước không phải mất một khoản ngân sách để hỗ trợ vốn hoặc bù lỗ hàng năm cho các DNNN đã CPH như các thời kỳ trước đây.
-Đổi mới nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, việc CPH DNNN đã thúc đẩy quá trình chuyển quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp từ trực tiếp sang gián tiếp thông qua các công cụ pháp luật, chính sách, thúc đẩy củng cố, nâng cao hiệu lực của hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước, nâng cao năng lực của quản lý kinh tế của đội ngũ cán bộ. Các cơ quan quản lý Nhà nước không còn vướng nhiều vào quản lý những nội dung như vốn, lao động, những tác nghiệp của CTCP như các DNNN trước đây mà tập trung nghiên cứu xây dựng môi trường pháp lý phù hợp nền KTTT định hướng XHCN.
Đối với người lao động:
-Phát huy vai trò làm chủ của người lao động trong quản lý và hoạt động sản xuất- kinh doanh của DNNN. Trở thành cổ đông- người chủ sở hữu của doanh nghiệp, quyền lợi của người lao động găn chặt với sự phát triển của doanh nghiệp- vì vậy, khắc phục được những hiện tượng tiêu cực, vô trách nhiệm, lãng phí,vv...,căn bệnh hết sức nghiêm trọng trong cơ thế cũ.
-Thu nhập của người lao động tăng lên. Trong DNNN CPH, ngoài tiền lương được trả gắn liền với sự đóng góp của doanh nghiệp, họ còn được hưởng lợi tức cổ phần mà mình góp vồn vào công ty. Do chuyển sang CTCP, doanh nghiệp kinh doanh có hiểu quả và ngày càng phát triển nên cả tiền lương và lợi tức cổ phần ngày càng tăng lên.
Thu hút thêm lực lượng lao động xã hội. Sau CPH, lực lượng lao động trong doanh không không giảm đi mà còn tăng lên, các cán bộ công nhân viên của DNNN vẫn được tiếp tục làm việc tại CTCP. Theo số liệu ban đầu của doanh nghiệp TW, tính đến 20-10-1999, tại 270 DNNN CPH lao động tăng thêm bình quân 20% do mở rộng sản xuất, tăng thêm mặt hàng...
Góp phần thúc đẩy việc hình thành thị trường chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán cơ bản, có 5 chủ thể lớn, đó là người mua chứng khoán; người bán chứng khoán; người môi giới chứng khoán và kinh doanh chứng khoán; người điều hoà thị trường chứng khoán; người tổ chức hoạt động mua bán chứng khoán. Trong 5 chủ thể trên, chủ thể thứ nhất và thứ hai mang tính quyết định bởi lẽ ra nó là nhân tố ban đầu tạo ra thị trường chứng khoán. Nguồn cung cấp bao gồm: chính phủ, các cơ quan chính phủ, các tổ chức tài chính, các DNNN, nhưng nguồn quan trọng nhất tạo nên sự chú ý cho người mua chứng khoán vẫn là cổ phiếu của các CTCP
CPH DNNN nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong khu vực và thế giới, thúc đẩy quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Tình hình thực hiện CPH được thực hiện thông qua hệ thống luật cải cách doanh nghiệp và nó đã có các hình thức CPH DNNN là: điều 3- NĐ số 64/2002/ NĐ-CP ngày 19/6/2002
-Giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn.
Bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
Bán toàn bộ vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn.
Trong quá trình thực hiện, cần quan tâm đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp CPH: điều 7- NĐ số 64/ 2002/ NĐ-CP ngày 19/6/2002
Doanh nghiệp CPH có trách nhiệm sắp xếp, sử dụng tối đa số lao động có tại thời điểm CPH và giải quyết các chế độ cho người lao động theo quy trình hiện hành.
CTCP có trách nhiệm kế thừa mọi nghĩa vụ đối với người lao động từ DNNN chuyển sang; có quyền tuyển chọn bố trí sử dụng lao động và phối hợp với các cơ quan liên quan giải quyết chế độ cho người lao động theo quy định của pháp luật.
CTCP được chủ động sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn đã CPH để tổ chức sản xuất kinh doanh; kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của DNNN trước khi CPH và có các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp thành viên thuộc tổng công ty Nhà nước CPH mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối (trên 50% vốn điều lệ) thì vẫn là thành viên của tổng công ty.
2.1.2.2. Hạn chế trong việc thực hiện.
Vì sao cổ phần hoá chậm.
Trong thời gian gần đây tốc độ CPH diễn ra nhanh so với trước.Tính riêng 8 tháng đầu năm 1999 đã CPH được 98 doanh nghiệp, trong khi hơn 7 năm trước (từ tháng 5-1990 đến hết năm1998) chỉ CPH được 108 doanh nghiệp. Có thể nói đây là sự tiến bộ vượt bậc về CPH. Tuy nhiên, so với chỉ tiêu mà Chính Phủ đề ra cho năm 1999 là 400 doanh nghiệp thì mới chỉ đạt 24,5%. Như vậy tiến độ CPH vẫn còn rất chậm. Vì sao vậy?
Về phía khách quan:
Chúng ta tiến hành CPH DNNN trong bối cảnh nền kinh tế đang thực hiện những bước quá độ từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền KTTT. Trong bối cảnh đó, các điều kiện khách quan cần thiết cho việc triển khai CPH còn nhiều bất cập;
Trình độ xã hội hoá sản xuất chưa thật chín muồi
Từ một nền sản xuất nhỏ, cái thiếu lớn nhất của ta là “ Cốt vật chất” của một nền kinh tế phát triển. Ngoài một số ít lĩnh vực và cơ sở kinh tế được trang bị máy móc, thiết bị hiện đại, còn phần lớn là thủ công (hiện còn 54,3% số DNNN TW và 94% DNNN địa phương ở trình độ thủ công). Vì thế năng suất chất lượng, hiệu quả sản suất của ta còn thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới (mỗi ngày một người dân Việt Nam chỉ thu nhập khoảng 1USD, trong khi đó của Trung Quốc là 2,3 USD, Malaixia là 9,5 USD, Singapo 84USD, Hàn Quốc 16 USD. Phân công lao động xã hội ở trình độ thấp kém: hơn 70% lực lượng lao động và gần 80% dân số trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. Năm 2000 cơ cấu GDP của ta còn rất lạc hậu: nông nghiệp chiếm 25,3%, công nghiệp chiếm 32,7%, dịch vụ 42% trong khi đó cũng vào năm này cơ cấu của Trung Quốc là 16,5%- 55,4%-28,3%; của Malaixia là 11,3%-45,8%- 42,9% ;của Hàn Quốc là 6,1%- 43,2%-50,6%. Trình độ kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng cho sản xuất rất yếu kém. Sản xuất điện của ta năm 2000 đạt 279 kwh, Philippin 510kwh, Thái Lan 1541 kwh và Singapo 8448 kwh.
Nền kinh tế đó phản ánh tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất đang ở trình độ rất thấp. Theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì ở nước ta chưa thực sự có những cơ sở điều kiện chín muồi để các hình thức tổ chức kinh tế mang tính chất xã hội hoá rộng rãi như CTCP ra đời và phát triển.
Nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành. Hiện có hơn 40000 doanh nghiệp và công ty, song hoạt động cũng chưa thực sự được thương mại hoá. Tính đến hết tháng 8-1999 mới có khoảng 400 CTCP. Như vậy số CTCP mới chiếm khoảng 1% trong tổng số doanh nghiệp hiện có của nền kinh tế. Điều đó chứng tỏ rằng hình thức CTCP chưa phải là phổ biến ở nước ta hiện nay.
Các loại thị trường chưa phát triển đồng bộ. Hiện tại ta có thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường các yếu tố sản xuất khác như sức lao động, vốn... đang ở trình độ sơ khai, thị trường chứng khoán chưa hình thành. Theo logic của sự phát triển thì CTCP là sản xuất tất yếu của nến sản xuất xã hội hoá và của nền kinh tế thị trường phát triển. Nhưng ở nước ta, nền sản xuất đang trong giai đoạn đầu của xã hội hoá, nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành. Vì vậy các điều kiện kinh tế liên quan trực tiếp đến sự ra đời, tồn tại và phát triển của CTCP, cũng như việc triển khai DNNN ở nước ta chưa phải đã hình thành đầy đủ và đồng bộ như ở các nước đã có nền kinh tế thị trường phát triển.
Trình độ dân trí thấp, mang nặng tâm lý sản xuất nhỏ.Xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, lại nhiều năm vận hành trong cơ chế cũ, nên trình độ kiến thức và yếu tố tâm lý của ta còn bị ảnh hưởng nặng nề, chưa thích ứng với cơ chế mới. Theo điều tra mới đây của Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội
Số người có trình độ đại học,cao đẳng trở lên của ta chiếm 1,3% dân số (khoảng 1 triệu người). Số lao động giản đơn chiếm tỷ lệ rất cao:87,8%, trong khi số trình độ lao động có trình độ trung cấp và sơ cấp lại rất thấp khoảng 4% trong tổng số lao động hiện có. Kiến thức thiếu hụt nhất trong nhân dân và cán bộ ta hiện nay về KTTT, công nghệ, tin học và ngoại ngữ. Ngay cả đội ngũ giám đốc trong các DNNN cũng phần lớn chưa ngang tầm được giao.Qua khảo sat 506 DNNN có 37 giám đốc chưa tốt nghiệp văn hoá phổ thông, chỉ co 87 người sử dụng được ngoại ngữ nhưng chưa thành thạo. Đội ngũ này trình độ đào tạo mới chỉ được nâng lên về hình thức,vì vậy tri thức về, kinh doanh... chưa được chuyển tải kịp thời và đầy đủ cho đội nguc cán bộ doanh nghiệp. Đây là những lực cản không nhỏ đối với tiến trình CPH.
Về mặt tâm lý xã hội: do bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của xã hội cổ truyền và những năm bao cấp, nên nhân dân ta còn mang nặng tâm lý “đồng tiền ăn liền khúc ruột”, chưa quen với đầu tư tiền vào mua cổ phiếu. Theo điều tra, ước tính của bộ kế hoạch và đầu tư và tổng cục thống kê, nguồn vốn trong dân hiện có từ 6-8 tỷ USD, trong đó 44% để dành mua vàng, ngoại tệ; 20% mua nhà, đất, cải thiện điều kiện sinh hoạt; 17% tiền gửi tiết kiệm, chủ yếu loại ngắn hạn; chỉ có 19% dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư, nhưng chủ yếu là đầu tư ngắn hạn.
Những hiện tượng như chụp giật, chiếm giật vốn của nhau, lừa đảo, tham nhũng, coi thường kỷ cương phép nước... đã có ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý đầu tư vào cổ phiếu của người có vốn. Thực tế, vốn trong dân có nhiều, nhưng do môi trường pháp lý chưa thật sự đảm bảo nên họ không dám đầu tư.
b. Về phía chủ quan.
Trong điều kiện chủ quan như trên, để thúc đẩy tiến trình CPH DNNN đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan, song trong thời gian qua nhân tố này có nhiều vướng mắc.
Thứ nhất, chưa làm tốt việc thâu suốt quan điểm, chủ trương CPH DNNN của Đảng và Nhà nước.
Cho đến nay vẫn còn các cấp, ngành, địa phương chưa hưởng ứng tích cực chủ trương CPH vì cho rằng CPH chẳng khác gì tư nhân hoá, nó sẽ là chệch hướng XHCN, làm suy yếu vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Từ đó họ do dự, chần chừ, chờ đợi, nghe ngóng thiếu chủ động.
Một số bộ, tỉnh, thành phố xuất phát từ những lợi ích cục bộ, muốn có trong tay một số doanh nghiệp để chi phối nên cũng không muốn CPH. Họ sợ mất chức quyền, bổng lộc,lại phải lãnh trách nhiệm nặng nề hơn. Họ viện lý do củng cố, sắp xếp tổ chưc lại doanh nghiệp, để trì hoãn công việc này. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc phối hợp chỉ đạo giữa các cấp uỷ, chính đoàn thể không đồng bộ, thiếu thống nhất, làm cho CPH chậm trễ ngay từ khâu xây dựng phương án cơ sở.
Công ty tuyên truyền vận động từ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước, trong cán bộ công nhân viên và toàn xã hội chưa được đẩy mạnh. Thậm chí đã có những công nhân đã mua cổ phần ở doanh nghiệp CPH, song cũng không hiểu biết về chủ trương này. Thực chất họ nộp tiền mua cổ phần là để tiếp tục được làm việc tại công ty. Họ không biết rằng họ dã trở thành cổ đông của công ty, rằng mình sẽ có quyền lợi và nghĩa vụ tương ứng với số cổ phần mà mình mua vv....Tất cả những điều đó là do công tác tuyên truyền, vận động, giải thích về chủ trương CPH chưa được quán triệt, chưa làm đến nơi, đến chốn và đó là một trong những nguyên nhân làm chậm tiến trình này.
Thứ hai, việc điều hành triển khai CPH còn chậm và lúng túng.
Điều này trước hết thể hiện ở một số nội dung trong đó các văn bản chỉ đạo, tổ chức triển khai chưa rõ ràng và thiếu tính hệ thống. Chẳng hạn: CPH là tự nguyện hay bắt buộc đối với các DNNN? Giá trị đất đai có tính vào giá trị doanh nghiệp để CPH không? Trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong triển khai CPH như thế nào?
Sự chậm trễ và lúng tung trong việc triển khai CPH còn thể hiện ở chỗ cho đến nay chính phủ vẫn chưa có chủ trương CPH tổng thể mang tầm vĩ mô cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân để làm căn cứ cho việc xác định tiến độ CPH; chưa có một đạo luật hay pháp lệnh CPH DNNN làm cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện, vẫn con những tỉnh chưa, thành phố chưa thành lập được ban chỉ đạo CPH.
Thứ ba, chế độ chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động trong các doanh nghiệp CPH chậm được ban hành, sửa đổi và chưa đủ sức hấp dẫn.Theo nghị định 44/1998/NĐ-CP, các doanh nghiệp CPH được hưởng một số ưu đãi hơn các doanh nghiệp được CPH về mức vay, khoản nợ, xoá nợ tại ngân hàng thương mại, lại chưa nộp tiền thuê đất. Các DNNN được vay vốn bằng tín chấp của cơ quan Nhà nước, còn các doanh nghiệp được CPH phải thế chấp mới được vay...Thực tế này đã níu kéo các DNNN, không khuyến họ hưởng ứng CPH.
Mặc dù chính phủ đã ban hành và sửa đổi nhiều chế độ, chính sách đối với người lao động trong các doanh nghiệp CPH song đến nay vẫn còn nhiều vướng mắc. Chẳng hạn việc thực hiện nghị định 44/1998/ NĐ-CP đã dẫn đến hiện tượng ở doanh nghiệp này người lao động được mua đủ 10 cổ phiếu ưu đãi cho một năm, nhưng ở doanh nghiệp khác người lao động chỉ được mua 6 cổ phiếu, 4 cổ phiếu thậm chí còn ít hơn. Bộ tài chính đã trình đề án thành lập quỹ hộ trợ sắp xếp và CPH DNNN để giải quyết tình trạng trên.
2.1.2.2.2. Khó khăn khi thực hiên cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
- Khó khăn đầu tiên đối với quá trình CPH DNNN là phản ứng từ một bộ phận lãnh đạo DNNN. Những người này sợ bị mất chức, mất quyền, sợ trách nhiệm, sợ phải đối mặt với thị trường nên đã không hang hai thực hiện CPH. Ngoài ra còn có một số quy định chưa đồng bộ và không khuyến khích người lãnh đạo doanh ngiệp tham gia CPH. Ví dụ: Việc xếp lương chức vụ đối với viêm chức quản lý doanh nghiệp, xác định phụ cấp...dựa trên cơ sở xếp hạng doanh nghiệp và hạng doanh nghiệp được đánh giá theo các tiêu chí về vốn, chủng loại mặt hàng kinh doanh, phạm vi hoạt động, hiểu quả sản xuất kinh doanh (doanh thu, nộp ngân sách Nhà nước, lợi nhuận...). Khi DNNN CPH đơn vị thành viên hay tổng công ty CPH doanh nghiệp thành viên thì các tiêu chí nêu trên của doanh nghiệp hay tổng công ty đều có xu hướng giảm xuống,... và doanh nghiệp sẽ bị xuống hạng, làm giảm mức lương, phụ cấp của người lãnh đạo. Do vậy, họ không muốn CPH bộ phận doanh nghiệp hoặc CPH doanh nghiệp thành viên của tổng công ty.
Người lao động có tâm lý chung sợ mất việc làm sau khi doanh nghiệp CPH, sợ sự phân biệt đối xử giữa khu vực Nhà nước và khu vực ngoài Nhà nước...
Tuy quan niệm Xã hội đã có nhiều thời thay đổi nhưng định kiến về vị trí người lao động làm việc trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn khá nặng nề. Thực tế người lao động trong DNNN được chia lợi tức của doanh nghiệp thông qua việc họ được hưởng và các khoản phúc lợi từ lợi tức của doanh nghiệp dù họ không phải đóng góp vốn, nhưng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh người lao động không được chia lợi tức nếu hộ không góp vốn. Việc sa thải lao động trong DNNN khó hơn nhiều so với việc sa thải lao động không muốn CPH.
Nhiều cơ quan quản lý chuyên ngành, địa phương đã không tích cực triển khai việc CPH bởi vì họ không muốn mất đầu mối quản ly, giảm quyền lực đối với những DNNN này.
- Một số quy định ưu đãi đối với DNNN CPH ít đi vào thực tế do chưa đảm bảo tính đồng bộ giữa các văn bản pháp lý. Mặc dù có quy định doanh nghiệp CPH tiếp tục được vay vốn tín dụng ngân hàng theo cơ chế và lãi suất như DNNN, nhưng thực tế doanh nghiệp CPH gặp nhiều khó khăn trong lĩnh vực này. Ví dụ: trong một số trường hợp khi doanh nghiệp CPH muốn vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất, kinh doanh thì phải có ý kiến của cơ quan chủ quản, nhưng doanh nghiệp đã CPH nên không có cơ quan chủ quản và như vậy doanh nghiệp không thẻ vay được vốn của ngân hàng.
-Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp và giá bán cổ phần của doanh nghiệp còn nhiều bất hợp lý. Theo quy định hiện hành, việc xác định giá trị doanh nghiệp mới tính đến giá trị tài sản và lợi thế kinh doanh trong quá khứ và hiện tại. Trên thực tế, còn có doanh nghiệp bất lợi thế nhưng quy định hiện hành không khấu trừ bất lợi vào trong giá trị doanh nghiệp. Giá bán cổ phần của doanh nghiệp cũng có những điểm bất cập. Hiện tại, việc xác định giá trị doanh nghiệp đồng nghĩa với việc xác định giá bán. Do đó, giá bán mang tính áp đặt mới chỉ cá các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và doanh nghiệp tham gia định giá, còn người mua thụ động và lệ thuộc vào quyết định của người bán.
- Một điểm nữa trong việc xác định giá bán doanh nghiệp là chưa tính đầy đủ đến yếu tố lao động. Với các điều kiện khác tương tự như nhau thì giá của doanh nghiệp có nhiều lao động dôi dư phải khác giá của doanh nghiệp ít hoặc không có lao động dôi dư. Theo quy định hiện hành, Doanh nghiệp CPH phải đảm bảo sử dụng hết lao động của doanh nghiệp trong thời gian ít nhất là một năm. Như vậy, lao động là một yếu tố mà nhà đầu tư xem xét khi quyết định mua cổ phần của doanh nghiệp. Như hiện nay cách định giá doanh nghiệp chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư mua cổ phần.
- Chưa có chính sách công khai hoá hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đã CPH để tạo lòng tin cho các doanh nghiệp chuẩn bị CPH và các doanh nghiệp khác trong diện CPH.
- Quy định việc phân bổ quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi của doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận trên vốn năm nay không thấp hơn năm trước đã gây khó khăn đối với doanh nghiệp CPH bộ phận hoặc tổng công ty CPH doanh nghiệp thành viên, bởi vì bộ phận hoặc doanh nghiệp thành viên tiến hành CPH thường là những đơn vị kinh doanh tốt và do đó sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận trên vốn của doanh nghiệp hoặc tổng công ty sau CPH
2.1.2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế.
a. Nguyên nhân khách quan.
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp.
Đại bộ phận cơ sở vật chất- kỹ thuật còn ở trình độ thấp máy móc cũ, kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, quy mô nhỏ bé. Bộ phận lao động thủ công vẫn còn chiếm một tỷ trọng lớn trong toàn xã hội.
Trình độ phân công lao động xã hội còn rất thấp, hơn 70% lao động và 80% dân số thuộc lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Nông nghiệp chủ yếu là cây lúa, cây công nghiệp mới được chú trọng phát triển, công nghiệp chế biến phát triển chậm, tỷ trọng nông sản hàng hoá thấp so với tổng khối lượng sản phẩm nông nghiệp, nhiều vùng còn mang tính tự túc tự cấp.
- Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang trong quá trình hình thành.
Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền KTTT với điểm xuất phát thấp và chịu ảnh hưởng rất nặng nề của cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp. Các hình thức tổ chức của KTTT đang trong quá trình hình thành. Cả nước có hơn 40000 doanh nghiệp và công ty, nhưng quy mô nhỏ và hoạt động của chúng chưa thực sụ được thương mại hoá. Tính đến hết năm 2000 cả nước mới chỉ có 396 doanh nghiệp CPH.
- Trình độ dân trí thấp, mang nặng tâm lý sản xuất nhỏ.
Xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, lại qua nhiều năm vận hành theo cơ chế tập trung, quan liên, bao cấp nên cả trình độ văn hoá cũng như chuyên môn và tâm lý xã hội bị hạn chế và ảnh hưởng nặng nề, chưa thích ứng với yêu cầu phát triển cơ chế thị trường.
Về mặt tâm lý xã hội, do nền kinh tế kém phát triển, lại sống trong chế độ bao cấp nhiều năm, nên tâm lý kinh doanh, đầu tư, nhất là kinh doanh vốn, tiền tệ, như đầu tư và mua cổ phiếu vẫn là vấn đề rất xa lạ với đại đa số dân cư. Theo điều tra và ước tính của bộ kế hoạch và đầu tư, tổng cục thống kê, số tiền để dành trong dân cư trong thời điểm năm 2000 có từ 6 đến 8 tỷ USD, trong đó 44% để mua vàng, 20% mua nhà đất và cải thiện đời sống sinh hoạt; 17% gửi tiết kiệm; chỉ có 19% được sử dụng vào các dự án đầu tư, nhưng chủ yếu là ngắn hạn.
Bên cạnh đó, những hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, chụp giật, lừa đảo chiếm đoạ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35629.doc