Bản chất và tính 2 mặt của toàn cầu hoá kinh tế

Mục lục Trang Lời mở đầu Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một xu thế lớn của nền kinh tế thế giới và mối quan hệ kinh tế quốc tế trong thời đại ngày nay.Những phát triễn mạnh mẽ về khoa học và công nghệ đã góp phần đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Thương mại thế giới đã tăng lên nhanh chóng. Với sự ra đời của các thể chế toàn cầu và khu vực như WTO (tổ chức thương mại thế gới), EU (cộng đồng châu âu), APEC (diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - T

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1497 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Bản chất và tính 2 mặt của toàn cầu hoá kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hái bình dương), NAFTA (hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ). Sự phát triễn mạnh mẽ của công ty xuyên quốc gia..Với mục tiêu chức năng của mình các tổ chức kinh tế quốc tế đã tham gia và thúc đẩy hoạt động kinh tế quốc tế. Thế gới ngày nay đang sống trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ.Quá trình này thể hiên không chỉ xãy ra trong lĩnh vực thương mại mà cả trong lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, tài chính đầu tư cũng như các lĩnh vực văn hoá,xã hội,môi trường với các hình thức đa dạng và mức độ khác nhau.Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra những quan hệ gắn bó,sự phụ thuộc lẫn nhau và những tác động qua lại hết sức nhanh nhạy giữa các nền kinh tế.Thông qua quá trình tự do hoá, toàn cầu hoá tạo ra những lợi thế mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,đẩy mạnh giao lưu kinh tế giữa các nước, Góp phần khai thác tối đa lợi thế so sánh các nước tham gia vào nền kinh tế toàn cầu. Đối với một nước đang phát triến ở vào thời kì đẩy mạnh CNH-HĐH thì hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.Sự giao lưu kinh tế quốc tế chẳng những đem lại nguồn hàng hoá dịch vụ phong phú của thế giới cho tiêu dùng trong nước với giá hạ,những nguồn bổ xung lớn về khoa học –công nghệ,thiết bị,máy móc,kinh nghiệm quản lí hiện đại mà còn tạo nên động lực kích thích, khơi dậy nhưng nguồn lực tiềm năng sẳn có của đất nước, tạo nên bầu không khí sôi động trong đời sống kinh tế Quá trình toàn cầu hoá là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa các quốc gia. Không chỉ giữa nước giầu và nước nghèo mà ngay trong cả giữa các nước giầu với nhau để dành vị trí có lợi nhất cho mình trong phân công lao động và trong quan hệ quốc tế. Toàn cầu hoá kinh tế xét về bản chất là một quá trình gia tăng mạnh mẽ của các mối quan hệ,sự phụ thuộc lẫn nhau tác động qua lại của các quốc gia,khu vực trên lĩnh vực kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế với mặt trái của nó là cạnh tranh gay gắt trên quy mô thế giới đã và đang nảy sinh những vấn đề Xã Hội như thất nghiệp gia tăng, phân hoá giầu nghèo ngày một sâu thêm.Đồng thời toàn cầu hoá cũng mở đường cho sự du nhập những văn hoá và lối sống không phù hợp với truyền thống và bản sắc dân tộc của mỗi quốc gia. Quá trình toàn cầu hoá đang thúc đẩy mạnh mẽ sự hội nhập của các nước vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Hoà trong bối cảnh đó cùng với phương châm “Đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ” và là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển.Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước và hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng.Với việc gia nhâp ASEAN(7-1995),ký hiệp định chung về hợp tác kinh tế chung với EU(7-1995),tham gia OPEC(11-1998) và đang chuẩn bị tích cực cho việc đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới(WTO).Việt Nam đã và đang từng bước vững chắc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Hơn lúc nào hết, quá trình toàn cầu hoá không chỉ là sự quan tâm của mỗi quốc gia,mỗi tổ chức mà còn đối với mỗi cá nhân chúng ta là chủ nhân tương lai của đất nước. Đây là một vấn đề rộng lớn phức tạp có nhiều biến động, có cả những nhận thức và quan điểmkhác nhau, thậm chí đối lập nhau. Qua việc tham khảo tài liệu cùng với những kiến thức đã lĩnh hội trong nhà trường em đã chọn đề tài này “Bản chất và tính hai mặt của toàn cầu hoá kinh tế”. Nội dung của bài viết được trình bầy trong ba phần: Phần I: Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Phần II: Tác động của toàn cầu hoá kinh tế. Phần III: Viêt Nam cần tập trung cơ hội vượt qua thử thách hội nhập kinh tế có hiệu quả, biện pháp hội nhập kinh tế có hiệu quả. Em xin cảm ơn thầy Mai Hữu Thực đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Phần I: Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế 1. Toàn cầu hoá kinh tế Toàn cầu hoá, nó đề cập đến một thế giới xích lại gần nhau hơn, tới việc vượt qua những khoảng cách và sự khác biệt, tới việc mọi người cùng chia sẻ, hứa hẹn ở tương lai. Toàn cầu hoá là gì? Và tại sao điều này lại gây nhiều tranh cãi, nhiều quan niệm khác nhau về toàn cầu hoá mà có những lý giải không giống nhau về cơ sở của toàn cầu hoá, về tính tất yếu hay không của toàn cầu hoá. Hiện nay ngay trong thuật học cũng còn dùng khá nhiều khái niệm để cùng chỉ về quá trình toàn cầu hoá chẳng hạn trong nhiều tài liệu còn dùng từ thế giới hoá, quốc tế hoá và rồi hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, thậm chí có người còn đánh đồng thế giới hoá, toàn cầu hoá với các vấn đề có tính toàn cầu. Có quan điểm cho rằng toàn cầu hoá chỉ mới xuất hiện gần đây. Toàn cầu hoá được hiểu chính là chính sách của Mỹ nhằm bành trướng quyền lực, thống trị thế giới theo kiểu Mỹ. Thực chất toàn cầu hoá là Mỹ hoá. Quan điểm này không chỉ tồn tại ở các nước đang phát triển mà ngay cả các nước phát triển như Nhật Bản và Pháp...Chúng ta biết rằng sau chiến tranh lạnh, thế giới vận động theo trật tự đa cực với một siêu cường là Mỹ. Với sức mạnh của mình, Mỹ đang đóng vai trò chi phối bàn cờ thế giới. Theo lĩnh vực kinh tế, Mỹ thao túng các định chế kinh tế toàn cầu, đòi các quốc gia phải mở rộng thị trường, tham gia hội nhập vào bàn cờ kinh tế quốc tế theo các luật chơi đã được định sẵn, xuất phát từ nhu cầu, lợi ích và quan niệm chuẩn mực giá trị lối sống Mỹ. Vì vậy không phải ngẫu nhiên mà có ý kiến đồng nhất toàn cầu hoá với Mỹ hoá. Toàn cầu hoá biểu hiện trước hết ở sự gia tăng của tự do hoá trong lưu chuyển các loại hàng hoá, vốn công nghệ và lao động. Nguyên nhân dẫn đến quá trình tự do hoá, của sự lưu thông vượt khỏi biên giới quốc gia. Các yếu tố của quá trình sản xuất chính là ở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Nếu như không có sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong đó có sự phát triển của kỹ thuật, nhất là kỹ thuật giao thông đường thuỷ, đường sắt v.v...mà sau này là sự phát triển của khoa học, của kỹ thuật viễn thông thì dù có mở cửa thị trường, có tự do hoá kinh tế cũng không thể có sự lưu thông của quá trình sản xuất, của con người và của mối quan hệ nói chung giữa các quốc gia, các vùng. Loại quan điểm thứ hai là quan điểm vừa nhận tính tất yếu khách quan của quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Tuy vậy, ở đây còn có cách lý giải khác nhau. Có ý kiến cho rằng, toàn cầu hoá xét về mặt bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng tác động lẫn nhau, sự phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới. Toàn cầu hoá như vậy là một quá trình phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Kéo theo đó là sự gia tăng các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau ở cấp độ toàn cầu. Tuy vậy có ý kiến nhấn mạnh đến khía cạnh quan hệ sản xuất, xem “Toàn cầu hoá là một giải pháp về quan hệ sản xuất để phù hợp với lực lượng sản xuất ở thang bậc vĩ mô.” Có ý kiến giường như lại nhấn mạnh khía cạnh phát triển của lực lượng sản xuất, xem “Toàn cầu hoá là giai đoạn cao của quá trình phát triển lực lượng sản xuất thế giới, là kết quả tất yếu của phát triển kinh tế thị trường và khoa học công nghệ.” Hoặc có tác giả viết “Thực chất của toàn cầu hoá là ở chỗ hành vi kinh tế toàn cầu có ảnh hưởng căn bản đối với hệ thống chính trị thế giới, ngược lại chính trị lại có tác động to lớn hơn đối với kinh tế.” Toàn cầu hoá ngày nay về bản chất chính là sự tăng trưởng của hoạt động kinh tế, nói chung đã vượt khỏi biên giới quốc gia và khu vực. Nói khác đi toàn cầu hoá mang nội chủ đạo là toàn cầu hoá kinh tế, phát triển kinh tế vừa là mục tiêu vừa là động lực. Toàn cầu hoá là một xu hướng bao gồm nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội v.v...trong các mặt đó toàn cầu hoá là trung tâm, là cơ sở cũng là động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác và thực tế toàn cầu hoá kinh tế là xu thế nổi bật nhất. Cũng chính vì vậy các nghiên cứu thường tập chung bàn luận, phân tích về toàn cầu hoá kinh tế. Các chuyên gia OECD cho rằng: Toàn cầu hoá kinh tế là sự vận động tự do của các yếu tố sản xuất nhằm phân bố tối ưu các nguồn lực trên phạm vi toàn cầu, còn theo quan điểm của quỹ tiền tệ quốc tế thì toàn cầu hoá là sự gia tăng không ngừng các luồng mậu dịch, vốn, kỹ thuật với quy mô và hình thức phong phú, làm tăng sự phụ thuộc vào nhau giữa các nền kinh tế thế giới. Vậy từ các quan điểm ý kiến trên ta có: Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa các quốc gia. Không chỉ giữa các nước giàu với nước nghèo mà ngay cả các nước giàu với nhau để giành vị trí có lợi nhất cho mình trong phân công lao động và trong quan hệ quốc tế. 2. Vai trò của các chủ thể, các thể chế khu vực và toàn cầu trong việc thúc đẩy toàn cầu hoá. Khu vực hoá kinh tế là sự ra đời của các thể chế toàn cầu và khu vực như WTO ( tổ chức thương mại thế giới), EU (cộng đồng chung châu Âu ), TNC (các công ty xuyên quốc gia), APEC (diễn đàn hợp tác kinh tế châu á thái bình dương ), ASEAN... Sự ra đời của các tổ chức này góp phần không nhỏ vào quá trình toàn cầu hoá. Thứ nhất, là sự bành chướng của các công ty xuyên quốc gia. Sự phát triển mạnh mẽ TNC trong những thập niên qua vừa phản ánh đặc điểm của quá trình toàn cầu hoá, vừa là nhân tố thúc đẩy quá trình quốc tế hoá gia tăng mạnh mẽ lên một bước mới toàn cầu hoá. Vào nửa sau thế kỷ XX dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã đưa lại sự phát triển chưa từng có của các công ty xuyên quốc gia. Nếu vào cuối những năm 60 có khoảng 7000 công ty thì đến năm 80 có khoảng 20.000 và năm 1998 có khoảng 60.000 công ty mẹ và trên 500.000 công ty con rải rác ở khắp các quốc gia trên địa cầu. Với một mạng lưới rộng khắp như vậy, hoạt động của chúng thực sự tác động đến nền kinh tế toàn cầu, chúng kéo theo các nền kinh tế quốc gia vào vòng chu chuyển của mạng lưới công ty. Hiện nay các công ty xuyên quốc gia kiểm soát 80% công nghệ mới, 40% nhập khẩu, 60% xuất khẩu, 90% đầu tư trực tiếp nước ngoài và sử dụng 34,5 triệu lao động, khoảng 500 công ty lớn kiểm soát tới 25% tổng sản phẩm thể giới và giá trị trao đổi của chúng tương đương 3/4 giá trị thương mại toàn cầu. Với sức mạnh như vậy các công ty xuyên quốc gia không những có ưu thế phân phối tài nguyên trong phạm vi toàn thế giới, giúp cho việc phân công lao động quốc tế đi vào chi tiết hoá mà còn thông qua toàn cầu hoá sản xuất và kinh doanh quốc tế để đẩy nhanh tiến trình toàn cầu hoá thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia trên địa phận toàn cầu đã tạo ra mạng lưới liên kết kinh tế quốc tế. Các quốc gia có thể tham gia ngay vào dây chuyền sản xuất quốc tế và cũng vì vậy mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau gia tăng. Như vậy sự phát triển và xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia vào các nền kinh tế dân tộc đã góp phần xoá bỏ sự ngăn cách, biệt lập trong phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Các quốc gia dân tộc từng bước tham gia, thích ứng với các chuẩn mực của nền kinh tế quốc tế, đồng thời nó cũng đem lại nét mới từ những bản sắc riêng của các quốc gia bổ sung vào kinh tế toàn cầu làm gia tăng tính đa dạng của nó. Thứ hai, là vai trò của các định chế kinh tế toàn cầu và khu vực. Các định chế kinh tế toàn cầu ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi của xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế. Sự tồn tại và hoạt động cuả các định chế kinh tế toàn cầu và khu vực lại góp phần thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của xu thế toàn cầu hoá. Trong các tổ chức kinh tế, thương mại, tài chính, toàn cầu và khu vực có ảnh hưởng lớn tới quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá về kinh tế, phải kể đến WTO, IMF, WB và các tổ chức khu vực như EU, APEC, ASEAN... với các mục tiêu chức năng của mình các tổ chức kinh tế quốc tế đã tham gia và thúc đẩy các hoạt động kinh tế, điều phối và quản lý các hoạt động này. Cho dù tính hiệu quả của các tổ chức này còn được đánh giá khác nhau xuất phát từ quan điểm, lợi ích quốc gia, song không ai không thừa nhận sự cần thiết và vai trò của chúng thậm chí đang đặt ra yêu cầu về hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đổi mới nguyên tắc hoạt động của chúng. Thứ ba, là vai trò của các chính phủ và sự chuyển đổi trong chính sách phát triển từ thay thuế nhập khẩu sang hướng xuất khẩu ở nhiều quốc gia trên thế giới. Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu song tốc độ của toàn cầu hoá phụ thuộc rất nhiều vào chính sách của các quốc gia. Các chính sách này còn phù hợp với xu thế chung của quá trình tự do hoá hay không, các chính phủ có ủng hộ việc đó không? Có tích cực tham gia vào quá trình phá bỏ các hàng rào hạn chế luân chuyển các yếu tố sản xuất hay không đều tác động lớn đến xu thế toàn cầu. Chúng ta đã chứng kiến sự thụt lùi của qúa trình quốc tế hoá sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, điều này có liên quan rất lớn đến vai trò của các chính phủ. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất cả thế giới đi vào thời kỳ bảo hộ thương mại và nhiều hàng rào hạn chế duy chuyển của dòng vốn quốc tế cũng được đặt ra. Sau chiến tranh thế giới thứ hai các quốc gia phát triển cùng các tập đoàn tư bản đã nhận thấy vấn đề cần phải tự do hoá thương mại, giảm các hàng rào thuế quan nhằm bành trướng thế lực kinh tế ra bên ngoài. Các chính sách phát triển của chủ nghĩa tư bản dựa trên mô hình quản lý Taylor trong những năm 50-60 đang đặt ra không ít vấn đề do môi trường kinh doanh chuyển đổi. Nói tóm lại, toàn cầu hoá kinh tế không phải là hiện tượng mới. Nói như tác giả Nall Fitz Gerrald “Toàn cầu hoá không phải là sản phẩm sáng tạo của việc kinh doanh, không phải là một âm mưu của chủ nghĩa tư bản nhằm tạo ra một thế giới tập đoàn, cũng không phải là một điều tưởng tượng của thế giới học thuật.” Toàn cầu hoá là mở rộng tự do quốc tế hoá về tư bản và thương mại do sự thôi thúc của những thay đổi về dân số, chính trị, thương mại, kinh tế và công nghệ, được đẩy nhanh bởi các phương tiện liên lạc cao cấp. Nó vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của một quan niệm mang tính chất quốc tế, sau hàng thập kỷ tồn tại chế độ bảo hộ nền công nghiệp trong nước đã bị thất bại, cho rằng thị trường mở cửa tạo ra của cải. 3. Những tác động thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá. Theo thuật ngữ kinh tế, động lực của quá trình toàn cầu hoá có thể được thể hiện thông qua 3 xu hướng chủ đạo sau đây: Xu hướng thứ nhất và là xu hướng có tác động sâu sắc nhất, là sự thay đổi về khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của các quốc gia. Xu hướng thứ hai, là việc ngày càng có nhiều chính phủ theo đuổi chính sách tự do hoá, mở cửa thị trường và loại bỏ những cản trở về mặt luật lệ đối với các hoạt động kinh tế. Xu hướng thứ ba, là sự kết hợp của những công nghệ mới và những thị trường tự do hơn tạo điều kiện cho các khu vực kinh doanh ở nhiều nước có thể quốc tế hoá các hoạt động của mình, dệt nên một mạng lưới phức tạp hơn bao giờ hết, các hoạt động kinh tê với nhau trên bình diện toàn cầu. Cả ba xu hướng này: tiến bộ công nghệ, tự do hoá kinh tế, quốc tế hoá sản xuất đã làm cho các quốc gia trở nên phụ thuộc lẫn nhau hơn về mặt kinh tế, tạo ra những cơ hội cũng như những thách thức về kinh tế, xã hội, chính trị chưa từng có. Phần II: Tác động của toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. 1. Tác động của toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ nhất, là sự phát triển cao của lực lượng sản xuất,do sự phát triển mạnh mẽ cửa lực lượng sản xuất cùng với ý thức độc lập đã đưa lại sự phát triển mới của phân công lao động.Các quốc gia vốn trước là phụ thuộc sau khi dành được độc lập đã chủ động tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, tạo ra điều kiện cho sự phát triển hơn nữa của quá trình quốc tế hoá. Quan hệ giữa các quốc gia dân tộc,giữa các nước phát triển và kém phát triển từ đặc trưng phụ thuộc một chiều chuyển dần sang quan hệ tương hỗ phụ thuộc lẫn nhau. Từ sau chiến tranh thế giớ thứ hai gắn liền với sự phát triển của phong chào giải phóng dân tộc là hiện tượng khoa học –kỹ thuật phát triển mạnh mẽ. Và ngày càng trở thành lực lượng sản xuất phát triển trực tiếp. Các phát kiến về khoa học nhanh chóng được áp dụng vào sản xuất đã thúc đẩy phân công lao động lên một bước mới. Trên thực tế quan hệ giữa khoa học công nghệ và sản xuất ngay càng ngăn bó chặt chẽ với nhau. Dưới sự tác động của khoa học-công nghệ các ngành kinh tế truyền thống dần dần nhường bước cho các ngành đại diện cho tiến bộ khoa học kỹ thuật. Sự tăng trưởng của nền kinh tế từ dựa chủ yếu vào nguyên vật liệu và lao động đang chuyển sang dựa chủ yếu vào tri thức. Tri thức trở thành động lực chính cửa sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tóm lại, chính sự phát triển như vũ bảo của khoa học kỹ thuật đã làm phá vỡ hàng rào ngăn cách địa giới trong dao dịch của con người trên tất cả các mặt giữa các quốc gia. Điều này đã đẩy quốc tế hoá kinh tế lên một thời kỳ mới, thời kỳ toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Các quốc gia dù muốn hay không đều chụi tác động của quá trình toàn cầu hoá và đương nhiên để tồn tại, phát triển trong điều kiện ngày nay không thể không tham gia quá trình toàn cầu hoá,tức phải hội nhập quốc tế. Thứ hai, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường phát triển đã mở ra điều kiện cho sự gia tăng xu thế quốc tế hoá thể hiện trên hai khía cạnh chính. Kinh tế thị trường mở ra cơ sở, điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quy mô sản xuất không bó hẹp trong phạm vi của từng quốc gia mà mang tầm quốc tế, vậy cũng có nghĩa là thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc tế ngắn các quốc gia vào trong sự ràng buộc của sản xuất và tiêu thụ. Thứ hai kinh tế thị trường phát triển ở các quốc gia đưa lại cơ chế thống nhất cho xử lý các mối quan hệ kinh tế đó là cơ chế thị trường với sự cùng tồn tại của kinh tế thị trường, phương thức phân bố các nguồn lực từ sức lao động đến tư liệu sản xuất...Điều này rõ dàng là có ý nghĩa cho thúc đẩy mở rộng đầu tư, giao dịch thương mại và tiếp nhận nguồn lao động...Như vậy có thể nói sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường chính là cơ sở, là điều kiện cho quá trình quốc tế hoá. Nhìn chung các quốc gia trên thế giới ngày nay đều dựa trên cơ chế thị trường, sử dụng các phương tiện và công cụ kinh tế thị trường trong hoạt động kinh doanh, đưa lại một không gian rộng lớn, không gian toàn cầu cho các hoạt động sản xuất và lưu chuyển các yếu tố của chính quá trình sản xuất ấy.Thứ ba là sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh thế giới kết thúc chiến tranh lạnh,bước vào thời kì hoà bình,hợp tác và phát triển. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, thế giới hình thành trật tự đối đầu giữa hai cực, giữa hai hệ thống kinh tế- xã hội. Quan hệ giao lưu kinh tế giữa hai hệ thống rất hạn chế. Sự cách trở này là nhân tố ảnh hưởng lớn đến xu thế toàn cầu hoá. Nhìn chung các vấn đề toàn cầu đều có quan hệ nhân quả với nhau, cho nên phải có quan điểm tổng thể, khi giải quyết và đòi hỏi phải có sự nổ lực của mỗi quốc gia. Các vấn đề toàn cầu là liên quan đến mọi quốc gia, nó tác động trên phạm vi thế giới. Vì lợi ích của nhân loại, cũng như của chính mỗi quốc gia, đòi hỏi phải có liên kết sức lực của cả cộng đồng, bản thân mỗi quốc gia cho dù có tiền lực mạnh đến đâu cũng không thể giải quyết vấn đề liên quan đến toàn thế giới. Đây chính là cơ sở khách quan quy định thúc đẩy những cố gắng phối hợp liên kết sức mạnh, là cơ sở cho việc tiến tới thống nhất những quy trình, quy phạm chung cho quá trình phát triễn kinh tế.Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu của quá trình tập trung,chuyên môn hoá sản xuất và phân công lao động quốc tế.Khi nền kinh tế thế giới phát triễn thành một thị trường thống nhất thì không một quốc gia nào có thể đứng ngoài tiến trình này mà có thể tồn tại và phát triễn được. Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành một trong những xu thế chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại và sẽ tiếp tục phát triễn mạnh trong thế kỉ tới. Toàn cầu hoá và khu vực hoá được thể hiện rõ trong sự gia tăng rất nhanh trao đổi quốc tế về hàng hoá, dịch vụ, tài chính và các yếu tố sản xuất đồng thời được thể hiện qua sự hình thành và cũng cố củ các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Toàn cầu hoá đã và đang mang lại nhưng cơ hội to lớn cho nền kinh tế thế giới và cho mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập. Tự do hoá, luân chuyển hàng hóa, dịch vụ và vốn với việc hạ thấp hàng rào thuế quan, đơn giản hóa khâu thủ tục, cắt giảm kiểm soát hành chính sẽ góp phần giảm chi phí san xuất, đầu tư tăng sản lượng, giảm thất nghiệp tăng thêm lợi ích cho người tiêu dùng.Toàn cầu hóa tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng quay vốn và tạo điều kiện để đa dạng hóa các loại hình đầu tư. Nhờ đó nâng cao hiệu quả, vừa hạn chế rủi do đầu tư. Toàn cầu hóa thúc đẩy chuyển giao công nghệ, chuyển giao vốn, kỹ năng quản lý, qua đó mở rộng địa bàn đầu tư cho các nước phát triển, đồng thòi giúp các nước tiếp nhận đầu tư có thêm nhiều cơ hội phát triển. 2. Tính hai mặt của toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa là quá trình tất yếu, việc hội nhập tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế sẽ tạo cho các bên tham gia những cơ hội, đồng thời nó cũng đặt ra những thách thức. Có ý kiến cho rằng Toàn cầu hóa là “Thanh gươm hai lưỡi” có thể tạo ra những xung lực làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, đưa lại kỹ thuật mới góp phần nâng cao mức sống của người dân ở các quốc gia và nó cũng có thể làm xói mòn nền văn hoá và chủ quyền quốc gia, đe dọa sự ổn định kinh tế-xã hội…vv. Toàn cầu hoá kinh tế là môt quá trình phức tạp. Nó chứa đựng cả mặt tích cực xen lẫn mặt tiêu cực, tạo ra không chỉ thời cơ mà còn cả thách thức đan xen nhau đối với nên kinh tế thế giới và các quốc gia tham gia quá trình này, trong đó có quốc gia đang phát triển chịu tác động của thách thức nặng nề hơn. Mặt tích cực của toàn cầu hóa kinh tế thể hiện ở chỗ. Thứ nhất: là sự phát triển của toàn cầu hóa kinh tế phá bỏ những cản trở, những hàng rào ngăn cách giữa các quốc gia, mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quan hệ kinh tế quốc tế. Từ đó các quốc gia có thể tận dụng cơ hội cho phát triên từ thị trường bên ngoài.Chúng ta biết rằng, đối với nền kinh tế thị trường thì việc tạo lập một thị trường quy mô cho phát triển kinh tế là điều kiện rất quan trọng. Từ việc khai thông thị trường quốc gia với quốc tế cho phép bổ xung những mặt yếu của nên kinh tế dân tộc. Một thực tế hiển nhiên là không một quốc gia nào có đủ điều kiện xây dựng một nền kinh tế nội địa hiệu quả mà không cần tính đến thị trường bên ngoài, cho dù đó là những quốc gia khổng lồ như: Mỹ, Ân Độ hay kể cả Nga và Trung Quốc. Thứ hai:Toàn cầu hóa kinh tế, mở ra khả năng cho các quốc gia chậm phát triển nhanh chóng tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, từ đó hình thành một cơ cấu kinh tế - xã hội hiệu quả, đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình hiện đại hóa. Trong xu thế toàn cầu hóa phân công lao động quốc tế ngày một sâu sắc. xu hướng phân công lao động quốc tế ngày nay đang chuyển dịch từ phân công theo chiều dọc sang phân công lao động theo chiều ngang. Với sự phá bỏ của chủ nghĩa thực dân và do tác động của xu thế toàn cầu hóa, hình thức phân công theo chiều ngang trở thành hình thức phân công quốc tế chủ yếu với nội dung của nó là phân công theo bộ phân cấu thành sản phẩm. Với sự phát triển của loại hình phân công lao động quốc tế này, sản xuất trên phạm vi toàn cầu tạo thành một mạng lưới mà trong đó mỗi quốc gia tham dự là một mắt xích. điều đó cũng có nghĩa là với toàn cầu hóa dù tăng thêm sự phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau giũa các nền kinh tế tạo ra cục diện xâm nhập, đan xen, bổ xung, hỗ trợ lẫn nhau. Thứ ba: Quá trình toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các quốc gia tiếp cận với nguồn vốn và công nghệ kỹ thuật cũng như công nghệ quản lý. Ngày nay trong nền kinh tế toàn cầu hóa cùng với việc mở cửa thị trường làm cho các quan hệ trao đổi buôn bán hàng hóa và dịch vụ gia tăng mạnh mẽ là dòng lưu chuyển của vốn, công nghệ cũng được mở rộng và đẩy nhanh. Tham gia vào quán trình toàn cầu hóa các quốc gia không chỉ tận dụng được thị trường mà còn có thể thu hút, sử dụng các dòng vốn quốc tê. với việc mở của tiếp nhận nguồn vốn, các quốc gia Đông Nam á đã tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng được nhiều mặt hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh. Các quốc gia Đông Nam á là những chủ thể rất tích cực tham gia vào hệ thống phân công lao động theo chiều ngang hiện nay. Thứ tư: Hội nhập vào các tổ chức kinh tế toàn cầu vào khu vực cho phép các quốc gia thành viên đưpực hưởng những ưu đãi về thuế quan, hàng hóa có thể nhanh chóng tiếp cận được thị trường thế giới. Đối với các nước đang phát triển thì hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế cũng chính là tham gia vào diễn đàn cho phép mình bình đẳng bày tỏ quan điểm bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Các tổ chức khu vực và toàn cầu hóa là nơi tập hợp lại sức mạnh của Phương Nam vốn rất dễ bị phân tán để đấu tranh cho sự bình đẳng. việc hội nhập vào các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực, về thực chất là sự xâm nhập ràng buộc phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. điều này vô hình chung tạo ra cơ chế đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh với thực tế trong anh có tôi, trong tôi có anh đã tạo cơ sở tin cậy và hợp tác phát triển, ngăn ngừa các xung đột. chính vì vậy toàn cầu hóa sẽ góp phần gia tăng xu thế hoà bình, hợp tác phát triển. Thứ năm: Toàn cầu hóa kinh tế thực chất là quá trình mở cửa hội nhập của quốc gia. Trong quá trình hội nhập đó, các quốc gia đều nhanh chóng được tiếp nhận những thông tin, tri thức mới. Quá trình này góp phần nâng cao trình độ dân trí tạo cơ sở nền tảng cho dân chủ phát triển. Bởi lẽ dân chủ sẽ chỉ là hình thức khi nó dựa trên nền tảng dân trí thấp và ngược lại. ngày nay với mạng internet, số người sử dụng ngày một tăng đã nhanh chóng lan chuyền thông tin toàn cầu sự ngăn cách không gian, thời gian hầu như không còn ý nghĩa. Toàn cầu hóa thực sự thúc đẩy sự hiểu biết, xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Với các phương tiện thông tin, giao thông hiện đại, con người ở các vùng xa xôi, hẻo lánh cũng có thể tiếp cận được với những tri thức văn hóa thế giới, làm cho nhận thức của con người được nâng cao và vì vậy mà họ ý thức được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong cộng đồng, từ đó góp phần tác động đến tiến trình phát triển chung. Thứ sáu: Toàn cầu hóa mở ra khả năng phối hợp nguồn lực của các quốc gia dân tộc để giải quyết vấn đề có tính toàn cầu như: Vấn đề môi trường, dân số, chiến tranh hòa bình. Các vấn đề toàn cầu và khu vực có liên quan đến nhiều quốc gia, việc phối hợp sức mạnh quốc tế để giải quyết có thể được thực hiện trên những cấp độ khác nhau. Các quốc gia có thể tham gia trên cơ sở hoạch định những chính sách theo một xu hướng thống nhất dựa trên nguồn lực riêng như: Chương trình bảo vệ thiên nhiên làm ô nhiễm chất thải của mỗi quốc gia. Tuy vậy, bên cạnh mặt tích cực toàn cầu hóa kinh tế cũng bộc lộ những mặt tiêu cực Thứ nhất: Toàn cầu hóa không phân phối công bằng các cơ hội và lợi ích giữa các khu vực, quốc gia và trong mỗi quốc gia và từng nhóm dân cư. Trên thực tế trong toàn cầu hóa, những nước phát triển giầu có, những cá nhân giầu có mới được hưởng phần lớn những lợi thế đó. Vì vậy toàn cầu hóa đã làm gia tăng thêm tình trạng bất công, làm sâu sắc sự phân hóa giầu nghèo. Hiện nay các quốc gia phát triển chiếm 19% dân số thế giới, nắm 71% khối lượng trao đổi buôn bán tài sản và dịch vụ, 58% đầu tư trực tiếp nước ngoài và 91% người sử dụng mạng internet. Hầu như tuyệt đại bộ phận các công ty xuyên quốc gia, thế lực chính của toàn cầu hóa là thuộc về các quốc gia phát triển. Rõ ràng là cơ hội mà toàn cầu hóa mở ra là không ngang bằng cho các quốc gia. Điều chúng ta cần thấy là bản thân sự phân hóa giầu nghèo, sự gia tăng bất công không phải chỉ gắn với toàn cầu hóa mà nó có nguồn gốc từ bản chất của chế độ phân phối thu nhập. Toàn cầu hóa góp phần làm sâu sắc hơn tình trạng phân hóa giầu nghèo ơ chỗ nó đặt các cá nhân, các quốc gia ở những lợi thế cơ hội không giống nhau và dưới sự thao túng của các quốc gia tư bản phát triển cùng các tập đoàn xuyên quốc gia với mục đích tối đa hóa lợi nhuận gắn với tối thiểu hóa lao động, đã dẫn đến việc phân bổ lợi ích của tăng trưởng theo xu hướng “Từ dưới lên trên” và kết quả người giầu càng được lợi, càng giầu, người nghèo càng bất lợi, càng nghèo. Thứ hai: Với việc hội nhập, kỹ thuật công nghệ hiện đại được du nhập tạo ra khả năng nâng cao năng suất, đồng thời dòng sản phẩm hàng hóa dịch vụ của các nước phát triển có lợi thế sẽ lấn át sản phẩm của các quốc gia kém phát triển hơn. điều này đã đẩy đến chiến tranh gay gắt và nảy sinh vấn đề há sản, thất nghiệp làm trầm trọng hơn các vấn đề xã hội vốn đã rất nan giải ở các quốc gia chậm phát triển hơn. tuy vậy khi nhìn nhận vấn đề này cũng cần thấy một thực tế là do áp lực chiến tranh mà buộc các doanh nghiệp phải đổi mới làm ăn hiệu quả hơn. ở đây gắn liền vai trò của doanh nghiệp là vai trò và trách nhiệm của Nhà nước trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp. Về khía cạnh này, những kinh nghiệm của Nhật Bản là rất có ý nghĩa tham khảo. Thứ ba: Toàn cầu hóa mở ra cơ hội tranh thủ năng lực từ bên ngoài. Song chính điều đó lại bao hàm khả năng phụ thuộc vào hệ thống phân công lao động quốc tế. Nếu như không xác định được một chiến lược phát triển phù hợp dựa trên cơ sở phát huy nội lực là chính. Trong điều kiện toàn cầu hóa đang chịu sự chi phối của các nước tu bản phát triển thì sự phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế quốc tế tất sẽ chịu sự khống chế của các thế lực tư bản tài chính quốc tế. Điều này cũng có nghĩa dẫn đến thu hẹp phạm vi và quyền lực của các chính quyền quốc gia với chính quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đát nước mình. Thứ tư: Toàn cầu hóa cho phép tận dụng các nguồn lực để rút ngắn quá trình phát triển. Song nó bao hàm khả năng không bền vững trong phát triển có thể có tăng trưởng nhưng lại kèm theo những hậu quả khốc hại về mặt môi trường, xã hội. Điều này phụ thuộc rất lớn vào chính sách phát triển và hiệu quả của bộ máy quản lý. Thực trạng của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Việc mở của du nhập các thành tựu khoa học công nghệ, nguồn vốn… để phát triển, song công nghiệp lạc hậu, ô nhiễm môi trường, vốn thất thoát cùng các tệ nạn khác gia tăng. Điều cần thấy là việc chuyển giao công nghệ gắn liền với di chuyển cơ sở sản xuất ra bên ngoài của các nước, các công ty xuyên quốc gia, chính là nhằm tận dụng nguốn lao động ở nước tiếp nhận đầu tư, giảm các cơ sở công nghiệp ô nhiễm từ nước xuất ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35664.doc