Thư viện HCMUTE
Marketing
NGUỒN TIN ĐIỆN TỬ
Cẩm nang thực hành
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2015
Chương 1: Xác định mục đích lập kế hoạch của marketing
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
*******************
Thư viện HCMUTE
Marketing
NGUỒN TIN ĐIỆN TỬ
Cẩm nang thực hành
Chương 1
Xác định mục đích lập kế hoạch của marketing
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2015
MARIE R. KENNEDY AND CHERYL LAGUARDIA
Marketing
NGUỒN TIN ĐIỆN TỬ
Cẩm nang t
32 trang |
Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 636 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Bài giảng Marketing nguồn tin điện tửu - Chương 1: Xác định mục đích lập kế hoạch của marketing, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hực hành
Dịch từ nguyên bản tiếng Anh
Marketing your library’s electronic resources: a how-to-do-it
manual/ Marie R. Kennedy, Cheryl LaGuardia.- Pages cm.- (How-to-do-
it manuals).- Incldes biliographical references and index.- ISBN 978-1-
55570-889-4
TUYỂN CHỌN, SƯU TẦM, BIÊN DỊCH VÀ BIÊN TẬP:
1. Trần Thị Phương Linh Biên dịch
2. Võ Thị Phượng Hiệu đính
3. Phạm Minh Quân Hiệu đính
4. ThS. Vũ Trọng Luật Biên tập
Tài liệu thực hành nghiệp vụ Thư viện. Lưu hành nội bộ phục vụ
hỗ trợ nghiên cứu nâng cao năng lực, kỹ năng nghề Thư viện cho
cán bộ Thư viện HCMUTE - Từ ngày 5/10/2015 đến 5/10/2016.
3
LỜI TỰA
Người cán bộ thư viện không còn lạ lẫm với câu hỏi mà khách
hàng đưa ra như: “Sao phải đầu tư rất nhiều tiền vào thư viện làm chi,
trong khi đó tất cả mọi thứ chúng ta cần thì chỉ cần vào Google là được
rồi?
Trong cuốn sách ý nghĩa này, Marie R. Kenndy and Cheryl
LaGuardia có lời giải thích hợp lý. Những câu hỏi khách hàng đưa ra
cũng có căn nguyên của nó - đó là lý do làm sao mà khách hàng hay hỏi
câu hỏi này đầu tiên. Và cũng chính câu hỏi này đã thôi thúc bạn phải
xây dựng bằng được một kế hoạch Marketing mà chính họ phải hài lòng
về những dịch vụ và tài liệu mà bạn đang cung cấp.
Tôi chắc chắn về những điều tôi viết ở đây: Tôi đã thấy được chất
lượng phục vụ tốt nhất vì tôi cũng từng là khách hàng của họ
(LaGuardia) trong nhiều năm. Sự khác biệt đến lạ thường chính là thư
viện số chứa đựng nhiều thứ có thể nhưng điều quan trọng là định hướng
chuyên nghiệp để tiên phong trong lĩnh vực thư viện. Các tác giả của
cuốn sách giá trị này đã nêu lên được mối liên hệ giữa tài liệu và con
người, cả vấn đề lý thuyết và vấn đề thực tế.
Cứ mỗi năm trôi qua, từ khi thư viện số ra đời thì số lượng khách
hàng sử dụng thư viện tăng dần lên. Trong thời đại kỷ nguyên số, dù một
số người nghĩ ra sao nhưng vai trò của thư viện đã thay đổi hoàn toàn so
với trước đây rất nhiều. Nhân viên thư viện phải làm việc vất vả hơn
nhiều, chẳng hạn như: Thứ nhất là phải luôn nghĩ ra cách để thu hút nhu
cầu của khách hàng và sau đó phải đưa ra các giải pháp tối ưu hướng tới
khách hàng. Kenndy và LaGuardia cung cấp những định hướng đúng đắn
trong thời kỳ bùng nổ thông tin như hiện nay. Chúng ta nên lưu ý những
thông điệp truyền đạt và hãy làm theo những lời khuyên đúng đắn đấy.
Thật may mắn thay khi họ dành thời gian quý giá của họ để chia sẻ kinh
nghiệm quý báu đến chúng ta.
4
- John Palfrey
John Palfrey là hiệu trưởng trường Phillip Academy Andover. Trước đây,
ông là Giáo sư Luật và phó khoa Thư viện và Tài nguyên thông tin của
trường Đại học Harvard. Ômg cũng là tác giả của cuốn sách “Interop:
the Promise and Perils of Highly Interconnected Systems” và cuốn sách
“Born Digital: Understanding the First Generation of Digital Natives”.
Ông cũng là đồng tổng giám đốc của Trung tâm Berkman về Internet và
Xã hội tại Đại học Harvard.
5
LỜI NÓI ĐẦU
Tại sao viết cuốn sách “Tiếp thị nguồn tin điện tử”? Năm 2010,
chúng tôi tham gia: “Hội nghị đánh giá Thư viện – triển khai việc đánh
giá thiết thực, bền vững, hiệu quả” tại Thành phố Baltimore của tiểu bang
Maryland. Trong khi bà Marie thuyết trình về chủ đề: “Xoay quanh vấn
đề: Hướng các thư viện thực hiện công tác tiếp thị nguồn tin điện tử” còn
bà Cheryl ở vai trò là thính giả. Bà vừa chăm chú lắng nghe vừa để ý
xem là tất cả người tham dự thì thấy những người tham dự cũng đang
chăm chú lắng nghe bài thuyết trình của Marie.
Tại sao tất cả mọi người đều quan tâm đến chủ đề đó như thế? Đó
là bởi vì, ở vai trò là “frontline librarian” thì họ phải giải đáp và tìm
hướng giải quyết được các vấn đề:
- Nếu khách hàng thực sự muốn biết và muốn hiểu rõ rằng: nguồn tài
liệu trực tuyến có trong thư viện chiếm khoảng bao nhiêu.
- Tại sao khách hàng không chọn nguồn tài nguyên sẵn có trong thư
viện để thực hiện các bài nghiên cứu, thuyết trình và bài tập cá
nhân.
Và chúng ta nên nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và hoạt
động thư viện để mọi người sẽ không còn thắc mắc về khoản tiền dành
cho thư viện “đi đâu rồi”. Chúng ta nên sử dụng nguồn tài chính một
cách hợp lý vào hoạt động của thư viện và phát triển nguồn tin điện tử
một cách phong phú và thiết thực cho nghiên cứu, học tập, Nhưng thực
ra khách hàng của chúng ta chưa tiếp cận và khai thác nguồn tin điện tử
phong phú trong thư viện bởi vì chỉ có công tác marketing mới có khả
năng cung cấp, quảng bá, giới thiệu nguồn tin điện tử có trong thư viện
và tạo điều kiện khách hàng tiếp cận, khai thác nguồn tin điện tử có trong
thư viện chứ bản thân hệ thống trực truyến khó có thể làm được như thế.
Hệ thống phát hiện: vẫn ở giai đoạn sơ khai
Hệ thống phát hiện sẽ giúp cho khách hàng biết được nguồn tin
điện tử của chúng ta? Mặc dù một số đối thủ liên quan hứa sẽ nâng cao
nhận thức về cơ sở dữ liệu trực tuyến cho các nhà nghiên cứu. Những cơ
sở dữ liệu mới này sẽ tốt hơn so với các danh mục sản phẩm, danh mục
truyền thống và cũ kỹ. Chúng không bị bó hẹp với không gian nhỏ hẹp.
Nếu chỉ cố gắng làm cho khách hàng nhận thức về nguồn tin thôi thì
không thể giải quyết được chuyện gì cả mà phải chứng minh được số
6
lượng nguồn tin hiện đang có tại thư viện chúng ta. Phần có giá trị nhất
của công tác tiếp thị nguồn tin điện tử là thư viện phải biết khách hàng
của mình cần gì và đáp ứng nhu cầu như thế nào, chẳng hạn như: “Với tất
cả nguồn tin có sẵn này - có phải là nguồn tin mà khách hàng cần
không”. Hay đây là nguồn tin mà theo cảm giác của bạn, cách nghĩ của
bạn thôi - (Bạn nghĩ họ cần nhưng thực sự họ không có cần đến). Hệ
thống phát hiện sẽ không bao giờ dừng lại ở một quy chuẩn (mẫu định
sẵn nào đó) bởi vì một hệ thống đó sẽ không biết được khách hàng chúng
ta thích gì mà chính chúng ta phải thực hiện điều này.
Vì vậy, chúng ta cần phải tuyên truyền rộng rãi về các sản phẩm và
dịch vụ. Hãy chủ động tuyên truyền về hoạt động thư viện và sản phẩm
cũng như dịch vụ thư viện thích hợp hơn là đặt các tài liệu phát tay, tờ rơi
ngay bàn dịch vụ một cách bị động. Hãy tuyên truyền một cách hiệu quả
bằng cách dám mạnh dạn tạo ra các chương trình tiếp thị mới, sáng tạo,
ấn tượng và triển khai vào thực tế - mà các thư viện khác chưa từng làm.
Danh ngôn thường được nhắc đến trong công tác tiếp thị của
Thư viện: Sức mạnh của Marketing trong Thư viện
Từ “Marketing” như câu thần chú với sức mạnh thần kỳ mà hầu hết
các thư viện đều quan tâm tới (chú ý tới) để quảng bá thư viện cũng như
các sản phẩm của thư viện (các dịch vụ và các bộ sưu tập) tốt hơn, hiệu
quả hơn bởi vì:
- Chúng ta phải sử dụng đồng tiền chi dùng cho hoạt động của thư
viện hợp lý.
- Nguồn tin trong thư viện là nguồn lực quan trọng nhất trong thư
viện. Chính vì vậy, có một kỳ vọng cao đối với các thư viện được
đầu tư này (thư viện của các trường cao đẳng và đại học, thư viện
của các thị trấn và thành phố, thư viện của các cơ sở doanh nghiệp).
Sau đó, họ phải chứng minh được rằng sự đầu tư phải sinh ra lợi
tức đầu tư (ROI = return on that investment = lợi tức đầu tư).
- Cạnh tranh với các hệ thống thông tin ở bên ngoài thư viện và môi
trường này đang tăng lên mặc dù các sản phẩm và dịch vụ của đối
thủ cạnh tranh đó không thực sự tốt về chất lượng so với các sản
phẩm và dịch vụ mà thư viện đang cung cấp.
Chúng ta nhận thấy rằng các nhà nghiên cứu có nhu cầu cao với
thông tin có chất lượng từ các nguồn tin điện tử của thư viện. Dựa trên
nhu cầu đó, chúng ta - những chuyên gia trong ngành thư viện phải có
trách nhiệm quảng bá các nguồn tin điện tử đến khách hàng (không phải
chỉ đưa các nguồn tin điện tử mới đăng lên cổng thông tin web của thư
viện mà phải làm sao cho thật tốt và chất lượng). Nếu chúng ta xây dựng
7
được nguồn tin điện tử tốt và chất lượng [đăng ký mua mới thường
xuyên] thì tự động khách hàng sẽ tìm đến chúng ta nhưng mà một chiến
lược Marketing thành công không chỉ đơn giản như thế. Để biết rõ hơn,
bạn nên đọc cuốn sách này thật kỹ.
Trong nền kinh tế ảm đạm thì kinh phí đầu tư dành cho Thư
viện sẽ ra sao đây?
Nếu bất cứ ai muốn biết tới các số liệu về tình trạng không mấy khả
quan lắm về kinh tế nước Mỹ hiện nay như thế nào thì có thể truy cập
nhanh vào website của Phòng Thống kê Lao động Hoa Kỳ (www.bls.
gov/eag/eag.us.htm) để xem tỷ lệ thất nghiệp mới nhất, CPI (chỉ số giá
tiêu dùng), PPI (chỉ số sản xuất),... Có đáng tin cậy không? Có chắc rằng
nền kinh tế sẽ cải thiện, và phục hồi không? Điều này cũng có nghĩa rằng
các thư viện cần nắm bắt tình hình kinh tế kịp thời vì chính thư viện cũng
bị ảnh hưởng khi nền kinh tế suy thoái. Chắc chắn rằng, thư viện sẽ bị cắt
giảm ngân sách trong một ngày gần đây. Trong kỷ nguyên kinh tế, minh
chứng bằng con số trong thực tế là cách tốt nhất để nhà nước cân nhắc có
nên tiếp tục đầu tư tiếp nữa không: nếu như chúng ta phục vụ cộng đồng
rất tốt và có hiệu quả thì chắc chắn rằng sẽ được ưu tiên đầu tư tiếp. Bạn
có biết rằng khi nguồn ngân sách đầu tư vào thư viện của bạn ngày càng
eo hẹp thì bạn cần cân nhắc thật kỹ lưỡng hơn với số tiền được đầu tư eo
hẹp này. Đó cũng là lý do tại sao mà thị trường nguồn tin điện tử thật khó
để đương đầu các đối thủ cạnh tranh bởi vì: thư viện không thể mua (đầu
tư nhiều vào) các nguồn tin điện tử hoặc các sản phẩm, dịch vụ mà người
nghiên cứu lại ít sử dụng, khai thác tới. Mọi người đều muốn rằng đầu tư
là phải sinh lợi. Điều đó có nghĩa là rằng việc đầu tư đó phải mang lại
cho chúng ta hai điều sau: lợi tức đầu tư và giá trị (value).
“Lợi tức đầu tư” (ROI) so với “Giá trị” (VALUE)
Thật không may, từ “lợi tức đầu tư” (ROI) là từ viết tắt đã xuất
hiện từ lâu. Chúng tôi nói từ “thật không may” là một số đơn vị (tổ chức)
cũng được xem là tổ chức kinh doanh nhưng rốt cuộc lại không làm tốt
nhiệm vụ của mình. Còn thư viện lại được xem là tổ chức dịch vụ và phi
lợi nhuận. Khi tìm kiếm thuật ngữ này (ROI) trên trang web thì kết quả
được tìm thấy đều tập trung vào mô hình kinh doanh. Nếu như bạn muốn
đọc kỹ hơn về thuật ngữ “ROI” có liên quan đến thư viện như thế nào thì
hãy truy cập vào thư mục trực tuyến ALA “Bài viết và các bài nghiên
cứu có liên quan đến cụm từ Library Value (Return on Investment - Lợi
tức đầu tư)” Trích từ Hiệp hội Thư viện Mỹ năm 2012.
Qua tìm hiểu và nghiên cứu kỹ cụm từ “ROI - Lợi tức đầu tư”,
chúng tôi thấy rằng: thực ra, thuật ngữ này chẳng có ý nghĩa gì với chúng
8
ta bởi vì kết quả đo lường lại được dựa vào giá trị sản xuất. Chính điều
này lại mâu thuẫn với sứ mệnh cộng đồng của thư viện. Còn thư viện có
liên quan nhiều đến chỉ số đo lường định tính của các yếu tố tác động
trong thư viện. Chúng tôi nhận được nhiều sự hỗ trợ từ các bài nói
chuyện của Jim Neal trên trang web Hiệp hội các Thư viện Đại học và
thư viện nghiên cứu Mỹ (ACRL) với chủ đề: “Stop the madness: The
insanity of ROI and the need for new quanlitative measures of academic
library success”.
Chúng ta đều nhất trí với ý tưởng trong bài luận của ông Neal’s
“Thư viện học thuật cần phải khẳng định vị thế của mình bằng cách: đáp
ứng tất cả nhu cầu của bất cứ đối tượng nào, ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời
gian nào. Tuy nhiên, chúng tôi cảm thấy rằng ý tưởng của ông Neal có
thể phù hợp rộng rãi cho tất cả các loại hình thư viện. Trong các bài viết
của ông ấy, ông cho rằng thư viện và cán bộ thư viện cần phải hoạt động
ra sao để sinh lợi nhiều hơn và chúng ta cần tự hỏi lại chính bản thân.
Có thể bạn sẽ cung cấp đa dạng các loại thông tin và tài liệu hoặc
dịch vụ tư vấn cho các đối tượng khách hàng hiện tại của chúng ta?
Chúng ta có đáp ứng các nhu cầu của nhóm khách hàng mới bằng cách
giới thiệu, quảng bá, cung cấp tài sản tri thức khổng lồ đang tồn tại
trong thư viện chúng ta hay có tạo ra các năng lực kinh doanh mới (new
business capabilities) qua Internet không? Chúng ta có tạo ra nhiều hoạt
động, dịch vụ để thu hút khách hàng đến thư viện và sử dụng triệt để
nguồn tài nguyên trong thư viện từ nguồn kinh phí được đầu tư phải
không? Có phải các hoạt động và dịch vụ của chúng ta đối mặt với sự
cạnh tranh mạnh mẽ của các công ty khác khi họ cũng cung cấp một số
dịch vụ, hoạt động giống với dịch vụ, hoạt động của chúng ta phải
không? Làm sao chúng ta trở thành trung tâm thu hút được nhiều khách
hàng đến thư viện trong kỷ nguyên thương mại điện tử như hiện nay?
Làm sao chúng ta có thể xây dựng mối quan hệ với khách hàng mới đây?
Làm sao bạn có thể sưu tập được nhiều tài liệu số có giá trị từ công ty
khác? Chúng ta cũng sử dụng Internet như là công cụ cho hai mục đích
sau: cho việc học tập toàn cầu (global learning) và trao đổi thông tin học
thuật và cho việc chuyển giao công nghệ (technology transfer) và hoạt
động kinh doanh (entrepreneurial activities) không?
Nếu như bạn nghiên cứu kỹ tất cả các câu hỏi của ông Neal thì bạn sẽ
nhận thấy rằng từng câu hỏi có liên quan mật thiết đến công tác nghiệp
vụ đối với nguồn tin điện tử của thư viện – công tác chọn lọc, bổ sung,
khả năng truy cập. Chúng tôi tin rằng các thư viện đều có thể tìm ra được
câu trả lời cho tất cả câu hỏi của ông Neal một cách phù hợp nhất dựa
vào nhu cầu và sự kỳ vọng của người sử dụng. Ông Neal dự đoán rằng
9
các thư viện sẽ phát triển vượt bậc trong “sự phát triển mạnh mẽ của
tương lai”.
Đối thủ của Thư viện
Thư viện đang canh trạnh với đối thủ nặng ký. Đó là nhà cung cấp
thông tin sẳn có trên các trang Web. Vì vậy, chúng ta cần xem lại chất
lượng dịch vụ trong thư viện của chúng ta theo góc nhìn khác. Chúng ta
học theo các doanh nghiệp và sử dụng các kỹ năng trong kinh doanh
(hoặc sách lược trong kinh doanh) để ứng dụng vào thư viện để đạt được
hiệu quả cao hơn và và sắp tới sẽ làm tốt sứ mệnh của chúng ta. Chúng
tôi tìm thấy câu nói này từ những cuốn sách của tác giả Neal và chúng tôi
cảm thấy rất thích hợp với chủ đề mà chúng tôi đang thảo luận ở đây:
Vấn đề cấp thiết nhất của các doanh nghiệp có thể tồn tại được đó là
công cụ kinh doanh. Công cụ kinh doanh bao gồm: kế hoạch kinh doanh,
chiến lược cạnh tranh, và đầu tư mạo hiểm. (Neal, 2011: 429).
Có phải kế hoạch kinh doanh và chiến lược cạnh tranh là phần của
kế hoạch tiếp thị không? Cũng có thể.
Kế hoạch Marketing nguồn tin điện tử phải trả lời các câu hỏi
sau: Ai? Cái gì? Khi nào? Ở đâu? Tại sao? (Không nhất thiết
phải trả lời các câu hỏi này theo một thứ tự đã nêu ra ở trên)
Đến bây giờ bạn cũng biết được lý do tại sao tôi nên viết cuốn sách
này. Hãy cân nhắc tại sao kế hoạch Marketing lại quan trọng như thế và
bạn sắp xếp các thành phần như thế nào cho hợp lý. Trước khi bạn thực
hiện chiến dịch tiếp thị nguồn tin điện tử, bạn cần xác định rõ:
- Mục đích là gì.
- Những người tham gia thực hiện.
- Các thành phần chi tiết của kế hoạch Marketing là gì.
- Làm thế nào tiến hành thực hiện đánh giá một cách thành công.
- Bạn sẽ duyệt lại, điều chỉnh, cập nhật các thông tin một lần nữa
như thế nào và khi nào.
Nghe có vẻ rất nhiều công việc phải làm lắm đây? Cũng có thể
nhưng thực ra, nó được chia thành nhiều bước và các bước này chúng tôi
đã giới thiệu rõ ở trong cuốn sách này - Liệu thư viện của bạn thuộc loại
hình thư viện nào đây: Thư viện công cộng, thư viện trường học, thư viện
chuyên ngành, hay thư viện học thuật. Nếu như bạn thực hiện theo trình
tự này thì bạn:
- Sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc.
10
- Tình trạng sử dụng, khai thác nguồn tin điện tử trong thư viện sẽ
tăng lên.
- Làm cho khách hàng hài lòng hơn. Bạn cũng có bản kế hoạch về
trách nhiệm, nhiệm vụ để trình ban quản lý thư viện.
Khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ học được thuật ngữ chuyên dùng
trong lĩnh vực marketing. Nếu như chính khái niệm thuật ngữ
“Marketing” làm bạn khó hiểu hoặc thậm chí còn mơ hồ thì bạn hãy nên
đặt câu hỏi - tại sao mà chúng ta có thể nắm bắt được nhu cầu và đáp ứng
kỳ vọng đó rồi hãy đặt ra các mục tiêu để thực hiện. Mục đích của chúng
tôi là có thể giúp bạn thực hiện được một bản kế hoạch hoàn thiện hơn và
khi kế hoạch được triển khai vào thực tế thì mới có thể gọi là
“Marketing”.
Marketing là gì?
Theo mục đích của chúng tôi, chúng tôi định nghĩa từ “Marketing”
trong cuốn sách “Marketing Your Library’s Electronic Resources” bao
gồm các hàm ý sau:
- Hãy tuyên truyền đến khách hàng là “thư viện chúng ta cung cấp
những gì cho khách hàng từ nguồn tin điện tử đó”.
- Mô tả những nguồn tin điện tử này có thể giúp ích gì cho từng đối
tượng khách hàng trong thư viện.
- Thu thập các thông tin của khách hàng như: trình trạng sử dụng
nguồn tin điện tử trong thư viện, chuyên môn của khách hàng,
- Thư viện tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin đó như thế nào để
đáp ứng nhu cầu thông tin sau khi tiếp nhận thông tin phản hồi.
Tóm lại: Đối với chúng tôi, Marketing là vòng tròn liên tục của:
công tác đánh giá (assessment), quảng cáo (advertisement), huấn luyện
nhân viên, hướng dẫn người nghiên cứu, rồi đánh giá (assessment),
quảng cáo (advertisement),...
Trong cuốn sách này, chúng tôi đề cập đến mục tiêu vi mô và mục
tiêu vĩ mô. Mục tiêu vi mô là: giới thiệu cho các đồng nghiệp thật cụ thể
về quy trình đưa ra ý tưởng, thực hiện, và đánh giá kế hoạch Marketing
trong công tác quản lý bộ sưu tập nguồn tin điện tử. Còn đối với mục tiêu
vĩ mô là: tối đa hóa giá trị nhận thức về nguồn tin điện tử trong thư viện
đối với các đối tượng là người nghiên cứu và nâng cao vị thế của thư viện
đối với cộng đồng trong xã hội – bao gồm: cán bộ quản lý, giảng viên,
giáo viên, nhân viên và sinh viên, học sinh của trường tiểu học và trung
học, trường cao đẳng, trường đại học, cơ quan hoặc nhóm chuyên gia cố
11
vấn. Chúng tôi muốn hướng tới cộng đồng lớn hơn chứ không bó hẹp
trong phạm vi nhỏ hẹp của trường học, thư viện. Khi bạn đọc cuốn sách
này, bạn sẽ thấy chúng tôi mong mỏi nội dung này truyền đến tay tất cả
mọi người trong thư viện để cùng tham khảo và bắt tay vào thực hiện.
Cuốn sách được sắp xếp như thế nào?
Một khi bạn chấp nhận giả thuyết là: có nhiều lý do để các thư viện
cần phải hoạch định và thực hiện các kế hoạch tiếp thị. Các chương ở
cuốn sách này được bố trí hài hòa, hợp lý. Chúng tôi chỉ tập trung vào
chủ đề kế hoạch tiếp thị nguồn tin điện tử nhưng chiến lược cơ bản này
vẫn có thể áp dụng cho nhiều dịch vụ khác trong thư viện .
* Trong phần I: Cách thiết kế kế hoạch Marketing
Chương 1, chúng ta làm quen với cách để xác định mục đích của
bản kế hoạch - chính điều này sẽ giúp bạn thực hiện các phần khác của
bản kế hoạch được dễ dàng hơn, đi đúng hướng hơn. Hãy tập trung toàn
thời gian và công sức để thực hiện cho hoàn chỉnh phần mục đích của
bản kế hoạch. Nghe có vẻ dễ dàng lắm nhưng điều quan trọng nhất là bạn
phải đưa ra mục tiêu thật tốt ngay từ đầu: Đây là “kim chỉ nam” cho hoạt
động Marketing. Kết thúc vòng tròn Marketing thì bạn sẽ biết được là
bạn có đạt được mục tiêu đã đề ra hay không và bạn cần sửa đổi, cập
nhật, bổ sung gì để bản kế hoạch hoàn thiện hơn.
Chương 2, chúng tôi giới thiệu chi tiết hơn về cách làm thế nào để
hoạch định một kế hoạch trong thư viện. Kết quả của việc hoạch định tốt
hay không là dựa vào việc nghiên cứu đối tượng khách hàng là ai và nhu
cầu của họ là gì.
Chương 3, là phần thực tế nhất bởi vì chính phần này chúng ta đã
bắt tay vào thực hiện kế hoạch rồi (không còn là lý thuyết suông nữa) và
chúng ta từng bước tạo ra một bản kế hoạch hoàn chỉnh. Lưu ý rằng phần
lớn nội dung ở chương này liên quan nhiều đến việc hoạch định một kế
hoạch tiếp thị.
Tinh thần trách nhiệm (accountability) thậm chí còn là từ được chú
trọng nhiều hơn so với từ tiếp thị trong các thư viện hiện nay. Vì thế mà,
khi bạn đã bắt tay thực hiện kế hoạch thì phải đảm bảo rằng bạn nổ lực
rất nhiều và có trách nhiệm cao để hoàn thiện bản kế hoạch và viết được
bản báo cáo kế hoạch, hoàn chỉnh bản kế hoạch đó đến cùng.
Chương 4, chúng tôi đề cập đến cách viết một bản báo cáo kế
hoạch và minh họa những phần ưu điểm và khuyết điểm của bốn ví dụ về
bản báo cáo kế hoạch marketing (4 ví dụ này nằm ở phần II).
Chương 5, nếu bạn tiếp tục đọc tiếp chương 5, bạn sẽ có nhiều ý
12
tưởng để để hoàn thiện một bản kế hoạch tiếp thị trong thư viện bởi vì
bạn sẽ phải đánh giá để loại bỏ những thứ không phù hợp và có nhiều dữ
liệu định tính và định lượng cần cập nhật, bổ sung vào phần báo cáo của
bạn.
Chương 6, đem lại sự hoàn thiện cả chu trình thực hiện công tác
tiếp thị bằng cách thảo luận về cách để đánh giá bản kế hoạch, xem lại
và cập nhật, hiệu đính và triển khai vào thực tế.
* Trong phần II: Mẫu kế hoạch Marketing
Chúng tôi giới thiệu một số ví dụ mẫu về bản báo cáo kế hoạch tiếp
thị trong thư viện. Chúng tôi rất hài lòng về bản kế hoạch ở ví dụ 1 bởi vì
đây là thư viện số đúng nghĩa. Theo thường lệ, bạn buộc phải thực hiện
công tác tiếp thị cho các tài liệu dạng in nữa, chỉ trừ thư viện NOVELny.
Chính bản kế hoạch của thư viện NOVELny cho bạn cơ hội để hình dung
ra công tác quảng bá nguồn tin điện tử sẽ ra làm sao mà không cần bận
tâm đến các dạng tài liệu in. Mẫu ví dụ 2 là bản kế hoạch của thư viện
dành cho các thư viện công cộng.
Để thấy được công việc “hậu trường” để xem cách hoạch định bản
báo cáo kế hoạch thì hãy truy cập vào địa chỉ:
arber.pdf.
Truy cập vào địa chỉ này, bạn sẽ thấy được phần mô tả cụ thể về
SWOT và chiến lược truyền thông. Mẫu ví dụ 3 cũng là bản báo cáo kế
hoạch tiếp thị dành cho các thư viện công cộng. Ở ví dụ này trình bày
thành công của một thư viện cần có sự hỗ trợ, hợp tác các bộ phận liên
quan trong, ngoài cơ quan như thế nào để đạt kết quả. Mẫu ví dụ 4 là bản
báo cáo kế hoạch tiếp thị của thư viện đại học. Trong lời mở đầu của mẫu
ví dụ này là “Thường thì một bản kế hoạch không nhất thiết phải tuân
theo khuôn mẫu đã được định sẵn nhưng các bước của quá trình lập kế
hoạch thì không thể thiếu bởi vì nó giúp chúng ta trả lời được những câu
hỏi cơ bản như: chúng ta làm được gì và tại sao chúng ta thực hiện nó”.
Và cuối cùng, điều quan trọng hơn hết là phải biết rõ, hiểu rõ những sở
thích, đặc điểm, nhu cầu của khách hàng và phải phục phụ khách hàng tốt
ngay từ đầu trước khi bạn đề cập tới việc cung cấp nguồn tin điện tử.
Thực ra, mục tiêu của chúng tôi rất lớn và khách hàng mục tiêu của
chúng tôi là rất lớn. Đó là hướng tới cộng đồng rộng lớn. Trong cuốn
sách này, chúng tôi hy vọng rằng bạn xem xét khả năng của mình và thư
viện của mình để làm sao làm tốt những mục tiêu này và tiếp cận đến đối
tượng khách hàng này.
MỤC LỤC
Lời tựa ....................................................................................................... 3
Lời nói đầu................................................................................................ 5
Chương 1: XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH LẬP KẾ HOẠCH
CỦA MARKETING ............................................................ 13
I. Những điều mà bạn cần nên biết về nguồn tin điện tử
ngay từ bây giờ .................................................................................... 14
1. Thống kê sử dụng ................................................................................ 14
2. Chi phí ................................................................................................. 17
3. Chi phí sử dụng tính cho một lần sử dụng ........................................... 18
II. Truyền thông điệp ............................................................................ 19
III. Mỗi người cùng thực hiện Marketing ........................................... 21
IV. Hãy quan tâm tới quyền đối kháng ............................................... 22
V. Marketing tạo ra những khách hàng thông minh hơn .................. 23
VI. Tập hợp sức mạnh tập thể .............................................................. 24
VII. Tài liệu tham khảo ......................................................................... 26
DANH SÁCH BẢNG VÀ HÌNH
Tên Nội dung Trang
Hình 1.1. COUNTER report samplE 16
Hình 1.2. COUNTER usage data over three years 17
13
Chương 1
XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH
LẬP KẾ HOẠCH CỦA MARKETING
Trong chương này:
- Những điều mà bạn cần nên biết về nguồn tin điện tử ngay từ bây
giờ.
- Truyền thông điệp.
- Mọi người cùng thực hiện Marketing.
- Quan tâm tới quyền lợi đối kháng.
- Marketing tạo ra khách hàng thông minh hơn.
- Sức mạnh tập thể.
- Các tư liệu tham khảo.
Có bao giờ, bạn đi mua sắm mà không có bảng kê hàng hóa và có
bao giờ bạn bỏ thời gian ra để đọc thành phần dinh dưỡng được in trên
một cái hộp ngũ cốc mà bạn không cần đến không? Bạn đi qua các gian
hàng và bị cuốn hút bởi chiêu khuyến mãi nên chọn ngay những hộp cà
chua (đặc biệt mua hai tặng một) đặt vào xe đẩy của mình kèm theo một
túi bột mì khuyến mãi là 2.5 kg (bởi vì bạn nghĩ rằng mình sẽ tiết kiệm từ
món hàng khuyến mãi đó). Tại quầy tính tiền bạn nhận thấy rằng xe đẩy
của mình thì chất đầy những món hàng mà toàn là món hàng linh tinh.
Bạn đã tiêu hết 30 đô la nhưng lại không chắc món mình cần mua, và
quên mua sữa.
Một danh sách mua sắm cho người đi chợ giống như một bản kế
hoạch tiếp thị cho các nguồn tin điện tử trong thư viện. Kế hoạch đó làm
cho thư viện tập trung vào những việc mình làm. Trong khi đó, việc mua
sắm mà không có một danh sách thỉnh thoảng thì có thể chấp nhận được
đối với cá nhân riêng lẻ nhưng đối với thư viện thì không thể chấp nhận
được. Bạn hiểu rằng thật tốt biết bao nếu bạn lên được thực đơn cho cả
tuần cũng như thực đơn hàng ngày. Bạn sẽ thấy thỏa mình khi bạn hiểu
rằng những món hàng mình trả tiền là những thứ thực sự cần thiết cho
bạn. Và kế hoạch Marketing cho nguồn tin điện tử cũng vậy. Thư viện
thực hiện kế hoạch Marketing nguồn tin điện tử để hướng thư viện để
chia sẻ thông điệp, tạo cộng đồng hoặc văn hóa của Marketing, thúc đẩy
14
khách hàng để biết về nguồn tin điện tử mà họ đang sử dụng thì rất hữu
ích. Ông Dillon gọi kiểu văn hóa này là “hoạt động nhận thức tiếp thị” và
chỉ xảy ra “khi toàn bộ hoạt động của thư viện đều hướng tới mọi nổ lực
nhằm phục vụ khách hàng một cách hiệu quả hơn”.
I. Những điều mà bạn cần nên biết về nguồn tin điện tử ngay từ
bây giờ
Khi bạn kiểm tra các món hàng còn tồn trong tủ lạnh thì bạn có thể
lên được danh sách các món ăn cần thiết cho một tuần. Đối với nguồn tin
điện tử trong thư viện, bạn tự đặt các câu hỏi sau: Nguồn tin nào đã có
sẵn trong kho dữ liệu ảo của thư viện? Vai trò quan trọng của việc quản
lý nguồn tin điện tử là gì mà cho tôi biết thông tin những việc sử dụng và
sự hữu ích của nguồn tin điện tử ấy? Có ba cách để giúp bạn hiểu ngay
về nguồn tin điện tử: thống kê sử dụng, giá cả, chi phí sử dụng cho một
nguồn tin.
1. Thống kê sử dụng
Bạn có ước lượng nguồn tin điện tử của thư viện bạn được sử dụng
bao nhiêu lần không? Nếu không xem số liệu thống kê tần suất sử dụng
hoặc không tập hợp loại dữ liệu này thì bạn đang bỏ lỡ một thông tin có
giá trị. Với thống kê tần suất sử dụng, bạn có thể biết được tạp chí điện tử
mà bạn cứ nghĩ là sẽ được sử dụng nhiều nhưng kết quả lại khác. Ngoài
ra, số liệu về tần suất sử dụng khẳng định chắc chắn về những điều mà
bạn đã nghi ngờ bấy lâu. Biết được nguồn tin điện tử được truy cập bao
nhiêu lần là rất quan trọng bởi vì chính điều đó cho thư viện biết được
bao nhiêu bộ sưu tập đang được sử dụng và liệu thư viện đang tập hợp
các nguồn tin phù hợp. Các thư viện thống kê lưu lượng sử dụng báo in
hàng năm với nhiều phương pháp khác nhau và thành công khác nhau.
May mắn thay, tiến trình này phù hợp với nguồn tin điện tử bởi vì nó có
sẵn trong hệ thống. Tất cả điều ta nên làm ở đây là nên tập hợp dữ liệu.
Nếu bạn tiến hành thống kê người sử dụng rồi thì bạn hiểu được
những thông tin giá trị mà bạn thu lượm được về nguồn tin điện tử của
bạn. Hầu hết các nhà cung cấp đều đưa số liệu thống kê người dùng tin
hàng tháng. Nếu bạn biên soạn thành một bản báo cáo hàng năm thì bạn
sẽ biết rõ tình hình hiện tại của mình như: những tháng nào trong năm mà
nguồn tin điện tử được sử dụng nhiều nhất? Nguồn tài liệu nào được sử
dụng nhiều nhất? Và rất có thể công tác thống kê chủ yếu phụ thuộc vào
tình trạng tài chính của thư viện? Nguồn tin điện tử nào mà lượt sử dụng
giảm xuống hoặc không còn sử dụng nữa?
Chuẩn COUNTER được xem là chuẩn tốt nhất cho việc lập báo cáo
sử dụng nguồn tin điện tử. Chuẩn COUNTER dùng để so sánh “lượt sử
15
dụng” của một tờ tạp chí điện tử, cơ sở dữ liệu, sách điện tử hay tài liệu
đa phương tiện với “lượt sử dụng” của tạp chí điện tử khác, cơ sở dữ liệu
khác, Theo chuẩn COUNTER, “một lượt sử dụng” (use) của một tạp
chí điện tử được xác định là một yêu cầu thông tin toàn văn. Điều này có
nghĩa rằng khách hàng đã thấy được bài báo và có thể đã đọc lướt qua
phần tóm tắt mà phần nội dung quan trọng mà cô ta cũng cho rằng nó cần
thiết để cô ta nhấp vào đường link HTML hoặc PDF để đọc, lưu lại hoặc
in bài báo toàn văn này. Được biết đây là phép đo lường khá chuẩn. Bạn
có biết rằng khi tải phấn số liệu liên quan về tạp chí “COUNTER Journal
report 1” thì với những số liệu đã được cung cấp đó. Nó giúp cho bạn có
thể so sánh “lượt sử dụng” của một tờ báo này so với tờ báo khác.
Định nghĩa “use” theo chuẩn COUNTER ở phần trước không đưa
ra nhiều cách để tập hợp nguồn tin điện tử được sử dụng nhưng đây là
phần mềm chuẩn nhất để so sánh một tờ tạp chí điện tử/ cơ sở dữ liệu/
sách điện tử/ nguồn tin đa phương tiện này với những nguồn khác. Có
nhiều loại phần mềm thống kê khác có thể giúp đánh giá tình trạng sử
dụng bộ sưu tập của bạn như phần mềm thống kê Proxy Server, chuẩn
OpenURL, chuẩn non - COUNTER. Tất cả đều là chuẩn thống kê sử
dụng tạp chí điện tử nhưng những chuẩn này chưa được tiêu chuẩn hóa
và bạn cũng không thể so sánh với nhau được. Nếu bạn chỉ bắt đầu nghĩ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_giang_marketing_nguon_tin_dien_tuu_chuong_1_xac_dinh_muc.pdf