Chương I: Doanh nghiệp
I. Khái niệm và những đặc điểm cơ bản của Doanh nghiệp.
1. Khái niệm:
Doanh nghiệp là một tổ chức đựơc thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp được tự do kinh doanh các mặt hà
104 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 12105 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu (Bài giảng môn tổ chức Quản lý sản xuất) Tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng mà mình muốn nhưng trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Trái ngược hoàn toàn với ngày nay, từ trước năm 1986 các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, tức là các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và dịch vụ do Nhà nước giao và sau đó Nhà nước tự phân phối sản phẩm. Theo cơ chế này đã hạn chế rất nhiều năng lực tự chủ của các doanh nghiệp, không phát huy được tính sáng tạo trong mỗi con người trong doanh nghiệp. Hiện tượng ỷ lại của cán bộ và công nhân viên làm cho doanh nghiệp không phát triển được.
2. Đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp:
a. Tính thống nhất về sản xuất kỹ thuật:
Mỗi doanh nghiệp công nghiệp thường gồm nhiều bộ phận khác nhau nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau về kỹ thuật công nghiệp, tạo nên sự thống nhất hoàn chỉnh về mặt sản xuất làm cho doanh nghiệp có thể tiến hành sản xuất theo một trình tự hợp lý có điều kiện phối hợp và phục vụ lẫn nhau, làm cơ sở cho tổ chức sản xuất và quản lý có hiệu quả.
b. Tính thống nhất về mặt tổ chức và kinh tế:
Tính thống nhất về mặt tổ chức trong doanh nghiệp công nghiệp thể hiện ở chỗ các bộ phận sản xuất đều ngắn và có quan hệ với nhau trong một cơ cấu tổ chức thống nhất có một bộ máy quản lý chung đứng đầu là giám đốc doanh nghiệp.
Tính thống nhất về mặt kinh tế của doanh nghiệp được thể hiện ở chỗ doanh nghiệp là một đơn vị độc lập và hoạch toán độc lập. Khi doanh nghiệp công nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì phải thống nhất 3 lợi ích: lợi ích cá nhân người lao động, lợi ích tập thể của doanh nghiệp và lợi ích nhà nước.
c. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa:
Quan hệ mọi thành viên trong doanh nghiệp là quan hệ hợp tác đồng chí bình đẳng tương trợ nhau trong công việc, cùng nhau thực hiện nhiệm vụ sản xuất.
Quan hệ phân phối lợi nhuận cũng phải được tiến hành công bằng xã hội, có nghĩa là phải theo đúng nguyên tắc phân phối theo lao động kết hợp với việc nâng cao phúc lợi tập thể và bảo đảm lợi ích của Nhà nước.
d. Quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp:
Quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp được thể hiện trước hết doanh nghiệp có tư cách pháp nhân có quyền ký kết các hợp đồng kinh tế trong và ngoài nước. Mặt khác doanh nghiệp được chủ động trong sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật cho phép và tự chủ về giá cả sản phẩm của doanh nghiệp mình.
II. Vị trí của doanh nghiệp công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
1. Doanh nghiệp công nghiệp là nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội là mắt xích của quá trình tái sản xuất mở rộng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
2. Doanh nghiệp công nghiệp là tế bào, là đơn vị kinh tế cơ sở nơi không những tạo ra của cải vật chất mà còn tạo ra thu nhập quốc dân và tích luỹ cho nhà nước.
3. Doanh nghiệp công nghiệp là nơi có tập thể người lao động thể hiện quyền làm chủ của mình trong quản lý doanh nghiệp, là nơi thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các chủ trương chính sách kinh tế xã hội của nhà nước, nơi tổ chức đời sống và hoạt động xã hội, nơi cải tạo và rèn luyện con người lao động mới của nền đại công nghiệp.
III. Chức năng của doanh nghiệp công nghiệp.
1. Là đơn vị sản xuất doanh nghiệp công nghiệp tạo ra của cải vật chất hoặc các dịch vụ thông qua hoạt động sản xuất doanh nghiệp công nghiệp biến đầu vào thành đầu ra.
2. Doanh nghiệp công nghiệp là 1 đơn vị phân phối. Kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp công nghiệp được thể hiện bằng tiền tệ có nghĩa là doanh nghiệp bán các của cải vật chất làm ra và nhận được những luồng tài chính như tiền mặt, séc...
IV. Các loại hình doanh nghiệp.
Đứng trên góc độ là một nhà quản lý doanh nghiệp, nhằm tìm ra một phương thức quản lý doanh nghiệp có hiệu quả, chúng ta nghiên cứu loại hình doanh nghiệp dựa trên các cách phân loại sau:
1. Phân loại doanh nghiệp căn cứ vào hình thức sở hữu vốn:
Theo cách này có 2 loại hình doanh nghiệp chính là doanh nghiệp một chủ sở hữu và doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu.
Doanh nghiệp một chủ sở hữu bao gồm:
Doanh nghiệp nhà nước
Khái niệm: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội do Nhà nước giao.
Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu thu lợi nhuận. Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Hiện nay chúng ta đang tiến hành kiện toàn lại toàn bộ cơ cấu quản lý, xác định đầy đủ những nhiệm vụ và quyền hạn của doanh nghiệp Nhà nước. Nhà nước tiến hành trao quyền sử dụng, trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn cho doanh nghiệp. Tổ chức các công ty cổ phần giữa Nhà nước và công nhân viên chức trong doanh nghiệp Nhà nước. Chuyển một số doanh nghiệp có điều kiện sang hình thức công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu, tạo điều kiện cho người lao động thực sự là người sở hữu và gắn bó lợi ích.
Đặc trưng cơ bản:
- Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
- Doanh nghiệp nhà nước có thẩm quyền kinh tế bình đẳng với các doanh nghiệp khác và hoạch toán kinh tế độc lập trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý.
- Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân được giao chức năng kinh doanh và chức năng hoạt động công ích.
- Doanh nghiệp nhà nước có trụ sở chính đặt trên lãnh thổ Việt Nam.
- Cổ phần của Nhà nước chiếm trên 50% tổng số cổ phần của doanh nghiệp và cổ phần của Nhà nước ít nhất gấp 2 lần cổ phần của cổ đông lớn nhất khác trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân
Khái niệm: Doanh nghiệp tư nhân là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn vốn pháp định do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động khác của doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình, nhưng phải báo cáo với cơ quan quản lý và cơ quan thuế. Trong thời gian cho thuê, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân cũng có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác. Sau khi bán doanh nghiệp chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về tất cả các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện.
Đặc điểm cơ bản:
- Doanh nghiệp tư nhân là một đơn vị kinh doanh do một người bỏ vốn ra và tự làm chủ.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ trong kinh doanh doanh nghiệp( không có tư cách pháp nhân ).
- Doanh nghiệp tư nhân có mức vốn kinh doanh không thấp hơn mức vốn do pháp luật quy định phù hợp với quy mô và ngành nghề kinh doanh. Nguồn vốn tự có do tự có, thừa kế, đi vay...
Doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu gồm:
Công ty: Có công ty đối nhân và công ty đối vốn.
*. Công ty đối nhân: Là công ty mà trong đó có các thành viên thường quyen biết nhau và kết hợp với nhau do tín nhiệm nhau, họ nhân danh mình mà kinh doanh và liên đới chịu trách nhiệm. Do đó không thể chuyển nhượng phần góp tài sản của mình mà không được sự đồng ý của toàn thể thành viên. Đối với loại công ty này các thành viên thường chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ. Khi một thành viên chết có thể dẫn đến giải thể công ty.
*.Công ty đối vốn: Là công ty mà trong đó người tham gia không tham gia đến mức độ tin cậy của các thành viên khác, họ chỉ quan tâm đến phần vốn góp. Phần vốn góp này có thể chuyển nhượng hoặc đem mua bán trên thị trường chứng khoán. Lãi được chia tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp.
*. Công ty trách nhiệm hữu hạn( THHH ): Là một loại công ty đối vốn gồm các thành viên không có quy chế của nhà kinh doanh và các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết những phần vốn góp của họ.
+. Mỗi thành viên được chia lợi nhuận, chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn góp vào công ty.
+. Phần vốn góp vào công ty của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định sau:
- Thành viên muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp phải chào bán phần vốn đó cho tất cả các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương đương với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng một điều kiện.
- Chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết.
+. Thành viên của công ty TNHH có thể là tổ chức, cá nhân. Số lượng thành viên của công ty không vượt quá 50( có thể chỉ có một thành viên là một tổ chức duy nhất).
+. Công ty TNHH không được phép phát hành cổ phiếu. Công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+. Với công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên, bộ máy quản lý của công ty gồm: Hội đồng thành viên, chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc. Hội đồng thành viên gồm tất cả các thành viên, là cơ quan quyêt định cao nhất của công ty. Hội đông thành viên bầu một thành viên làm Chủ tịch Hội đồng thành viên. Chủ tịch Hội đồng thành viên có thể kiêm giám đốc( hoặc Tổng giám đốc). Hội đồng thành viên có quyền quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Giám đốc( tổng giám đốc), kế toán trưởng và các cán bộ quản lý quan trọng khác.
Với công ty TNHH có một thành viên: là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu. Chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Chủ sở hữu của công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác. Công ty này không được phát hành cổ phiếu, công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty TNHH một thành viên gồm: Hội đồng quản trị và Giám đốc( Tổng giám đốc) hoặc Chủ tịch công ty và giám đốc( Tổng giám đốc), công ty TNHH có trên 11 thành viên phải có ban kiểm soát.
*. Công ty cổ phần: Là một loại công ty đối vốn trong đó các thành viên( cổ đông ) có cổ phiếu và chỉ chịu trách nhiệm đến hết giá trị những cổ phần mà mình có.
Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Có nhiều loại cổ phần như: cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đãi( ưu đãi biểu quyết, ưu đãi cổ tức, ưu đãi hoàn lại...).
Số thành viên( cá nhân, tổ chức) gọi là cổ đông- tối thiểu là 3 và không hạn chế tối đa. Chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Trên cổ phiếu phải ghi rõ tên, trụ sở công ty, số lượng cổ phần và loại cổ phần, mệnh giá cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ phiếu, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của công ty và dấu của công ty, ngày phát hành cổ phiếu...
Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác.
Công ty cổ phần có quyền phát hành các loại chứng khoán theo quy định của pháp luật.
Công ty cổ phần chỉ được trả cổ tức cho cổ đông khi công ty kinh doanh có lãi( sau khi đã nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác).
Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty cổ phần gồm: Hội đồng quản trị( đứng đầu là Chủ tịch hội đồng quản trị), Giám đốc( Tổng giám đốc), với công ty cổ phần có trên 11 cổ đông phải có ban kiểm soát. Đại hội cổ đông gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần, đại hội có quyền quyết định các loại cổ phần, tổng số cổ phần chào bán, quyết định mức cổ tức hàng năm; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên của Hội đồng quản trị, thành viên ban kiểm soát; quyết định tổ chức lại và giải thể công ty. Hội đồng quản trị có quyền bổ nhiệm một người trong Hội đồng quản trị hoặc người khác làm Giám đốc công ty. Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm làm giám đốc( Tổng giám đốc công ty).
*. Công ty hợp danh: Công ty hợp danh là một doanh nghiệp trong đó:
+. Phải có ít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
+. Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
+. Thành viên hợp danh có quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lý công ty; được tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh công ty; cùng liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn trong công ty hợp danh không được tham gia quản lý công ty và không được tiến hành hoạt động kinh doanh nhân danh công ty.
+. Cơ cấu tổ chức quản lý công ty hợp danh do các thành viên hợp danh thoả thuận trong điều lệ công ty.
*. Hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra, theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên, nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Đặc điểm cơ bản: Là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động tự nguyện lập ra, do có nhu cầu, có lợi ích chung.
Tư liệu sản xuất và các vốn khác thuộc sở hữu tập thể phải chiếm phần lớn trong tổng số vốn của HTX và ngày càng phát triển bằng quỹ tích luỹ trích từ lợi nhuận. Ngoài ra HTX có thể gọi cổ phần của xã viên và của những người ngoài HTX để phát triển sản xuất.
Chủ nhiệm và ban quản trị HTX do đại hội xã viên bầu ra. Việc sản xuất kinh doanh phải theo điều lệ HTX và theo nghị quyết đại hội xã viên. Thu nhập của xã viên được phân phối chủ yếu theo lao động. Vốn cổ phần được chia lợi nhuận theo quyết định của hội đồng xã viên.
Đại hội xã viên có quyền quyết định cao nhất của HTX. ĐHXV phải có ít nhất 2/3 tổng số xã viên hoặc đại biểu xã viên tham dự. ĐHXV trực tiếp bầu ra ban quản trị và ban kiểm soát.
Ban quản trị HTX là cơ quan quản lý và điều hành mọi công việc của HTX do ĐHXV bầu trực tiếp bồm chủ nhiệm HTX và các thành viên khác. Số lượng thành viên ban quản trị do điều lệ HTX quy định. Những HTX có số xã viên dưới 15 người thì có thể chỉ bầu chủ nhiệm HTX để thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của ban quản trị.
2. Phân loại doanh nghiệp căn cứ vào quy mô.
Căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp( doanh thu, vốn, lao động), người ta chia thành 3 loại hình doanh nghiệp sau:
+. Doanh nghiệp lớn
+. Doanh nghiệp vừa
+. Doanh nghiệp nhỏ
Các doanh nghiệp lớn, với số lượng ít là những doanh nghiệp có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, ví dụ như các tổng công ty.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ với số lượng rất lớn là nơi thu hút nhiều lao động. Vì vậy chính sách và cơ chế hoạt động cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần được Nhà nước quan tâm nhằm thu hút lao động, tạo công ăn việc làm, hạn chế thất nghiệp.
Dựa vào các chỉ tiêu trên, các nước khác nhau phân loại quy mô doanh nghiệp khác nhau. Việt Nam hiện nay chia doanh nghiệp quy mô lớn và doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ.
Doanh nghiệp quy mô lớn là doanh nghiệp có khoảng 500 lao động và 100 tỷ đồng tiền vốn trở lên. Dưới đó là quy mô vừa và nhỏ khoảng 5 – 10 lao động và từ 3 – 5 triệu đồng vốn.
V. Nhiệm vụ cơ bản của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có các nhiệm vụ sau:
1. Kinh doanh theo đúng với ngành nghề đã đăng ký và mục đích thành lập doanh nghiệp.
2. Bảo toàn và phát triển vốn đựơc giao.
3. Thực hiện các nhiệm vụ và nghĩa vụ đối với nhà nước.
4. Thực hiện phân phối theo lao động chăm lo đời sống vật chất tinh thần công nhân viên chức, bồi dưỡng và nâng cao trình độ văn hoá kỹ thuật nghiệp vụ cho người lao động thực hiện công bằng xã hội.
5. Bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ sản xuất, bảo vệ môi trường giữ gìn an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội, làm tròn nghĩa vụ quốc phòng, tuân thủ pháp luật nhà nước.
VI. Những nguyên tắc hoạt động của doanh nghiệp.
1. Doanh nghiệp công nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Mặt khác doanh nghiệp công nghiệp phải phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng có sự quản lý của nhà nước.
2. Doanh nghiệp công nghiệp được quản lý theo chế độ một thủ trưởng, được quản lý theo chế độ trên cơ sở thực hiện quyền làm chủ tập thể của người lao động. Có nghĩa là nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý tập chung thống nhất bằng các chính sách, các chế độ nhưng không can thiệp vào các hoạt động của doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể phát huy được tối đa khả năng của mình và có kết quả tốt nhất.
3. Doanh nghiệp công nghiệp hoạt động theo phương thức hạch toán kinh doanh độc lập bảo đảm lợi ích của xã hội, tập thể và cá nhân của người lao động trong đó lợi ích của người lao động là động lực chính.
VII. Phương pháp nghiên cứu và nội dung môn tổ chức quản lý doanh nghiệp.
1. Phương pháp nghiên cứu môn học.
Trong nền sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để nghiên cứu môn học này có kết quả cần áp dụng những phương pháp sau:
- Phải nghiên cứu xem xét những hiện tượng kinh tế trong doanh nghiệp, liên kết các bộ phận với nhau thành một khối thống nhất để cho quá trình sản xuất được liên tục và người quản lý có thể điều hành một cách rễ ràng hơn.
- Phải nắm được tình hình phát triển của doanh nghiệp và hiện tượng kinh tế phát sinh trong doanh nghiệp. Từ đó mới có thể nắm được những đặc điểm tình hình và mới đề ra được những nhiệm vụ yêu cầu biện pháp phù hợp và đúng đắn.
- Kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn để tránh trường hợp chỉ biết lý luận mà không biết thực tế dẫn đến việc khi vào sản xuất không mang lại kết quả cao.
2. Nội dung môn học.
Chương II: Tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp.
I. Nội dung và yêu cầu của tổ chức quá trình sản xuất.
1. Khái niệm:
Tổ chức sản xuất là sự phối, kết hợp chặt chẽ giữa sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ sản xuất, quy mô sản xuất và công nghệ sản xuất đã xác định nhằm sản xuất ra sản phẩm với chất lượng cao trên cơ sở quán triệt 3 vấn đề cơ bản của thị trường:
sản xuất cái gì sản xuất như thế nào sản xuất cho ai
Kế hoạch Công nghệ Thị trường
Việc tổ chức sản xuất hợp lý đem lại hiệu quả cao về nhiều mặt:
- Cho phép hoặc góp phần quan trọng vào việc sử dụng có hiệu quả nguyên, nhiên vật liệu, thiết bị máy móc và sức lao động trong doanh nghiệp.
- Góp phần to lớn vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thực hiện được mục tiêu kinh tế tổng hợp của doanh nghiệp, tức làm ăn có lãi.
- Có tác dụng tốt đối với việc bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp( không gây ô nhiễm, không gây độc hại).
2. Nội dung cơ bản của quá trình sản xuất.
a. Quan niệm về quá trình sản xuất.
Khi xem xét có thể đứng trên hai góc độ:
- Theo nghĩa rộng: Quá trình sản xuất bắt đầu từ khi xác định phương án sản phẩm, chuẩn bị các điều kiện cho sản xuất để sản xuất ra sản phẩm và đưa sản phẩm đó tiêu thụ trên thị trường.
- Theo nghĩa hẹp: Quá trình sản xuất là quá trình khai thác hoặc chế biến một loại sản phẩm nào đó nhờ kết hợp một cách chặt chẽ 3 yếu tố của quá trình sản xuất.
Quá trình sản xuất trong doanh nghiệp luôn luôn có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau, đó là mặt vật chất- kỹ thuật của sản xuất và mặt kinh tế- xã hội của sản xuất. Mặt vật chất- kỹ thuật của sản xuất bao gồm sự tác động của sức lao động lên đối tượng lao động bằng các công cụ lao động cần thiết để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Mặt kinh tế –xã hội của sản xuất cho thấy, quá trình sản xuất trong doanh nghiệp còn là quá trình củng cố mối quan hệ sản xuất, quá trình lao động sáng tạo và hiệp tác của người lao động.
b. Nội dung của quá trình sản xuất.
Với khái niệm trên, nội dung chủ yếu của quá trình sản xuất trong doanh nghiệp bao gồm quá trình công nghệ, quá trình kiểm tra và quá trình vận chuyển, trong đó quá trình công nghệ có vai trò quan trọng hơn cả.
Tuỳ theo phương pháp chế biến hay gia công được áp dụng trong doanh nghiệp mà quá trình công nghệ được chia thành nhiều hay ít giai đoạn công nghệ khác nhau và mỗi giai đoạn công nghệ lại được chia thành nhiều bước công việc( còn gọi là nguyên công) khác nhau.
Bước công việc được gọi là đơn vị cơ bản của quá trình sản xuất. Đó là một phần việc của quá trình sản xuất, được thực hiện trên một nơi làm việc, do một công nhân hoặc một nhóm công nhân cùng tiến hành trên một đối tượng lao động nhất định. Khi xem xét bước công việc phải căn cứ vào 3 nhân tố: nơi làm việc, công nhân, đối tượng lao động, nếu một trong 3 nhân tố này thay đổi thì bước công việc cũng thay đổi.
Việc phân chia bước công việc càng nhỏ, càng có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao trình độ chuyên môn hoá công nhân, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm và sử dụng hợp lý công suất của thiết bị, máy móc.Tuy nhiên, thời gian gián đoạn trong sản xuất lại tăng lên trong một mức độ nhất định vì phải dừng lại ở nhiều nơi làm việc và phải chuyển nhiều lần từ nơi làm việc này đến nơi làm việc khác. Nói chung, việc chia thành nhiều bước công việc nhỏ chỉ phù hợp với trình độ sản xuất thủ công cũng như ở giai đoạn đầu của sản xuất cơ khí hoá. Cùng với việc phát triển của các loại máy móc, công nghệ tiên tiến, một xu hướng chung là gộp các bước công việc nhỏ thành những bước công việc lớn.
II. Yêu cầu của tổ chức quá trình sản xuất:
Trong bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào công tác tổ chức sản xuất đều phải quán triệt 4 yêu cầu sau:
1. Tổ chức sản xuất phát triển theo hướng chuyên môn hoá kết hợp với kinh doanh tổng hợp:
Chuyên môn hoá là hình thức phân công lao động xã hội nhằm làm cho doanh nghiệp nói chung, các bộ phận sản xuất và các nơi làm việc nói riêng có nhiệm vụ chỉ chế tạo một( hoặc một số rất ít) loại sản phẩm, chi tiết của sản phẩm hoặc chỉ tiến hành một( hoặc một số rất ít) bước công việc.
Sản xuất chuyên môn hoá được coi là nhân tố rất quan trọng để nâng cao loại hình sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tiêu chuẩn hoá, thống nhất hoá, ứng dụng kỹ thuật tiên tiến hiện đại, tổ chức mua sắm vật tư, tổ chức lao động khoa học, tổ chức tiêu thụ sản phẩm và công tác quản trị doanh nghiệp.
Kinh doanh tổng hợp là những hoạt động kinh tế mang tính chất bao chùm nhiều lĩnh vực khác nhau, từ sản xuất công nghiệp đến sản xuất phi công nghiệp, từ sản xuất đến lưu thông phân phối và dịch vụ.
Chuyên môn hoá và kinh doanh tổng hợp là hai vấn đề khác nhau, giữa chúng có sự tác động kiềm chế lẫn nhau. Nếu doanh nghiệp mở rộng kinh doanh tổng hợp thì chuyên môn hoá bị co hẹp lại, do đó vấn đề đặt ra là phải khéo kết hợp với quan điểm trên góc độ toàn doanh nghiệp để xem xét thì thấy tuy mức độ chuyên môn hoá có giảm, song vẫn cần phải nâng cao trình độ chuyên môn hoá của từng bộ phận sản xuất và từng nơi làm việc. Chỉ như thế mới phù hợp với xu thế hiện nay là mỗi doanh nghiệp vừa thực hiện chuyên môn hoá vừa thực hiện đa dạng hoá sản phẩm và kinh doanh tổng hợp trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo.
2. Thường xuyên duy trì và đảm bảo sự cân đối giữa các khâu và các bộ phận trong quá trình sản xuất.
Sản xuất cân đối được thể hiện qua mối quan hệ giữa các đơn vị sản xuất: các đơn vị sản xuất chính, các đơn vị sản xuất phù trợ, các đơn vị sản xuất phụ, các đơn vị phục vụ sản xuất trong doanh nghiệp. Mục đích cơ bản của việc duy trì mối quan hệ này là nhằm đảm bảo sản xuất đồng bộ với hiệu quả cao và đây chính là một trong những chỉ tiêu chủ yếu của tổ chức sản xuất hợp lý.
Ngày nay với tiến bộ của khoa học hiện đại, nhờ đó ngày càng tạo ra công nghệ mới, thiết bị máy móc mới. Kết quả của sự thay đổi này đã tạo ra điều kiện thuận lợi để xác lập và duy trì sản xuất cân đối trong doanh nghiệp.
3. Đảm bảo tính nhịp nhàng, sản xuất nhịp nhàng có nghĩa là số lượng sản phẩm sản xuất ra trong từng thời gian quy định( giờ, ca, ngày...) phải bằng hoặc xấp xỉ nhau.
Sự nhịp nhàng của sản xuất chịu sự tác động của nhiều nhân tố như công tác chuẩn bị kỹ thuật cho sản xuất, kế hoạch hoá sản xuất, kế hoạch bảo dưỡng và sửa chữa thiết bị máy móc, kế hoạch cung ứng vật tư kỹ thuật, việc bố trí ca làm việc, trình độ thao tác của công nhân...Nếu mỗi doanh nghiệp có biện pháp thích hợp để thực hiện phối kết hợp chặt chẽ các nhân tố này, bảo đảm sản xuất nhịp nhàng nó sẽ đem lại ý nghĩa to lớn:
- Thực hiện có hiệu quả các hợp đồng đã ký kết, bảo đảm việc cung ứng sản phẩm cho nhu cầu của thị trường và xã hội một cách đều đặn.
- Khắc phục được tình trạng sản xuất khi thì thong thả, cầm chừng, khi thì vội vã khẩn trương, gây nên những lãng phí về sức người, sức của.
- Bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ và mối quan hệ hiệp tác, liên kết với các đơn vị khác.
4. Phải tiến hành sản xuất một cách liên tục, không bị gián đoạn do những nguyên nhân chủ quan gây nên như: sản xuất không cân đối, thiếu nguyên nhiên vật liệu, thiếu việc làm, thiết bị máy móc hỏng đột xuất...
Sản xuất liên tục thể hiện trình độ liên tục của đối tượng lao động trong quá trình vận động từ nơi làm việc này đến nơi làm việc khác, từ khi còn là nguyên vật liệu đến lúc trở thành sản phẩm. Bảo đảm sản xuất liên tục sẽ đem lại những ý nghĩa to lớn:
- Tiết kiệm thời gian lao động trong sản xuất
- Sử dụng hợp lý công suất và thời gian hoạt động của thiết bị máy móc
- Góp phần bảo đảm sản xuất cân đối và nhịp nhàng
- Bảo đảm hoàn thành kế hoạch sản xuất với hiệu quả cao
Bốn yêu cầu này quan hệ mật thiết với nhau, yêu cầu trước tạo cơ sở cho yêu cầu sau.
III. Cơ cấu sản xuất và việc hoàn thiện cơ cấu sản xuất trong doanh nghiệp.
Cơ cấu sản xuất:
Cơ cấu sản xuất phản ánh sự bố cục về chất và cân đối về lượng của quá trình sản xuất. Cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp được tạo lập bởi các bộ phận sản xuất và phục vụ sản xuất với những hình thức tổ chức xây dựng, sự phân bố về không gian và mối liên hệ giữa các bộ phận với nhau.
Các bộ phận của cơ cấu sản xuất:
- Bộ phận sản xuất chính: Là bộ phận trực tiếp chế tạo sản phẩm chính( cắt, may, đóng gói trong nhà máy dệt). Đặc điểm của bộ phận này là nguyên vật liệu mà nó chế biến phải trở thành sản phẩm chính của doanh nghiệp
- Bộ phận sản xuất phù trợ: là bộ phận mà hoạt động của nó có tác dụng trực tiếp cho sản xuất chính, bảo đảm cho sản xuất chính có thể tiến hành liên tục và đều đặn.
- Bộ phận sản xuất phụ: là bộ phận tận dụng phế liệu, phế phẩm của sản xuất chính để chế tạo ra những loại sản phẩm phụ, ngoài danh mục sản phẩm thiết kế. Tuỳ theo từng doanh nghiệp nếu xét thấy có hiệu quả thì tổ chức, không có hiệu quả thì bán phế liệu, phế phẩm ra ngoài.
- Bộ phận phục vụ sản xuất: Là bộ phận được tổ chức ra nhằm bảo đảm việc cung ứng, bảo quản, cấp phát, vận chuyển nguyên vật liệu, nhiên liệu, thành phẩm và dụng cụ lao động. Bộ phận này thường gồm: quản lý kho tàng, vận chuyển nội bộ, vận chuyển từ bên ngoài về.
Mỗi doanh nghiệp muốn sản xuất ra nhiều loại sản phẩm với chất lượng và hiệu quả cao, chủ yếu là phải dựa vào các phân xưởng hay các ngành sản xuất chính. Để thực hiện được vấn đề này, biện pháp chủ yếu và quan trọng là phải đảm bảo sự cân đối giữa sản xuất chính, sản xuất phù trợ và phục vụ sản xuất. Bởi vì việc bảo đảm cân đối giữa các phân xưởng, các ngành là điều kiện quan trọng để bảo đảm sản xuất được diễn ra một cách nhịp nhàng đều đặn, liên tục và đạt hiệu quả cao.
Việc bảo đảm cân đối giữa sản xuất chính, sản xuất phù trợ và phục vụ chỉ được thực hiện nếu trong dây truyền công nghệ, sản phẩm và lao vụ của bộ phận trước bảo đảm cho bộ phận sau được tiến hành thuận lợi, đúng kỹ thuật, chu kỳ sản xuất của sản phẩm ngắn nhất. Đây chính là sự cân đối về công suất( sản lượng) giữa các bộ phận sản xuất chính trên cùng một dây truyền sản xuất ; giữa bộ phận sản xuất chính, sản xuất phù trợ và phục vụ sản xuất.
Trong tình hình hiện nay, mỗi doanh nghiệp cần chú ý và coi trọng những vấn đề sau đây trong quá trình bảo đảm sự cân đối giữa sản xuất chính, sản xuất phù trợ và phục vụ sản xuất với hiệu quả cao, đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ:
+. Xu hướng chung là tăng tỷ trọng của sản xuất chính về mặt năng lực sản xuất so với toàn bộ năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
+. Nâng cao trình độ cơ giới hoá của sản xuất phù trợ và phục vụ sản xuất, nhờ đó mà có tác động tích cực đến năng suất, hiệu quả sử dụng công suất của thiết bị, máy móc và nâng cao chất lượng sản phẩm của sản xuất chính.
+. Để đảm bảo sự cân đối giữa các bộ phận trong tình hình có sự thay đổi cơ cấu mặt hàng sản phẩm thì phải hết sức coi trọng việc cải tiến, hoàn thiện các hình thức tổ chức( bố trí) các bộ phận sản xuất.
Các cấp sản xuất trong doanh nghiệp.
Các cấp sản xuất trong doanh nghiệp phản ánh kết quả của việc phân công lao động nội bộ doanh nghiệp. Bao gồm: Phân xưởng, ngành( hoặc buồng máy) và nơi làm việc.
- Phân xưởng: Là đơn vị tổ chức sản xuất cơ bản và chủ yếu của doanh nghiệp, có nhiệm vụ sản xuất một loại sản phẩm hoặc hoàn thành một giai đoạn công nghệ của quá trình sản xuất.
Căn cứ vào nhiệm vụ kế hoạch của doanh nghiệp giao cho, phân xưởng tiến hành mọi hoạt động trên cơ sở hạch toán kinh tế nội bộ doanh nghiệp.
- Ngành( buồng máy): Là đơn vị tổ chức sản xuất nằm trong phân xưởng có quy mô lớn, là tổng hợp trên cùng một khu vực nhiều nơi làm việc, có quan hệ mật thiết với nhau về công nghệ hoặc sản phẩm. ở ._.đây công nhân cùng thực hiện một số thao tác nhất định hoặc tiến hành những bước công việc khác nhau để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm( hoặc sản phẩm giống nhau).
ở những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ thường không có cấp phân xưởng, trong trường hợp này ngành trở thành đơn vị tổ chức sản xuất cơ bản và chủ yếu của doanh nghiệp. Việc bỏ cấp phân xưởng trong doanh nghiệp chỉ thực sự đem lại hiệu quả khi các ngành được tổ chức theo nguyên tắc” đối tượng khép kín”. Nói cách khác là trong quá trình chế biến, đối tượng lao động không phải di chuyển qua lại giữa các ngành mà đi theo một đường thẳng.
- Nơi làm việc: Nơi làm việc là đơn vị cơ sở, khâu đầu tiên của tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp, là phần diện tích sản xuất mà ở đó một công nhân hay một nhóm công nhân sử dụng thiết bị, máy móc, dụng cụ để hoàn thành một bước công việc trong việc chế tạo sản phẩm.
Tại nơi làm việc có thể có một công nhân điều khiển một máy hoặc một nhóm công nhân trông coi nhiều máy.
Các kiểu cơ cấu sản xuất trong doanh nghiệp.
Các kiểu cơ cấu sản xuất được hình thành bởi các cách liên hợp, phối hợp với nhau của các cấp sản xuất. ở nước ta hiện nay có các kiểu cơ cấu sản xuất sau:
Doanh nghiệp – Phân xưởng – Ngành – Nơi làm việc.
Doanh nghiệp – Phân xưởng – Nơi làm việc.
Doanh nghiệp – Ngành – Nơi làm việc.
Doanh nghiệp – Nơi làm việc.
5.Xác định và việc hoàn thiện cơ cấu sản xuất trong doanh nghiệp.
Nhiệm vụ của việc xác định cơ cấu hợp lý chính là việc lựa chọn đúng đắn cơ cấu sản xuất, bố trí đúng đắn các quan hệ tỷ lệ về năng lực sản xuất, lực lượng lao động giữa các bộ phận sản xuất. Để hoàn thiện cơ cấu sản xuất cần chú ý lựa chọn đúng nguyên tắc xây dựng phân xưởng và các bộ phận sản xuất, tức là bố trí phân xưởng và các bộ phận sản xuất theo nguyên tắc nào để khâu sản xuất được nhịp nhàng, quá trình sản xuất diễn ra liên tục. Thông thường có ba cách bố trí sau:
+. Bố trí theo nguyên tắc công nghệ
+. Bố trí theo nguyên tắc đối tượng
+. Bố trí theo nguyên tắc hỗn hợp
IV. Loại hình sản xuất của doanh nghiệp.
Loại hình sản xuất là đặc tính tổ chức- kỹ thuật tổng hợp nhất của sản xuất, được quy định bởi trình độ chuyên môn hoá của nơi làm việc, số chủng loại và tính ổn định của đối tượng chế biến trên nơi làm việc.
Loại hình sản xuất là căn cứ quan trọng để tiến hành tổ chức và kế hoạch hoá hoạt động của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Đặc điểm loại hình sản xuất:
Khi xem xét loại hình sản xuất người ta chia 3 nhóm loại hình và từng loại có các đặc điểm sau:
Loại hình sản xuất khối lượng lớn:
Sản xuất khối lượng lớn là một quá trình sản xuất mà ở đó người ta sản xuất và xử lý một khối lượng lớn một loại sản phẩm hoặc một nhóm sản phẩm nào đó. Thiết bị được lắp đặt theo dây truyền sản xuất làm cho dòng di chuyển của sản phẩm có tính chất thẳng dòng.
Trong loại sản xuất này, máy móc thiết bị và các tổ hợp sản xuất được trang bị chỉ để sản xuất một loại sản phẩm, vì vậy hệ thống sản xuất không có tính linh hoạt. Loại hình này có một số đặc điểm sau:
- Loại hình sản xuất này trình độ chuyên môn hoá rất cao( chỉ chế tạo 1 hoặc 2 bước công việc khác nhau).
- Có điều kiện nâng căo năng suất, chất lượng và hạ giá thành.
- Bắt buộc phải thực hiện phương pháp sửa chữa dự phòng máy móc thiết bị( sửa chữa trước khi máy hỏng) để tránh sự không liên tục trong quá trình sản xuất.
Với loại hình sản xuất này, người ta có thể sử dụng các thiết bị, máy móc, dụng cụ chuyên dùng, bố chí các nơi làm việc theo hình thức đối tượng, chuyên môn hoá công nhân, do đó năng suất và hiệu quả cao.
2. Loại hình sản xuất hàng loạt:
Là loại hình mà nơi làm việc được phân công chế biến một số loại chi tiết khác nhau; các chi tiết được thay nhau chế biến lần lượt theo định kỳ. Nếu số lượng của mỗi loại chi tiết lớn thì gọi là sản xuất hàng loạt lớn. Ngược lại nếu số lượng của mỗi loại chi tiết ít thì gọi là sản xuất hàng loạt nhỏ. Loại hình sản xuất ở giữa hai loại trên gọi là sản xuất hàng loạt vừa.
- sản xuất hàng loạt lớn: Tham gia từ 3- 4 bước công việc khác nhau.
- sản xuất hàng loạt vừa: Tham gia chế tạo 5- 8 công việc khác nhau.
- sản xuất hàng loạt nhỏ: Tham gia chế tạo 9- 10 công việc khác nhau.
Trình độ chuyên môn hoá giảm dần, khó có điều kiện nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành. Tương ứng với loại hình này người ta bố trí theo nhóm.
3. Loại hình sản xuất đơn chiếc:
Loại này trình độ chuyên môn hoá rất thấp, nơi làm việc tham gia chế tạo rất nhiều bước công việc khác nhau và thông thường từ 11 bước công việc trở lên, mỗi loại chi tiết chỉ được sản xuất với số lượng rất ít, thậm chí chỉ có một cái, do đó thời gian gián đoạn trong sản xuất rất lớn. Muốn nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm đòi hỏi người công nhân có trình độ tay nghề cao và đào tạo theo hướng giỏi một nghề, biết nhiều nghề.
V.Các phương pháp tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp.
1. Phương pháp tổ chức dây chuyền:
Sản xuất dây truyền được coi là một phương pháp tổ chức sản xuất tiên tiến. Nó ra đời vào những năm đầu của thế kỷ 20. Người khởi xướng và áp dụng mạnh mẽ phương pháp này trong công nghiệp nước Mỹ là Henry Ford, vì vậy đôi khi người ta còn gọi sản xuất dây chuyền là học thuyết Ford.
* Đặc điểm của phương pháp này là:
- Quá trình công nghệ được chia nhỏ thành những bước công việc có thời gian bằng nhau hoặc lập thành quan hệ bội số với nhau.
Tính liên tục là đặc điểm chủ yếu nhất của sản xuất dây truyền. Muốn bảo đảm tính liên tục, điều kiện cần thiết là phải chia quá trình công nghệ thành những bước công việc theo một trình tự hợp lý nhất với một quan hệ tỷ lệ chặt chẽ về thời gian sản xuất.
- Đối tượng lao động( nguyên vật liệu, bán thành phẩm ) được vận chuyển từ nơi làm việc này đến nơi làm việc khác bởi băng truyền.
Trong một thời điểm nào đó, nếu quan sát tất cả các nơi làm việc của dây truyền ta thấy, đối tượng lao động đựơc chế biến đồng thời( song song) ở tất cả các bước công việc và được chuyển từ nơi làm việc này sang nơi làm việc khác theo từng cái một hoặc từng chồng, từng nhóm bằng phương tiện riêng.
- Cùng một lúc các bước công việc của sản phẩm được chế tạo ở mọi nơi làm việc. Nói cách khác nơi làm việc được chuyên môn hoá cao và được bố trí theo hình thức đối tượng, tạo thành đường dây truyền.
Trong sản xuất dây truyền, mỗi nơi làm việc được phân công chuyên trách một bước công việc nhất định. Do đó, nơi làm việc được trang bị máy móc, thiết bị và dụng cụ chuyên dùng, hoạt động theo một chế độ hợp lý và có trình độ tổ chức lao động cao. Mặt khác, các nơi làm việc được tổ chức theo hình thức đối tượng, nói cách khác là theo trình tự tự chế biến sản phẩm và tạo thành đường dây chuyền. Đối tượng lao động được vận động theo một hướng cố định với đường đi ngắn nhất.
Các thông số của sản xuất dây truyền:
- Nhịp dây truyền( r ): Là khoảng cách, thời gian tuần tự chế biến xong 2 phế phẩm( 2 sản phẩm ) kế tiếp nhau ở bước công việc cuối cùng.
T
r =
Q
T: Là tổng thời gian của thời kỳ nào đó( phút, giờ)
Q: Là sản lượng sản phẩm sản xuất ra thời kỳ nào đó( cái)
- Bước dây truyền( B): Là khoảng cách giữa trung tâm hai nơi làm việc liền kề nhau.
- Tốc độ chuyển động của băng tải( V)
B
V= ( m/phút)
r
- Chiều dài của băng truyền( L): Là khoảng cách giữa nơi làm việc thứ nhất đến nơi làm việc cuối cùng.
- Số nơi làm việc trên dây truyền( N): Là số nơi làm việc của từng bước công việc rồi tổng hợp lại.
- Tất cả các chi tiết khác nhau được phân ra từng nhóm. Những chi tiết trong cùng nhóm có đặc điểm kết cấu tương tự nhau.
*. Điều kiện để sản xuất theo dây truyền:
- Nhiệm vụ sản xuất phải tương đối ổn định, sản lượng phải lớn
- Sản phẩm phải có kết cấu hợp lý và ổn định, bảo đảm tính công nghệ cao
- Sản phẩm phải có tính lắp lẫn, các chi tiết phải bảo đảm độ dung sai quy định
*. Hiệu quả kinh tế của sản xuất dây truyền:
- Hiệu quả kinh tế của sản xuất dây truyền đã được đảm bảo nhờ thiết kế sản phẩm theo kết cấu hợp lý, bảo đảm yêu cầu thống nhất hoá và tiêu chuẩn hoá, tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian lao động.
- Tăng sản lượng của đơn vị máy móc và đơn vị diện tích sản xuất do sử dụng thiết bị, máy móc và dụng cụ chuyên dùng, giảm thời gian gián đoạn trong sản xuất.
- Rút ngắn chu kỳ sản xuất, giảm bớt lượng sản phẩm dở dang do đó làm tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động.
- Nâng cao năng suất lao động nhờ chuyên môn hoá công nhân, xoá bỏ thời gian ngừng sản xuất để điều chỉnh thiết bị máy móc.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm do quá trình công nghệ được chuẩn bị chu đáo, không có hoặc có rất ít sản phẩm dở dang nên tránh được những hiện tượng biến chất hư hỏng.
- Hạ giá thành sản phẩm là kết quả tất nhiên của việc tổ chức sản xuất hợp lý, tiết kiệm nguyên vật liệu, giảm tiền lương trong đơn vị sản phẩm, giảm bớt chi phí quản lý, loại trừ phế liệu, phế phẩm...
Bên cạnh những ưu điểm trên sản xuất dây truyền cũng có nhược điểm là phân công lao động quá sâu, mỗi công nhân chỉ thực hiện một vài động tác( hoặc thao tác )đơn giản, trạng thái lao động quá đơn điệu.
*. Cơ sở để phát huy hiệu quả của sản xuất theo dây truyền:
- Cung cấp nguyên vật liệu, dụng cụ đúng quy cách, số lượng và tuân theo chế độ đã quy định
- Giữ gìn, bảo quản và sửa chữa tốt các thiết bị máy móc và phương tiện vận chuyển
- Đảm bảo nơi làm việc luôn sạch sẽ, có trật tự, coi trọng vệ sinh công nghiệp và môi trường
- Bố trí công nhân đúng tiêu chuẩn nghề nghiệp, coi trọng an toàn lao động. Mặt khác, để giảm tính đơn điệu, cần đào tạo và bồi dưỡng công nhân để họ có thể thực hiện được nhiều bước công việc khác khau trên dây truyền.
2. Phương pháp sản xuất theo nhóm.
Đặc điểm của phương pháp sản xuất theo nhóm đựơc thể hiện ở chỗ không thiết kế quy trình công nghệ, bố trí máy móc dụng cụ để sản xuất từng loại chi tiết cá biệt mà làm chung cho cả nhóm, dựa vào các chi tiết tổng hợp đã lựa chọn. Các chi tiết trong cùng nhóm được gia công trong cùng một lần điều chỉnh máy.
* Trình tự tiến hành:
- Tất cả các chi tiết của các loại sản phẩm cần chế tạo trong doanh nghiệp sau khi đã được tiêu chuẩn hoá được phân loại thành từng nhóm, căn cứ vào kế cấu, phương pháp công nghệ giống nhau, yêu cầu về máy móc và đồ gá lắp cùng loại.
- Lựa chọn chi tiết tổng hợp của nhóm. Chi tiết tổng hợp là chi tiết phức tạp hơn cả và tổng hợp được tất cả những yếu tố của các chi tiết khác trong cùng một nhóm. Nếu trong thực tế không chọn được một chi tiết như vậy thì phải thiết kế ra một chi tiết có đủ điều kiện đó.
- Lập quy trình công nghệ cho nhóm hay nói đúng hơn là cho chi tiết tổng hợp đã lựa chọn.
- Tiến hành xây dựng định mức thời gian các bước công việc của định mức tổng hợp, từ đó dùng phương pháp so sánh để quy định hệ số cho các loại chi tiết khác trong cùng nhóm.
- Thiết kế, chuẩn bị dụng cụ, đồ gá lắp cho cả nhóm và bố trí thiết bị, máy móc để sản xuất.
*Hiệu quả kinh tế:
- Giảm bớt thời gian chuẩn bị kỹ thuật.
- Giảm nhẹ công tác xây dựng định mức kinh tế- kỹ thuật, công tác kế hoạch và điều độ sản xuất.
- Tạo điều kiện nâng cao loại hình sản xuất.
- Tạo điều kiện cải tiến tổ chức lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp và nâng cao năng suất lao động.
- Giảm bớt chi phí về trang bị kỹ thuật, nâng cao hệ số sử dụng đồ gá lắp và nhờ đó giảm được chi phí hao mòn máy móc dụng cụ cho đơn vị sản phẩm và làm cho giá thành sản phẩm ngày càng hạ.
Phương pháp sản xuất đơn chiếc.
Tổ chức sản xuất đơn chiếc là tổ chức sản xuất chế biến sản phẩm từng chiếc một hay từng đơn đặt hàng nhỏ. Theo phương pháp này người ta không lập quy trình công nghệ một cách tỷ mỷ cho từng sản phẩm mà chỉ quy định những công việc chung.
Đặc điểm của loại sản xuất này là:
- Thiết bị phức tạp( máy công cụ) chi tiết thiết bị tuân theo yêu cầu chuyên dùng của một doanh nghiệp và chúng thường được sản xuất theo các điều kiện bắt buộc
- Sản phẩm gắn với công nghệ mũi nhọn
- Phải có bản mẫu sẵn
- Sản xuất ra sản phẩm đắt tiền
Sản xuất đơn chiếc bắt đầu khi khách hàng giao một đơn đặt hàng chắc chắn. Việc sản xuất theo đơn đặt hàng thể hiện những mức độ ưu thế so với dự trữ, bởi vì doanh nghiệp chỉ phải cung ứng theo những đơn đặt hàng của khách hàng. Ngược lại loại hình sản xuất này đòi hỏi những thời gian sản xuất và giao hàng lâu.
VI. Chu kỳ sản xuất.
1. Khái niệm: Chu kỳ sản xuất là khoảng thời gian kể từ khi đưa nguyên vật liệu vào sản xuất cho đến khi sản phẩm đã sản xuất xong qua KCS và nhập vào kho thành phẩm.
* Chú ý:
- Về thời gian bao giờ cũng tính theo lịch dương.
- Đối tượng để tính chu kỳ bao giờ cũng tính cho từng chiếc, từng cái. Đối với sản phẩm kết cấu đơn giản hoặc khối lượng nhỏ thì chu kỳ sản xuất tính cho một loạt chế biến.
2. Biện pháp rút ngắn chu kỳ sản xuất:
Rút ngắn chu kỳ sản xuất là một trong những mục tiêu quan trọng của tổ chức sản xuất , bởi lẽ độ dài của chu kỳ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến lượng sản phẩm dở dang; đến việc sử dụng công suất của thiết bị máy móc, diện tích sản xuất; đến tình hình luân chuyển vốn lưu động và đến việc hoàn thành nhiệm vụ sản xuất theo hợp đồng đã ký kết. Chu kỳ sản xuất gồm nhiều loại thời gian khác nhau tạo thành và chịu nhiều tác động nhân tố khác nhau, cho nên biện pháp rút ngắn chu kỳ sản xuất có thể chia thành ba nhóm lớn.
* Nhóm 1: Cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện quy trình hay phương pháp công nghệ, áp dụng kỹ thuật tiên tiến nhằm giảm thời gian quá trình công nghệ và thay thế quá trình tự nhiên bằng quá trình nhân tạo có thời gian ngắn hơn. Việc giảm thời gian quá trình công nghệ còn được thực hiện bằng nhiều biện pháp như: thực hiện chuyên môn hoá các bộ phận sản xuất và các nơi làm việc; tăng cường công tác tiêu chuẩn hoá và trang bị các máy móc có năng suất cao, áp dụng loại công nghệ hiện đại và phương pháp sản xuất tiên tiến.
* Nhóm 2: Về tổ chức: Hoàn thiện công tác tổ chức sản xuất, hạn chế và xoá bỏ thời gian gián đoạn, tăng cường công tác kiểm tra, tiến hành sửa chữa thiết bị, máy móc trong những ca không sản xuất, tăng cường công tác điều độ sản xuất nhằm xoá bỏ thời gian ngừng việc do thiếu nguyên liệu hoặc do thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận sản xuất. Biện pháp có ý nghĩa quan trọng là lựa chọn hợp lý phương thức phối hợp các bước công việc nhằm rút ngắn thời gian công nghệ.
* Nhóm 3: Các biện pháp về tâm lý, xã hội: Động viên vật chất và tinh thần đối với công nhân, tạo ra bầu không khí tốt trong doanh nghiệp. Sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng( báo, phát thanh, truyền hình... ), xây dựng các phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao trong doanh nghiệp. Quan tâm đến đời sống tinh thần của người lao động một cách thiết thực.
3. Những phối hợp các bước công việc:
Phương thức phối hợp các bước công việc có ảnh hưởng lớn đến chu kỳ sản xuất. Chu kỳ sản xuất dài hay ngắn một phần tuỳ thuộc vào chỗ trong quá trình công nghệ, một loại sản phẩm được chế biến đồng thời cùng một lúc trên tất cả các nơi làm việc hoặc chế biến xong cả loạt ở nơi làm việc này rồi mới chuyển sang nơi làm việc khác.
Để rút ngắn chu kỳ sản xuất ngoài các biện pháp về mặt tổ chức và kỹ thuật nêu trên, trong thực tế người ta còn tiến hành các bước công việc với nhau để rút ngắn thời gian công nghệ. Có 3 phương thức:
* Phương thức phối hợp theo nguyên tắc tuần tự( Tt):
Khi tiến hành gia công chờ cho cả loạt chi tiết xong ở bước công việc thứ nhất rồi chuyển cả loạt chi tiết đó sang bước công việc thứ hai. Cứ như thế cho đến bước công việc cuối cùng.
Công thức tính: m ti
Tt = n*ồ
i=1 ci
Trong đó
ti: là thời gian chế tạo chi tiết thứ i
n: là số lượng chi tiết của một loạt chế biến
ci: là số chỗ làm việc của chi tiết thứ i
VD: khi tiến hành gia công một nhóm 6 chi tiết, thời gian chế tạo qua 6 bước công việc khác nhau:
Bước công việc thứ 1 có thời gian gia công là 2 phút
Bước công việc thứ 2 có thời gian gia công là 4 phút
Bước công việc thứ 3 có thời gian gia công là 2 phút
Bước công việc thứ 4 có thời gian gia công là 2 phút
Bước công việc thứ 5 có thời gian gia công là 1 phút
Bước công việc thứ 6 có thời gian gia công là 2 phút
13 phút
Số chỗ làm việc của các chi tiết ci = 1
Vâỵ ta có: Tt = 13*6= 78 phút
Phương thức tuần tự có thể được minh hoạ qua biểu đồ sau:
Thời gian bước công việc( phút)
Phương thức phối hợp các bước công việc
2
4
2
2
1
2
ồ ti =13 phút
12
24
12
12
6
12
Tt : 78 phút
Giả sử ở bước công việc thứ 2 có 2 nơi làm việc, tức là c2 =2 thì ta có:
Tt = 6*( 2+ 4/2+ 2+ 2+ 1+ 2 ) =66 phút.
Tổ chức theo phương thức này có ưu điểm là đơn giản, dễ áp dụng, nhưng làm cho chu kỳ sản xuất loạt sản phẩm bị kéo dài, lượng sản phẩm dở dang ở nơi làm việc lớn, chiếm nhiều diện tích sản xuất. Nó thường được áp dụng trong sản xuất đơn chiếc, loạt nhỏ và hàng loạt.
* Phương thức song song( Ts):
Đặc trưng của phương thức này là người ta không chuyển sản phẩm theo loạt mà chuyển theo từng loạt chuyển nv( nv<n ). Cứ như thế đến bước công việc cuối cùng chứ không chờ đợi cả loạt.
Phương thức này có thời gian quá trình công nghệ ngắn hơn và thích hợp với loại hình sản xuất khối lượng lớn và hàng loạt lớn. Đặc biệt là trong trường hợp thời gian các bước công việc bằng nhau thì phương thức này sẽ đem lại hiệu quả lớn.
Trong trường hợp thời gian của các bước công việc có sự chênh lệch đáng kể thì việc áp dụng phương thức này sẽ có nhược điểm là xuất hiện những quãng thời gian tạm ngừng sản xuất. Khi áp dụng phương thức này các thiết bị, máy móc phải được bố trí theo hình thức đối tượng.
m ti ti
Công thức tính: Ts =nv*ồ + ( n- nv ) *( ) max
i =1 ci ci
ti t1 , t2 ,... tm
ci max = max c1 c2 cm
Trong đó: ti : là thời gian sản xuất trung bình một sản phẩm
ci
Với số liệu trên loạt chuyển nv = 2 chi tiết
Vậy ta có: Ts = 2*13 + ( 6- 2 )*4 = 42 phút
Nếu c2 = 2 thì ta có: Ts =2*11 + ( 6-2 )*2 = 30 phút
Phương thức này có ưu điểm là giảm được chu kỳ sản xuất. Phương thức này thường được áp dụng ở loại hình sản xuất loạt lớn, đặc biệt áp dụng chủ yếu trong sản xuất theo dây truyền.
Phương thức song song có thể được minh hoạ qua biểu đồ sau:
4 4 4
8 8 8
4 4 4
4 4 4
2 2 2
4 4 4
Ts =42 phút
* Phương thức hỗn hợp( Th):
Đặc trưng của phương pháp này là sự kết hợp giữa phương thức song song và phương thức tuần tự theo hai trường hợp:
+. Trường hợp 1: nếu ti Ê ti+1 thì chuyển theo dòng song song đối với
ci ci+1
loạt chuyển đầu tiên của loạt, tức là khi sản xuất được một loạt chuyển nv đầu tiên ta chuyển ngay sang chi tiết tiếp theo. Tại chi tiết i+1 các đối tượng trong loạt chuyển đầu tiên được gia công chế biến ngay không phải chờ đợi.
+. Trường hợp 2: nếu ti ³ ti+1 thì chuyển theo dòng song song đối với loạt
ci ci+1
chuyển cuối cùng của loạt, tức là khi sản xuất được một loạt chuyển nv cuối cùng ta chuyển ngay sang chi tiết tiếp theo. Tại chi tiết i+1 các đối tượng trong loạt chuyển cuối cùng được gia công chế biến ngay không phải chờ đợi.
Công thức tính:
m m-1
ti ti
Th = n* ci - ( n – nv )* ci
i=1 i=1 ng
Trong đó:
ti ti ti+1
ci ng = min ci ci+1
Vậy ta có: Th = 6* 13 – ( 6-2)*9 = 42 phút
Nếu c2 = 2 thì ta có: Th = 6*11 –( 6- 2)*1 = 62 phút
áp dụng phương thức này sẽ loại trừ được những trường hợp thiết bị, máy móc và công nhân phải tạm ngừng sản xuất để chờ đợi đối tượng lao động, nhờ đó tận dụng được thời gian chưa sản xuất loại chi tiết này để sản xuất chi tiết khác. Phương thức này thường áp dụng trong những doanh nghiệp có loại hình sản xuất khối lượng lớn và hàng loạt.
Vì vậy phương thức này được sử dụng rộng rãi trong những đơn vị có loại hình sản xuất khối lượng lớn và hàng loạt nhằm giải quyết có hiệu quả trong trường hợp quá trình công nghệ bao gồm nhiều bước công việc có thời gian chênh lệch nhau nhiều.
Phương thức hỗn hợp có thể được minh hoạ qua biểu đồ sau:
Chương III. Tổ chức quản lý doanh nghiệp.
I. Khái niệm, chức năng của quản lý.
1. Khái niệm, ý nghĩa của quản lý doanh nghiệp:
* Khái niệm:
Quản lý là sự tác động có mục đích đến một hệ thống nào đó nhằm biến đổi nó từ trạng thái này sang trạng thái khác. Như vậy đã nói đến quản lý là nói đến sự tác động hướng đích nhằm vào một đối tượng nhất định và để đạt được mục tiêu đề ra đó là hoạt động chủ quan có ý thức có tính năng động linh hoạt của con người hay của một tập thể.
Vậy quản lý doanh nghiệp là quá trình vận dụng những quy luật kinh tế, quy luật tự nhiên trong việc lựa chọn những biện pháp( kinh tế xã hội, tổ chức kỹ thuật...) để tác động đến tập thể người lao động và thông qua họ mà tác động đến yếu tố vật chất của sản xuất kinh doanh.
* ý nghĩa: Quản lý doanh nghiệp công nghiệp là phát triển sản xuất với chi phí thấp nhất, hiệu quả kinh tế cao nhất đồng thời không ngừng cải thiện điều kiện lao động nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần cho mọi thành viên của doanh nghiệp.
2. Phân loại chức năng quản lý doanh nghiệp.
Trong khoa học và trong thực tế người ta thường đề cập đến chức năng của một cơ cấu hoặc bộ phận máy của một thiết bị trong hệ thống thiết bị, chức năng của một doanh nghiệp và chức năng của một phòng ban trong doanh nghiệp... một cách khái quát nhất, chúng ta có thể hiểu chức năng là tập hợp các hoạt động hay hành động cùng loại của một hệ thống hoặc một bộ phận trong hệ thống.
Với khái niệm đó không có chức năng chung chung mà chỉ có chức năng gắn liền với một hệ thống hoặc một bộ phận của nó. Chức năng là tập hợp các hoạt động hay hành động cùng loại. Mỗi chức năng có các nhiệm vụ cụ thể hay nói cách khác chức năng là nhiệm vụ tổng quát.
Tính hiệu quả của chuyên môn hoá hoạt động đã được loài người thừa nhận từ lâu. Xuất phát từ quan điểm đó người ta đều cố gắng chuyên môn hoá tới mức cao nhất, cho phép các hoạt động của mọi hệ thống cũng như chuyên môn hoá hoạt động của các phần tử trong hệ thống.
* Cách phân loại của Henry Fayol: Ông chia chức năng quản lý thành 5 chức năng như sau:
- Dự kiến: Doanh nghiệp chỉ thu được kết quả khi nó được hướng dẫn bởi một chương trình hoạt động, một kế hoạch nhất định nhằm xác định rõ: sản xuất cái gì? Sản xuất bằng cách nào? Bán cho ai? Với nguồn tài chính nào?.
- Tổ chức: tổ chức một doanh nghiệp tức là trang bị tất cả những gì cần cho hoạt động của nó: vốn, máy móc, nhân viên, vật liệu...
- Phối hợp: là làm cho đồng điệu giữa tất cả những hoạt động của doanh nghiệp nhằm tạo dễ dàng và có hiệu quả.
- Chỉ huy: có thể xã hội đã được xây dựng, giờ chỉ việc làm cho nó hoạt động, đó là nhiệm vụ của chỉ huy.
- Kiểm tra: kiểm tra thực chất là duyệt lại xem tất cả có được tiến hành phù hợp chương trình đã định với những mệnh lệnh đã ban bố và những nguyên lý đã thừa nhận.
* Cách phân loại của L.Gulick và L.Urwich:
Hai nhà khoa học này đã phát triển hệ thống của Fayol thành 7 chức năng quản lý được viết tắt là: POSDCORB:
P O S D CO R B
Planning( Dự kiến )
Organnizing( Tổ chức )
Staffing( Nhân sự )
Directing( Chỉ huy )
Coordinating( Phối hợp )
Reporting( Báo cáo )
Budgeting( ngân sách )
Cách phân loại này thể hiện tính kế thừa và phát triển từ cách phân loại của Fayol. ở đây có hai nhân tố ảnh hưởng khá mạnh mẽ đó là:
- Sự hình thành các tập đoàn doanh nghiệp dẫn đến việc phải đổi mới vấn đề tổ chức- đăc biệt là việc tuyển dụng các nhân viên quản lý có học vấn cao vào các vị trí cao.
- Sự thâm nhập của giới ngân hàng vào hoạt động của các doanh nghiệp với tư cách là các quản lý viên cao cấp.
Chính vì thế mà 2 ông chia nhỏ chức năng tổ chức thành tổ chức và nhân sự và chức năng kiểm tra thành báo cáo và ngân sách.
*. Cách phân loại của H.Koontz và C.O’Donnell:
Năm 1995 trong cuốn “ các nguyên tắc quản trị” hai nhà khoa học Mỹ này đã quay trở lại với cách phân loại của Fayol trong một cuốn giáo trình có ảnh hưởng rộng khắp thế giới. Từ đó đến nay, 5 chức năng quản trị: Dự kiến, tổ chức, phối hợp, chỉ huy, kiểm tra của Fayol vẫn giữ được tính khoa học của nó. Mặc dù sau đó, trong những năm 60 vẫn có một số nhà khoa học cải tiến các chức năng trên – Chẳng hạn, chức năng nhân sự được gọi là chức năng phát triển quản trị viên. Hoặc như ở Đức người ta phân loại thành 4 chức năng quản lý cơ bản:
- Xác định triết lý, giáo lý và chính sách kinh doanh
- Kế hoạch kinh doanh và kiểm tra
- Tổ chức và chỉ huy
- Phát triển quản trị viên
II. Cơ cấu quản lý của doanh nghiệp.
1. Các bộ phận và các cấp trong cơ cấu quản lý doanh nghiệp.
Cơ cấu tổ chức quản lý doanh nghiệp là tổng hợp các bộ phận khác nhau có mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuên môn hoá, được giao những trách nhiệm, quyền hạn nhất định và được bố trí theo từng cấp nhằm thực hiện các chức năng quản lý doanh nghiệp.
Giữa cơ cấu tổ chức quản lý và cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau. Cơ sở của cơ cấu tổ chức quản lý trước hết là bản thân cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp. Đây cũng là mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý.
Cơ cấu tổ chức quản lý được hình thành bởi các bộ phận quản lý và các cấp quản lý.
- Bộ phận quản lý là một đơn vị riêng biệt có những chức năng quản lý nhất định. Chẳng hạn, như phòng kế hoạch, phòng kiểm tra kỹ thuật, phòng marketing...
- Cấp quản lý là sự thống nhất tất cả các bộ phận quản lý ở một trình độ nhất định như cấp doanh nghiệp, cấp phân xưởng...
Vậy số bộ phận quản lý phản ánh sự phân chia chức năng quản lý theo chiều ngang, còn số cấp quản lý thể hiện sự phân chia chức năng quản lý theo chiều dọc.
Sự phân chia theo chiều ngang là biểu hiện của trình độ chuyên môn hoá trong phân công lao động quản lý. Còn sự phân chia chức năng theo chiều dọc tuỳ thuộc vào trình độ tập trung quản lý và có liên quan đến vấn đề chỉ huy trực tuyến và hệ thống cấp bậc.
2. Các kiểu cơ cấu quản lý doanh nghiệp.
a. Cơ cấu tổ chức quản lý không ổn định.
Đây là một loại cơ cấu tổ chức quản lý không có mô hình cụ thể. Nó phù hợp với những doanh nghiệp quy mô nhỏ, mới thành lập, ít nhân viên.
Chủ doanh nghiệp vừa là người trực tiếp điều khiển hệ thống nhân viên.
b. Cơ cấu trực tuyến.
Có đặc điểm là giữa các nhân viên trong tổ chức có mối quan hệ như một đường thẳng. Có nghĩa là người thừa hành chỉ nhận và thi hành mệnh lệnh của người phụ trách cấp trên trực tiếp. Người phụ trách chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả công việc của những người dưới quyền mình. Kiểu cơ cấu này thích hợp với chế độ một thủ trưởng, tăng cường trách nhiệm cá nhân, tránh được tình trạng người thừa hành phải thi hành những chỉ thị khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau của người phụ trách.
Tuy nhiên kiểu này đòi hỏi mỗi thủ trưởng phải có kiến thức toàn diện, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Mặt khác nó không tận dụng được các chuyên gia có trình độ cao về từng chức năng quản lý.
Hiện nay kiểu tổ chức này ít được sử dụng, chỉ thích hợp ở phạm vi hẹp( ngành, tổ đội sản xuất ).
c. Cơ cấu chức năng.
Kiểu cơ cấu này cho phép cán bộ phụ trách các phòng chức năng có quyền ra các mệnh lệnh và các vấn đề có liên quan đến chuyên môn của họ cho các phân xưởng, các bộ phận sản xuất.
- Ưu điểm: Thu hút được các chuyên gia vào công tác lãnh đạo, giải quyết các vấn đề chuyên môn một cách thành thạo hơn, đồng thời giảm bớt gánh nặng cho cán bộ chỉ huy chung của doanh nghiệp.
- Nhược điểm: Vi phạm chế độ mộ thủ trưởng, dễ sinh ra tình trạng thiếu trách nhiệm rõ ràng, thiếu kỷ luật chặt chẽ.
d. Cơ cấu tổ chức trực tuyến – chức năng.
Theo kiểu này người thủ trưởng được được sự giúp sức của các phòng chức năng, các chuyên gia, các hội đồng tư vấn trong việc suy nghĩ, nghiên cứu, bàn bạc tìm các giải pháp tối ưu cho những vấn đề phức tạp. Tuy nhiên, quyền quyết định những vấn đề ấy vẫn thuộc về thủ trưởng.
Các phòng chức năng có trách nhiệm tham mưu cho toàn bộ hệ thống trực tuyến. Đặc biệt cần nhấn mạnh là các phòng chức năng không có quyền ra mệnh lệnh cho các phân xưởng, các bộ phận sản xuất.
Kiểu cơ cấu này vừa phát huy năng lực chuyên môn của các bộ phận chức năng, vừa bảo đảm tính chỉ huy của hệ thống trực tuyến.
e. Cơ cấu tổ chức quản lý phi hình thể.
Trong các nhóm nhân viên có những người nổi bật do khả năng của họ, cho nên nhà kinh doanh cần phát hiện ra những người này và tác động vào họ, nhằm thông qua họ lôi cuốn được những nhóm nhân viên làm việc có hiệu quả hơn.
III. Tổ chức quản lý doanh nghiệp.
1. Những yêu cầu của tổ chức quản lý doanh nghiệp.
Trong phạm vi từng doanh nghiệp việc tổ chức bộ máy quản lý phải đáp ứng được những yêu cầu chủ yếu sau:
- Phải bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ của doanh nghiệp, phải thưc hiện đầy đủ toàn diện các chức năng quản lý doanh nghiệp.
Đây là cơ sở pháp lý, là căn cứ chủ yếu để từng doanh nghiệp tự tổ chức bộ máy quản lý của mình.
- Phải bảo đảm thực hiện nghiêm túc chế độ một thủ trưởng, chế độ trách nhiệm cá nhân trên cơ sở bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của tập thể người lao động trong doanh nghiệp.
- Phải phù hợp với quy mô sản xuất, thích ứng với những đặc điểm kinh tế và kỹ thuật của doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp quy mô sản xuất lớn, công tác các phòng chức năng được chuyên môn hoá sâu hơn, do đó, cần thiết và có thể tổ chức nhiều phaòng chức năng hơn các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Những đặc điểm kinh tế và kỹ thuật như loại hình sản xuất, tính chất công nghệ, trình độ tự chủ sản xuất kinh doanh... đều được xem là những căn cứ để xây dựng bộ máy quản lý doanh nghiệp.
- Phải bảo đảm yêu cầu vừa tinh giảm, vừa vững mạnh trong bộ máy quản lý.
Một bộ máy quản lý được coi là tinh giảm khi số cấp, số bộ phận quản lý ít nhất, tỷ lệ giữa nhân viên quản lý so với tổng số công nhân viên chức nhỏ nhất mà vẫn hoàn thành đầy đủ các chức năng quản lý. Nó được coi là vững mạnh khi những quyết định của nó được chuẩn bị một cách chu đáo, có cơ sở khoa học, sát với thực tế sản xuất; khi những quyết định ấy được mọi bộ phận, mọi người chấp hành với tinh thần kỷ luật nghiêm khắc và ý thức tự giác đầy đủ.
2. Bộ máy quản lý doanh nghiệp.
a. Giám đốc doanh nghiệp.
* Khái niệm: Giám đốc doanh nghiệp là người được chủ sở hữu doanh nghiệp giao cho quyền quản lý điều hành doanh nghiệp theo chế độ một thủ trưởng, chịu trách nhiệm trước người chủ sở hữu về mọi ho._.định dựa trên cơ sở các đặc điểm về kinh tế và kỹ thuật của sản phẩm.
*. Định giá theo vùng giá chấp nhận được:
Giá của sản phẩm dịch vụ đựơc ấn định trong khoảng giữa giá tối đa Pmax và giá tối thiểu Pmin.
Giá tối đa là giá cao nhất mà đa số người mua chấp nhận mua hàng hoá. Nếu vượt ra ngoài giới hạn này người mua không có khả năng thanh toán. Giá tối thiểu là giá thấp nhất mà đa số người mua vẫn còn chấp nhận mua hàng hoá. Nếu giá thấp dưới Pmin nhiều người mua cũng sẽ không mua hàng hoá vì cho rằng chất lượng kém. Vùng giá đa số khách hàng chấp nhận mua hàng hoá có thể xác định trên cơ sở các nghiên cứu marketing.
*. Định giá nhằm đạt được mức lợi nhuận mục tiêu đã đề ra:
Nếu muốn giá đạt được lợi nhuận tối đa, cần tính giá sao cho giá bằng chi phí cận biên: P = MC. Tuy nhiên việc xác định được chi phí cận biên MC một cách chính xác cũng không đơn giản, vì vậy các nhà kinh doanh có thể xác định một mức lợi nhuận mục tiêu để xác định giá.
Giá xác định nhằm đạt được lợi nhuận mục tiêu được tính như sau:
B*
P = Ztb + Cth +
Q
Trong đó: B* là tổng lợi nhuận mục tiêu đề ra
Ztb là giá thành toàn bộ
Cth là các khoản thuế( trừ thuế lợi tức)
Q là số lượng sản phẩm tiêu thụ
P
Tổng doanh thu
Lợi nhuận
P0 Tổng chi phí
Chi phí cố định
Qo Q
sản lượng hoà vốn Qo được xác định như sau:
FC
Qo =
P – AVC
Trong đó: FC là chi phí cố định
AVC là chi phí biến đổi bình quân
*. Định giá theo giá trị nhận thức được:
Ngày nay nhiều công ty xác định giá sản phẩm dịch vụ của mình trên cơ sở giá trị nhận thức được. Họ xem nhận thức của người mua về giá trị, chứ không phải là chi phí của người bán là căn cứ quan trọng để định giá. Những yếu tố làm tăng giá trị của hàng hoá như: tuổi thọ, độ tin cậy, dịch vụ kèm theo, thời gian bảo hành, chất lượng, hình thức, kiểu dáng, mầu sắc.
Vấn đề quan trọng của phương pháp định giá theo giá trị nhận thức được là xác định chính xác nhận thức của thị trường về giá trị của hàng hoá. Việc nghiên cứu thị trường là cần thiết để xác định nhận thức của thị trường về giá trị rồi dựa vào đó mà định giá cho có hiệu quả.
*. Định giá qua đấu thầu:
Ngày nay một số loại hàng hoá, tài sản, công trình xây dựng được định giá qua đấu thầu. Giá được xác định qua những người tham gia đấu thầu, do hội đồng chọn thầu quyết định. Giá bỏ thầu là một yếu tố quan trọng, đôi khi là quyết định để xét chọn thầu.
*. Định giá phân biệt:
Định giá phân biệt là đưa ra nhiều mức giá khác nhau cho cùng một loại hàng hoá, dịch vụ. Việc định giá phân biệt có thể có một số hình thức:
+. Định giá theo nhóm khách hàng: nhóm khách hàng khác nhau được định giá khác nhau cho cùng một loại sản phẩm hay dịch vụ.
+. Định giá theo số lượng mua: mua nhiều giá hạ, riêng ngành điện hiện nay ở nước ta mua nhiều nhưng giá cao.
+. Định giá theo dạng sản phẩm: một số dạng sản phẩm có cùng tính năng tác dụng được lắp thêm một vài bộ phận phụ hoặc kiểu dáng khác nhau nhưng giá lại chênh lệch nhau.
+. Định giá theo kiểu dáng bao bì, nhãn hiệu: một số công ty định giá cho cùng một loại sản phẩm ở các mức giá khác nhau dựa trên cơ sở kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu khác nhau.
+. Định giá theo địa điểm: địa điểm khác nhau thì giá cũng khác nhau, mặc dù chi phí để tạo ra mỗi địa điểm là bằng nhau.
+. Định giá theo thời gian: giá thay đổi theo mùa vụ, theo thời gian bán hàng trong ngày( theo giờ).
+. Định giá theo thanh toán: thanh toán ngay toàn bộ giá sẽ thấp hơn so với trả chậm hay trả góp.
iii. lợi nhuận.
1. Khái niệm và ý nghĩa của lợi nhuận.
*. Khái niệm: Từ trước đến nay có nhiều quan niệm khác nhau về lợi nhuận như sau:
Các nhà kinh tế học cổ điển trước Mác cho rằng: cái phần trội lên nằm trong giá bán với chi phí sản xuất là lợi nhuận.
Theo Các Mác thì: Giá trị thặng dư hay cái phần trội lên nằm trong toàn bộ giá trị hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay lao động không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì gọi là lợi nhuận.
Các nhà kinh tế học hiện đại P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus thì cho rằng: lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra, bằng tổng số thu về trừ đi tổng số chi hay “ lợi nhuận là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của một doanh nghiệp và tổng số chi phí”.
Các nhà kinh tế học xã hội chủ nghĩa trước đây cho rằng: lợi nhuận dưới chủ nghĩa xã hội là thu nhập thuần tuý của xã hội XHCN. Còn hiện nay thì coi lợi nhuận của quá trình kinh doanh là phần chênh lệch giữa thu nhập về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ và chi phí bỏ ra để đạt được thu nhập đó.
Vậy đứng về mặt lượng mà xét thì tất cả các định nghĩa đều thống nhất: lợi nhuận là thu dôi ra so với số chi phí bỏ ra. Kế thừa những tư tưởng đó và nhằm gắn với đối tượng nghiên cứu của đề tài thì lợi nhuận của doanh nghiệp có thể định nghĩa như sau: Lợi nhuận của doanh nghiệp là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư do lao động cho xã hội trong các doanh nghiệp tạo được tính bằng chênh lệch giữa tổng doanh thu đạt được với tổng chi phí bỏ ra tương ứng của doanh nghiệp bao gồm cả phần nộp thuế cho Nhà nước theo luật.
*. ý nghĩa của lợi nhuận:
+. Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ảnh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, kể từ lúc bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị trường, chuẩn bị sản xuất kinh doanh, tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh, tổ chức bán hàng hoá dịch vụ theo giá cả thị trường. Nó phản ánh cả về mặt lượng và chất lượng của quá trình kinh doanh. Kinh doanh tốt sẽ cho lợi nhuận nhiều và khi lợi nhuận nhiều sẽ tạo khả năng để đầu tư tái sản xuất mở rộng, tiếp tục phát triển quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao hơn. Ngược lại làm ăn kém sẽ dẫn đến thua lỗ và phá sản. Vì vậy có thể nói rằng lợi nhuận tối đa là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
+. Lợi nhuận của doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật khác như chỉ tiêu về đầu tư, sản xuất, sử dụng các đầu vào, chỉ tiêu chi phí và giá thành, chỉ tiêu các đầu ra và các chính sách tài chính quốc gia... Mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ giữa lợi nhuận với các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật khác được biểu hiện trên hai mặt sau:
- Chỉ tiêu lợi nhuận đặt rõ nhiệm vụ cho việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật khác, cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh. Các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật khác phải xuất phát và phục vụ cho mục tiêu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật khác( kể cả chính sách tài chính quốc gia) là những chỉ tiêu điều kiện, chỉ tiêu tiền đề mang tính chất bộ phận nhằm bảo đảm thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận và do đó nó có tác dụng điều chỉnh lợi nhuận, chẳng hạn như quan hệ với giá cả thị trường, giá cả cao thì lợi nhuận lớn, giá cả thấp thì lợi nhuận ít. Nhưng lợi nhuận cũng ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu và giá cả thị trường ...
2. Phương pháp xác định lợi nhuận.
Lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định theo số tuyệt đối là tổng số lợi nhuận.
Tổng số lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh số lượng và chất lượng của các mặt hoạt động kinh doanh. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào tổng mức tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ và chi phí đã chi ra để đạt kết quả đó. Có thể xác định tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp theo công thức sau:
n n n
LNdn = ồ ( Qitt * Gitt ) - ồ Zitt + ồTitt
i=1 i=1 i=1
Trong đó:
LNdn: Là tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp
Qitt: Là sản lượng hàng hoá loại i đã tiêu thụ
Gitt: Giá cả hàng hoá loại i tiêu thụ
Zitt: Giá thành hàng hoá loại i tiêu thụ
Titt: Là thuế nộp cho Nhà nước theo quy định
i= 1,n: Là số loại hàng hoá tiêu thụ
Theo công thức này ta thấy tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp phụ thuộc vào sản lượng sản phẩm tiêu thụ, giá cả thị trường của từng loại sản phẩm, cơ cấu mặt hàng, giá thành của sản phẩm tiêu thụ và thuế nộp cho Nhà nước theo quy định. Trong cách tính toán cụ thể, doanh thu được xác định bởi toàn bộ tiền bán sản phẩm, tiền gia công, tiền hoa hồng, dịch vụ sau khi thực hiện việc bán hàng hoá, trả hàng gia công hoặc cung ứng dịch vụ, chưa trừ một khoản phí tổn nào không phân biệt thu được tiền hay chưa thu được tiền. Còn chi phí chi ra để đạt được kết quả ấy của doanh nghiệp thường gồm các loại chi phí sau:
+. Chi phí nguyên, nhiên, vật liệu, năng lượng thực tế sử dụng vào sản xuất kinh doanh, nó được tính theo mức tiêu hao hợp lý và giá thực tế xuất kho của doanh nghiệp.
+. Khấu hao tài sản cố định dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh
+. Tiền lương( tiền công) và các khoản mang tính chất lương phải trả, được tính căn cứ vào tính chất ngành nghề định mức lương trong đơn vị sản phẩm theo năng suất lao động xã hội, theo lương tối thiểu của từng khu vực, được chính quyền địa phương công bố trên cơ sở đã được chính phủ cho phép; hiệu quả kinh tế và tương quan hợp lý giữa các ngành nghề.
+. Các khoản chi phí khác như chi phí quản lý: chi phí về mua hoặc sử dụng các tài liệu kỹ thuật, bằng sáng chế, giấy phép, dịch vụ kỹ thuật... các khoản chi tiêu liên quan trực tiếp đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ; các khoản tiền nộp quỹ BHXH, BH tài sản, các chi phí hợp lý, hợp lệ khác.
3. Phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp.
Hiện nay lợi nhuận trong doanh nghiệp có thể được phân phối như sau:
làm nghĩa vụ với Nhà nước dưới hình thức nộp thuế
Chia cho các chủ sở hữu( với doanh nghiệp có nhiều chủ)
Trích lập các quỹ doanh nghiệp
d.Bổ sung các nguồn vốn để mở rộng quy mô kinh doanh hàng tháng, quý các doanh nghiệp tạm phân phối số lợi nhuận theo kế hoạch; sau khi kết thúc năm, sau khi được cấp có thẩm quyền hoặc kiểm toán xét duyệt các doanh nghiệp sẽ thanh quyết toán số tạm phân phôi. Theo chế độ tài chính hiện hành các quỹ của doanh nghiệp gồm:
+. Quỹ đầu tư phát triển.
+. Quỹ dự phòng tài chính
+. Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm
+. Quỹ khen thưởng phúc lợi
+. Quỹ quản lý cấp trên
Biện pháp tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp.
a. Tăng sản lượng hàng hoá tiêu thụ: giả định các nhân tố khác không đổi thì việc tăng sản lượng hàng hoá tiêu thụ sẽ làm cho lợi nhuận tăng.
b. Nâng cao chất lượng hàng hoá vừa nâng được giá bán vừa nâng sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá trên thị trường.
c. Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm.
d.Phân tích thị trường, nắm chắc quan hệ cung- cầu để quyết định giá bán hợp lý trong từng thời điểm
e. Tổ chức tốt các hoạt động quản lý, nâng cao trình độ cán bộ quản lý.
Chương x: hạch toán kinh tế trong doanh nghiệp
i. khái niệm và tác dụng của hạch toán kinh doanh trong doanh nghiệp.
1. Khái niệm hạch toán kinh doanh:
Hạch toán kinh doanh là một phương pháp quản lý kinh tế hợp lý và tiết kiêm nhất, phương pháp này đòi hỏi dùng hình thức tiền tệ để tính toán các chi phí chi ra và đòi hỏi hao phí lao động ít mà mang lại hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu doanh nghiệp đề ra.
Như vậy hạch toán kinh doanh là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá càng phát triển thì phạm trù hạch toán càng được ứng dụng rộng rãi và triệt để, nghĩa là đòi hỏi phải tính toán chính xác, đầy đủ các chi phí chi ra và kết quả thu được để biết được mức tiết kiệm hoặc lãng phí để làm cơ sở cho việc xây dựng các chiến lược trong kinh doanh.
Với quan điểm trên, không nên hiểu đồng nhất phạm trù hạch toán kinh doanh và thống kê vì hạch toán và thống kê chỉ là một công cụ để thực hiện hạch toán kinh doanh. Cũng không nên thu hẹp phạm trù hạch toán kinh doanh chỉ là sự tính toán kỹ thuật thuần tuý các kết quả đạt được.
Bản chất của hạch toán kinh doanh là một phạm trù kinh tế khách quan được biểu hiện trong việc vận dụng hệ thống các quy luật kinh tế, các phạm trù giá trị, các đòn bẩy kinh tế và một hệ thống các mối quan hệ kinh tế. Kết cục cuối cùng thì hạch toán kinh doanh là sự giải quyết đúng đắn các mối quan hệ kinh tế dựa trên hệ thống các mối quan hệ kinh tế qua sơ đồ sau:
Với ngân sách Nhà nước
Với các tổ chức giá cả và tài chính
Với các tổ chức Ngân hàng
Các mối quan hệ kinh tế của doanh nghiệp
Với các đơn vị kinh doanh trong nền kinh tế
Với các cơ quan nghiên cứu
Các mối quan hệ kinh tế bên trong doanh nghiệp
Dù trong điều kiện nào, việc thực hiện hạch toán kinh doanh đều phải hướng tới một mối quan hệ kinh doanh, đều phải hướng tới một mối quan hệ kinh tế bình đẳng các bên cùng có lợi, cùng tuân theo cơ chế quản lý vĩ mô.
Ngoài ra khi nghiên cứu phạm trù hạch toán kinh doanh cũng cần phải phân biệt hạch toán kinh doanh với hiệu quả kinh doanh và với kế hoạch tiến độ sản xuất nội bộ. Sự khác nhau đó thể hiện: Hiệu quả kinh doanh là nhằm xác định những mục tiêu phải đạt được đối với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, còn hạch toán kinh tế là tạo ra những biện pháp để đạt mục tiêu đó. Còn đối với kế hoạch tiến độ sản xuất nội bộ, kế hoạch tiến độ nhằm xác định những nhiệm vụ, chỉ tiêu cụ thể cho các bộ phận và đơn vị sản xuất; hạch toán kinh doanh sử dụng các nhiệm vụ và chỉ tiêu cụ thể giao cho cá nhân hoặc đơn vị và quy định rõ chế độ trách nhiệm vật chất trong khi thực hiện. Cũng có thể nói mối quan hệ này thể hiện ở chỗ: Kế hoạch có nhiệm vụ là giao những nhiệm vụ và chỉ tiêu cụ thể cho đơn vị còn hạch toán kinh doanh có nhiệm vụ là tạo ra các động lực kinh tế để thực hiện các nhiệm vụ đó.
2. Tác dụng của hạch toán kinh doanh trong doanh nghiệp:
Các phương pháp kinh tế trong doanh nghiệp đòi hỏi trình độ tự chủ cao đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như phải chủ động xây dựng chiến lược, kế hoạch, phương án kinh doanh và tổ chức thực hiện có hiệu quả cao. Bởi vì các phương pháp kinh tế trong kinh doanh dựa trên cơ sở sử dụng tổng hợp các đòn bẩy kinh tế để làm cho mọi người lao động quan tâm và có trách nhiệm vật chất đối với mọi công việc, mọi hoạt động của doanh nghiệp, luôn hướng họ, thúc đẩy và động viên họ tìm các biện pháp sáng tạo để giải quyết có hiệu quả các mục tiêu đã xác định. Một trong các phương pháp kinh tế chủ yếu có hiệu quả trong quản lý kinh doanh của doanh nghiệp là thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh.
Hạch toán kinh doanh vừa là một phạm trù kinh tế, vừa là phương pháp kinh tế trong quản lý kinh doanh có hiệu quả cao.
Hạch toán kinh doanh là một phạm trù kinh tế trong kinh doanh và quản lý kinh doanh vì nó phản ánh một hệ thống các quan hệ kinh tế khách quan. Đó là mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động; giữa các doanh nghiệp với nhau; giữa doanh nghiệp với ngân hàng, tài chính giá cả và các cơ quan nghiên cứu; giữa các đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp với nhau...
Hạch toán kinh tế là một phương pháp kinh tế chủ yếu trong quản lý kinh doanh đạt hiệu quả cao, bởi vì nó đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế để thúc đẩy mọi doanh nghiệp, mọi đơn vị trong từng doanh nghiệp và những người lao động chủ động, sáng tạo trong kinh doanh để đạt kết quả cao nhất với chi phí ít nhất nhằm đạt lợi nhuận nhiều nhất. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá và thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì việc thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện mục tiêu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
ii. nội dung của hạch toán kinh doanh trong doanh nghiệp.
Nội dung chủ yếu của hạch toán kinh doanh trong doanh nghiệp gồm:
1. Doanh nghiệp chủ động xây dựng các phương án và chỉ tiêu hạch toán kinh doanh có hiệu quả cao.
Căn cứ vào cac chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước đã quy định, các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh phải chủ động xây dựng phương án kinh doanh và chỉ tiêu kinh doanh có hiệu quả cao. Chủ động và sáng tạo trong tất cả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi quyền hạn của doanh nghiệp được Nhà nước quy định. Quyền chủ động đó bao gồm:
+. Chủ động trong việc nắm bắt nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ thông qua giá cả thị trường.
+. Chủ động trong việc quyết định phương án sản xuất kinh doanh phù hợp với yêu cầu thị trường và khả năng của doanh nghiệp.
+. Chủ động trong việc tạo và tìm ra nguồn vốn sản xuất kinh doanh và trong việc chuẩn bị các điều kiện cho sản xuất kinh doanh.
+. Chủ động trong việc tổ chức quá trình sản xuất ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ.
+. Chủ động trong việc tổ chức bán hàng hoá theo nhu cầu thị trường và nhu cầu của nền kinh tế.
Mục tiêu cần phải đạt được trong nội dung này là xác định đúng phương án kinh doanh và chỉ tiêu kinh doanh có hiệu qủa cao trên cơ sở khai thác tối đa khả năng của doanh nghiệp. Những lĩnh vực hoạt động này được quy định phù hợp với những chính sách và pháp luật Nhà nước, bảo đảm cho doanh nghiệp, những đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp và từng người lao động thực hiện đầy đủ trách nhiệm và quyền hạn của mình trong kinh doanh.
2. Các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh cần ký kết các hợp đồng kinh tế.
Chế độ tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp cho phép xác lập và phát triển các mối quan hệ hợp tác trực tiếp trong việc mua và bán hàng hoá, hiệp tác sản xuất. Thông qua các mối quan hệ hiệp tác đó, doanh nghiệp tìm được thị trường, ổn định cả về mua các điều kiện cho sản xuất, cả về bán những sản phẩm hàng hoá đã sản xuất ra. Để xác lập và phát triển các mối quan hệ trực tiếp trong việc mua và bán, về mặt pháp lý cần thực hiện chế độ hợp đồng kinh tế. Xây dựng chế độ hợp đồng ký kết trong việc mua và bán là căn cứ pháp lý quan trọng để thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh, để đảm bảo quyền chủ động trong kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện có hiệu lực, đó là kỷ luật Nhà nước. Các bên ký hợp đồng phải chịu trách nhiệm thực hiện tốt hợp đồng, ai sai phạm sẽ phải chịu trách nhiệm vật chất và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trong quá trình thực hiện hợp đồng hai bên có quyền thống nhất để điều chỉnh hợp đồng vì lợi ích chung của cả hai bên. Trong thực tế có các loại hợp đồng như: hợp đồng mua nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, hợp đồng về lao động, hợp đồng về bán hàng hoá... Nội dung của hợp đồng, các thủ tục ký kết, tổ chức thực hiện và thanh toán, quyết toán cần tuân theo các quy định của Nhà nước.
3. Các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh cần xây dựng và thực hiện tốt chế độ khuyết khích lợi ích vật chất và chịu trách nhiệm vật chất.
Khuyến khích lợi ích vật chất và quy định trách nhiệm vật chất là động lực mạnh nhất của kinh doanh theo chế độ hạch toán kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá. Nhưng nó chỉ trở thành động lực mạnh nhất khi việc khuyến khích lợi ích vật chất, quy định trách nhiệm vật chất được thực hiện đúng đắn, công khai và công bằng. Chế độ tiền thưởng trong các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh cần được xây dựng theo hướng chủ yếu là:
+. Chế độ tiền thưởng từ phần giá trị làm lợi
+. Chế độ thưởng tiết kiệm nguyên vật liệu và nhiên liệu, động lực nhằm khuyết khích mọi người và tập thể tìm biện pháp sử dụng đầy đủ, hợp lý và tiết kiệm.
Chế độ thưởng sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất trong doanh nghiệp nhằm khuyến khích cán bộ, công nhân viên ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ để nâng cao năng suất và hiệu qủa công tác.
+. Chế độ tiền thưởng từ quỹ lương và tiền công của doanh nghiệp nhằm khuyến khích các cá nhân và tập thể hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất kinh doanh.
+. Chế độ phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng quỹ doanh nghiệp nhằm thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao, lợi nhuận nhiều.
Chế độ trách nhiệm vật chất nhằm thúc đẩy những người lao động nâng cao tinh thần trách nhiệm để giảm lãng phí và tổn thất cho doanh nghiệp. Nếu vi phạm những quy định của doanh nghiệp thì phải chịu thiệt thòi về lợi ích, nếu gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường như: không hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước, vi phạm hợp đồng kinh tế, làm sai hỏng sản phẩm, gây thiệt hại cho doanh nghiệp...
4. Tổ chức tốt công tác hạch toán( kế toán, thống kê).
Tổ chức tốt công tác hạch toán của doanh nghiệp đòi hỏi phải tính toán chính xác kết quả sản xuất kinh doanh và chi phí đã chi ra để xác định mức lãi hoặc lỗ.
Mục tiêu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh là tăng lợi nhuận. Hạch toán kinh doanh phải làm cho mọi người biết rõ mức lãi hoặc lỗ của quá trình kinh doanh. Để làm được điều đó cần phải làm tốt một số vấn đề sau:
+. Thực hiện đầy đủ, chính xác kịp thời chế độ ghi chép ban đầu.
+. Tổ chức tốt công tác thống kê và kế toán
+. Tính toán đầy đủ các chỉ tiêu kết quả và các chỉ tiêu chi phí tương ứng.
+. Phân tích định kỳ kết quả, chi phí và hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng đơn vị và toàn doanh nghiệp.
iii. nguyên tắc của chế độ hạch toán kinh doanh trong doanh nghiệp.
1. Thực chất và mục đích của hạch toán.
a. Thực chất của hạch toán kinh doanh:
Thực chất của hạch toán kinh doanh là xây dựng một cơ chế vận dụng các đòn bẩy kinh tế vào các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nói cách khác thực chất của hạch toán kinh doanh là xây dựng cac căn cứ, các tiêu chuẩn để thực hiện chế độ khuyến khích lợik ích vật chất vào lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì khi thực hiện hạch toán kinh doanh đòi hỏi chúng ta phải giao những chỉ tiêu, những nhiệm vụ cụ thể cho từng cá nhân, từng đơn vị hạch toán, căn cứ vào mức độ thực hiện các chỉ tiêu và nhiệm vụ để thực hiện chế độ khuyến khích lợi ích vật chất, thưởng trên cơ sở giá trị làm lợi, phạt trên cơ sở giá trị bị thiệt hại.
b. Mục đích của hạch toán kinh doanh:
Mục đích cuối cùng của hạch toán kinh doanh là tạo ra được một hệ thống động lực để kích thích sản xuất và kinh doanh bằng hai hình thức cơ bản:
+. Gắn chặt được quyền lợi ích với trách nhiệm của người lao động
+. Tạo lập một cơ chế( bàn tay vô hình) để chuyển hàng hoá các hình thức sở hữu khác nhau thành chính sở hữu của bản thân mình. Trong thực tế khoán rất đa dạng gồm: khoán doanh thu, khoán sản lượng, khoán giá mua, giá bán hoặc dùng hình thức “ bán nguyên liệu”, mua thành phẩm ở trong các doanh nghiệp.
2. Các nguyên tắc của hạch toán kinh doanh.
Thuật ngữ “ hạch toán kinh tế ” mà Lênin sử dụng vào năm 1921 ở xí nghiệp của Liên Xô có 3 đặc trưng sau:
+. Xí nghiệp phải đạt doanh lợi, không bù lỗ nhờ tăng sản lượng, tăng năng suất, hạ chi phí và thực hiện tiết kiệm.
+. Chấm dứt cấp phát qua ngân sách, buộc xí nghiệp phải vay vốn, trả lãi vốn, không ỷ lại vào ngân sách.
+. Chuển toàn bộ trách nhiệm lên tập thể xí nghiệp mà trước hết là người lãnh đạo xí nghiệp.
ở nước ta năm 1957 đã có văn bản nhằm thực hiện hạch toán kinh tế xí nghiệp. Năm 1961 – 1962 một số xí nghiệp đã bắt đầu thực hiện hạch toán kinh tế nội bộ. Từ đó đến nay, hạch toán kinh tế không ngừng được củng cố và hoàn thiện trong các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp khi thực hiện hạch toán kinh tế cần quán triệt 4 nguyên tắc sau:
Thứ nhất: bảo đảm quyền chủ động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh dựa trên những chính sách và pháp luật Nhà nước:
Theo nguyên tắc này doanh nghiệp được quyền tự do mua và bán hàng hoá trên thị trường theo giá cả thị trường, do quan hệ cung- cầu quyết định.
Muốn vậy các doanh nghiệp có quyền chủ động tìm hiểu, nghiên cứu để nắm chắc nhu cầu thị trường và ra quyết định đúng đắn về sản xuất như: chủng loại, số lượng, chất lượng sản phẩm và thời gian sản xuất và bán hàng; chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho quá trình sản xuất ra sản phẩm hàng hoá; chủ động tiêu thụ những hàng hoá theo nhu cầu và giá cả thị trường. Nói một cách tổng quát là doanh nghiệp được quyền chủ động quyết định sản xuất cái gì, bằng phương pháp nào, bán cho ai, với giá cả nào...
Tuy nhiên cần nhấn mạnh là quyền tự do doanh nghiệp, tự do mua và bán hàng hoá phải phục vụ mục tiêu hiệu quả kinh doanh xã hội mà Nhà nước quy định. Điều đó có nghĩa là thực hiện quyền tự do kinh doanh tự do mua và bán trong phạm vi chính sách và pháp luật của Nhà nước. Các chính sách và pháp luật của Nhà nước phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức đầy đủ và đúng đắn các quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá.
Thứ hai: phải dùng đồng tiền để tính toán đầy đủ, chính xác toàn bộ kết quả của sản xuất kinh doanh và những chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó:
Theo nguyên tắc này, hạch toán kinh doanh đòi hỏi phải tính toán kết quả sản xuất kinh doanh và chi phí đã chi ra bằng giá trị theo giá cả thị trường. Chỉ có như vậy mới có thể tiên hành so sánh giữa kết quả kinh doanh đã đạt được và chi phí đã chi ra để đạt được kết quả đó. Trên cơ sở này mà đánh giá phương án kinh doanh đề ra có khả năng đạt được hiệu quả cao hay thấp, lãi hay lỗ.
Thực hiện nguyên tắc này cho phép bảo đảm sự thống nhất giữa hiện vật và giá trị trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, bảo đảm sự kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước. Các cơ quan kế hoạch tài chính, ngân hàng Nhà nước và bộ quản lý cần thống nhất các chỉ tiêu tính toán chủ yếu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện tốt nguyên tắc này. Cần nhấn mạnh thêm là đối với các doanh nghiệp thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao thì cần hạch toán kinh doanh theo giá cả Nhà nước quy định. Phần còn lại thì bình đẳng như các doanh nghiệp khác. Theo giá cả thị trường, theo quan hệ cung- cầu và cạnh tranh.
Thứ ba: phải lấy thu nhập để bù đắp chi phí và đảm bảo kinh doanh có lãi:
Doanh nghiệp hạch toán kinh doanh muốn tồn tại và phát triển với tư cách là một tế bào, một đơn vị kinh tế cơ sở trong nền kinh tế quốc dân, cần hoạt động có hiệu quả cao để một mặt lấy thu nhập của mình bù đắp chi phí đã chi, có tích luỹ để vừa bảo toàn và phát triển vốn và mặt khác đáp ứng được yêu cầu chung của sự phát triển kinh tế xã hội. Kinh doanh đạt hiệu quả càng cao, lợi nhuận càng lớn sẽ cho phép thực hiện tốt quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp và đóng góp xứng đáng vào nguồn thu của ngân sách Nhà nước để thoả mãn những nhu cầu chung của xã hội. Trong điều kiện của nền sản xuất hàng hoá và quản lý theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, vấn đề kinh doanh có lãi là một đòi hỏi tất yếu, vì sự tồn tại và phát triển trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Riêng đối với doanh nghiệp có nhiệm vụ thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh theo giá cả của Nhà nước, nếu vì giá bao cấp làm cho kinh doanh của doanh nghiệp bị lỗ thì Nhà nước có chính sách bù lỗ, nhưng cũng chỉ bù lỗ cho nhiệm vụ Nhà nước giao, phần còn lại doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về vật chất.
Thứ tư: thực hiện công bằng việc khuyến khích lợi ích vật chất và chịu trách nhiệm về vật chất đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình:
Trong hạch toán kinh doanh đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệm vụ và quyền hạn, giữa nghĩa vụ và nghĩa vụ và quền lợi, đặc biệt là quyền lợi vật chất có ý nghĩa quyết định đến việc tạo động lực để nâng cao hiệu quả trong kinh doanh. Theo nguyên tắc này các doanh nghiệp thực hiện hạch toán kinh doanh có hiệu quả sẽ được các quyền hạn sau đây:
+. Phần còn lại của doanh nghiệp sau khi hoàn thành nghĩa vụ với cấp trên và Nhà nước theo chế độ quy định sẽ được sử dụng để phát triển sản xuất, khuyến khích lợi ích vật chất đối với người lao động, đáp ứng nhu cầu phúc lợi tập thể của doanh nghiệp.
+. Dùng lợi ích vật chất để phân phối và khen thưởng một cách công bằng theo kết quả lao động của từng đơn vị, từng người lao động trong doanh nghiệp nhằm thúc đẩy mọi người vì lợi ích kinh tế và chủ động tìm biện pháp đạt kết quả, chất lượng và hiệu quả cao nhất.
Tuy nhiên cũng cần nhân mạnh rằng trong kinh doanh theo cơ chế thị trường vấn đề rủi ro có thể xẩy ra làm thiệt hại đến hoạt động của doanh nghiệp và có thể bị thua lỗ, trong trường hợp đó về mặt nguyên tắc của hạch toán kinh doanh thì doanh nghiệp và lao động phải chịu trách nhiệm về sự rủi ro đó. Nhưng cần phân biệt cụ thể các nguyên nhân gây ra sự rủi ro để đề nghị Nhà nước xem xét giải quyết theo các chính sách và pháp luật. Trong những trường hợp kinh doanh thua lỗ do doanh nghiệp và người lao động gây ra thì doanh nghiệp và người lao động phải chịu trách nhiệm vật chất tương ứng với phần lỗ( hoặc lãng phí ) đã gây ra.
Nguyên tắc khuyến khích lợi ích vật chất và chịu trách nhiệm vật chất là nguyên tắc bình đẳng, công bằng trong kinh doanh, nó là động lực của mọi hoạt động trong kinh doanh, mọi cố gắng trong kinh doanh.
iv. Hạch toán kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp.
Khái niệm:
Hạch toán kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp là một phương pháp kinh tế để tính toán những chi phí đã chi ra của các phân xưởng, các ngành, các tổ chức sản xuất và cá nhân người lao động. Về lĩnh vực quản lý đó là hạch toán các phòng, ban trong doanh nghiệp.
Đăc điểm và tác dụng của hạch toán kinh tế nội bộ doanh nghiệp.
Đặc điểm:
+. Nếu đối tượng hạch toán kinh tế là doanh nghiệp thì đối tượng của hạch toán kinh tế nội bộ là các phân xưởng, các ngành, các tổ sản xuất và cá nhân người lao động, về lĩnh vực quản lý đó là hạch toán các phòng, ban trong doanh nghiệp.
+. Đi sâu vào nghiên cứu đặc điểm của nó ta thấy hạch toán kinh tế nội bộ doanh nghiệp là dùng hình thức tiền tệ để tính toán kết quả đã đạt được và chi phí đã chi ra của từng cá nhân, đơn vị như: phân xưởng, phòng ban, ngành sản xuất, tổ sản xuất; so sánh kết quả đạt được và chi phí đã chi ra để đạt kết quả đó; tính toán mức tiết kiệm hay lãng phí. Căn cứ vào thành tích đã đạt được về mặt kinh tế để thực hiện các hình thức khuyến khích vật chất và chịu trách nhiệm vật chất một cách thoả đáng. Hạch toán kinh tế nội bộ doanh nghiệp có tính chất tổng hợp vì nó tác động đến tất cả các yếu tố tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển và cũng tác động đến các yếu tố tạo điều kiện sử dụng hợp lý và tiết kiệm các yếu tố vật chất. Hạch toán kinh tế doanh nghiệp và nội bộ doanh nghiệp giống nhau về bản chất và mục đích vì đều dùng tiền để tính toán chi phí bỏ ra với kết quả thu về và đều nhằm quán triệt quy luật tiết kiệm trong sản xuất và doanh nghiệp. Nhưng giữa chúng co điểm khác nhau đó là: doanh nghiệp hạch toán kinh doanh là đơn vị độc lập về kinh tế, có quyền tự chủ về tài chính, còn các đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp chỉ có tính chất độc lập tương đối về mặt kỹ thuật sản xuất không có tính độc lập về kinh tế.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4606.doc