Bản chất của lạm phát trong nền kinh tế - Luận chứng tác dụng và tác hại... mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp ở VN

Bộ tài chính Trường đại học tài chính kế toán Hà Nội Tiểu luận kinh tế vĩ mô Đề tài: bản chất của lạm phát trong nền kinh tế – luận chứng tính năng tác dụng và tác hại của lạm phát khi nền kinh tế suy thoái mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong điều kiện của Việt Nam hiện nay Giáo viên hướng dẫn : ts. Chu văn tuấn Sinh viên thực hiện : hoàng anh tú Lớp : d37 - 42 Hà Nội - 2000 Lời nói đầu Trong nền kinh tế thị trường thất nghiệp và lạm phát là vấn đề quan tâm đặc biệt k

doc42 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2072 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Bản chất của lạm phát trong nền kinh tế - Luận chứng tác dụng và tác hại... mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp ở VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông chỉ với những nhà hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô mà còn là mối quan tâm rất lớn của người dân bởi tầm quan trọng của nó, và điều này ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập việc làm và đời sống của mọi tầng lớp trong xã hội. Có thể nói lạm phát và thất nghiệp là thước đo thành tựu của một nền kinh tế của một quốc gia. Lạm phát và thất nghiệp nếu ở chừng mực vừa phải và phát huy tác dụng tích cực sẽ là nhân tố giúp cho ổn định và phát triển kinh tế, trái lại nó sẽ gây đình đốn trong sản xuất. ở Việt Nam vào những năm 1989 cho thấy tình trạng lạm phát rất nghiêm trọng và nghiêm trọng hơn với mức tăng giá 3 chữ số, năm cao nhất đạt chỉ số giá 557% vượt qua lạm phát phí mã với chỉ số trên tác hại và biểu hiện của nó không kém gì siêu lạm phát cũng có thể nói là siêu lạm phát. Đời sống nhân dân khổ cực khó khăn, hàng hoá ngày càng khan hiếm giá cả đắt đỏ, thị trường rối loạn. Sau năm 1989 với quyết tâm của Đảng và Chính phủ và những đổi mới tích cực trong hệ thống kinh tế. Trong đó có hệ thống ngân hàng và những thay đổi của chính sách tiền tệ. Chúng ta đã có những bước đầu thành công không những kiềm chế lạm phát ở mức thấp mà vẫn đảm bảo ổn định kinh tế cao giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, đây chỉ mới là những thành công bước đầu chưa ổn định. Trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta còn non yếu cho việc nghiên cứu về lạm phát và thất nghiệp cũng như mối quan hệ giữa chúng trở thành điều hết sức quan trọng và cần thiết để đưa ra chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp. Với phạm vi của mình, bài tiểu luận muốn đề cập đến vấn đề lạm phát và thất nghiệp, tiến trình lạm phát ở Việt Nam cũng như các biện pháp đã và đang dùng để khắc phục lạm phát và thất nghiệp ở nước ta. Qua đó bài viết xin nêu lên một vài ý kiến trong việc giải quyết vấn đề lạm phát và thất nghiệp hiện nay. Chương I Bản chất của Lạm phát trong nền kinh tế Người ta nói Lênin đã tuyên bố rằng:"cách làm tốt nhất để tiêu diệt hệ thống tư bản là làm cho tiền tệ mất giá trị. Bằng một quá trình lạm phát liên tục, các Chính phủ có thể tích thu một cách bí mật và không ai có thể nhận thấy được, một phần quan trọng của cải công dân họ". J.M. KEYNES. Tại sao giá cả tăng lên hàng tỷ lần trong những đợt lạm phát? Tại sao giá cả và tiền lương vẫn tăng ngay cả khi thất nghiệp cao? Tại sao các nước lại không muốn có nguy cơ lạm phát phi nước đại? và chúng ta có thể làm gì để khống chế lạm phát không cho nó hoành hành? Hiểu và nắm "bắt được" lạm phát đó là một trong những yêu cầu thiết yếu cho những nhà hoạt động kinh tế. A. Lý thuyết về lạm phát I. Lý thuyết lạm phát 1. Khái niệm về lạm phát: Lạm phát đó là sự tăng giá trung bình theo thời gian. Nó xảy ra khi mức giá chung của giá cả, chi phí tăng, lạm phát được đặc trưng bởi chỉ giá giảm giá. D = GNPn GNPr Trong đó: D: Hệ số lạm phát GNPn: Tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa GNPr: Tổng sản phẩm quốc dân thực tế. Ngoài ra chỉ số lạm phát được thay thế bằng chỉ số giá tiêu dùng ký hiệu là CPI (Consumer Price Index). CPI phản ánh sự biến động giá cả của một giỏ hàng hoá và dịch vụ tiêu biểu cho cơ cấu tiêu dùng của xã hội CPI = Σ P. Q Σ P. Q Trong đó: CPI: Giá trị của CPI trong năm t P1t: Giá cả hàng hoá i trong năm t P2t: Giá cả hàng hoá i trong năm gốc Q0t: Tổng số hàng hoá trong một giỏ hàng i trong năm gốc Để có một thí dụ thực tế, chúng ta hãy xem xét chỉ số giá tiêu dùng trong năm 1983 được tính toán là số trung bình của chỉ số giá cả của những nhóm nhỏ quan trọng nhất: CPI 1983 = Thực phẩm 284(0,19) + Nhà cửa 323(0,43) + Quần áo 197(0,07) + Vận tải 298(0,18) + Ytế 367(0,05) Những thứ khác 254(0,08) Để giải thích công thức trên chú ý giá thực phẩm là 284% giá trị năm 1967 và thực phẩm chiếm 19% ngân sách người tiêu dùng. Năm 1983 là 298 so với gốc100 năm 1967. Như vậy một đô hàng hoá 1983 đã đắt gấp 3 lần 1967. Những chỉ số khác mặc dù chỉ số là tiêu dùng là chỉ số được sử dụng rộng rãi nhất trong chỉ số giá cả, nhưng có hai chỉ số có thể được miêu tả tóm tắt như sau: (1) Chỉ số giá cả sản xuất là chỉ số bán buôn. Nó được xây dựng để tính giá cả lần đầu tiên và chỉ số này rất có ích vì nó tính rất chi tiết bao gồm khoảng 3400 sản phẩm. (2) Chỉ số " giảm lạm phát GNP" là chỉ số giá cả cho toàn bộ GNP. Chỉ số này được xác định bằng tỷ lệ của GNP danh nghĩa và GNP thực tế nghĩa là GNP = GNP danh nghĩa / GNP thực tế. Chỉ số GNP giảm lạm phát có ích vì nó bao gồm giá của tất cả hàng hoá và dịch vụ trong GNP do đó nó toàn diện hơn CPI chỉ số hàng tiêu dùng. Những vấn đề số của chỉ số: Tuy những chỉ số giá cả CPI hết sức có ích, nhưng chúng không phải là không có khiếm khuyết. Một số vấn đề thuộc bản chất chỉ số giá cả. Một vấn đề là"vấn đề số của chỉ số" vấn đề này liên quan đến việc lấy thời kỳ thích đáng đểt làm năm gốc. CPI sử dụng trọng lượng cố định cho mỗi mặt hàng. Kết quả đánh giá sinh hoạt thực tế đã bị đánh cao quá mức khi người tiêu dùng đánh hàng hoá khác thay thế cho những hàng hoá quá đắt đỏ. Những công trình nghiên cứu trong thời gian qua cho thấy nếu những thay đổi về chất lượng như vậy được tính đến một cách thích đáng, thì tốc độ tăng của CPI đã bớt nhanh hơn trong những năm qua. 2. Lịch sử lâu đời của lạm phát. Lạm phát đã tồn tại lâu đời cũng như nền kinh tế thị trường hình sau tập trung vào tình hình giá cả và tiêu thụ ở Mỹ từ sau cuộc nội chiến cho đến 1954 tình hình tiến triển đều đều: Giá cả tăng gấp đôi hoặc khoảng đó trong thời chiến rồi lại giảm xuống trong thời kỳ trì trệ sau chiến tranh. Nhưng tình hình đã thay đổi một cánh rõ ràng sau chiến tranh thế giới II. Giá cả và tiền lương trong thời kỳ nay đi theo chiều hướng một chiều. Chúng tăng lên trong thời kỳ thịnh vượng nhưng rồi lại giảm sút trong thời kỳ suy thoái. Giá cả và tiền lương ít linh hoạt hơn nhiều so với thời kỳ trước những năm1940 chúng trở nên cứng nhắc. Tình hình này làm nảy sinh câu hỏi: nếu giá cả tăng lên trong những thời kỳ tốt đẹp và không giảm xuống trong những thời kỳ xấu thì xu hướng lâu dài như thế nào? rõ ràng sẽ tăng. Giá cả ở Mỹ từ cuộc nội chiến (1860 =100) 1860 1880 1900 1920 1960 1980 2000 1940 100 200 50 400 500 300 1000 100 200 50 400 500 300 1000 Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh II Chiến tranh I Nội chiến Những cuộc lạm phát xảy ra cùng với những cuộc nội chiến tranh nhưng sau đó không mất đi. Hình trên miêu tả lịch sử giá cả tiêu dùng ở Mỹ kể từ 1860 giá cả tăng lên cùng với mỗi cuộc chiến tranh rồi sau đó giảm xuống. Như vậy giá cả trong năm 1940 hầu như ở cùng mức giá cả năm 1870 nhưng từ 1940 xu hướng tăng lên cả ở Mỹ và ở nước ngoài. Những điều thay đổi duy nhất ngày nay là tỷ lệ lạm phát chứ không phải là thực tế lạm phát. (Nguồn Bộ lao động Mỹ) II. Những lý thuyết chủ yếu về lạm phát 1. Lý thuyết "Lạm phát lưu thông tiền tệ" J.Bodin và Milton Fried Man là những người đã chủ trương đưa ra luận thuyết nay. Bodin và Milton Fried Man cho rằng: lạm phát là đưa nhiều tiền vào lưu thông cho giá cả tăng lên. Theo Fried Man "Lạm phát trong mọi lúc mọi nơi đều là hiện tượng của lưu thông tiền tệ: Lạm phát xuất hiện và chỉ xuất hiện khi số lượng tiền trong lưu thông tiền tệ tăng lên một nhịp độ nhanh hơn so với việc sản xuất". Chính vì lẽ đó mà các ngân hàng hay Chính phủ của mỗi quốc gia đã đưa nhiều tiền vào lưu thông và đây cũng là nguồn gốc chủ yếu làm nảy ra nguồn gốc của lạm phát và phải chịu trách nhiệm chính trong việc khắc phục lạm phát. Tuy nhiên, giữa những nguồn giải thích lạm phát theo thuyết lưu thông tiền tệ (hay số lượng tiền tệ) có sự phân biệt về mức độ và "đổ lỗi" của việc phát hành quá mức tiền gây ra tình trạng lạm phát. Chẳng hạn Fried Man đã khăng khăng tuyên bố. Khi ngân hàng mở rộng quá mức việc phát hành tiền kể cả tung tiền vàng vào để lưu thông thì đều là trực tiếp gây nên lạm phát. J.M Keynes lại có những quan điểm và ông đã phân tích một cách đầy đủ xâu xa hơn cả Fried Man là: không phải trong bất cứ trường hợp nào cứ khi nào số lượng tiền tung ra thị trường để lưu và vượt quá mức sản xuất đều gây ra lạm phát như là Fried Man khẳng định, mà chỉ gây ra tình trạng lạm phát. Khi nền kinh tế đạt quá toàn dụng về nhân công và năng lực sản xuất vì khi đó việc phát hành tiền nhiều hơn mức tăng trưởng sản xuất này mới tạo ra cầu và dư thừa khiến giá cả hàng hoá tăng lên từ cầu cá biệt. J.M. Keynes coi lạm phát trong giai đoạn trước toàn dụng là lạm phát điều độ. Lành mạnh vì chưa tăng chi phi sản xuất, tăng giá cả. Chỉ lạm phát trong giai đoạn toàng dụng mời là lạm phát thật sự (Real - inflation). Lạm phát tuyết đối (absolute - inflation). Và theo sự phân tích trên J.M Keynes được xếp vào đại diện tiêu biểu của trường phái " lạm phát cầu dư thừa tổng quát). Nói về Công thức tổng quát của lý thuyết " lạm phát lưu thông tiền tệ" thì nhà kinh tế học IRVING - FISHER đã đưa ra công thức đặc trưng phổ biến và là công thức nổi tiếng nhất. Công thức của lý thuyết " lạm phát và lưu thông tiền tệ được IRVING - FISHER đưa vào năm 1907 và cho đến nay công thức ấy vẫn còn được áp dụng rộng rãi. M.V = P.T Trong đó: M: Khối lượng tiền tệ V: Tốc độ lưu thông tiền tệ P: Mặt hàng chung của giá cả T: Khối lượng giao dịch phải đảm bảo (Tất cả đều phải xét trong một thời kỳ nhất định nào đó). Khi suy rộng và phân biệt hai loại tiền tệ chủ yếu một mặt là đồng tiền kim loại và các giấy bạc (M) với mặt khác là tiền gửi không kỳ hoãn (M,) và các loại tiền tệ ấy gắn với tốc độ lưu thông (V) và (V,) và sau đây là phương trình mở rộng: M.V + M,.V, = P.T Cả hai loại phương trình trên đều cho thấy mối quan hệ nhân quả: Nếu giả định tốc độ lưu thông tiền tệ là ổn định trong thời gian xác định và số lượng tiền tệ cũng như tổng giá cả đều không ảnh hưởng đến mặt bằng trao đổi thì rõ ràng tổng giá cả biến thiên cùng chiều với số lượng tiền tệ đang lưu thông. Sau chiến tranh thế giới thứ II các nhà tiền tệ học ngày càng bước vào các lĩnh vực phát triển mới và các nghiên cứu ngày càng được mở rộng và hai nhà nghiên cứu đã có những công trình đặc biệt ấy là Don. Potinkin và nhất là nhà kinh tế học Pried - Man. Pried - Man đã xác định ra nhu cầu tiền tệ nhờ hàm số ẩn: Md =ƒ (Y. W. RM. RB. RE. GP. U) P Trong đó: Md: Nhu cầu tiền tệ P: Mặt hàng giá cả Y: Thu nhập thường xuyên là thu nhập dự kiến tính bình quân thu nhập hiện tại và quá khứ được chỉnh lý. W: Tỷ lệ thu nhập từ thiết bị con người RB,RE, RM: thu nhập hiệu suất danh nghĩa dự kiến của tiền tệ trái phiếu cổ phần. GP: Tỷ lệ lạm phát dự kiến U: Hằng số biểu thị tất cả các yếu tố khách quan, có thể giải thích các yếu tố cá nhân về tiền tệ. Theo M.Fried Man muốn kìm hãm lạm phát cần kìm chế sự tăng thêm tiền và để không có lạm phát thì nhịp độ phát hành tiền vào lưu thông phải cùng với nhịp độ tăng trưởng sản xuất. Nhìn nhận về lịch sử thì lý luận về lý thuyết lạm phát và lưu thông tiền tệ gắn trực tiếp vào quá trình 4000 năm lịch sử phát triển của học thuyết số lượng tiền tệ đây là một thành công một bước phát triển vĩ đại của ngành tiền tệ và là sự thành công của lý luận kinh tế học tư sản hiện nay. 2. Lý thuyết cầu (DEMEND- PULL INFLATION). Keynes là người đề xuất ra lý thuyết này. Ông qui nguyên nhân cơ bản của lạm phát là do cầu - kéo bản chất của lạm phát cầu - kéo là do hậu quả của việc ấn định việc chỉ tiêu thất nghiệp quá thấp. Những biến động đối với vốn đầu tư hoặc chỉ tiêu của Chính phủ, thuế.... có thể đẩy nền kinh tế vượt quá mức sản lượng tiềm năng của nó. Tổng cầu vượt quá khả năng sản xuất của nền kinh tế ở mức đẩy công ăn việc làm. Thị trường lao động mất cân bằng: lao động khan hiếm, tiền công tăng làm chi phí sản xuất tăng lên đường tổng cung dịch chuyển vào phía trong - quá trình này được lặp đi lặp lại khi Chính phủ sử dụng những chính sách tài chính tác động vào tổng cầu, nhằm mục đích luôn đảm bảo chi tiêu thất nghiệp thấp. Hình sau sử dụng khuôn khổ AD- AS giả sử nền kinh tế cân bằng ở ban đầu tại điểm 1. Điểm cắt của AD1 và AS1 với mức giá cả P1. Như vậy, một chỉ tiêu thất nghiệp giá mức thấp tức là chỉ tiêu sản lượng Y1 quá cao làm dịch chuyển đường tổng cầu AD1 -> AD2 -> AD3... trong khi đó đường tổng cung AS dịch chuyển sang trái từ AS1 - >AS2 - >AS3... kết quả làm tăng liên tục mức giá từ P1 -> P2 -> P3. P P3 P2 P1 O GNPr Y1 AD1 AD3 AD2 AS1 AS3 AS2 Hình 2: Minh hoạ quá trình lạm phát do cầu kéo. J.M Keynes coi lạm phát cầu kéo theo như một cuốn sách chủ trương lạm phát đẻ tăng tài trợ cho sản xuất công nghiệp và đầu tư xây dựng cơ bản, để "kích cầu" không ra cầu dư thừa, coi đó như động lực thúc đẩy t sản xuất phát triển kinh tế. Ông quan niệm trước khi có toàn dụng nhân công và năng lực sản xuất trong toàn xã hội thì mọi khoản tài trợ làm tăng cầu xã hội đó không nhưng cần thiết mà còn chưa gây ra lạm phát hay chỉ tạo ra lạm phát loại lành mạnh. còn lạm phát tuyệt đối trong toàn dụng vẫn còn có ích vì nó làm hùng thịnh nền kinh tế làm hạn suy thái và thất nghiệp. Ông kêu gọi một cách cực đoan rằng "những khoản chi tiêu của Nhà nước dù có đưa vào những mục đích cuối cùng vẫn có thể làm giàu cho xã hội. Việc xây dựng những công trình lớn của thế kỷ hay những trận động đất những hoả hoạn do thiên nhiên gây ra và những cuộc chiến tranh kéo dài hàng trăm năm vẫn có thể làm giàu cho xã hội và góp phần làm tăng thêm của cải vật chất. Vì thế theo Keynes Nhà nước phải chủ động can thiệp vào mọi mặt cuộc sống của xã hội đời sống kinh tế để tạo ra trong "nhu cầu có hiệu lực" (Demande - iffective) mạnh mẽ trong nền kinh tế. Theo Keynes"nhu cầu có hiệu lực" là tổng hợp của hai yếu tố: Nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu đầu tư trong đó nhu cầu tiêu dùng của cá nhân cũng như của toàn xã hội chủ yếu do thu nhập quyết định - Nếu tỷ lệ thu nhập dành cho tiêu dùng tăng lên tức là xu hướng thích tiêu dùng tăng điều đó dẫn đến sự kích thích của sản xuất phát triển. Ông chỉ rõ vai trò to lớn của Nhà nước qua công cụ thuế: Nếu chính sách thuế được tự do sử dụng làm phương tiện phân phối các khoản thu nhập hơn và công bằng hơn sẽ làm tăng thêm xu hướng khả dụng thích tiêu dùng. Còn nhu cầu đầu tư sẽ tuỳ thuộc vào cả lãi suất phải trả cho khoản vay đầu tư lẫn mức lợi nhuận thu được. Lợi nhuận phải cao hơn mức lãi suất. Ông đề nghị Nhà nước là: người có điều kiện tính toán hiệu quả tối đa của mỗi người với tầm mắt xa hơn và trên cơ sở quyền lợi chung của cộng đồng phải chịu trách nhiệm ngày càng nhiều hơn trong việc tổ chức trực tiếp vấn đề đầu tư. Keynes chỉ rõ lãi suất do cung cầu - tiền tệ quyết định: lãi suất thấp mới quyết định đầu tư có lợi được vì khi vay vốn để đầu tư nhà đầu tư phải trả một phần lãi suất trong qúa trình đầu tư vậy nếu lãi suất thấp thì mới kích thích đầu tư phát triển được. Muốn hạ lãi suất, Nhà nước phải chủ động điều tiết khối lượng tiền tệ, tín dụng để can thiệp vào đời sống kinh tế - kích thích đầu tư phát triển. Phân tích qua khá sâu mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các nhân tố: khối lượng tiền tệ, lãi suất, vốn đầu tư, lợi nhuận, công ăn việc làm và xu hướng tiêu dùng, ông chỉ ra: - Khối lượng tiền tệ tăng lên sẽ làm cho lãi suất hạ xuống song điều đó sẽ không xảy ra khi sự ham thích tiền mặt của mọi người tăng lên nhiều hơn khối lượng tiền tệ. - Lãi suất hạ xuống sẽ làm cho nguồn vốn đầu tư tăng lên song điều đó sẽ không xảy ra nếu lợi nhuận giảm nhanh hơn lãi suất. - Nguồn vốn đầu tư tăng lên sẽ làm cho công ăn việc làm tăng, tạo thành tính nhân bội. Nghĩa là một đồng vốn đưa vào quá trình kinh tế nào đó sẽ được nhân bội lên nhiều lần ở các giai đoạn tiếp theo (như nhân bội trong đầu tư, trong tín dụng, trong việc làm và trong tiêu dùng). Nhờ có tác dụng nhân bội lên nhiều lần ở các giai đoạn tiếp theo. Đề cập đến tâm lý ham thích tiền mặt, Keynes cho rằng nó chủ yếu do yếu tố đầu cơ tiền tệ quyết định: Tâm lý này làm cho nhu cầu tiền tệ tăng lên và đẩy lãi suất lên cao, không khuyến khích tiêu dùng (tức giảm cầu) do đó không có lợi cho đầu tư phát triển kinh tế. Vì vậy Nhà nước cần thi hành chính sách nới lỏng tín dụng tăng ứng tiền tệ để hạ lãi suất đồng thời điều chỉnh thuế khoá hợp lý làm tăng thu nhập, kích thích tiêu dùng tăng cầu do đó tạo động lực phát triển kinh tế. Đặc biệt để thuyết phục Nhà nước tư bản chủ nghĩa trong các hành động này Keynes đưa ra luận điểm "bội số đầu tư" theo đó khi vốn đầu tư tăng lên thì thu nhập quốc dân sẽ tăng theo tỷ lệ thuận k lần mức tăng vốn đầu tư. Nói tóm lại: Theo Keynes, lạm phát xuất hiện khi mức tăng cầu vượt quá mức cung. Song ở đây lạm phát có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển, chống suy thoái nhất là khi nó cho phép nền kinh tế phát triển hiệu quả tiến bộ kỹ thuật, được áp dụng tích cực, cơ cấu kinh tế đổi mới nhanh và đúng hướng. Thực tiễn các nền kinh tế thị trường sau chiến tranh thế giới II đến đầu thập kỷ 70 đã chứng tỏ điều đó. Nhưng khi nền kinh tế đã rơi vào tình trạng kém hiệu quả, tiến bộ kỹ thuật phát triển chậm, áp dụng chậm, cơ cấu kinh tế trí tuệ hoặc đổi mới chưa đúng hướng thì lý thuyết lạm phát cầu dư thừa tổng quát không còn thích hợp nữa. Lý thuyết về lạm phát của Keynes ra đời vào năm 1993 và mãi tận đến đầu thập kỷ 70 những lý thuyết về lạm phát ấy vẫn góp phần ổn định thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế ngày càng cao của các nước tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa mô hình này còn được phát triển kinh tế theo bề rộng của nền kinh tế Xô Viết (tăng đầu tư Nhà nước) và luôn chịu ảnh hưởng của lý thuyết này. IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế) khi tài trợ cho các nước đang phát triển bị hụt thanh toán hoặc chưa có khả năng thanh toán nợ quốc tế do lạm phát tăng nhanh cũng đòi hỏi nước được tài trợ phải có chính sách thu hẹp về tài chính và tiền tệ giảm chi tiêu chính phủ, tăng thuế, giảm cung tiền tệ và tăng lãi suất để khắc phục khống chế cầu. Song thực tế với phương pháp này đòi hỏi khi các nước vẫn còn rơi vào tình trạng lạm phát chính vì lẽ đó cho nên đã có rất nhiều nhà kinh tế học đã không chấp nhận với sự lý giải lạm phát của lý thuyết lạm phát do cầu kéo và nhiều nhà kinh tế học vẫn luôn tìm kiếm cách tiếp cận khác về lạm phát. 3. Lý thuyết lạm phát chi phí đẩy Trong nền kinh tế thị trường, không một quốc gia nào có thể đạt được chỉ tiêu công ăn việc làm đầy đủ, lâu dài và giá cả ổn định. Giá cả, tiền công tăng và luôn đi trước khi công ăn việc làm cao. Lạm phát chi phí đẩy cho rằng do chi phí sản xuất kinh doanh tăng nhanh hơn năng suất lao động (mức tăng chi phí này chủ yếu do tăng tiền lương, giá nguyên liệu, do công nghệ cũ kỹ). Khi đó các doanh nghiệp đối phó bằng cách tăng giá hàng hoá và lạm phát xuất hiện. Như vậy lạm phát cung giải thích được nguyên nhân vì sao lại có lạm phát trong trường hợp cầu giảm xuống hoặc không đổi, tại sao việc thu hẹp cầu nhờ giảm đầu tư và tín dụng Nhà nước có thể gây ra thất nghiệp và suy thoái kinh tế chứ không giúp giảm lạm phát. Xuất phát từ quyền lực thị trường thuộc về người lao động và doanh nghiệp đôi khi các nhà kinh tế gọi kinh tế "lạm phát chi phí đẩy" là lạm phát "cung" "lạm phát do quản lý giá" hay lạm phát của người bán. Nếu như "lạm phát do cầu kéo" xuất hiện do cầu vượt cung khi nền kinh tế vượt quá mức sản xuất tiềm năng, có sự toàn dụng nhân công và công suất máy móc thì lạm phát chi phí đẩy phát sinh ngay cả khi tài nguyên chưa được sử dụng hết, chưa có trạng thái toàn dụng đó. Tồn tại một lúc giữa "lạm phát cầu kéo" và "lạm phát chi phí đẩy": tăng giá do cầu kéo dẫn đến và tăng giá do chi phí đẩy, cụ thể do tổng cầu về dịch vụ và thành phẩm tăng lên làm mở rộng cầu dẫn xuất của các doanh nghiệp về nguyên vật liệu, lao động, dẫn đến chi phí sản xuất tăng giá thành tăng và cuối cùng sinh ra lạm phát. Khi nguồn lực kinh tế chưa được sử dụng hết, chi phí sản xuất tăng đẩy đường AS sang trái, với chính sách năng động thúc đẩy công ăn việc làm. Chính phủ sử dụng chính sách tài khoá - tiền tệ làm dịch đường tổng cầu AD sang phải kết quả giá tăng nhanh lạm phát chi phí đẩy. P P3 P2 P1 O GNPr Y1 AD1 AD3 AD2 AS1 AS3 AS2 Sản lượng tiềm năng Hình 3: Minh hoạ cơ chế lạm phát chi phí đẩy. 4. Luận thuyết "Lạm phát cơ cấu". Luận thuyết về "lạm phát cơ cấu" thịnh hành ở nhiều nước đang phát triển. Những người theo luận thuyết này cho rằng: sự mất cân đối cơ cấu nền kinh tế quốc dân (giữa tích luỹ tiêu dùng) giữa công nghiệp nặng công nghiệp nhẹ, giữa công nghiệp - nông nghiệp ...) từ đó hoặc khiến cho nền kinh tế phát triển kém hiệu quả, làm tăng chi phí nên sản xuất xã hội làm tăng lạm phát chi phí đẩy từ đó kích thích tăng giá cả của các mặt hàng khác, tăng mặt bằng giá chung tức là làm tăng "lạm phát cầu kéo" nền thuyết này được suy diễn từ thuyết "lạm phát cầu dư thừa tổng quát". Khi phân tích lưu thông tiền tệ giấy chế độ bản vị vàng. CácMác đã nhấn mạnh: "việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng (bạc) thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy. Nên khi Nhà nước phải hành tiền đem vào lưu thông giá mức giới hạn vàng bạc mà nó đại diện thì giá trị đồng tiền sẽ giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện. Các Mác đưa ra công thức tính khối lượng tiền tệ đang lưu thông. Công thức: Trong đó: T: Tổng tiền cần cho lưu thông G: Tổng giá cả hàng hoá V: Số vòng quay lưu thông của các đồng tiền cùng loại. Sau đây là các luận thuyết khác về lạm phát mà ta có thể nêu ra để tham khảo. * Lạm phát giá cả: mọi sự tăng giá được coi là lạm phát giá cả. Đầu thế kỷ XX, J.P Luthesing - L.V Chandeles và D.C Clines quan niệm " bất kỳ thời kỳ nào mà giá hàng hoá tăng không kể dài hay ngắn, có tính chất chu kỳ hay đột xuất đều là thời kỳ lạm phát". * Lạm phát tài chính tín dụng: P.Bicaplơ cho rằng sự bội chi ngân sách, mở rộng tác dụng, bội chi tiền mặt, tăng phát hành công trái, tăng thuế và đầu tư. Có đặc trưng lạm phát vì dẫn đến tăng giá, tăng lương, tăng thuế là tăng lạm phát. * Trên đây là hai luận thuyết về lạm phát mà các nhà kinh tế học nêu ra những quan điểm lạm phát. II- Các nguyên nhân của lạm phát. 1. Các loại lạm phát a. Lạm phát vừa phải. Còn gọi là lạm phát vừa phải một con số có tỷ lệ lạm phát dưới 10%/năm, trong trường hợp này giá cả tăng chậm, thường xấp xỉ mức tăng tiền lương, hoặc cao hơn một chút. Do vậy sự mất mát của đồng tiền không cao và tác hại của lạm phát này cũng không đáng kể. Đặc biệt giữ được lạm phát ở mức 2-3% là mong muốn của một số người, nó có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện lạm phát vừa phải và ổn định, giá cả tương đối không khác mức bình thường nhiều, do đó nhân dân không mất thời gian tìm cách tiêu tiền bừa đi vì lãi suất thực tế không quá thấp. Lãi suất thực tế là lãi suất danh nghĩa hoặc lãi suất bằng tiền trừ tỷ lệ lạm phát. Khi lạm phát thấp thì đồng tiền nói chung có lãi suất danh nghĩa gần như số không. Trong trường hợp xấu nhất cũng chỉ có lãi suất thực tế nhỏ dưới không. Do đó tiền giữ được phần lớn giá trị của nó từ năm này qua năm khác. Với loại lạm phát này người ta không sợ ký hợp đồng với những điều kiện danh nghĩa, tức là những hợp đồng không được chỉ số hoá một cách bất biến theo lạm phát. (một hợp đồng được “chỉ số hoá” khi giá cả tiền lương hoặc giá trị đồng đô la trong hợp đồng tăng giảm cùng với sự biến chuyển của một chỉ số giá cả chung). Nhưng điều không hiệu quả gắn với lạm phát vừa phải là không đáng kể. b. Lạm phát phi mã. Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả bắt đầu tăng với tỷ lệ hai hoặc ba con số như 20% - 100%/năm. ở đầu một khi lạm phát phi mã trở nên vững chắc nhưng biến dạng nghiêm trọng về kinh tế nảy sinh nói chung, phần lớn các hợp đồng được chỉ số hoá theo một số giá cả hoặc ngoại tệ như đồng USD chẳng hạn. Vì nếu đồng tiền đột ngột mất giá một cách nhanh chóng như vậy lãi suất thực tế giảm xuống tới 50 hoặc 100 lần, nhân dân tránh giữ tiền nhiều hơn mức tối thiểu cần thiết, thị trường tài chính tàn lụi và những quỹ nói chung được phân bổ theo định mức chứ không theo lãi suất. Nhân dân tích trữ hàng hoá, mua nhà và không bao giờ cho vay với tiền lãi suất bình thường. Điều đáng ngạc nhiên là những nên kinh tế với tỷ lệ lạm phát hàng năm là 200% lại phát triển rất tốt. Điển hình là nước Brazin và Ixraen đã phát triển nhanh chóng một thời gián, dữ giá cả tăng lên theo kiểu phi mã. c. Lạm phát ở mức siêu cao (siêu lạm phát). Trong khi các nền kinh tế có vẻ vẫn còn sống sót và một số có vẻ phồn thịnh với lạm phát phi mã thì một loại thứ ba nghiêm trọng chết người xảy ra, bệnh ung thư siêu lạm phát tấn công, loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng lên với con số hàng ngàn, hàng chục ngàn, hàng triệu phần trăm một năm. Siêu lạm phát thực sự là một tai hoạ đối với nền kinh tế bởi vì nó làm cho giá cả không ổn định, tiền lương thực tế biến động và thường giảm mạnh cùng sự mất giá của tiền tệ, mọi người có tiền đều bị tước đoạt và tiền càng nhiều thì bị tước đoạt càng lớn. Hầu hết các yếu tố của thị trường đều bị biến dạng và bóp méo hoặc thổi phồng, hoạt động kinh tế rơi vào tình trạng hổn loạn. Cuộc siêu lạm phát có nhiều tư liệu ghi lại một cách cẩn thận nhất xảy ra ở cộng hoà Đức. Còn đối với những nhà nghiên cứu lạm phát, siêu lạm phát đặc biệt lý thú vì nó cho thấy rõ tác động của lạm phát. Bệnh lý học soi sáng giải phẩu học, giống như chúng ta cho chuột ăn những liều cao về các chất với hy vọng có thể hiểu được tác động của những liều nhẹ hơn đối với con người, chúng ta quan sát siêu lạm phát vì ánh sáng mà nó rọi vào những loại lạm phát. Ba loại lạm phát Vừa phải Phi mã Siêu lạm phát Hình 4: Lạm phát có nhiều loại đôi khi lại quấy rầy, lúc khác gây tai hại Hình trên cho thấy có ba loại lạm phát, lạm phát vừa phải là điển hình ngày nay. Trong phần lớn những nước công nghiệp hoá lạm phát phi mã như trường hợp ở ý những năm 1970 hoặc nhiều nước Nam Mỹ lạm phát tăng từ năm này sang năm khác nhưng dường như không gây bùng nổ. Siêu lạm phát xảy ra khi tiền giấy được in ra làm cho giá cả tăng lên một nghìn, một triệu, một ngàn tỷ phần trăm một năm. Siêu lạm phát không thể kéo dài và thường dẫn đến cải cách tiền tệ hoặc sự sụp đổ kinh tế lớn. 2. Quy mô và sự biến động của lạm phát. Lạm phát cao là lạm phát biến đổi, điều đó có nghĩa là những nước có mức lạm phát bình quân cao cũng có xu hướng có tỷ lệ lạm phát tha đổi lớn từ năm này qua năm khác. Nừu một nước quyết định theo đuổi chính sách tiền tệ gây lạm phát cao, nó sẽ phải chấp nhận tình trạng lạm phát có nhiều biến động lớn vì những lý do chúng ta đã thảo luận ở trên, lạm phát biến động mạnh làm tăng tính bất trắc đối với cả người cho vay và đi vay bằng cách buộc họ phải phụ thuộc vào sự phân phối lại của cải một cách độc đoán trên quy mô lớn. 3. Lạm phát không dự kiến. Lạm phát không dự kiến có tác động nguy hại hơn so với bất kỳ tổn thất nào của lạm phát ổn định được dự kiến từ trước, nó phân phối lại của cải cá nhân một cách độc đoán. Điều này có thể nhận thấy khi cho vay dài hạn. Các khế ước vay thường quy định rõ mức lãi suất danh nghĩa dựa trên cơ sở lạm phát dự kiến. Nếu lạm phát khác xa mức dự kiến thì lợi tức thực tế thực hiện mà người vay trả cho người vay khác mức mà hai bên dự kiến trước. Nếu lạm phát cao hơn mức dự kiến, người vay sẽ được lợi và người cho vay bị thiệt, vì người đi vay trả nợ bằng đồng đô la ít giá trị hơn. Ngược lại nếu lạm phát mức hơn mức dự kiến người cho vay sẽ được lợi và người đi vay bị thiệt vì khoản tiền phải trả có giá trị cao hơn so với mức hai bên dự kiến. VD: Một người vay dưới hình thức cầm cố vào năm 1960, lãi suất đối với những khoản vay trong thời gian đó là 30 năm, 6%/năm. Mức lãi suất này dựa trên tỷ lệ lạm phát dự kiến thấp – lạm phát bình quân10 năm trước là 2,5%. Người cho vay có thể đã dự kiến thực tế là 3,5% và người đi vay phải trả mức dự kiến thực tế này. Trên tỷ lệ lạm phát bình quân ở mức 5% trong thời gian vay cẩm cố do đó lãi suất thực tế chỉ là 1%, mức lạm phát không dự kiến làm lợi cho người vay ở mức người cho vay bị thua thiệt. Lạm phát không dự kiến còn làm tổn hại người nhận lương hưu cố định, công nhân và doanh nghiệp thường thoả thuận về mức lương danh nghĩa khi công nhân về hưu vì lương hưu là khoản thu nhập trả sau, thực ra công nhân đã cho các doanh nghiệp vay, công nhân cung cấp dịch vụ lao động cho doanh nghiệp nhưng không nhận được đủ thu nhập trước khi về già. Giống như bất kỳ người cho vay nào, công nhân bị thiệt khi lạm phát thấp hơn mức dự kiến. 4. Lạm phát dự kiến. Giả sử giá cả tăng lên 1%, loại lạm phát ổn định biết được trước 12%/năm thì gây ra những tổn thất gì cho xã hội. - Tác dụng gây biến dạng thuế lạm phát đánh vào số tiền mà một người đang giữ vì tỷ lệ lạm phát cao hơn dẫn tới lãi suất danh nghĩa cao hơn do đó làm giảm số tiền giữ thực tế. Nếu họ giữ tiền tệ thấp thấp hơn thì họ cần đến ngân hàng để rút tiền. Sự ít tiền đó tạo ra chi phí gọi là “chi phí mòn giầy” của lạm phát vì việc đến ngân hàng nhiều làm cho giầy của họ mòn đi. - Khi sinh ra lạm phát cao buộc các doanh nghiệp phải thay đổi giá cả thường xuyên hơn và việc thay đổi giá luôn luôn tốn kém vì phải lo in ấn, phát hành và những tổn thất trên được gọi là chi phí thực đơn và lạm phát càng cao thì chi phí càng lớn. - Khi lạm phát cao do các doanh nghiệp tránh điều chỉnh giá cả thường xuyên khi chịu phải chi phí thực đơn vì vậy lạm phát càng cao thì biến động giá cả càng lớn và lạm phát này gây ra sự thay đổi trong giá tương đối. Vì nền kinh tế thị trường dựa vào giá tương đối để phân bố nguồn lực một cách hiệu quả nên lạm phát dẫn đến kém hiệu quả tính theo góc độ vi mô. - Lạm phát do luật thuế gây ra. Nhiều điều khoản của luật thuế không tính đến tác động của lạm phát. Lạm phát không thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của cá nhân, thường trái ý định của người làm luật. - Lạm phát là sự bất tiện của cuộc sống trong một thế giới mà giá cả thị trường luôn luôn thay đổi. Tiền là thước đo mà chúng ta dựa vào để tính toán các giao dịch kinh tế khi có lạm phát thì cái thước này co giản và tình hình của nó như đo đơn vị chiều dài. Để so sánh độ dài đo được qua các năm người ta cần phải điều chỉnh “lạm phát”. 5. Lạm phát không cân bằng: những sự biến dạng của lạm phát. Vấn đề đặt ra cho một số thể chế không thể điều chỉnh hoặc không dễ dàng điều chỉnh cho phù hợp với lạm phát. Tiền và thuế là hai tiêu thức đánh giá quan trọng nhất. Tiền tệ là một hình thức không lợi tức, những ngân phiếu có l._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35025.doc
Tài liệu liên quan