Lời mở đầu
Nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, cở sở pháp lý để quản lý nền kinh tế thị trường mở cửa đã, đang hình thành và từng bước được thực hiện. Trong bối cảnh đó các thành phần kinh tế tham gia thị trường ngày càng nhiều, các doanh nghiệp ra đời với nhiều hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng và phức tạp.
Song song với sự phát triển của nền kinh tế nói chung, sự hình thành và phát triển của thị trường vốn nói
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Bản chất của kiểm toán độc lập trong nền Kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riêng, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, sự quan tâm đến tình hình tài chính của nhau càng tăng. Hay nói một cách khác, ngày càng có nhiều đối tượng khác nhau quan tâm đến những thông tin tài chính của doanh nghiệp. Nhưng không phải tất cả mọi người đều có thể tin ngay vào bản tự báo cáo của doanh nghiệp mà không có sự kiểm tra, phân tích độ tin cậy của báo cáo đó. Ngược lại, nếu tất cả mọi người (có liên quan đến doanh nghiệp) cùng kiểm tra bản báo cáo tài chính của một doanh nghiệp thì đó là một sự lãng phí lớn về thời gian. Để đáp ứng tình hình này đòi hỏi phải có một bên thứ ba độc lập khách quan, có trình độ chuyên môn cao được pháp luật cho phép cung cấp thông tin tin cậy cho đối tượng quan tâm. Vì vậy, nó đã hình thành nên một loại kiểm toán độc lập. Luật pháp nhiều quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển qui định chỉ có các báo cáo tài chính đã được kiểm toán độc lập mới có giá trị pháp lý và độ tin cậy.
Như vậy kiểm toán độc lập ra đời không phải tự thân, vị thân mà nó ra đời đáp ứng yêu cầu tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường.
Trong đề tài nghiên cứu này em xin trình bày về bản chất của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường qua ba nội dung sau:
- Xác minh và bày tỏ ý kiến độc lập về bảng khai tài chính.
- Kiểm toán viên có trình độ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.
Chất lượng của hoạt động kiểm toán độc lập với những khó khăn và giải.
Do những hạn chế về thời gian và trình độ, không tránh khỏi những sai sót
nhất định, em kính mong được sự nhận xét, đánh giá từ thầy.
Nội dung
Theo Nghị Quyết số 07/CP về qui chế kiểm toán độc lập ngày 29/1/1994; kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc các tổ chức kiểm toán độc lập vì tính đúng đắn hợp lý của các tài liệu, số liệu kiểm toán và báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp, các cơ quan tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội khi có yêu cầu này.
1.Tình hình phát triển của các công ty kiểm toán ở nước ngoài và ở Việt Nam
Kiểm toán độc lập ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Dịch vụ kiểm toán độc lập đã có từ hơn 100 năm nay (Công ty Price Waterhouse- trụ sở chính ở Luân Đôn, thành lập năm1880; Công ty Athur Andersen- trụ sở chính tại Chicago ra đời năm 1889...) và phát triển mạnh mẽ thâm nhập vào mọi nghành mọi lĩnh vực kinh tế. Hiện nay trên thế giới có hàng chục vạn tổ chức tư vấn và kiểm toán độc lập trong đó có nhiều công ty xuyên quốc gia. Nếu chỉ tính riêng 28 công ty hàng đầu thế giới (1991) đã có:
- Tổng doanh thu thực tế :34.022 tỷ $
- Tổng số nhân viên: 489.475 người.
- Tổng số văn phong:7.762 văn phòng.
Doanh thu bình quân gần 70.000 $/người/năm. Thu nhập bình quân của chủ phần hùn các công ty kiểm toán lớn khoảng 250.000$ - 30.000$/người /năm. Công ty Ernst & Young trụ sở chính đặt ở New York có tới 462 văn phòng tại 113 nước trên thế giới với doanh thu hàng năm hơn 5 tỷ $. Hãng Earst- Young được coi là đầu đàn trong lĩnh vực dầu khí. Hãng KPMG Peat Marwich (KPMG) (dẫn đầu trong lĩnh vực kiểm toán thị trường chứng khoán và ngân hàng) hiện có 770 văn phòng ở 111 nước, với 77.000 nhân viên và doanh thu hàng năm gần 5,5 tỷ. Sáu công ty kiểm toán hàng đầu thế giới hiện nay :
- KPMG Peat Marwich (KPMG)
- Coopers & Lybrand (C& L)
- Ernst & Young (E & Y)
- Arthur Andercen (AA)
- Deloitte Touch Tohmatsu (DDT)
- Price Waterhouse
ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, hoạt động kiểm toán độc lập phát triển rất nhanh chóng và mạnh mẽ. Hiện nay có hơn 30.000 công ty kiểm toán độc lập trên toàn nước Mỹ, trong đó có 8 công ty lớn đặt văn phòng ở tất cả các thành phố chính của Mỹ và trong nhiều thành phố lớn trên khắp thế giới. Viện kiểm toán độc lập (AICPA) Hoa Kỳ hiện bao gồm hơn 220.000 kiểm toán viên độc lập.
ở nước Cộng hòa Pháp hiện nay có 24 văn phòng kiểm toán khu vực (mỗi khu vực là một miền), có 2500 văn phòng cơ sở trực tiếp làm dịch vụ với gần 10.000 người làm nghề kiểm toán và tư vấn tài chính, kế toán, thuế...
ở Philipin có khoảng 15.000 người làm việc ở các tổ chức kiểm toán độc lập. ở Hồng Công có trên 1000 văn phòng kiểm toán và tư vấn, trong đó có văn phòng lớn nhất là 900 người ở Trung Quốc tuy hoạt động kiểm toán độc lập cũng mới ra đời nhưng đến 31/12/1994 đã có trên 600 công ty và văn phòng tư vấn kiểm toán với khoảng 10.000 nhân viên.
Để chỉ đạo các tổ chức kiểm toán độc lập trên khắp thế giới hoạt động theo đúng tôn chỉ, mục đích nghề nghiệp, đã hình thành các tổ chức quốc tế là “Liên đoàn Kế toán quốc tế – (IFAC). Hiệp hội Kế toán chuyên nghiệp” (ACCA) và ủy ban Thực hành kiểm toán quốc tế (IAPC). Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) là tổ chức toàn cầu, được thành lập ngày 7/10/1977 theo sự thỏa thuận của 63 tổ chức kế toán chuyên nghiệp đại diện cho 49 nước. Ngày nay, IFAC đã có một trăm tổ chức thành viên của 78 nước, trụ sở chính tại New York, với 106 chi nhánh và gần 1.000.000 hội viên. Mục đích của IFAC được ghi trong hiến chương của mình là “Phát triển và tăng cường sự phối hợp nghiệp vụ kế toán và kiểm toán trên toàn thế giới theo các chuẩn mực hài hòa”. Trong tổ chức của IFAC có “Hiệp hội Kế toán chuyên nghiệp – ACCA” để ban hành và chỉ đạo áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế phổ biến. Còn ủy ban thực hành kiểm toán quốc tế (IAPC) là ủy ban thường trực của IFAC, được IFAC trao cho các quyền hạn và trách nhiệm đặc biệt, ban hành các nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế và các dịch vụ có liên quan. Các thành viên của IAPC do các tổ chức thành viên của các nước có chân trong IFAC chỉ định .
ở nước ta trước năm 1975, ở thành phố Sài Gòn đã có văn phòng kiểm toán của các công ty quốc tế (Price Waterhouse...). Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhu cầu kiểm toán các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài theo Luật đầu tư nước ngoài các chương trình tín dụng phát triển, viện trợ quốc tế là khách quan và ngày càng tăng. Sự phát triển nhanh chóng của các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH công ty cổ phần, ngân hàng tư nhân, sự xuất hiện thị trường chứng khoán... và xu hướng cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước cũng đòi hỏi phải có dịch vụ kiểm toán độc lập.Để đáp ứng nhu cầu ngay càng tăng của nền kinh tế ngày 13/5/1991 theo giấy phép số 957/PPLT của Thủ tướng chính phủ, Bộ tài chính đã ký hai Quyết định thành lập 2 công ty : Công ty kiểm toán Việt Nam với tên giao dịch là VACO. (Quyết định số 165- TC/QĐ/TCCB) và công ty dịch vụ kế toán Việt Nam với tên gọi ASC, sau này đổi tên thành công ty dịch vụ Tư vấn Tài chính, Kế toán và Kiểm toán (AASC- Quyết định số 164 – TC/QĐ/TCCB ngày 14/9/1993 ). Với cương vị là các công ty đầu ngành VACO và AASC đã đóng góp nhiều công sức không chỉ trong việc phát triển công ty mở rộng địa bàn kiểm toán mà cả trong việc cộng tác với các công ty và tổ chức nước ngoài phát triển sự nghiệp kiểm toán Việt Nam. Cũng trong năm 1991, cùng với hai công ty trong nước, công ty Ernst & Young là công ty kiểm toán nước ngoài đầu tiên được nhà nước Việt Nam chấp nhận lập văn phòng và hoạt động tại Việt Nam. Cho đến nay, ở Việt Nam đã có 7 công ty kiểm toán, 4 công ty 100% vốn nước ngoài và 2 công ty liên doanh về kiểm toán. Cụ thể là :
7 công ty của Việt Nam:
ã Công ty kiểm toán Việt Nam (VACO)
ã Công ty tư vấn tài chính – kế toán và kiểm toán (AASC)
ã Công ty Tư vấn và kiểm toán (AC)
ã Công ty Tư vấn và kiểm toán Sài Gòn (AFC)
ã Công ty kiểm toán Đà Nẵng (ĐAC)
ã Công ty Kiểm toán Hạ Long (HAACO)
2 công ty liên doanh:
ã Công ty kiểm toán Việt Nam Deloitte Touch Tohmatsu International (VACO - DTTI)
ã Công ty Cooper & Lybrand – AISC
4 công ty 100% vốn nước ngoài:
ã Công ty Ernst & Young (E & Y)
ã KPMG Peat Marwek Việt Nam (KPMG)
ã Price Waterhouse (P.W)
ã Athur Andersen Việt Nam (AA)
Ngoài ra ở Việt Nam còn có một số văn phòng đại diện của các tổ chức kiểm toán quốc tế và một số dự án thành lập mới các tổ chức kiểm toán của địa phương hoặc tư nhân...
Kiểm toán độc lập ra đời, nó là một hoạt động kinh doanh, và lợi ích mà nó đem lại lớn hơn rất nhiều chi phí phải chi ra cho nó.
2.Bản chất của kiểm toán nói chung, của kiểm toán độc lập nói riêng.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về bản chất kiểm toán, có thể khái quát các cách hiểu về kiểm toán theo 3 loại quan niệm chính sau:
Quan điểm thứ nhất: kiểm toán được hiểu theo đúng thời cuộc của nó: Phát sinh cùng thời với cơ chế thị trường. Theo quan niệm đó, người ta thưòng dẫn ra lời định nghĩa trong lời mở đầu “Giải thích các chuẩn mực kiểm toán” của vương quốc Anh.
“Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ những ý kiến về những bản khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan”.
Hoặc cụ thể hơn, có thể dẫn ra quan niệm của các chuyên gia kiểm toán Hoa Kỳ:
“Kiểm toán là một quá trình mà qua đó một người độc lập, có nghiệp vụ tập hợp và đánh giá rõ ràng về thông tin có thể lượng hóa có liên quan đến một thực thể kinh tế riêng biệt nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin có thể lượng hóa với những tiêu chuẩn đã được thiết lập”.
Tương tự như vậy là quan niệm trong giáo dục và đào tạo kiểm toán ở Cộng hòa Pháp:
“Kiểm toán là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là một kiểm toán viên tiến hành để khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh đúng đắn tính tài chính thực tế, không che dấu sự gian lận và chúng được trình bầy theo mẫu chính thức của luật định.”
Quan điểm thứ hai, kiểm toán được đồng nghĩa với kiểm tra kế toán, một thuộc tính cố hữu của kế toán. Nội dung của hoạt động này là rà soát các thông tin từ chứng từ kế toán đến tổng hợp – cân đối kế toán.
Đây là quan điểm mang tính truyền thống trong điều kiện kiểm tra chưa phát triển và trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Trong cơ chế này, nhà nước vừa là chủ sở hữu, vừa thực hiện lãnh đạo trực tiếp nền kinh tế. Do đó, chức năng kiểm tra của Nhà nước được thực hiện trực tiếp với mọi thực thể kinh tế - xã hội thông qua nhiều khâu kể cả kiểm tra kế hoạch, kiểm tra thực hiện kế hoạch, xét duyệt hoàn thành kế hoạch, kể cả kiểm tra tài chính thường xuyên qua “Giám sát viên của Nhà nước đặt tại xí nghiệp” là kế toán trưởng, đến việc xét duyệt kế toán và kể cả thanh tra các vụ việc cụ thể.
Từ khi chuyển đổi chơ chế kinh tế, với chủ trương đa phương hóa đầu tư, đa dạng hóa các thành phần kinh tế, Nhà nước không còn là chủ sở hữu duy nhất. Từ đó sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước bằng kế hoạch, bằng kiểm tra trực tiếp v.v... không thể thực hiện với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, kể cả với các nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí với các doanh nghiệp Nhà nước. Cách thức can thiệp của Nhà nước cũng không thể như cũ được nữa.
Mặt khác, các nhà đầu tư,khách hàng, người lao động v.v... cũng cần có niềm tin vào tài liệu kế toán trong khi họ không có đội ngũ chuyên gia kế toán đông đảo như Nhà nước. Đồng thời những nhà kinh doanh trong cơ chế thị trường cũng cần biết và tránh rủi ro thường có v.v... Như vậy, người quan tâm đến thông tin kế toán không chỉ có Nhà nước mà còn có tất cả các nhà đầu tư, những nhà quản lý, những khách hàng và những người lao động v.v. Vì vậy, công tác kiểm tra cần được thực hiện rộng rãi, đa dạng song thật khoa học, khách quan, trung thực, đủ sức thuyết phục và tạo niềm tin cho mọi người quan tâm. Trong điều kiện đó, việc tách kiểm toán ra khỏi những hoạt động kế toán và hình thànhc khoa học kiểm toán độc lập là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử.
Quan điểm thứ ba - quan điểm hiện đại, phạm vi kiểm toán (Audit) rất rộng, bao gồm những lĩnh vực chủ yếu sau:
1. Kiểm toán thông tin hướng vào việc đánh giá tính trung thực và hợp pháp của các tài liệu (thông tin) làm cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các mối quan hệ về kinh tế và tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tài liệu kế toán.
2. Kiểm toán quy tắc hướng vào việc đánh giá tình hình thực hiện các chế độ, thể lệ, luật pháp của đơn vị kiểm tra trong quá trình hoạt động (trước hết là với hoạt động tài chính).
3. Kiểm toán hiệu quả có đối tượng trực tiếp là các yếu tố, các nguồn lực trong từng loại nghiệp vụ kinh doanh: mua bán, sản xuất hay dịch vụ v.v... Kiểm toán loại này giúp ích trực tiếp cho việc hoạch định chính sách và phương hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện hoặc cải tổ hoạt động kinh doanh của đơn vị được kiểm toán.
4. Kiểm toán hiệu năng được đặc biệt quan tâm ở khu vực công cộng (kể cả các xí nghiệp công và các chương trình đầu tư từ ngân sách Nhà nước) nơi mà lợi ích và hiệu quả không còn giữ nguyên vẹn ý nghĩa của nó như trong donh nghiệp, nơi mà năng lực quản lý cần được đánh giá toàn diện và bồi bổ thường xuyên nhằm không ngừng nâng cao hiệu năng quản lý của đơn vị kiểm toán. Tất nhiên loại kiểm toán này cũng cần và có thể ứng dụng đối với quản lý toàn bộ doanh nghiệp hoặc với từng bộ phận quản lý của mọi đơn vị kiểm toán.
Các quan niệm khác nhau kể trên không hoàn toàn đối lập nhau mà
phản ánh quá trình phát triển của cả thực tiễn và lý luận kiểm toán.
Từ những điều trình bày trên có thể đi đến kết luận: “Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực”.
Trong khái niệm này em tập trung nghiên cứu vào hai đặc trưng chính:
- Xác minh và bầy tỏ ý kiến độc lập.
- Kiểm toán viên có trình độ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống
pháp lý có hiệu lực.
3.Chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến độc lập về các bảng khai tài chính
3.1.Chức năng xác minh.
Xác minh là nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài lài liệu, tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các bảng khai tài chính. Đây là chức năng cơ bản nhất gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của hoạt động kiểm toán. Bản thân chức năng này không ngừng phát triển và được thể hiện khác nhau tùy đối tượng cụ thể của kiểm toán là bảng khai tài chính hay nghiệp vụ kinh tế cụ thể hoặc toàn bộ tài liệu kiểm toán. Đối với các bảng khai tài chính, việc thực hiện chức năng xác minh này trước hết được thực hiện ở sự xác nhận của người kiểm tra độc lập với ở bên ngoài. Do quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp và yêu cầu pháp lý ngày càng cao nên việc xác minh bảng khai tài chính cần có hai mặt :
- Xác minh tính trung thực của các con số: các con số phản ánh đúng sự thật nội dung bản chất, và nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
- Tính hợp thức của các biểu mẫu phản ánh tình hình tài chính: các báo cáo tài chính và tài liệu kế toán phải phù hợp về không gian, thời gian và phản ánh đúng các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành.
Trong chức năng xác minh của kiểm toán, một vấn đè xảy ra rất sôi động hiện nay là phát hiện ra gian lận và sai sót trong tài chính. Gian lận là một hành động dối trá có toan tính với ý đồ mưu lợi. Sự gian lận trong báo cáo tài chính có thể xuất phát từ nhân viên trong bộ máy kiểm toán hoặc do ban giám đốc lập báo cáo tài chính để mưu cầu lợi ích cá nhân. Sự gian lận còn có thể do chủ trương của đơn vị cố tình “bóp méo” tình hình tài chính và hiệu quả kinh doanh của đơn vị để mưu cầu lợi ích cho đơn vị vi phạm .Sai sót là lỗi không cố ý, là sự nhầm lẫn, bỏ sót hoặc do yếu kém về năng lực Chẳng hạn, trong lĩnh vực kiểm toán tài chính, sai sót có thể là lỗi số học, bỏ sót hoặc hiểu sai sự việc một cách vô tình, áp dụng sai nguyên tắc, chế độ kiểm toán tài chính do thiếu năng lực.
Vì thế, trách nhiệm về sự gian lận, sai sót và ngăn ngừa gian lận, sai sót phải thuộc về ban giám đốc, những người có bổn phận bảo vệ tài sản của đơn vị. Nhiệm vụ của ban giám đốc là phải thiết lập một hệ thống nội kiểm để ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót. Người kiểm toán độc lập không chịu một phần trách nhiệm nào khi phát hiện sự gian lận, sat sót. Tuy nhiên kiểm toán viên phải có kế hoạch kiểm toán và tiến hành việc kiểm toán sao cho có một phán đoán hợp lý, dễ dàng phát hiện ra những sai phạm “trọng yếu” trong các bảng khai tài chính vì bầt kì nguyên nhân nào. Mức độ trọng yếu tùy thuộc vào sự nhận định chuyên môn của kiểm toán viên và có sự khác nhau giữa các công ty kiểm toán độc lập khác nhau.
Nhưng trên thực tế, gian lận là hành vi trải qua ba gian đoạn: đầu tiên là hình thành ý đồ gian lận; sau đó thực hiện hành vi gian lận; và cuối cùng là che giấu hành vi gian lận. Chính vì thế gian lận luôn được tính toán kĩ lưỡng và che dấu tinh vi nên rất khó phát hiện nhất là những gian lận gắn với những người quản lý cấp cao. Vì vậy để chắc chắn, các kiểm toán viên thường cẩn thận và dè dặt ghi thêm trong thư xác nhận: “kiểm toán viên không có trách nhiệm tìm ra mọi gian lận, trách nhiệm này còn thuộc về những đối tượng có liên quan”.
Thư xác nhận được đưa ra khi kiểm toán độc lập đã tiến hành kiểm tra, nó có nội dung sau:
“ Kính gửi các thành viên của hội dồng quản trị công ty xyZ.
Chúng tôi đã kiểm toán các báo cáo tài chính từ trang... đến trang... theo những tiêu chuẩn kiểm toán được chấp nhận ở Việt Nam.
Theo ý kiến chúng tôi, các báo cáo tài chính đã phản ánh chính xác và trung thực về tình hình hoạt động công ty đến ngày... về lợi nhuận và sự biến động của tình hình tài chính trong kỳ kết thúc cùng ngày và báo cáo tài chính đã được lập đầy đủ, phù hợp với luật định.
Tên công ty KTĐL”.
Một thư xác nhận như thế có thể được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau vì những tài liệu, số liệu kiểm toán của công ty đó đáng tin cậy hơn, nhất là nếu được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập có uy tín danh tiếng.
Chức năng xác minh được cụ thể hóa thành 7 mục tiêu chung dùng cho mọi phần hành, mọi khoản mục kiểm toán như một “ khung” chung. Chuẩn mực số 200 qui định: mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không?
Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính còn giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị.
Các mục tiêu chung của kiểm toán là:
Mục tiêu hiệu lực là hướng xác minh vào tính có thật của số tiền trên các khoản mục. Có thể xem mục tiêu này là hướng tới tính đúng đắn về nội dung kinh tế của khoản mục trong quan hệ với các nghiệp vụ, các bộ phận cấu thành khoản mục đó. Từ đó, số tiền ghi vào báo cáo tài chính phải là con số thực tế. Nếu ghi một nghiệp vụ bán hàng không có thực vào nhật ký và từ đó vào sổ cái để chuyển vào báo cáo kết quả kinh doanh là vi phạm mục tiêu hiệu lực...
Như vậy, mục tiêu hiệu lực là hướng xác minh bổ sung vào cam kết về sự tồn tại hay xảy ra của nhà quản lý.
Mục tiêu trọn vẹn là hướng xác minh vào sự đầy đủ về thành phần (nội dung) cấu thành số tiền ghi trên các khoản mục. Cụ thể mục tiêu này liên quan đến tính đầy đủ của các nghiệp vụ, tài sản và vốn cần được tính vào khoản mục. Chẳng hạn, không ghi một khoản bán hàng thực tế đã xảy ra vào Nhật ký và Sổ cái để tính vào số tiền trên khoản mục tương ứng là vi phạm mục tiêu trọn vẹn.
Các mục tiêu hiệu lực và trọn vẹn hướng trọng tâm chú ý vào những quan hệ kiểm toán ngược nhau. Mục tiêu hiệu lực có quan hệ đến khả năng phóng đại số tiền bởi những nghiệp vụ, tài sản hoặc vốn không có thực trong khi mục tiêu trọn vẹn lại quan hệ với những bộ phận thực tế phát sinh nhưng không ghi sổ.
Mục tiêu quyền và nghĩa vụ bổ sung cho cam kết về quyền và nghĩa vụ với ý nghĩa xác minh lại quyền sở hữu (hoặc sử dụng lâu dài và được luật định thừa nhận) của tài sản và nghĩa vụ pháp lý (hoặc hợp đồng dài hạn) của các khoản nợ và vốn. Thực chất của mục tiêu này là hướng tới mối liên hệ giữa các bộ phận và giữa các khoản mục trong và ngoài Bảng cân đối tài sản.
Mục tiêu định giá là hướng xác minh vào cách thức và kết quả biểu hiện tài sản, vốn và các hoạt động (chi phí, chiết khấu, thu nhập..) thành tiền. Như vậy, mục tiêu này nghiêng về thẩm tra giá trị thực kể cả đánh giá theo nguyên tắc kế toán, thực hiện các phép tính theo phương pháp toán học. Tuy nhiên mục tiêu này cũng không loại trừ xem xét tới liên hệ về cơ cấu có ảnh hưởng tới số tiền ghi trong các Báo cáo tài chính như việc thẩm tra các khoản chiết khấu, hối khấu, lãi suất, cổ tức...Đây là những khoản cấu thành chi phí, thu nhập, tài sản và vốn. Mục tiêu này được sử dụng để làm rõ ràng hơn cam kết của nhà quản lý về định giá và phân phối
Mục tiêu phân loại là hướng xem xét lại việc xác định lại các bộ phận, nghiệp vụ được đưa vào tài khoản cùng việc sắp xếp các tài khoản trong các báo cáo tài chính theo bản chất kinh tế của chúng được thể chế bằng các văn bản pháp lý cụ thể đang có hiệu lực. Trong các văn bản này, hệ thống tài khoản là cơ sở bắt đầu để thẩm tra phân loại tài sản, nghiệp vụ và vốn của khách hàng. Đồng thời giới hạn về thời gian, đặc biệt là các nghiệp vụ xảy ta cuối kỳ kế toán cũng là một trọng tâm rà soát việc ghi vào các tài khoản. Với nội dung trên mục tiêu này là sự bổ sung cần thiết vào cam kết về phân loại và trình bày.
Mục tiêu chính xác cơ học là hướng xác minh về sự đúng đắn tuyệt đối qua các con số cộng sổ và chuyển sổ: các chi tiết trong số dư (cộng số phát sinh) của tài khoản càng nhất trí với các con số trên các sổ phụ tương ứng; số cộng gộp của tài khoản trùng với số tổng cộng trên các sổ phụ có liên quan; các con số chuyển sổ, sang trang phải thống nhất.
Rõ ràng, số dư (tổng phát sinh) của tài khoản được phản ánh vào mục xác định của các báo cáo tài chính. Các con số này được minh chứng từ các sổ chi tiết trong các sổ phụ được liệt kê từ các bảng kê, nhật ký và các bảng phụ lục do khách hàng lập. Mục tiêu chính xác cơ học sẽ bổ sung cho cam kết này của nhà quản lý với hàm ý khẳng định lại mức chính xác số tổng cộng của chúng với sổ cái... Chẳng hạn, các khoản phải thu cá biệt trên bảng kê các khoản thu phải trùng hợp với sổ phụ các khoản phải thu và số tổng cộng phải thống nhất với tài khoản tương ứng trên Sổ cái.
Mục tiêu trình bày hướng xác minh vào cách ghi và thuyết minh các số dư (hoặc tổng số phát sinh của tài khoản) vào các báo cáo tài chính. Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi kiểm toán viên thử nghiệm chắc chắn là tất cả các tài khoản thuộc Bảng cân đối tài sản và Báo cáo kết quả kinh doanh cùng các thông tin có liên quan đã được trình bày đúng và thuyết minh rõ trong các Bảng và các giải trình kèm theo. Với ý nghĩa đó, mục tiêu này là phần bổ sung của kiểm toán viên vào xác nhận của nhà quản lí về sự trình bày và thuyết minh.
3.2.Chức năng bày tỏ ý kiến.
Kiểm toán nói chung, kiểm toán độc lập nói riêng còn có chức năng bày tỏ ý kiến. ở Việt Nam hiện nay chức năng bày tỏ ý kiến này được thực hiện qua phương thức tư vấn, mà biểu hiện của phương thức này là các lời khuyên hoặc các đề án. Công ty kiểm toán cung cấp “Thư quản lý” kèm theo các báo cáo kiểm toán nội dung thư quản lý là xuất phát từ công việc xác nhận, các kiểm toán viên độc lập đã thực hiện việc xem xét đánh giá kinh doanh, hệ thống quản lý, hệ thống kế toán. Qua đó, kiểm toán viên nhận biết được các điểm yếu kém của doanh nghiệp. Các công ty kiểm toán thường gửi kèm góp ý (miễn phí hoặc tính phí trong phí kiểm toán) cho các nhà quản lý doanh nghiệp nhằm trợ giúp nhà quản lí điều hành doanh nghiệp hoàn thiện các kế toán quản lí.
Như vậy “Thư quản lý” là công việc kiểm toán báo cáo tài chính của các kiểm toán viên độc lập, nội dung chủ yếu của thư quản lý là đề cập tới những vấn đề yếu kém cần khắc phục trong quá trình điều hành quản lí doanh nghiệp. Qua thư quản lý, các nhà quản lí doanh nghiệp sẽ thấy được những điểm còn tồn tại, những lời khuyên và những gợi ý của kiểm toán viên một cách độc lập khách quan nhằm trợ giúp các nhà quản lý hoàn thiện hệ thống kiểm soát hệ thống quản lý điều hành doanh nghiệp.
Kiểm toán độc lập là loại hình còn mới mẻ song đã được chính phủ và nhà nước quan tâm. Chức năng của kiểm toán độc lập đã được khẳng dịnh trong Thông tư hướng dẫn thực hiện số 22TC/CĐKT của Bộ tài chính: “Chức năng của kiểm toán độc lập là kiểm tra xác nhận tính đúng đắn, trung thựcvà hợp lý của các số liệu, tài liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các đơn vị, và tren cơ sở kết quả kiểm toán đưa ra những kết luận đánh giá việc tuân thủ pháp luật, chính sách chế độ tài chính, kế toán và hiệu quả hoạt động của đơn vị”.
Chức năng xác minh và đưa ra ý kiến của kiểm toán độc lập được thực hiện để trình bày trong phần “Phạm vi” của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính.
3.3.Báo cáo kiểm toán.
Theo quy định mang tính phổ biến của một quốc gia hoặc của ủy ban về chuẩn mực kiểm toán (IAPC) của liên đoàn kế toán Quốc tế (IFAC) thì báo cáo kiểm toán, báo cáo tài chính được quy định viết dưới dạng văn bản và phải tuân thủ các quy định cả về mặt nội dung và hình thức.
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính: là loại báo cáo bằng văn bản do kế toán viên lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về báo cáo tài chính của một đơn vị (tổ chức hoặc doanh nghiệp ) đã được kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong họat động kiểm toán và với người sử dụng báo cáo tài chính.
Đối với họat động kiểm toán, báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính là khâu cuối cùng trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, thể hiện sự xác nhận tính trung thực và hợp lý của các thông tin báo cáo tài chính công khai. Sự xác nhận này có ý nghĩa pháp lý để chứng tỏ rằng số liệu và các thông tin của báo cáo tài chính đã kiểm toán là đảm bảo độ tin cậy.
Các kiểm toán viên độc lập đã đưa ra nhiều mức độ thể hịên sự xác nhận độ trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính.
Xác nhận toàn bộ theo dạng nhận xét này thì các thông tin trên báo cáo tài chính là trung thực và hợp lý trên khía cạnh chính và việc trình bày các thông tin này là phù hợp với các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận. Xác nhận này đảm bảo cho người sử dụng trên báo cáo tài chính tin tưởng rằng về các nội dung quan trọng trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp đã được lập, phản ánh trung thực và hợp lý về tình hình tài chính của doanh nghiệp đó.
Xác nhận không toàn bộ: Trong trường hợp này, kiểm toán viên thường dùng các thuật ngữ “ngoại trừ ” chứng nhận từng phần hoặc nhận xét có điều kiện trong báo cáo kiểm toán. Khi đó báo cáo có dạng: ngoại trừ các điểm a,b,c... và ảnh hưởng của nó đến các thông tin trình bày trên báo cáo tài chính thì báo cáo tài chính bảo đảm tính trung rhực và hợp lý về tình hình tài chính doanh nghiệp. Và khi đó, chúng ta cần hiểu rằng với xác nhận này cũng có nghĩa là có nội dung quan trọng trừ các vấn đề a,b,c... và các ảnh hưởng của nó tới thông tin trên báo cáo tài chính đã không được kiểm toán viên đưa ý kiến về sự trung thực và hợp lý
Không nêu ý kiến xác nhận (từ chối ý kiến): Vì các lý do nào đó a,b,c... (như hạn chế do phạm vi của kiểm toán, hạn chế do việc thu thập bằng chứng để khẳng định và đưa ra ý kiến nhận xét) mà kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến về báo cáo của doanh nghiệp đã được lập và trình bày. Khi đó chúng ta cần hiểu rằng vì những lý do đã nêu trên mà kiểm toán viên không thể đưa ra và khẳng định chắc chắn rằng các thông tin trên báo cáo tài chính đã được lập một cách đúng đắn, phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính doanh nghiệp.
Đưa ra ý kiến trái ngược (phản bác) về sự trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính. Trong trường hợp này kiểm toán viên đã có bằng chứng chắc chắn và có sự khẳng định về viêc lập và trình bày các thông tin trên báo cáo tài chính đã có sự không trung thực và hợp lý.
Các mức độ xác nhận này nhằm đưa tới cho người sử dụng các thông tin trên báo cáo tài chính các mức độ tin cậy khác nhau để có quyết định thích hợp, tránh được các sai lầm hoặc thiệt hại nghiêm trọng. Chẳng hạn như:
* Nó giúp cho bản thân ban giám đốc công ty dùng làm căn cứ trong việc điều hành, quản lý họat động. Ban giám đốc có thể an tâm sử dụng những báo cáo tài chính này để ra các quyết định kinh doanh.
Hơn nữa, các báo cáo kết quả kiểm toán luôn đưa ra những yếu kém trong quá trình quản lý và đề nghị phương cách cải tiến. Đó là những lời tư vấn quản lý quý báu cho các nhà lãnh đạo công ty.
* Nếu đối tượng được kiểm toán là một doanh nghiệp nhà nước thì kết quả kiểm toán này có thể được cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan tài chính nhà nước dùng làm căn cứ xét duyệt quyết toán hàng năm.
* Đối với mọi doanh nghiệp nói chung, cơ quan thuế vụ cũng tham khảo kết quả kiểm toán các đơn vị này để tính toán số thuế và các khoản phải nộp khác mà đơn vị phải làm với ngân sách nhà nước.
* Công chúng – những nhà đầu tư tiềm tàng – cũng cần xem xét các báo cáo tài chính có thư xác nhận của kiểm toán độc lập để tự thẩm định và quyết định việc đặt vốn vào các công ty có phát hành cổ phiếu (gọi hùn vốn). Và ngay cả sau khi mua cổ phiếu, trở thành cổ đông hay sau khi mua trái phiếu, trở thành trái chủ của công ty thông qua các “bức tranh tài chính” có thư xác nhận của kiểm toán độc lập để kịp thời làm những quyết định mua bán cổ phiếu, trái phiếu...
* Các ngân hàng cũng là đối tượng thường xuyên sử dụng báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên độc lập về các báo cáo tài chính của các khách hàng vay nợ. Tất nhiên, báo cáo kiểm toán không phải là một sự đảm bảo rủi ro tín dụng, nhưng đó là một tài liệu cần có để xét cho vay, để nâng cao độ tin cậy vào các báo cáo tài chính khi đo lường mức độ rủi ro của khách hàng.
* Đối với các doanh nghiệp là bạn hàng cung ứng nguyên liệu vật tư, khi xét bán chậm trả cho công ty – tương đương một khoản cấp tín dụng – họ cũng phân tích tình hình tài chính của công ty. Và nếu có báo cáo kiểm toán của kiểm toán độc lập họ cũng an tâm hơn về số liệu được phản ánh qua các báo cáo đó.
Tại những nước tiên tiến, ngay cả những người đi xin việc cũng muốn xem các báo cáo._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K1203.doc