Áp dụng thương mại điện tử trong giao nhận hàng hóa ở Việt Nam

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã và đang đem lại những chuyển biến mạnh mẽ trên toàn thế giới. Việc áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kinh tế đem lại những lợi ích to lớn cho toàn xã hội.Việt nam đang trên đường đổi mới, hoà nhập vào sự phát triển chung trong khu vực và trên thế giới, thương mại điện tử ngày một phát triển đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, trong việc buôn bán trao đổi hàng hóa đặc biệt trong giao nhận hàng hóa

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2333 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Áp dụng thương mại điện tử trong giao nhận hàng hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giữa Việt nam, khu vực và thế giới. Thương mại điện tử là lĩnh vực hoạt động kinh tế không còn xa lạ với nhiều quốc gia. Người ta không còn phải mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc...cho những giao dịch kinh tế. Việc áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh là một xu thế tất yếu của thời đại. Và Việt Nam – trong quá trình hội nhập không nằm ngoài xu hướng phát triển đó. Tuy thương mại điện tử không còn là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam, nhưng rất nhiều người Việt Nam thậm chí còn chưa hiểu rõ bản chất, lợi ích của thương mại điện tử chứ chưa nói đến việc áp dụng nó. Do đó, quá trình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu khách quan về quy luật vận động và phát triển thương mại điện tử để từ đó xây dựng và triển khai chiến lược phát triển lĩnh vực hoạt động thương mại này. Xuất phát từ những yêu cầu đó, với mong muốn mỗi người dân Việt Nam sẽ hiểu biết ngày một sâu sắc tầm quan trọng của thương mại điện tử, đưa thương mại điện tử vào trong hoạt động phát triển nền kinh tế quốc gia nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Áp dụng thương mại điện tử trong giao nhận hàng hóa” làm đề án của mình.Nội dung của đề án sẽ giúp người đọc hiểu rõ khái niệm, yêu cầu, lợi ích và tầm quan trọng của thương mại điện tử nói chung và những định hướng, bước đi trong chặng đường phát triển thương mại điện tử trong giao nhận hàng hóa ở Việt Nam, và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của giao nhận hàng hóa bằng thương mại điện tử. Trong quá trình thực hiện, do trình độ và thời gian có hạn cùng với điều kiện thực tế là thương mại điện tử ở Việt Nam mới bắt đầu phát triển, việc lấy thông tin chính xác còn nhiều hạn chế, do đó khoá luận không thể tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự quan tâm giúp đỡ, trao đổi, động viên của các cấp, các ngành, các nhà nghiên cứu, các thày cô và những ai quan tâm đến thương mại điện tử để đề án “áp dụng thương mại điện tử trong giao nhận hàng hóa” được hoàn thiện hơn. Cấu trúc của đề án gồm: Lời nói đầu Chương I: Những vấn đề cơ bản về thương mại điện tử Chương II: Thực trạng phát triển thương mại điện tử trong giao nhận hàng hóa Chương III: Kiến nghị các giải pháp nhằm phát triển thương mại điện tử trong giao nhận hàng hóa ở Việt Nam Kết luận Tài liệu tham khảo CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 1.1. Q uan niệm về thương mại điện tử 1.1.1 Qúa trình hình thành và phát triển của thương mại điện tử Năm 1969, Bộ Quốc phòng Mỹ thành lập cách Mạng các dự án Nghiên cứu tiên tiến (arpanet). Arpanet là mạng đầu tiên nối các tổ chức hay gọi là Internet. Cùng trong thời gian này, việc tự động hóa trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính bắt đầu hình thành và phát triển, chẳng hạn như quá trình xử lý séc ra đời, tiếp theo là quá trình xử lý thẻ tín dụng và chuyển tiền điện tử (Electronic Funds Transfer-EFT) cho phép thanh toán qua mạng và đưa đến các nghiệp vụ ký cược và ghi nợ trực tiếp. Đầu thập niên 80, các hoạt động thương mại điện tử trở nên mở rộng giữa các doanh nghiệp dưới các hình thức trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange-EDI) và thư điện tử (E-mail). EDI cho phép các công ty gửi và nhận qua mạng các giấy tờ kinh doanh như lệnh đặt hàng chẳng hạn. Cuối những năm 80,thương mại điện tử ( TMĐT) đã trở thành một bộ phận quan trọng trong các hoạt động kinh doanh, mặc dù vẫn chưa được thực hiện qua mạng Internet công cộng. Cũng trong khoảng thời gian này, công nghệ thương mại điện tử mới ra đời với sự phát triển mạnh của mạng Internet toàn cầu tuy còn xa lạ với người sử dụng và phần lớn các thủ tục đều chưa thuận tiện và tự động hóa. Năm 1992 đánh dấu sự ra đời của mạng toàn cầu (World Wide Web). Điều này giúp cho mạng Internet dễ sử dụng hơn và giao diện cũng có tính đồ họa hơn nếu so với những kỹ năng kỹ thuật cần thiết trước đây. TMĐT đang phát triển nhanh trên bình diện toàn cầu dựa trên nền tảng sự phát triển của công nghiệp công nghệ thông tin (CNTT). Công nghiệp CNTT đang dần dần chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân của nhiều nước. Đặc biệt là sự kết hợp hữu cơ của 3 bộ phận công nghiệp: máy tính (mạng, máy tính, thiết bị điện tử, phần mềm và các dịch vụ khác), truyền thông (điện thoại hữu tuyến và vệ tinh) và nội dung thông tin (cơ sở dữ liệu, các sản phẩm nghe nhìn, vui chơi giải trí, xuất bản và cung cấp thông tin...) đang tạo ra tính chất và vai trò mới của công nghiệp CNTT. 1.1.2. Khái niệm về thương mại điện tử Trước khi đi vào khái niệm Thương mại điện tử chúng ta xem qua khái niệm về kinh doanh điện tử: kinh doanh điện tử (electronic business) là một bước biến đổi cơ bản về phương thúc kinh doanh thông qua việc sử dụng mạng thông tin internet,intarnet… Hiện nay có nhiều đinh nghĩa về thương mại điện tử,ta xét qua mấy định nghĩa sau đây: Quan điểm thứ nhất: Thương mại điện tử được định nghĩa một cách đơn giản là sự chuyển giao các giá trị qua mạng internet của một trong bốn dạng hoạt động:mua,bán , đầu tư và vay mượn. Quan điểm thứ hai với nghĩa rộng:Thương mại điện tử gồm các giao dịch tài chinh và thương mại được thực hiện bằng phương pháp điện tử. Quan điểm thứ ba xuất phát từ thực tiễn của thương mại điện tử:Thương mại điện tử là các hoạt động thương mại thực hiện qua mạng thông tin toàn cầu internet. Trong ba định nghĩa trên, định nghĩa thứ ba được xem là chính xác nhất, và được sử dụng nhiều nhất. 1.2. Các hình thức áp dụng thương mại điện tử 1.2.1. Hình thức doanh nghiệp với doanh nghiệp Là hình thức trong đó doanh nghiệp thực hiện giao dịch mua bán trao đổi hàng hoá với doanh nghiệp khác thông qua các trang Web gọi là B2B. Thực chất giao dịch điện tử giữa các doanh nghiệp thì không mới, chúng đã tồn tại nhiều thập kỷ qua.Doanh nghiệp bắt đầu gửi và nhận đơn đặt hàng ,hoá đơn và thông báo nhận hàng thông qua EDI từ cuối những năm 70.Nhưng lúc bấy giờ chỉ có các doanh nghiệp lớn tham gia vì chi phí truyền dữ liệu và chi phí đào tạo rất đắt. Hiện nay thương mại điện tử dưới hình thức doanh nghiệp với doanh nghiệp phát triển với tốc độ rất nhanh, bởi nó đem lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp, ví dụ như doanh nghiệp có thể rút ngắn chu trình sản xuất nhờ kết hợp với các doanh nghiệp khác, mỗi bên chuyên môn hoá về một lĩnh vực, hay doanh nghiệp có thể tiết kiệm được thời gian và chi phí cho việc tìm và mua nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất của mình do doanh nghiệp mua nguyên vật liệu của nhà cung cấp là người bán hàng trực tuyến qua mạng. 1.2.2. Hình thức doanh nghiệp với khách hàng Giao dịch giữa doanh nghiệp và khách hàng dưới hình thức người tiêu dùng thực hiện mua bán hàng hoá qua trang Web gọi là B2C. Mặc dù phương thức doanh nghiệp với doanh nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn nhưng hình thức doanh nghiệp với khách hàng ngày nay đang có nhiều triển vọng phát triển vì hiện nay nhiều gia đình muốn tiết kiệm thời gian đi mua hàng bằng cách chỉ ngồi ở nhà nhấn chuột vào màn hình thì họ đã có thể yêu cầu người bán giao hàng đến tận nhà hoặc người tiêu dùng có thể dùng ngay dịch vụ của nhà cung cấp trên mạng điển hình là các hoạt động vui chơi, giải trí như nghe nhạc, đọc truyện, đọc báo, xem phim v.v.. Hàng hóa trao đổi trên Internet giờ đây không chỉ là hàng hoá hữu hình mà cả hàng hoá vô hình. Giao dịch truyền thống mất dần lợi thế so với giao dịch điện tử. + Hàng hoá vô hình: Phần lớn các giao dịch điện tử hàng hoá vô hình đều được đưa trực tiếp đến máy tính cá nhân người tiêu thụ thông qua mạng. Các hàng hóa này gồm 4 lĩnh vực: giải trí, du lịch, báo và tạp chí, dịch vụ tài chính và Email. + Hàng hóa hữu hình: Hàng hoá được bán chủ yếu bằng phương thức điện tử là sách vở, quần áo, thực phẩm và nước giải khát. Người ta đang mở rộng các hàng hoá giao dịch trên mạng kể cả các vật dụng gia đình... 1.3. Lợi ích của thương mại điện tử 1.3.1. Tính kịp thời của thông tin thương mại Internet là một thư viện khổng lồ nhất được cập nhật một cách liên tục. Ngày nay, nhận, gửi, khai thác thông tin trên Internet là nhu cầu của toàn thế giới. Thông tin chính xác đầy đủ, nhanh chóng là một đòi hỏi ngày càng cao trong hoạt động kinh doanh giao nhận. Trong thương mại điện tử hiện nay người ta có thể dễ dàng thu thập và tìm kiếm thông tin ở khắp các nơi trên thế giới. Dựa vào đó doanh nghiệp có thể theo sát sự biến động của thị trường nước ngoài, nắm bắt liên tục và thường xuyên các thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do khả năng thu thập được các thông tin cập nhật và truyền tin nhanh chóng, doanh nghiệp có thể thực hiện nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, tìm hiểu đối tác và ra các quyết định kinh doanh của mình ở các thời điểm và địa điểm khác nhau. Nói về tính kịp thời của thông tin thương mại trên Internet, nhiều người đặt câu hỏi sử dụng điện thoại, fax... với khả năng truyền tin nhanh thì vẫn đảm bảo tính kịp thời, vậy ưu thế nổi trội của Internet so với các phương tiện này là gì? Điện thoại là một phương tiện phổ thông dễ sử dụng và thường mở đầu cho các cuộc giao dịch thương mại. Tuy nhiên trên quan điểm kinh doanh công cụ điện thoại có mặt hạn chế là chỉ truyền tải được âm thanh. Mọi cuộc giao dịch cuối cùng vẫn phải kết thúc bằng giấy tờ, hay các tài liệu có thể lưu trữ (hiện nay thương mại điện tử trên thế giới, người ta thừa nhận giá trị pháp lý của các tài liệu truyền qua Internet, vì vậy các tài liệu này có thể thay cho giấy tờ truyền thống). Ngoài ra nếu tính yếu tố chi phí thì có lẽ giao dịch điện thọai nhất là giao dịch đường dài, điện thoại cao gấp nhiều lần so với các giao dịch thông qua mạng Internet. Với máy fax, có thể thay thế được dịch vụ đưa thư và gửi công văn truyền thống. Nhưng Fax lại có hạn chế là: không thể tải được âm thanh, hình ảnh phức tạp, đồng thời giá máy và chi phí còn rất cao. Hơn nữa qua thương mại điện tử bằng Internet người ta vẫn có thể gửi và nhận Fax nếu cần. 1.3.2. Giảm được chi phí tiếp thị và giao dịch: Nhờ thương mại điện tử thông qua Internet, Công ty có thể thiết lập trực tiếp mối quan hệ với khách hàng hay rút ngắn được quá trình giao hàng. Doanh nghiệp có thể hạ được giá thành các dịch vụ giao nhận, giảm thấp chi phí tiếp thị mà vẫn đảm bảo được lợi nhuận. Bằng phương tiện Internet/Web, một nhân viên giao nhận có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng, ca-ta-lô điện tử (eletronic catalogue) trên trang Web phong phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật so với ca-ta-lô in ấn (có khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời). Theo số liệu thống kê của hãng máy bay Boeing của Mỹ, có tới 50% khách hàng đặt mua 9% phụ tùng thông qua Internet và còn nhiều hơn nữa các đơn hàng về dịch vụ kỹ thuật, sửa chữa, giao nhận và mỗi ngày giảm được 600 cuộc điện thoại. Thương mại điện tử qua Internet/Web còn giúp các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch (giao dịch được hiểu là quá trình từ quảng cáo, tiếp xúc ban đầu, giao dịch đặt hàng, giao dịch thanh toán). Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, và bằng khoảng 0.5 phần nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện; chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng khoảng 5% chi phí giao dịch qua bưu điện chuyển phát nhanh, chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng từ 10% đến 20% cho phí thanh toán theo lối thông thường Trong những yếu tố cắt giảm, yếu tố thời gian là đáng kể nhất vì việc nhanh chóng làm cho thông tin dịch vụ tiếp cận khách hàng (mà không phải qua trung gian) có ý nghĩa sống còn đối với kinh doanh giao nhận. Thông thường đối với một nhà sản xuất rất khó có thể thiết lập được một mạng lưới tiêu thụ rộng lớn để trực tiếp cung cấp và liên hệ với những người bán lẻ hay các khách hàng. Song hiện nay nhờ thương mại điện tử mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể làm được điều đó. Khi thiết lập một cơ sở kinh doanh trên Internet, doanh nghiệp đã cùng một lúc thiết lập một đại lý phân phối ở nhiều nơi khác nhau, hoàn toàn loại bỏ được kênh phân phối trung gian nhiều cấp. Điều này là có lợi cho cả doanh nghiệp và khách hàng. 1.3.2. Dễ dàng đa dạng hóa dịch vụ Với Internet doanh nghiệp giao nhận có thể kinh doanh hỗn hợp các dịch vụ khác nhau.Với kiểu giao hàng truyền thống (người giao nhận phải đến trực tiếp địa điểm giao nhận và làm các thủ tục cần thiết cho lô hàng, tốn nhiều thời gian đi lại) rất khó để có thể đa dạng hóa các dịch vụ như dịch vụ kê khai tờ khai thuế, đóng thuế, chuyên chở ... vì điều này đòi hỏi phải trang bị đầu tư rất lớn một lực lượng lao động được đào tạo chuyên ngành cho nhiều vị trí ở các địa điểm khác nhau. Nhưng khi áp dụng thương mại điện tử không quan trọng là hàng hoá giao nhận được đặt như thế nào để ở đâu. Bởi doanh nghiệp giao nhận sẽ dễ dàng theo dõi được nhiều lô hàng ở nhiều nơi và đồng thời thực hiện các nghiệp vụ giao nhận và các dịch vụ khác qua Internet. Điều quan tâm chính của doanh nghiệp là làm thế nào giao nhận hàng hóa tới khách hàng theo phương thức phù hợp hoặc theo phương thức mà khách hàng yêu cầu. Do đó, kể cả khi hàng hoá được để hỗn hợp thì vẫn có thể được sắp xếp và giao nhận theo đúng yêu cầu của khách hàng bất cứ lúc nào. 1.4. Các điều kiện phát triển thương mại điện tử 1.4.1. Điều kiện về công nghệ: Thương mại điện tử không phải là một sáng kiến ngẫu hứng, mà là hệ quả tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hóa, của công nghệ thông tin, mà trước hết là kỹ thuật máy tính điện tử. Vì thế, chỉ có thể thực sự có và thực sự tiến hành thương mại điện tử có nội dung và hiệu quả đích thực khi đã có một hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin vững chắc (bao gồm hai nhánh: tính toán điện tử và truyền thông điện tử). Hạ tầng cơ sở ấy bao gồm từ các chuẩn của doanh nghiệp, của cả nước và sự liên kết của các chuẩn ấy với các chuẩn quốc tế, với kỹ thuật ứng dụng và thiết bị ứng dụng. Và không chỉ của riêng từng doanh nghiệp, mà phải là một hệ thống quốc gia, với tư cách như một phân hệ của hệ thống công nghệ thông tin khu vực, và toàn cầu (trên nền tảng của Internet hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là bao gồm các phân mạng, và hệ thống liên lạc viễn thông toàn cầu). Và phải tới được từng cá nhân trong hệ thống thương mại (cho tới từng cá nhân người tiêu thụ). Hạ tầng cơ sở công nghệ không chỉ có nghĩa là tính hiện hữu mà còn hàm nghĩa có tính kinh tế sử dụng ,nghĩa là chi phí trang bị các phương tiện công nghệ thông tin (điện thoại, máy tính, modem v.v.) và chi phí dịch vụ truyền thông (phí điện thoại, phí nối mạng và truy cập mạng) phải đủ rẻ để đông đảo người sử dụng có thể tiếp cận được. Điều này có ý nghĩa đặc biệt to lớn đối với các nước đang phát triển, mức sống nói chung còn thấp. Cũng cần lưu ý thêm rằng hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin chỉ có thể có và hoạt động đáng tin cậy trên nền tảng một nền công nghiệp điện năng vững chắc, đảm bảo cung cấp điện năng đầy đủ, ổn định và với mức giá hợp lý. Thiết lập và củng cố được một hạ tầng công nghệ trên nền tảng công nghiệp điện năng như vậy đòi hỏi thời gian, hơn nữa phải đầu tư rất lớn, là điều đặc biệt khó khăn đối với các nước đang phát triển. Theo đà phát triển của thương mại điện tử, nay đang có xu hướng mạnh mẽ ghép cả công nghệ bảo mật và an toàn vào hạ tầng cơ sở công nghệ của thương mại điện tử. Bảo mật và an toàn không chỉ có ý nghĩa đối với các thực thể kinh tế, mà còn có ý nghĩa an ninh quốc gia. 1.4.2. Điều kiện về con người: Thương mại điện tử là sản phẩm của công nghệ, do vậy muốn vận dụng nó thì phải nắm được công nghệ. Hiện tại ở nước ta nhận thức về công nghệ thông tin còn hạn chế. Hầu hết các trường học, ở tất cả các cấp học nước ta kể cả Đại học tỷ lệ nối mạng Internet là rất ít. Các sinh viên - học sinh tầng lớp trí thức của tương lai còn chưa hiểu sâu Internet là gì, chưa hề có khái niệm về thương mại điện tử. Đối với các doanh nghiệp, những người đóng vai trò chính trong thương mại điện tử cũng còn hạn chế sử dụng Internet, chưa nhận thức đầy đủ được tầm quan trọng của thương mại điện tử. Về phía Chính phủ, người thứ ba quan trọng trong thương mại điện tử, các quy chế, các biện pháp quản lý kiểm soát của Nhà nước lại chủ yếu thiên về khía cạnh chính trị, văn hoá, xã hội của Internet (vốn chỉ là những ảnh hưởng phụ, những vấn đề có thể giải quyết bằng giải pháp công nghệ, giáo dục hơn là giải quyết bằng những quy định bằng pháp luật nhằm tạo ra những rào cản cho phát triển thương mại điện tử) mà chưa chú ý tới tính thương mại và lợi ích mà Internet mang lại. Vì vậy cả về phía Nhà nước ta, vấn đề nhận thức vẫn là vấn đề quan trọng hàng đầu. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG GIAO NHẬN HÀNG HOÁ Ở VIỆT NAM 2.1. Tình hình ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp ở Việt Nam Biểu đồ: Chuyển biến về ứng dụng TMĐT trong doanh nghiệp qua hai năm 2006 - 2007 Nếu hiểu thương mại điện tử là việc sử dụng các phương tiện điện tử để tiến hành hoạt động thương mại, thì doanh nghiệp có thể triển khai thương mại điện tử trên nhiều cấp độ, từ sử dụng email để giao dịch với đối tác, giao kết hợp đồng thông qua điện thoại, fax, email, cho đến xây dựng website riêng của mình hoặc tham gia các sàn giao dịch, v.v... Kết quả điều tra hai năm qua cho thấy ứng dụng thương mại điện tử của doanh nghiệp ngày càng mở rộng trên mọi cấp độ, và phát triển nhanh ở những ứng dụng có độ phức tạp cao. Tỷ lệ doanh nghiệp có website tăng từ 31% lên 38%, tỷ lệ tham gia sàn giao dịch tăng từ 8% lên 10%, tỷ lệ kết nối cơ sở dữ liệu với đối tác tăng từ 13% lên 15%. Những số liệu này cho thấy khi các ứng dụng “phổ thông” như email đã đạt đến độ ổn định (với trên 80% đơn vị được khảo sát có sử dụng), doanh nghiệp bắt đầu đi vào khai thác theo chiều sâu những ứng dụng đòi hỏi kỹ năng CNTT và TMĐT cao hơn, đồng thời tiến gần đến giao dịch thương mại điện tử ở hình thái hoàn chỉnh hơn. Bảng các phương thức nhận đặt hàng qua phương tiện điện tử Website Thư điện tử Fax Điện thoại 2007 24,4% 64,8% 63,7% 65,3% 2006 22,2% 59,4% 69,2% 64,6% Mặc dù tỷ lệ đơn vị chấp nhận đặt hàng bằng phương tiện điện tử năm 2007 không có nhiều thay đổi so với năm 2006, tương quan giữa các phương tiện được sử dụng đã có sự chuyển biến khá rõ rệt. Bên cạnh những phương tiện truyền thống như fax và điện thoại, thư điện tử với website đang ngày càng trở nên phổ biến trong giao dịch giữa các đối tác kinh doanh. Đặc biệt, thư điện tử đang dần thay thế fax và vươn lên vị trí thứ hai (sau điện thoại) trong các phương tiện được sử dụng nhiều nhất, với gần 65% doanh nghiệp được khảo sát cho biết “nhận đặt hàng qua thư điện tử”, tăng hơn 5% so với tỷ lệ 59,4% của năm 2006. Một dấu hiệu đáng mừng nữa về sự phát triển theo chiều sâu của ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp là việc 28,2% đơn vị được khảo sát cho biết đã có dự án hoặc kế hoạch triển khai ứng dụng thương mại điện tử. Phổ biến nhất là các kế hoạch xây dựng website, tham gia sàn giao dịch điện tử, nâng cấp hoặc tăng cường an ninh cho hệ thống TMĐT hiện hành, tin học hóa các quy trình kinh doanh từ trong nội bộ doanh nghiệp, v.v... 2.2.Tình hình ứng dụng thương mại điện tử trong giao nhận hàng hóa ở VN Sàn TMĐT hỗ trợ giao dịch doanh nghiệp với người tiêu dùng (B2C) và người tiêu dùng với người tiêu dùng (C2C) 107 Bảng doanh số bán háng trên sàn TMĐT B2C Phần lớn các sàn B2C hoạt động theo dạng cửa hàng trực tuyến kinh doanh tổng hợp nhiều mặt hàng, trong đó chủ yếu là các mặt hàng có độ tiêu chuẩn hoá cao như hàng điện tử, thiết bị điện, đồ gia dụng, sách báo, văn phòng phẩm, v.v... Với mô hình kinh doanh và chiến lược quảng bá bài bản, nhiều sàn thương mại điện tử B2C bắt đầu tạo nguồn doanh thu ổn định cho doanh nghiệp Các sàn thương mại điện tử theo mô hình C2C xuất hiện rầm rộ nhất trong hai năm 2004 và 2005, giai đoạn 2006-2007 số lượng sàn tăng chậm hơn nhưng chất lượng tốt hơn. Các sản phẩm được mua bán trên những sàn này tăng nhanh, các tiện ích và tính năng hỗ trợ đa dạng hơn, số người mua người bán cũng như lượng giao dịch thực hiện ngày càng tăng. Tuy giá trị các giao dịch không lớn, nhưng mô hình thương mại điện tử C2C có sức lan toả cao và góp phần đưa ứng dụng thương mại điện tử tới từng người dân, tạo thói quen mua bán hiện đại cho xã hội. 2.3. Đánh giá chung 2.3.1. Hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử Biêu đồ: Tương quan giữa đầu tư và doanh thu từ hoạt động ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp năm 2007 Tình hình đầu tư và doanh thu cho thấy từng phần của bức tranh ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp. Nếu lấy các mốc 5% và 15% làm biên độ chuẩn cho tỷ trọng đầu tư cũng như doanh thu liên quan đến thương mại điện tử của doanh nghiệp, biểu đồ trên sẽ cho thấy mối tương quan trái chiều giữa hai yếu tố. Trong khi phân bổ đầu tư có khuynh hướng lệch về cận dưới (50% doanh nghiệp dành dưới 5% tổng chi phí hoạt động thường niên cho các ứng dụng CNTT và TMĐT) thì mức đóng góp cho doanh thu mà những khoản đầu tư này mang về lại tập trung quanh cận trên (37% doanh nghiệp có doanh thu từ thương mại điện tử chiếm trên 15% tổng doanh thu của năm). Như vậy, tỷ lệ đầu tư và tỷ lệ doanh thu từ thương mại điện tử không nhất thiết có quan hệ thuận biến. Trong khi chỉ 14% doanh nghiệp có tỷ lệ đầu tư cho TMĐT chiếm trên 15% tổng chi phí, thì một con số lớn hơn rất nhiều (37%) cho biết có tỷ lệ doanh thu từ hoạt động bán hàng sử dụng các phương tiện điện tử chiếm trên 15% tổng doanh thu. Ngược lại, 50% doanh nghiệp có mức đầu tư thấp cho thương mại điện tử (dưới 5%) nhưng chỉ một nửa số này cho biết tỷ trọng doanh thu từ thương mại điện tử cũng thấp tương ứng. Như vậy, một nhóm khá lớn doanh nghiệp đã khai thác được các khoản đầu tư của mình để thu về hiệu quả cao hơn so với chi phí bỏ ra cho hoạt động ứng dụng thương mại điện tử. Mối tương quan giữa đầu tư với doanh thu thương mại điện tử như phân tích ở trên đã cho thấy hiệu suất doanh thu cao mà ứng dụng thương mại điện tử đem lại. Tuy nhiên, tỷ lệ đóng góp cho doanh thu mới chỉ là một trong những tác động của thương mại điện tử đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngoài yếu tố định lượng này, còn rất nhiều yếu tố định tính khác để đánh giá hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử. Bộ Công Thương đã tiến hành điều tra về đánh giá của doanh nghiệp đối với sáu tiêu chí tác động khác và kết quả điều tra cho các năm từ 2004 đến 2007 được trình bày ở bảng dưới đây. Bảng đánh giá của doanh nghiệp về các tác động của TMĐT tới hoạt động kinh doanh Các tác động Điểm bình quân * 2004 2005 2006 2007 Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng hiện có 2,90 3,23 3,03 2,90 Thu hút khách hàng mới 2,60 2,90 3,30 2,81 Xây dựng hình ảnh DN 3,20 3,22 2,23 2,87 Tăng doanh số 1,90 1,94 2,25 2,44 Tăng lợi nhuận & hiệu quả hoạt động 2,00 1,90 2,78 2,52 Giảm chi phí kinh doanh 2,67 2,46 Tăng khả năng cạnh tranh 2,89 2,44 * Tính trên thang điểm 4 Khi được yêu cầu cho điểm những tác động của ứng dụng thương mại điện tử, cụ thể là website, đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp theo thang điểm từ 0 đến 4, trong đó 4 là mức hiệu quả cao nhất, đa số doanh nghiệp cho điểm rất cao tác động “Xây dựng hình ảnh doanh nghiệp” và “Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng hiện có”. Việc hai tiêu chí này đứng đầu bảng xếp hạng trong nhiều năm cho thấy doanh nghiệp tiếp tục đề cao website như một công cụ xúc tiến thương mại hiệu quả. Những lợi ích khác mà ứng dụng thương mại điện tử đem lại như tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động, giảm chi phí kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh, v.v... của hai năm qua tăng mạnh so với giai đoạn 2005 trở về trước. Tuy nhiên, sự thay đổi không đáng kể của các lợi ích này giữa năm 2007 và 2006 cho thấy TMĐT chưa chuyển hẳn sang giai đoạn phát triển mới – giai đoạn mua bán, ký kết hợp đồng và thanh toán trực tuyến. 2.3.2. Trở ngại cho ứng dụng TMĐT Theo dõi nhận định của doanh nghiệp về các trở ngại cho ứng dụng thương mại điện tử qua kết quả khảo sát hàng năm, có thể thấy sự chuyển biến của từng yếu tố trong tương quan chung về môi trường phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam. Nếu trong những năm trước, vấn đề nhận thức xã hội luôn được coi là trở ngại hàng đầu đối với việc triển khai thương mại điện tử trên diện rộng, thì đến năm 2007 trở ngại này đã được xếp xuống vị trí thứ ba theo đánh giá của doanh nghiệp. Nổi lên vị trí đầu bảng trong danh sách các trở ngại là vấn đề an ninh an toàn giao dịch. Kết quả này phản ánh đúng thực trạng thời gian qua, khi hoạt động của các cơ quan, tổ chức xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng đã giúp nâng cao nhận thức toàn xã hội về thương mại điện tử, nhưng mặt khác việc đưa ứng dụng thương mại điện tử vào từng lĩnh vực của đời sống cũng nhanh chóng làm bộc lộ những nguy cơ tiềm ẩn về an toàn an ninh mà người tiêu dùng và doanh nghiệp chưa có kinh Bảng đánh giá của doanh nghiệp về các trở ngại cho ứng dụng thương mại điện tử nghiệm xử lý khi gặp phải. Trong khi đó, những vấn đề về an ninh an toàn của giao dịch trực tuyến, bảo vệ dữ liệu cá nhân, v.v... có thể sẽ nổi lên hàng đầu, tương tự như thực tiễn tại các nước có nền thương mại điện tử phát triển hơn. 2.3.2.1. Hạ tầng cơ sở về nhân lực. Bên cạnh việc phản ánh thực trạng môi trường ứng dụng thương mại điện tử, đánh giá của doanh nghiệp về các trở ngại đồng thời cũng cho thấy chuyển biến trong nhận thức đối với những vấn đề cần ưu tiên khi triển khai thương mại điện tử. Năm 2007 là năm thứ ba liên tiếp vấn đề thanh toán có mặt ở vị trí thứ2 trong danh sách các trở ngại, cho thấy mức độ quan tâm cũng như nhu cầu của doanh nghiệp về một hạ tầng thanh toán hiện đại phục vụ cho hoạt động thương mại điện tử. Với việc một loạt nhà cung cấp dịch vụ đi vào hoạt động trong năm2007, hi vọng vấn đề thanh toán điện tử sẽ không còn là trở ngại lớn đối với tiến trình phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam trong những năm tới. Thương mại trong khái niệm “thương mại điện tử” động chạm tới mọi con người, từ người tiêu thụ tới người sản xuất phân phối, tới các cơ quan Chính phủ, tới các nhà công nghệ và phát triển. áp dụng thương mại điện tử trong giao nhận hàng hóa tất yếu làm nảy sinh yêu cầu mọi nhân viên trong doanh nghiệp giao nhận phải quen thuộc và có khả năng thành thạo hoạt động trên mạng. Ngoài ra, các nhân viên này phải thường xuyên bắt kịp các công nghệ thông tin mới phát triển để phục vụ cho thương mại điện tử và các thông tin về kinh doanh giao nhận của các doanh nghiệp khác để từ đó rút ra những kinh nghiệm cho mình. Khi sử dụng Internet/Web, thì một yêu cầu tự nhiên nữa của kinh doanh trực tuyến là tất cả những nhân viên giao nhận tham gia đều phải giỏi Anh ngữ, ngôn ngữ chủ yếu được sử dụng trong thương mại nói chung, và thương mại điện tử qua mạng Internet nói riêng, vẫn là tiếng Anh. Đòi hỏi này của thương mại điện tử sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản hệ thống giáo dục và đào tạo cuả các quốc gia muốn tham gia đầy đủ vào hệ thống giao dịch thương mại điện tử toàn cầu nói chung và hoạt động kinh doanh giao nhận nói riêng trong tương lai. 2.3.2.2. Hệ thống thanh toán tài chính tự động Thương mại điện tử chỉ có thể thực hiện khi đã tồn tại một hệ thống thanh toán tài chính (financial payment) phát triển cho phép thực hiện thanh toán tự động. Như vậy cần phải xây dựng một hệ thống mạng thanh toán liên ngân hàng. Để đảm bảo an ninh, mạng liên ngân hàng là mạng riêng, không kết nối với Internet và không xây dựng trên chuẩn TCP/CP (giao thức chuẩn quốc tế). Với việc thiết lập một mạng nghiệp vụ tài chính ngân hàng toàn cầu đã cung cấp các dịch vụ ngân hàng trong đó thông tin trao đổi đã được chuẩn hóa như dịch vụ mở tín dụng thư, dịch vụ chuyển tiền. Ngoài ra, hệ thống thương mại điện tử cung cấp dịch vụ thanh toán cho Internet user (người sử dụng Internet) từ Internet thanh toán vào mạng riêng của ngân hàng. Hệ thống thương mại điện tử sẽ đóng vai trò như một cổng (Gateway) giữa Internet và mạng ngân hàng. Khi chưa có hệ thống này thì doanh nghiệp giao nhận chỉ ứng dụng được phần trao đổi thông tin, thanh toán vẫn phải kết thúc bằng các phương tiện thanh toán truyền thống, khi ấy hiệu quả của kinh doanh giao nhận trong thương mại điện tử bị giảm thấp và có thể không đủ để bù lại các chi phí trang bị công nghệ đã bỏ ra. Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp giao nhận phải có sự hội nhập và thiết lập một hệ thống thanh toán tài chính hoàn thiện trên nền tảng của thương mại điện tử. 2.3.2.3. Hạ tầng cơ sở về kinh tế và pháp lý Môi trường kinh tế, pháp lý của mỗi doanh nghiệp giao nhận phải hòa nhập được với môi trường kinh tế, pháp lý quốc gia và quốc tế bởi vì, ngay trong bản thân của nền kinh tế tri thức và thương mại điện tử mang tính toàn cầu hóa rất cao. Một số vấn đề sẽ bị thay đổi có tính đảo lộn so với truyền thống kinh doanh trước đây, thí dụ, đánh thuế trong thương mại điện tử áp dụng trong giao nhận hàng hóa như thế nào? Đánh thuế các dung liệu (hàng hóa phi vật thể: Âm nhạc, phần mềm, ...)? Những hàng hóa, dịch vụ truyền qua mạng mang tính không biên giới và không qua hải quan như vậy thì ta phải xây dựng tính pháp lý trong thương mại điện tử như thế nào? Tuy nhiên về mặt pháp lý, cần phải giải quyết được một số vấn đề: Thừa nhận tính pháp lý của giao dịch thương mại điện tử. Bảo vệ pháp lý đối với các hoạt động thương mại điện tử. Thừa nhận tính pháp lý của chữ ký điện tử, chữ ký số hóa. Xây dựng các thiết chế pháp lý, các cơ quan pháp lý thích hợp cho việc xác thực/chứng nhận hay chứng thực (Authentication/Certification) chữ ký điện tử và chữ ký số hóa. Vì những lý do tương tự như trên, giao nhận hàng hóa trong thương mại điện tử đang được các nước xem xét một cách chiến lược và thận trọng. 2.3.2.4. Hạ tầng về cơ sở công nghệ Thương mại điện tử không phải là một sáng kiến ngẫu hứng mà là hệ qủa tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hóa của công nghệ thông tin, mà trước hết là kỹ thuật máy tính. Vì thế chỉ có thể thực sự tiến hành thương mại điện tử có hiệu quả khi các doanh nghiệp kinh doanh giao nhận đã có một mạng lưới máy tính được nối mạng hoàn thiện. Hạ tầng cơ sở công nghệ không chỉ có nghĩa là tính hiện hữu (availability); mà còn hàm nghĩa có tính kinh tế sử dụng (affordability), nghĩa là chi phí trang bị các phương tiện công nghệ thông tin (đi._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6049.doc
Tài liệu liên quan