MỤC LỤC
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tài và phát triển của thị trường tài chính là một tất yếu khách quan. Với chức năng quan trọng là dẫn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, nó tác động trực tiếp đến hiệu quả đầu tư của cá nhân, của doanh nghiệp, đến hành vi tiêu dùng và tới động thái chung của nền kinh tế. Bởi vậy sự tồn tại của thị trường tài chính là một tất yếu gắn với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán
Trên thế giới thị trường chứng khoán đã hình t
115 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1532 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Áp dụng phương pháp trung bình - Phương sai trong hoạt động phân tích và quản lý danh mục đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành từ rất lâu và đến nay có sự phát triển mạnh mẽ. Nó đã được thiết lập ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường và có thể nói không một nước nào có nền kinh tế phát triển mà không có sự hoat động của thị trường chứng khoán.
Nhận thức đươc tầm quan trọng của thị trường chứng khoán, Việt Nam đã chính thức đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động với sự khai trương của trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 20/7/2000. Tính đến nay thị trường chứng khoán của Việt Nam đã hình thành được 9 năm, đã có những bước tiến nhất định. Tuy vậy so với những nước phát triển, thị trường chứng khoán của VN là một thị trường non trẻ, thiếu kinh nghiêm bởi vậy sự phát triển của thị trường chứng khoán là không ổn định .Minh chứng cho điều này là sự sụt giảm nhanh chóng của chỉ số Vnindex trong thời điểm cuối 2007 đến năm 2008, cùng với nó là các hoạt động trên thị trường chứng khoán không còn mạnh mẽ: giá của các cổ phiếu đồng loạt giảm mạnh, các nhà đầu tư thua lỗ… Điều này đã đặt ra một câu hỏi cho hoạt động phân tích và quản lý danh mục đầu tư. Đây cũng là lý do em nghiên cứu vấn đề “Áp dụng phương pháp trung bình-phương sai trong hoạt động phân tích và quản lý danh mục đầu tư” trong chuyên đề thực tập của mình. Với việc đưa mô hình toán vào hoạt động phân tích và quản lý danh mục đầu tư em hy vọng phần nào có được những đánh giá chính xác trong hoạt động quản lý danh mục đầu tư.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của TS. Trần Trọng Nguyên đã hướng dẫn em trong quá trình xây dựng chuyên đề thực tập, các cô chú, anh chị trong phòng Môi giới, Công ty Cổ Phần Chứng khoán An Thành đã tạo điều kiện cho em trong việc tìm lài liệu và có những đóng ý cho em trong quá trình thực hiện chuyên đề thực tập của mình.
Chuyên đề của em gồm ba phần chia thành ba chương với nội dung như sau:
Chương I: Tìm hiểu chung về thị trường chứng khoán và hoạt động phân tích đầu tư chứng khoán
Chương II: Một số mô hình và phương pháp sử dụng trong hoạt động phân tích và quản lý danh mục đầu tư trên thị trường chứng khoán
Chương III: Áp dụng phương pháp trung bình - phương sai lập danh mục tối ưu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Trong quá trình viết chuyên đề do còn thiếu kinh nghiệm nên em không tránh khỏi những sai sót. Em mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn để em hoàn thiện tốt chuyên đề thực tập của mình.
Chương I : Tìm hiểu chung về thị trường chứng khoán và hoạt động phân tích đầu tư chứng khoán
I. Thị trường chứng khoán
1. Thị trường tài chính
1.1. Khái niệm thị trường tài chính
Nhu cầu về vốn để tiến hành đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát hành từ các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Trong đó, thường xuyên xảy ra tình huống: những nhà đầu tư có khả năng đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn thì lại không có cơ hội đầu tư hoặc không biết đầu tư. Từ đó hình thành một cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế được chuyển đổi và thực hiện trong khuôn khổ một thị trường đó là thị trường tài chính. Trên thị trường tài chính, người thiếu vồn huy động vốn bằng cách phát hành ra các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu…. Những người có vốn thay vì đầu tư trực tiếp máy móc thiết bị, nhà xưởng để sản xuất hàng hóa hay cung cấp dịch vụ, họ sẽ mua các công cụ tài chính mà người thiếu vốn phát hành.
Như vậy thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ những người thừa vốn đến những người thiếu vốn. Thị trường tài chính cũng có thể hiểu là nơi phát hành, mua bán, trao đổi và chuyển nhượng các công cụ tài chính theo quy tắc, luật lệ đã được ấn định.
1.2. Chức năng của thị trường tài chính
+ Huy động và dẫn vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn.
Sự dịch chuyển vốn được thực hiện thông qua hai con đường, tài trợ trực tiếp và tài trợ gián tiếp.
Trong tài trợ trực tiếp, những người cần vốn huy động vốn trực tiếp từ những người có vốn bằng cách bán các chứng khoán cho họ.
Trong tài trợ gián tiếp, vốn được tài trợ thông qua các trung gian tài chính. Đó có thể là ngân hàng, các tổ chức bảo hiểm, các tổ chức tín dụng, và các trung gian khác.
Thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong việc tích tụ, tập trung, và phân phối vốn trong nền kinh tế, trên cơ sở đó làm tăng năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
+ Xác định giá cả các tài sản tài chính.
Thông qua quan hệ giữa người mua và người bán trên thị trường tài chính giá cả tài chính được xác định, hay chính là lợi tức yêu cầu của các tài sản tài chính được xác định.
+ Tạo tính thanh khoản cho tài sản tài chính.
Thị trường tài chính cung cấp một cơ chế để các nhà đầu tư có thể trao đổi, mua bán các tài sản tài chính của mình trên thị trường thứ cấp. Do đó thị trường tài chính tao ra tính thanh khoản cho các tài sản tài chính. Nếu thiếu tính thanh khoản, nhà đầu tư phải giữ lại các tài sản tài chính cho đến khi đáo hạn hoặc công ty bị giải thể hay phải thanh lý tài sản.
+ Giảm thiểu chi phí cho các chủ thể tham gia trên thị trường.
Để có thể tiến hành giao dịch, người mua và người bán phải mất chi phí tìm kiếm đối tác, tìm kiếm thông tin cho quá trình trước, trong và sau khi ra quyết định đầu tư. Nhờ tính tập trung mà thông tin được cung cấp nhanh chóng, đầy đủ và chính xác trên thị trường tài chính. Vì thế, nâng cao hiệu quả trên thị trường tài chính và toàn nền kinh tế.
+ Khuyến khích cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh doanh.
Thị trường tài chính là thị trường định giá các công cụ tài chính. Vì vậy, sẽ khuyến khích quá trình phân phối vốn một cách có hiệu quả, góp phần tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Từ đó đặt ra cho các doanh nghiệp phải tăng hiêu quả kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển
+ Ổn định và điều hòa lưu thông tiền tệ.
Chức năng được thể hiện thông qua việc mua bán trái phiếu, tín phiếu và các giấy tờ có giá khác của Ngân hàng Trung ương trên thị trường tài chính và thị trường tiền tệ. Thông qua đó, Chính phủ có thể huy động vốn để bù đắp thâm hụt ngân sách và kiểm soát lạm phát.... Ngân hàng Trung ương cũng có thể mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để điều chỉnh cung và cầu ngoại tệ giúp chính phủ điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
1.3. Cấu trúc của thị trường tài chính
1.3.1. Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần
Căn cứ vào phương thức huy động vốn ta chia thành thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần
Thị trường nợ là thị trường mà tại đó mua và bán các công cụ nợ. Thực chất là nhà phát hành đứng ra vay theo phương thức có hoàn trải cả lãi và gôc. Người cho vay không chịu trách nhiện nào về kết quả sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp nhà phát hành phải có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ theo cam kết với người cho vay. Các công cụ nợ có thời hạn xác định, có thể ngắn, trung hay dài hạn, như tín phiếu và trái phiếu
Thị trường vốn cổ phần là nơi mua bán các cổ phiếu, giấy xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông. Cổ đông là chủ sở hữu của công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần góp vốn của mình. Cổ đông có quyền yêu cầu với lợi nhuận sau thuế của công ty cũng như với tài sản của công ty. Cổ phiếu là vô thời hạn và người chủ sở hữu chỉ có thể lấy lại tiền bằng cách bán lại cổ phiếu hoặc khi công ty tuyên bố phá sản
1.3.2. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn
Căn cứ vào thời hạn luân chuyển vốn, chia thị trường tài chính thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn ( thời gian đáo hạn dưới một năm). Trên thị trường tiền tệ tài sản tài chính có thời gian đáo hạn ngắn nên có tính lỏng cao, độ rủi ro thấp và ổn định. Thị trường tiền tệ bao gồm: thị trường liên ngân hàng, thị trường tín dụng, thị trường ngoại hối.
Thị trường vốn là nơi mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn ( gồm các công cụ nợ dài hạn và cổ phiếu), thị trường chứng khoán là đặc trưng của thị trường vốn.
1.3.3. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Căn cứ vào tính chất của việc phát hành các công cụ trên thị trường tài chính, chia thị trường tài chính thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp hay thị trường phát hành là nơi công cụ tài chính được mua bán lần đầu tiên.
Thị trường thứ cấp là thị trường giao dịch các công cụ tài chính đã được phát hành trên thị trường sơ cấp
Thị trường thứ cấp hoạt động trên phạm vi rộng và với tổng mức lưu chuyển vốn lớn hơn rất nhiều so với thị trường sơ cấp. Việc mua bán các tài sản trên thị trường này không làm thay đổi nguồn vốn của tổ chức phát hành, nó chỉ là quá trình chuyển đổi vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác, hay chỉ là hoạt động mua bán, trao đổi “ quyền sở hữu công cụ tài chính”. Thị trường thứ cấp giúp các công cụ tài chính có tính lỏng và khả năng sinh lời cao
1.3.4. Mối quan hệ giữa các thị trường bộ phận cấu thành thị trường tài chính
Các bộ phận của thị trường tài chính có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời. Mối quan hệ của chúng được hình thành thông qua các luồng chu chuyển vốn giữa các bộ phận, biến động của thị trường này tạo luồng chu chuyển vốn, từ đó tác động đến quan hệ cung cầu làm thay đổi chỉ số phản ánh hoạt động của thị trường khác
Về mặt thời gian, thị trường tiền tệ xuất hiện trước thị trường vốn, nhưng chúng đều là mắt xích trong một dây chuyền hoàn chỉnh
Mối quan hệ giữa các thị trường bộ phận thông qua công cụ lãi suất và được phản ánh bởi sự biến động của các chỉ số khác như giá chứng khoán, tỷ giá hối đoái. Sự thay đổi của lãi suất chắc chắn sẽ dẫn đến những biến động về giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái. Người ta có thể điều chỉnh trở lại các biến động này nhờ vào công cụ lãi suất. Có thể nói lạm phát và lãi suất là hai nhân tố vĩ mô ảnh hưởng tới giá cả trên thị trường chứng khoán, trong đó lãi suất là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng tới giá chứng khoán thông qua việc thay đổi lợi suất của nhà đầu tư. Khi thị trường tiền tệ có dấu hiệu thay đổi lãi suất chiết khấu và tái chiêt khấu từ NHTW, lập tức sẽ ảnh hưởng tới giá chứng khoán.
1.4. Công cụ trên thị trường tài chính
1.4.1. Công cụ trên thị trường tiền tệ
+ Tín phiếu kho bạc
Là công cụ vay nợ ngắn hạn của Chính phủ thường được phát hành với kỳ hạn 3, 6 và 12 tháng. Chúng được trả với mức lãi suất cố định và hoàn trả gốc khi đến hạn thanh toán. Hoặc chúng được thanh toán lãi do việc bán lần đầu có giảm giá, tức là, với giá thấp hơn so với khoản tiền đã định được thanh toán khi hết hạn.
Tín phiếu kho bạc có tính lỏng cao và an toàn nhất trong số các công cụ trên thị trường tiền tệ bởi vì chúng được đảm bảo bởi Chính phủ.
Tín phiếu kho bạc được nắm giữ chủ yếu bởi các Ngân hàng Thương mại. Ngoài ra cũng có một lượng nhỏ được nắm giữ bởi các hộ gia đình, các công ty hay các trung gian tài chính khác. Ngân hàng thương mại sử dụng tín phiếu như một khoản dự trữ cấp hai ngoài việc đầu tư nguồn vốn đóng băng.
Tín phiếu kho bạc còn được NHTW sử dụng để thực hiện nghiệp vụ thị trường mở nhằm điều chỉnh lượng tiền cung ra lưu thông và kiểm soát thị trường tiền tệ.
+ Giấy chứng nhận tiền gửi của ngân hàng
Là công cụ vay nợ do ngân hành thương mại bán cho người gửi tiền. Người gửi tiền được thanh toán lãi hàng năm theo một tỷ lệ nhất định, khi đến hạn thì hoàn trả gốc theo giá mua ban đầu. Đây là công cụ được hầu hết các ngân hàng thương mại phát hành. Các chứng chỉ tiền gửi có thể được mua bán trên thị trường thứ cấp.
+ Thương phiếu
Là công cụ vay nợ do các ngân hàng lớn và các công ty phát hành. Họ thông qua các trung gian tài chính bán thương phiếu cho các trung gian tài chính và các công ty khác để có thể vay vốn tức thời.
Thương phiếu có thể chia thành hai loại:
Hối phiếu:là giấy ghi nợ do người bán ký phát trao cho người mua, trong đó yêu cầu người mua đến hạn phải trả một số tiền nhất định cho người bán hoặc bất kỳ người nào thụ hưởng hối phiếu.
Lệnh phiếu: là giấy nhận nợ do người mua kí phát trao cho người bán, trong đó người mua cam kết trả một số tiền nhất định khi đến hạn thanh toán cho người thụ hưởng lệnh phiếu.
+ Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận
Là một hối phiếu ngân hàng, do công ty phát hành, được thanh toán trong tương lai và được ngân hàng đảm bảo với một khoản phí bằng cách ngân hàng đóng dấu “đã chấp nhận” lên hối phiếu. Công ty phát hành hối phiếu bắt buộc phải gửi một khoản tiền theo thỏa thuận vào tài khoản của mình trong ngân hàng đủ để trả cho hối phiếu. nếu công ty không có khả năng thanh toán theo số tiền đã quy định thì ngân hàng phải thanh toán theo số tiền đã ghi trên hối phiếu cho người thụ hưởng.
Các hối phiếu này thường được mua đi bán lại trên thị trường thứ cấp, nó có tác dụng như tín phiếu kho bạc. Ngoài ra người thụ hưởng có thể chiết khấu lại để thu tiền trước. Hối phiếu ngân hàng có lãi suất thấp và độ an toàn cao.
1.4.2. Công cụ trên thị trường vốn.
Các công cụ trên thị trường vốn có thời gian đáo hạn dài thậm trí vô hạn vì vậy mức độ biến động giá mạnh hơn, tính thanh khoản kém, nhưng lợi suất cao hơn.
+ Cổ phiếu: Là giấy chứng nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp với thu nhập ròng và tài sản của công ty cổ phần.
Cổ phiếu chia thành hai loại:
Cổ phiếu thông thường hay cổ phiếu phổ thông là cổ phiếu có thu nhập không cố định, cổ tức biến động tùy theo sự biến động lợi nhuật của công ty. Tuy nhiên, thị giá của cổ phiếu nhạy cảm trên thị trường, ngoài lợi nhuận của công ty nó còn phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố khác như: môi trường kinh tế, thay đổi lãi suất, quy luật cung cầu
Cổ phiếu ưu đãi: là cổ phiếu có quyền được nhận thu nhập cố định theo một tỷ lệ lãi suất nhất định, không phụ thuộc vào lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, thị giá của cổ phiếu phụ thuộc vào thay đổi của lãi suất trái phiếu kho bạc và tình hình tài chinh của công ty
Việc đầu tư vào cổ phiếu không chỉ đơn giản là nhận cổ tức mà quan trọng hơn chính là kinh doanh chênh lệch giá cổ phiếu trên thị trường (lãi vốn). Cổ phiếu của công ty được mua nhiều chứng tỏ thị trường tin tưởng vào khả năng phát triển của công ty trong hiện tại và tương lai.
+ Các khoản tín dụng cầm cố
Là các khoản vay các cá nhân, công ty kinh doanh vay để đầu tư vào những công trình kiến trúc, nhà, đất đai và dùng chính tài sản này làm tài sản thế chấp cho món vay.
+ Các khoản tín dụng thương mại.
Là các khoản cho vay chung và dài hạn của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty tài chính cho người tiêu dùng hoặc các doanh nghiệp vay. Thông thường nó không được giao dịch trên thị trường thứ cấp nên có tính thanh khoản thấp.
+ Trái phiếu công ty.
Là giấy chứng nhận việc vay vốn của một chủ thể (người phát hành trái phiếu) với môt chủ thể khác (người sở hữu trái phiếu) . Nó quy định trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi của người phát hành cho người sở hữu khi đến thời gian đáo hạn
Trái phiếu công ty là một loại trái khoán dài hạn, do công ty phát hành để huy động vốn, có lãi suất cao và trong một số trường hợp có thể chuyển thành cổ phiếu. Trên thị trường vốn đây là công cụ được lưu hành rộng rãi.
+ Các loại chứng khoán chính phủ: là các công cụ vay nơ do Chính phủ phát hành như: Trái phiếu Chính phủ, Tín phiếu kho bạc, Công trái quốc gia.
2. Thị trường chứng khoán
2.1 Khái niệm thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán.
Chứng khoán là các giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép người sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành
Giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra trên thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp, tại sở giao dịch, thị trường chứng khoán phi tập trung, thị trường giao ngay hay thị trường kì hạn. Thực chất là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Bản chất thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ cung cầu của vốn đầu tư, mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của thị trường sản xuất và lưu thông hàng hóa.
2.2. Vị trí và cấu trúc thị trường chứng khoán.
2.2.1. Vị trí của thị trường chứng khoán trong thị trường tài chính
Thị trường chứng khoán là hình ảnh đặc trưng của thị trường vốn. Trên thị trường chứng khoán giao dịch hai loại công cụ tài chính: công cụ tài chính trên thị trường vốn và công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ
Thị trường chứng khoán là hạt nhận trung tâm của thị trường tài chính. Tại đó diễn ra quá trình mua bán, phát hành các công cụ Nợ và công cụ Vốn (công cụ sở hữu)
2.2.2. Cấu trúc của thị trường chứng khoán.
Ta đưa ra ba cách phân loại: theo hàng hóa, theo hình thức tổ chức của thị trường và theo quá trình luân chuyển vốn.
+ Phân loại theo hàng hóa: chia thị trường chứng khoán thành thị trường trài phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các công cụ dẫn suất.
Thị trường trái phiếu là nơi giao dịch các trái phiếu, là các công cụ nợ thường có thời gian đáo hạn xác định, thường là trung và dài hạn. Đây thực chất là phương thức đi vay có hoàn trả cả lãi và gốc. Người cho vay không chiu bất cứ trách nhiệm gì về kết quả kinh doanh và sử dụng nguồn vốn của công ty
Thị trường cổ phiếu là nơi giao dịch các cổ phiếu. Cổ phiếu là giấy tờ xác nhận đóng góp của cổ đông là chủ sở hữu của công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình.
Thị trường các công cụ dẫn suất: là nơi các chứng khoán phái sinh được giao dịch đó là các hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn…
+ Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp: là thị trường phát hành chứng khoán hay là nơi mua bán các chứng khoán lần đầu tiên. Tại thị trường này giá cả các chứng khoán là giá phát hành. Viêc bán chứng khoán trên thị trường này làm tăng vốn cho nhà phát hành.
Thị trường thứ cấp là nơi mua bán, trao đổi các chứng khoán đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội
Thị trường sơ cấp làm tăng tính lỏng cho các chứng khoán. Các nhà đầu tư dễ dàng sàng lọc các chứng khoán ưa thích, tách biệt hoạt động quản lý và sở hữu. Ngoài ra nó giúp các chứng khoán dễ dàng chuyển đổi thời gian đáo hạn từ ngắn sang trung, dài hạn. Thị trường thứ cấp được xem là thị trường định giá công ty, thông qua việc định giá thị trường thứ cấp xác định được chi phí cho các mức độ rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư và vốn sẽ được đưa đến nơi đem lại khả năng sinh lời tốt nhất.
+ Phân loại theo hình thức tổ chức thị trường: chia thành sở giao dịch và thị trường chứng khoán phi tập trung
Sở giao dịch chứng khoán: tại đây thường mua bán trao đổi các chứng khoán của các công ty lớn. Sở giao dịch chứng khoán được sự quản lý của Uỷ ban chứng khoán quốc gia, các giao dịch chịu sự điều tiết của luật chứng khoán và thị trường chứng khoán, các giao dịch thường được diễn ra tại một địa điểm nhât định
Thị trường chứng khoan phi tập trung, tại đây không có địa điểm giao dịch cụ thể, giao dịch có thể diễn ra tại quầy, qua điện thoại… Đây là thị trường giao dịch của các nhà buôn, những người tạo lập thị trường, khối lượng giao dịch lớn hơn nhiều so với ở các sở giao dịch.
+ Ngoài ra còn có thị trường thứ ba dành cho các chứng khoán không đủ điều kiện giao dịch trên thị trường tập trung và thị trường OTC. Ta cũng có thể chia thành thị trường mở, thị trường đàm phán, thị trường giao ngay và thị trường kỳ hạn.
2.3. Các chủ thể trên thị trường chứng khoán
2.3.1. Chủ thể phát hành.
Chủ thể phát hành là người cung cấp chứng khoán, gồm: Chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức khác như: các Qũy đầu tư, tổ chức tài chính trung gian.
Chính phủ và chính quyền địa phương phát hành: Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu công trình, Tín phiếu kho bạc
Công ty phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty
Các tổ chức tài chính trung gian là các chủ thể phát hành trái phiếu, chứng chỉ hưởng thụ
2.3.2. Nhà đầu tư.
+ Nhà đầu tư cá nhân là các hộ gia đình, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường với mục đích kiếm lời
+ Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Đại diện là các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hôi khác.
2.3.3. Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán
+ Cơ quan quản lý và giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán: hình thành nhiều mô hình tổ chức hoạt động khác nhau. Có nước do các tổ chức tự quản thành lập, có nước thuộc sự quản lý của Chính phủ, có nước là sự kết hợp của cả hai. Tại Việt Nam cơ quan quản lý và giám sát thị trường chứng khoán là Uỷ ban chứng khoán nhà nước, là môt cơ quan thuộc Chính phủ.
+ Sở giao dịch chứng khoán: thực hiện vận hành thị trường chứng khoán thông qua bộ máy tổ chức và hệ thống các quy định, văn bản pháp luật về giao dịch chứng khoán trên cơ sở phù hợp với pháp luật và Uỷ ban chứng khoán.
+ Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán: là tổ chức tự quản của các công ty chứng khoán và môt số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán tự thành lập để bảo vệ lợi ích các thành viên và các nhà đầu tư.
+ Tổ chức lưu kí thanh toán bù trừ chứng khoán: là tổ chức nhận lưu trữ và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ trong các giao dịch chứng khoán. Các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán đáp ứng đủ điều kiện của Uỷ ban chứng khoán sẽ được thực hiện chức năng này
+ Các tổ chức hỗ trợ: là tổ chức khuyến khích mở rộng và tăng trưởng hoạt động của thị trường chứng khoán thông qua hoạt động cho vay để mua chứng khoán, hay cho vay chứng khoán để thực hiện giao dịch. Môt số quôc gia không cho phép thành lập tổ chức này.
+ Các công ty đánh giá hệ số tin nhiệm: là các công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toan khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn của tổ chức phát hành theo đúng cam kết
II. Chứng khoán và phân loại chứng khoán
1. Khái niệm chứng khoán
Chứng khoán là các giấy tờ có giá và có khả năng chuyển nhượng, xác định số vốn đầu tư ( tư bản đầu tư). Xác định quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ hợp pháp, bao gồm các điều kiện về thu nhập và tài sản trong môt thời gian nào đó
Chứng khoán có các đặc điểm cơ bản:
+ Tính thanh khoản (tính lỏng): tính thanh khoản là khả năng chuyển thành tiền mặt. Tính thanh khoản càng cao thì khả năng chuyển nhượng càng cao
+ Tính rủi ro: chứng khoán khác nhau có độ rủi ro khác nhau. Chứng khoán chịu hai loại rủi ro: rủi ro hệ thống là rủi ro chung mọi chứng khoán cùng chịu như nhau, do các nguyên nhân kinh tế chung như lạm phát, suy thoái… gây ra và rủi ro phi hệ thống, rủi ro này khác nhau ở các chứng khoán khác nhau, thường xuất phát từ các tổ chức phát hành.
+ Chứng khoán là một loại tài sản sinh lời. Khi sở hữu nó người ta mong muốn thu được một thu nhập lớn hơn trong tương lai. Nó được đảm bảo bằng việc trả cổ tức và sự tăng giá cổ phiếu. Lợi tức và rủi ro luôn có sự đánh đổi với nhau.
2. Phân loại chứng khoán
+ Phân loại chứng khoán theo tính chất.
Chứng khoán vốn: Là chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu phần vốn góp hợp pháp khác đối với tổ chức phát hành
Đại diện cho chứng khoán vốn là cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư chưa có định nghĩa
Cổ phiếu: là một chứng khoán vốn được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ , xác nhận quyền và lợi ích sở hữu hợp pháp đối với tài sản hoặc vốn của công ty cổ phần. Là công cụ tài chính có thời gian đáo hạn vô hạn. Nhà đầu tư tham gia mua cổ phiếu trở thành các cổ đông của công ty.
Chứng khoán nợ: Là chứng khoán quy định nghĩa vụ của ngươi phát hành (người đi vay) phải trả cho người đứng tên sở hữu chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền nhất định bao gồm cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian cụ thể
Trái phiếu là một loại chứng khoán nợ
Đặc trưng cơ bản của trái phiếu:
Mệnh giá của trái phiếu là số tiền ghi trên bề mặt trái phiếu, đến thời điểm đáo hạn tổ chức phát hành phải thanh toan cho người sở hữu trái phiếu khoản tiền bằng mệnh giá
Lãi suất cuống phiếu là lãi suất mà tổ chức phát hành phải trả cho chủ sở hứu trái phiếu khi đến hạn thanh toán. Lãi suất nhân với mệnh giá cho ta lãi suất cuống phiếu. Thời gian đáo hạn: là thời gian mà tổ chức phát hành thu hồi trái phiếu và hoàn trả cả gốc và lãi cho chủ sở hữu trái phiếu. Trái phiếu thường có thời gian đáo hạn dài và có biến động gía lớn
Chứng khoán phái sinh
Chứng khoán phái sinh là các công cụ tài chính có nguồn gốc từ chứng khoán và có quan hệ chặt chẽ với các chứng khoán gốc, gồm:
Quyền mua trước hay còn gọi là đặc quyền mua: là một quyền ưu đãi được gắn với một cổ phiếu đang lưu hành, do công ty phát hành ra cổ phiếu đó để huy động thêm vốn cổ phần. Cho phép những người sử dụng cổ phiếu đang lưu hành được phép mua một số nhất định cổ phiếu trong đợt phát hành mới với mức giá thấp hơn mức giá chào bán trong một thời gian nhất định. Các quyền này có thể chuyển nhượng giữa các cổ đông.
Chứng khế là bảo chứng phiếu được phát hành cùng với cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu cho phép người sở hữu có quyền mua một số lượng cổ phiếu nhất định với mức giá xác định trong một khoảng thời gian nhất định. Quyền này thường được hình thành khi công ty tổ chức lại nhằm khuyến khích các nhà đầu tư mua cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu trong điều kiện không thuận lợi.
Hợp đồng kỳ hạn: là thỏa thuận giữa người mua và bán thực hiện giao dịch hàng hóa ở một thời điểm chắc chắn trong tương lai với khối lượng và mức giá xác định. Hợp đồng kỳ hạn không trao đổi trên thị trường, không được định giá hàng ngày. Hợp đông kỳ hạn không mất phí. Các nhà đầu tư sử dụng nhằm mục đích đầu cơ và bảo hộ.
Hợp đồng tương lai là thỏa thuận mua hoặc bán một tài sản vào một thời điểm chắc chắn trong tương lai với một mức giá xác định.
Hợp đồng quyền chọn là hợp đồng cho phép người nắm giữ được quyền mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng hàng hóa cơ sở nhất định tại một mức giá xác định và trong một thời gian nhất định.
Các hàng hóa cơ sở trong các chứng khoán phái sinh là: cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, tiền hay hợp đồng tương lai.
+ Phân loại chứng khoán theo khả năng chuyển nhượng
Chứng khoán vô danh ( giấy xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ không ghi tên chủ sở hữu). Loại chứng khoán này dễ dàng chuyển nhượng, không cần những thủ tục xác nhận của công ty hoặc cơ quan công chứng.
Chứng khoán ghi danh (giấy xác nhận quyền đòi nợ hoặc quyền sở hữu có ghi tên chủ sở hữu). Loại chứng khoán này được phép chuyển nhượng nhưng phải tuân theo thủ tục pháp lý cụ thể. Nếu muốn chuyển nhượng người sở hữu phải chứng minh mình được phép và có quyền chuyển nhượng ( xác định chữ kí, chứng minh thư, tên trong danh sách cổ đông), như cổ phiếu ghi danh và trái phiếu ghi danh.
+ Phân loại chứng khoán theo thu nhập
Chứng khoán có thu nhập cố định: là chứng khoán có quyền yêu cầu thu nhập không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của nhà phát hành
Kỳ hạn của các chứng khoán có thu nhập cố định thường là rất khác nhau Tín phiếu có kỳ hạn ngắn (nhỏ hơn một năm), trái phiếu là trung và dài hạn (2-30 năm), cổ phiếu ưu đãi là vô thời hạn. Tuy nhiên kỳ hạn này có thể thay đổi trong quá trình chuộc lại của nhà phát hành. Về theo đối tượng phát hành ta có thể phân chia chứng khoán có thu nhập cố định thành: Trái phiếu nhà nước, Trái phiếu địa phương, Trái phiếu công nghiệp (trái phiếu công ty), Trái phiếu ngân hàng và Tín phiếu quỹ tiết kiệm, Tín phiếu kho bạc.
Chứng khoán có thu nhập biến đổi: cổ phiếu thường đại diện cho chứng khoán có thu nhập biến đổi. Thu nhập do cổ phiếu mang lại gọi là cổ tức ( cổ phần), biến động theo kết quả kinh doanh của công ty. Một hình thức khác là phiếu tham gia hay chứng chỉ đầu tư. Khác với cổ phiếu thường là không có quyền giám sát hoạt động của công ty. Khi phát hành chứng chỉ đầu tư, công ty có thể huy động được vốn mà không chịu rủi ro về việc chi trả cổ tức cố định như cổ phiếu ưu đãi hay trái phiếu, và không bị pha loãng quyền kiểm soát
Hình thức hỗn hộp của chứng khoán: các chứng khoán này vừa mang tính chất của chứng khoán có thu nhập cố định, vừa mang tính chát của chứng khoán có thu nhập biến đổi, như: trái phiếu công ty có khả năng chuyển đổi, trái phiếu có quyền mua cổ phiếu, trái phiếu có thu nhập bổ xung.
Trái phiếu công ty có khả năng chuyển đổi: là trái phiếu có mức lãi suất cố định, nhưng nó còn đảm bảo cho người sở hữu quyền đổi cổ phiếu thành trái phiếu trong một thời gian nhất định với các điều kiện xác đinh. Giá trị của quyền chuyển đổi không chỉ phu thuộc vào điều kiện chuyển đổi mà còn phu thuộc vào chất lượng của trái phiếu.
III. Phân tích và đẩu tư chứng khoán
1. Khái niệm phân tích và đầu tư chứng khoán:
Chứng khoán là các tài sản tài chính, đầu tư chứng khoán là đầu tư tài chính. Trong hoạt động đầu tư các nhà đầu tư mua một danh muc đa dạng các chứng khoán trên cả thị trường vốn và thị trường tiền tệ.
Phân tích chứng khoán là hoạt động quan trọng nhằm hỗ trợ cho việc ra quyết định đầu tư. Trong hoạt động đầu tư chứng khoán có hai phương pháp phân tích chủ yếu được sử dụng là phương pháp phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. Phân tích cơ bản giúp doanh nghiệp có thể lựa chọn kết cấu danh mục phù hợp. Phân tích kỹ thuật giúp các nhà quản lý có thể lựa chọn đươc thời điểm mua và bán chứng khoán tùy theo thị trường.
2. Phân loại đầu tư chứng khoán
Căn cứ vào loại công cụ đầu tư có thể chia thành đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, đầu tư vào cổ phiếu.
Căn cứ vào mục đích đầu tư, có thê phân thành đầu tư nhằm hưởng lợi và đầu tư nắm quyền kiểm soát, quản lý tổ chức phát hành.
Mục tiêu phân tích chứng khoán nhằm đầu tư đạt hiêu quả nhất sao cho nhà đầu tư có được lợi nhuận cao và đảm bảo an toàn.
3. Phân tích chứng khoán
3.1. Phân tích vĩ mô và thị trường chứng khoán
Nền kinh tế quốc tế có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình sản xuất cuả doanh nghiệp và cả quốc gia, có những tác động trực tiếp đến hoạt động của thị trường chứng khoán. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập của Việt Nam thì phân tích đầu tư không thể không xét đến tình hình kinh tế quốc tế, vì vậy các vấn đề như chính sách tiền tệ, chính sách tự do h._.óa tài chính, chính sách bảo hộ, hay cả tình hình chính trị cần được xem xét.
Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội trong nước cũng tác động mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán
+ Tình hình chính trị bao gồm những thay đổi về chính phủ và các hoạt động chính trị kinh tế của nhiều nước. Thay đổi chính trị làm cho nhiều quy định và sự kiểm soát của Chính phủ trong một số ngành được thắt chặt và số khác có thể được nới lỏng. Từ đó tác động đến kết quả kinh doanh của các ngành, các công ty và rất khó để khẳng định việc thắt chặt hay nới lỏng ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế.
Môi trường pháp luật là môi trường cơ bản tác động tới thị trường chứng khoán.
+ Các điều kiện kinh tế vĩ mô: các điều kiện kinh tế vĩ mô quyết định rủi ro chung của thị trường. Các rủi ro này tác động đến toàn bộ thị trường và đến tất cả các chứng khoán. Với các nhà đầu tư hay tổ chức phát hành thì đây là yếu tố khách quan
Các điều kiện kinh tế vĩ mô ta cần quan tâm trong phân tích chứng khoán là: tổng sản phẩm quốc dân GDP, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát, lãi suất, tỷ giá, mức thâm hụt ngân sách quốc gia, chính sách chính phủ trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Tuy nhiên, có ba nhân tố vĩ mô cơ bản nhất tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán, đó là tỷ giá hối đoái, lạm phát và lãi suât. Với tỷ giá hối đoái: khi nhà đầu tư nhận thấy đồng nội tệ có thể bị phá giá, nhà đầu tư sẽ giảm quyết định không đầu tư vào chứng khoán hoặc tìm cách thay thế bằng các tài sản ngoại tệ để phòng ngừa giá trị chứng khoán bị sụt giảm. Với tỷ lệ lạm phát và lãi suất: đây là hai nhân tố quan trọng gây ảnh hưởng lớn tới quyết định đầu tư. Lãi suất là nhân tố tác động tới giá chứng khoán và lãi suất yêu cầu của nhà đầu tư khi đầu tư vào chứng khoán. Mức lãi suất này bị ảnh hưởng bởi tình hình sản suất kinh doanh của các công ty và sức chi tiêu của nhân dân. Với cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh cao hơn, đồng thời sẽ có nhiều doanh nghiệp mới được thành lập. Vì vậy, sức cầu về vốn sẽ tăng và đẩy mức lãi suất vay vốn cao hơn. Với sức chi tiêu của nhân dân: nếu dự đoán nền kinh tế có triển vọng phát triển tốt thì nhu cầu tiêu dùng ngày hôm nay của mọi người dân tăng cao, thậm chí có thể vay để tiêu dùng và đẩy mức lãi suất tăng cao.
+ Dự đoán về tình hình kinh tế và xu hướng thị trường: biến động giá cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động thị trường, có khi xảy ra sau. Các nhà kinh tế cần có đánh giá về nền kinh tế để nhận biết được những đỉnh điểm chu kì kinh tế và thời điểm thích hợp tham gia hay rút lui thị trường chứng khoán
3.2. Phân tích ngành
Phân tích ngành gồm: phân tích chu kì sống, chu kì kinh doanh của ngành, xác định hệ số rủi ro, lợi suất kỳ vọng và các hệ số tài chính.
Các bước trong phân tích ngành:
Xác định hệ số rủi ro của ngành β thông qua mô hình CAPM
Phân tích chỉ số P/E của toàn ngành: xem xét mối quan hệ giữa P/E của ngành và P/E tổng thể của thị trường; xem xét các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến P/E của ngành như hệ số chi trả cổ tức, mức sinh lời yêu cầu, tỷ lệ tăng trưởng cổ tức
Ước tính thu nhập của cổ phiếu EPS thông qua phương pháp phân tích chu kì kinh doanh; phân tích đầu vào- đầu ra; phân tích mối quan hệ giữa ngành và nền kinh tế tổng thể
Tính giá trị cuối kỳ của chỉ số ngành bằng cách nhân hệ số P/E cuối kì tính toán được với ước tính thu nhập đầu cổ phiếu. Sau đó so sánh giá trị chỉ số cuối kỳ với giá trị đầu kỳ để ước tính lợi suất
r = ( giá trị chỉ số cuối kỳ- giá trị đầu kỳ+ cổ tức nhận trong kỳ)/giá trị đầu kỳ.
Ta so sánh lợi suất thực tế này với lợi suất kỳ vọng.
3.3. Phân tích công ty
3.3.1. Phân tích cơ bản
Phân tích cơ bản là tìm hiểu, phát hiện quy luật và diễn biến giá cổ phiếu thông qua việc tìm hiểu, phát hiện một số yếu tố đặc trưng cho hoạt động của công ty niêm yết chi phối luồng thu nhập tương lai của công ty. Các yếu tố này thường được đo bởi các chỉ tiêu tài chính cơ bản được công bố định kỳ
3.3.2. Phân tích kĩ thuật
Phân tích kỹ thuật ta sử dụng hai chỉ tiêu: giá và khối lượng giao dịch trong quá khứ của cổ phiếu, là một nguồn thông tin sử dụng trong phân tích thống kê nhằm phát hiện quy luật diễn biến giá cổ phiếu và dự đoán xu thế ngắn hạn
3.3.3. Phân tích báo cáo tài chính
Phân tích báo cáo tài chính vô cùng quan trọng nhằm mục đích: đánh giá khả năng sinh lời của tổ chức phát hành, đánh giá khả năng thanh toán nợ dài hạn của tổ chức phát hành; khả năng thanh khoản, tức là khả năng chi trả các khoản nợ đặc biêt là các khoản nợ ngắn hạn của tổ chức phát hành, đánh giá tiềm năng phát triển trong tương lai. Việc phân tích này cần tiến hành theo cả chiều dọc và chiều ngang. Tức là ta phải tính toán các tỷ lệ của doanh nghiệp trong từng thời kỳ để thấy được thực chất của việc tăng giảm, và so sánh giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành với nhau. Ta sử dụng chủ yếu bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
3.3.4. Phân tích rủi ro
Phân tích rủi ro là phân tích sự biến động của tổng thể các dòng thu nhập của công ty. Ta phân tích rủi ro này trên hai giác độ là: rủi ro từ hoạt động kinh doanh và rủi ro tài chính. Rủi ro từ hoạt động kinh doanh của công ty là mức biến động thu nhập phát sinh trong hoạt động kinh doanh của công ty, là tỷ lệ độ lệch chuẩn của thu nhập hoạt động và thu nhập hoạt động bình quân, ngoài ra ta cân phân tích biến động của doanh số bán hàng và đòn bẩy tài chính; rủi ro tài chính là rủi ro lợi nhuận của cổ đông do công ty vay nợ. Để phân tích rủi ro tài chính các doanh nghiệp sử dụng hai loại hệ số tài chính. Thứ nhất, các hệ số tài chính có trong bảng cân đối kế toán và thứ hai là nhóm hệ số về các dòng thu nhập hoặc dòng tiền để thanh toán các chi phí. Mục đích để chỉ ra khả năng thanh toán nợ ngắn hạn cũng như cơ cấu vốn và khả năng thanh toán nợ dài hạn.
4. Quản lý danh mục đầu tư
4.1 Danh mục đầu tư và đặc trưng của danh mục đầu tư.
4.1.1. Danh mục đầu tư và đặc trưng
Danh mục đầu tư gồm nhiều tài sản với các mức giá đã biết và mối quan hệ giữa các mức giá trong tài sản
+ Tài sản và đặc trưng của tài sản:
Xét một nhóm gồm N tài sản rủi ro được giao dịch trên thị trường
ri : lợi suất của tài sản i trong một chu kì đầu tư
: lợi suất kỳ vọng của tài sản i
: phương sai lợi suất của tài sản i
cov(ri, rk ) = : hiệp phương sai lợi suất giữa tài sản i và tài sản k
V = (i. k=1÷N): ma trận hiệp phương sai các tài sản
Ta có lợi suất của cac tài sản ri là độc lập tuyến tính, tức là không có bất cứ mối liên hệ thuận hay nghịch chiều nào, nếu tồn tại ta sẽ không đưa vào danh mục tài sản xét đên. Vì thế V là ma trận xác định dương và luôn tồn tại V-1, ma trận này cũng là ma trận xác định dương
r ≡ (r1, r2,…, rN): véc tơ lợi suất tài sản tính trong một chu kì
≡ (1, 2, …, N) : véc tơ lợi suất kì vọng của các tài sản
: là véc tơ cột i của ma trận V và cũng là véc tơ dòng của ma trận này vì V là ma trận đối xứng
r f: là lãi suất phi rủi ro cùng chu kì đầu tư với tài sản rủi ro
+ Danh mục và một số đặc trưng của danh mục:
Ta có danh mục P: (w1, w2, …, wN) là danh mục khả thi gồm N tài sản rủi ro, với :
w1, w2, …, wN: lần lượt là tỷ trọng của tài sản 1,2,…, N trong danh mục đầu tư P,
Lợi suất của danh mục P là: rp== (w, r) , w và r là các ma trận tỷ trọng và lợi suất tài sản i
Phương sai của danh mục P là: =w,Vw
Độ dao động của danh mục P: =
Hiệp phương sai giữa danh mục P và tài sản k:
Cov(rk, rp)= =
Hiệp phương sai giữa hai danh mục với P và Q:
Cov(rp, rQ)=cov(ri,rj), uj là tỷ trọng của tài sản j trong danh mục Q
4.1.2. Phân tích so sánh tĩnh với các đặc trưng của danh mục đầu tư
Xét danh mục P: (w1, w2, …, wN), nhà đầu tư không thể thay đổi lợi suất hay phương sai của danh mục đầu tư. Nhà đầu tư chỉ có thể tác động vào tỷ trọng w của các tài sản trong danh mục từ đó gián tiếp điều chỉnh lợi suất và phương sai của danh mục đầu tư. Với cách điều chỉnh này, nhà đầu tư không phải bỏ thêm chi phí chỉ thay đổi cơ cấu đầu tư, ta có so sánh tĩnh với các đặc trưng của danh mục đầu tư.
Giả sử nhà đầu tư tăng tỷ trọng đầu tư vào tài sản k một lượng ε >0 và giảm tỷ trọng đầu tư vào tài sản i với tỷ trọng ε khi đó có danh mục đầu tư mới:
P(ε) :( w1, w2, …, wi- ε , …, wk- ε , wN), các đặc trưng của tài sản thay đổi:
rp(ε) = rp+ ε(rk-rj)
+ ε2Var(ri-rk) + 2εCov(rp,(rk-ri))
Như vậy phân tích cận biên với việc thay đổi tỷ trọng đầu tư vào các tài sản trong danh mục ta có:
=() , =2Cov(rp, (rk-ri))=2(σkp- σki)
4.2 Quản lý danh mục đầu tư
4.2.1. Lý thuyết đa dạng hóa
Quá trình phân tán và tối thiểu hóa rủi ra là một hình thức đa dạng hóa. Theo đó nhà đầu tư nên đầu tư vào nhiều tài sản khác nhau sao cho tổng mức rủi ro là nhỏ nhất trên toàn danh mục đầu tư. Ta đã biết mỗi chứng khoán đều chứa rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ thống. Rủi ro hệ thống tác động lên các chứng khoán như nhau do cùng có nguyên nhân phát sinh, và rủi ro này không thể thay đổi với mỗi chứng khoán. Rủi ro không hệ thống xuất phát từ bản thân mỗi tổ chức phát hành, ta có thể tác động vào rủi ro này thông qua việc đa dạng hóa danh mục đầu tư. Có thể làm được như vậy là do khi hai hoặc nhiều chứng khoán tham gia tạo thành một danh mục đầu tư thì sẽ có những tương tác giữa hai chứng quán với nhau tạo thành một kết quả chung cho danh mục đầu tư. Độ rủi ro của danh mục cao hay thấp phu thuộc vào sự tương tác giữa các chứng khoán trong danh mục, càng đa dạng hóa danh mục thì rủi ro càng giảm. trong danh mục đầu tư cũng có rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ thống, nhưng ta có thể điều chỉnh làm giảm và thậm chí là làm cho rủi ro không hệ thống bằng 0, và chỉ còn lại rủi ro hệ thống. Thông thường khi xét đến một danh mục đầu tư, ta quan tâm nhiều đến rủi ro hệ thống của danh mục. Vì vậy quan tâm hơn đến rủi ro hệ thống của chứng khoán tham gia vào danh mục đầu tư. Hệ số β cho ta biết mức rủi ro hệ thống của môt tài sản cụ thể so vơi mức rủi ro hệ thống trung bình của tất cả các tài sản.
4.2.2 Lý thuyết thị trường hiệu quả
Thị trường hiệu quả là thị trường mà giá cả của chứng khoán đã phản ánh đầy đủ, tức thời tất cả các thông tin hiện có trên thị trường. Điều đó tức là giá cả chứng khoán thay đổi một cách ngẫu nhiên do ảnh hưởng của những thông tin không thể dự đoán được.
Có ba dạng thị trường hiệu quả là:
Trạng thái yếu của thị trường: giá cả chứng khoán phản ánh kịp thời và đầy đủ những thông tin trong quá khứ về giao dịch của thị trường như giá cả giao dịch, khối lượng, động thái, khi này các nhà phân tích kỹ thuật sẽ bị vô hiệu hóa
Hình thái trung bình: giá cả chứng khoán phản ánh tất cả những thông tin liên quan đến công ty được phân bố công khai bên cạnh các thông tin trong quá khứ. Khi tồn tại hình thái này thì nhà đầu tư không thể có lợi nhuận siêu ngạch nếu các phân tích chỉ dựa vào những thông tin trên thị trường
Hình thái mạnh: giá cả chứng khoán phản ánh đầy đủ tất cả các thông tin cần thiết có liên quan đến tổ chức phát hành kể cả các thông tin mật hay nội gián. Với hình thái này , giá cả chứng khoán sẽ thay đổi rất nhanh trước sự thay đổi thông tin trên thị trường. hình thái này tồn tại sẽ vô hiệu hóa mọi phương pháp phân tích
4.2.3. Quản lý danh mục đầu
Quản lý danh mục cổ phiếu thụ động là chiến lược mua, bán cổ phiếu theo một chỉ số chuẩn nào đó. Mục đích của chiến lược này không phải để tạo ra một danh mục vượt trội so với chỉ số chuẩn trên thị trường mà tạo ra danh mục cổ phiếu có số lượng và chủng loại gần giống với chỉ số chuẩn, nhằm đạt mức sinh lời dự kiến tương đương mức sinh lời chuẩn.
Quản lý danh mục cổ phiếu chủ động là chiến lược mua bán cổ phiếu nhằm thu được mức sinh lời dự kiên đầu tư cao hơn mức sinh lời của danh mục thụ động chuẩn hoặc thu được mức lợi nhuận trên mức trung bình chuẩn hoặc thu được mức lợi nhuận trên mức trung bình ứng với một mức rủi ro nhất định
Chương II: Phương pháp phân tích và quản lý danh mục đầu tư
I. Phương pháp phân tích trung bình- phương sai
1. Mục tiêu tối ưu lý tưởng
Lợi ích nhà đầu tư khi nắm giữ danh mục P là U(P). Do U(P) tăng theo lợi suất kỳ vọng và giảm theo phương sai của danh mục P nên để tối đa hóa lợi ích kỳ vọng nhà đầu tư chọn danh mục P :( w1, w2, …, wi- ε , …, wk- ε , wN) sao cho đồng thời đạt cực đại và là cực tiểu. Đây là mục tiêu lý tưởng của nhà đầu tư. Để đạt được mục tiêu lý tưởng nhà đầu tư phải giải bài toán tối ưu:
Max và Min
=, = w’Vw, =1
Nghiệm của bài toán này là nghiệm lý tưởng.
2. Mục tiêu tối ưu Pareto
Trong nhiều trường hợp bài toán không có nghiệm lý tưởng khi đó ta xét bài toán với dạng sau:
+ Cho trước phương sai , xác định danh mục P để có lợi suất kỳ vọng cao nhất
+ Hoặc cho trước lợi suất kỳ vọng , xác định danh mục P để có phương sai nhỏ nhất
Ta có hai bài toán cho nghiệm tối ưu Pareto
Bài toán A: Max
=, w’Vw=, =1
Bài toán B: Min
= w’Vw, =, =1
Ta giải hai bài toán sẽ cho nghiệm và các trị tối ưu là như nhau, tức hai bài toán tương đương theo nghĩa:
+ Nếu giải bài toán thứ nhất ta thu được nghiệm và trị tối ưu wA, (). Sau đó ta thay =( ) vào bài toán B và giải. Ta cũng thu được nghiệm và trị tối ưu như bài toán A
+ Và ngược lại ta cũng có điều tương tự
Như vậy nhà đầu tư với mục tiêu lựa chọn danh mục tối ưu Patero thì danh mục tối đa hóa lợi ích kỳ vọng cũng là danh mục tối thiểu hóa độ rủi ro với lợi suất kỳ vọng cho trước. Do vậy, ta chỉ cần xét một trong hai bài hoán là đủ. Ta sẽ xét bài toán tối thiểu hóa rủi ro vì các nhà đầu tư là được coi là những người e ngại rủi ro.
3. Phương pháp trung bình phương sai
3.1 Xét nhóm tài sản rủi ro
Xét bài toán: w’Vw→ Min
Giải bài toán trên ta sẽ luôn có nghiệm duy nhất vì đó là bài toán quy hoạch lối toàn phương và tập phương án là tập Compact
Đặt: [1] = , A ≡ [1]V-1[1], B ≡ V-1[1], C ≡ , D = AC-B2
Nghiệm bài toán: w()= g +h
Trong đó g = [C(V-1[1])-B(V-1 )] , h = [A(V-1)-B(V-1 [1])]
Trị tối ưu: Lợi suất kỳ vọng := ,
Phương sai :() =
3.2. Xét nhóm tài sản có chứa tài sản phi rủi ro
Bài toán: w’Vw→ Min
(w’, )+[1-( w’,[1])] rf = rp
Giải bài toán quy hoach lồi có tập phương án là tập compact ta thu được nghiêm duy nhất:
w()= V-1(-rf) , = (
Vậy, cho dù danh mục P có hay không có tài sản phi rủi ro thì bài toán tối ưu luôn có nghiệm duy nhất.
4. Phân tích mô hình trung bình- phương sai
4.1. Danh mục biên duyên và tập danh mục biên duyên
Với nhóm tài sản rủi ro, ta có nghiệm: w()= g +h
Lợi suất kỳ vọng: =
Phương sai : () =
Với nhóm tài sản có chứa tài sản rủi ro, ta có nghiệm
W()= V-1(-rf)
Lợi suất kỳ vọng : =
Phương sai := (
Khi (-), tập danh mục P() là tập danh mục biên duyên
Ta có công thức xác định tập danh mục P khi (-) như sau:
Với nhóm tài sản rủi ro: W() = P(0) + [P(1)-P(0)]
Trong đó = 0 là P(0) = g, danh mục có lợi suất kỳ vọng băng 0
= 1 là P(1) = g+h, danh muc biên duyên có lợi suất bằng 1
Khi lợi suât thay đổi ta giải bài toán tối ưu được nghiệm mới và thu được phương sai nhỏ nhất tương ứng với mức lợi suất đó. Tập hợp (,) minh họa danh mục biên duyên trên đồ thị:
Lợi suất kỳ vọng ()
Tập danh mục buyên duyên
Độ dao động ()
Tập danh mục biên duyên không chứa tài sản phi rủi ro
Với nhóm tài sản có chứa tài sản phi rủi ro:
Khi (-)Tập danh mục biên duyên P(): {w(), wO=[1-]}
Lợi suất của tập danh mục biên duyên: = rf+ σpnếu ≥ rf
= rf - σpnếu ≤ rf
Tập danh mục biên duyên khi danh mục P chứa tài sản phi rủi ro là hai đường thẳng có chung gốc tại mức lợi suất phi rủi ro. Minh họa sử dụng đồ thị ta có tập danh mục biên duyên P như hình sau:
Lợi suất kỳ vọng ()
≥ rf
rf
≤ rf
Độ dao động ()
4.2. Danh mục MVP:
Ta có danh mục biên duyên là tập hợp các danh mục P()
Danh mục MVP là danh mục biên duyên có phương sai nhỏ nhất
Với nhóm tài sản rủi ro, danh mục MVP là danh mục có:
= , =
Trên hình vẽ là điểm gần trục lợi suất nhất
Với danh mục có tài sản phi rủi ro, khi đầu tư vào danh mục P ta luôn hưởng mức lợi suất tối thiểu rf. Do đó lợi suất của danh mục biên duyên luôn luôn lớn hơn lãi suất phi rủi ro
4.3. Danh mục hiệu quả và biên hiệu quả
Danh mục hiệu quả có lợi suất kỳ vọng lớn hơn lợi suất kỳ vọng của danh muc MVP. Như vậy danh mục hiêu quả có lợi suất >
Tập hợp các danh mục hiệu quả cho ta một biên hiệu quả
Với danh mục chỉ có tài sản rủi ro biên hiêu quả là nửa đường cong nằm phía trên tính từ danh mục MVP
Với danh mục chứa tài sản phi rủi ro biên hiệu quả là nửa đường thẳng nằm trên
4.4. Danh mục tiếp tuyến:
Danh mục buyên khi có tài sản phi rủi ro: P( ):{w(),wO=[1-]}. Ta xét danh mục T:
wO =0, w =V-1(-[rf]), ta có thể dễ dàng thấy được T là danh mục hiêu quả . Ta cũng tính được phương sai và lợi suất của danh mục T:
,
Vì T là danh mục duy nhất vừa là danh mục hiệu quả khi xét nhóm tài sản rủi ro và phi rủi ro. Do đó T là tiếp điểm của hai biên hiệu quả. T là danh mục tiếp tuyến:
Lợi suất kỳ vọng ()
T
M VP
0 Độ dao động
II. Đường thị trường vốn, đường thị trường chứng khoán và mô hình chỉ số đơn
1. Đường thị trường vốn CML:
Nhà đầu tư khi tham gia đầu tư một danh mục tài sản với hàm lợi ích U(). Nhà đầu tư sẽ lựa chọn danh mục hiệu quả với hàm lợi ích là lớn nhất. Như vậy với nhà đầu tư, việc lựa chọn danh mục là giải quyết bài toán:
Max U()
= rf +
Ta dễ dàng thấy rằng danh mục tối ưu P* là đường mức của hàm lợi ích kỳ vọng U(P). Vì thế U(P) sẽ tiếp xúc với đường biên hiệu quả
Trong trường hợp này, biên hiệu quả cũng là đường cung danh mục tối ưu cho các nhà đầu tư lựa chọn. Với ý nghĩa này ta có đường “ thị trường vốn” là đường biên hiệu quả.
Nhà đầu tư lựa chọn trên đường thị trường vốn các danh mục đầu tư căn cứ vào lợi suất , và phương sai của danh mục P
Ta có đường CML:
Mô hình CML biểu diễn mức lợi suất kỳ vọng bằng mức lợi suất thị trường cộng thêm một lượng bù rủi ro. Ta có thể xem là giá của một đơn vị rủi ro và là lượng rủi ro khi chọn P
Lợi suất kỳ vọng ()
CML
rf
Độ dao động
σp
2. Đường thị trường chứng khoán:
Ta có tỷ suất lợi nhuận- rủi ro của một danh mục
RRRi (P)= : =
Theo tính chất của danh mục tiếp tuyến ta có: =
Ta có phương trình sau xuất phát từ phương trình CML:
Trong đó , Q là danh mục bất kỳ, P là danh mục hiệu quả
Ta thấy danh mục Q bởi một tài sản i nào đó và danh mục P là danh mục tiếp tuyến T. Khi đó ta được phương trình:
Ta có thể viết lại:
Đây là phương trình đường “thị trường chứng khoán ” SML, biểu diễn mối quan hệ giữa lợi suất của tài sản với hệ số beta riêng của các tài sản đó ( beta đặc trung của mỗi loại tài sản)
Lợi suất tài sản
SML
rf
βi
Đường SML biểu diễn phần bù rủi ro của tài sản bằng phần bù rủi ro của thị trường nhân với hệ số beta riêng có của mỗi tài sản
3. Mô hình chỉ số đơn
Lợi suất của mỗi tài sản có mối liên hệ tuyến tính với lợi suất của danh mục tiếp tuyến T. Danh mục tiếp tuyến T gồm tất cả các tài sản thuộc nhóm tài sản rủi ro. Nếu ta xem xét tất cả các tài sản rủi ro trên thị trường ta có thể xem danh mục tiếp tuyến đại diện cho thị trường. Như vậy lợi suất của mỗi tài sản có mối quan hệ với lợi suất của thị trường. Trên cơ sở đó William Shapre đưa ra “ Mô hình chỉ số đơn”, đề cập đến mối quan hệ tuyến tính giữa lợi suất của tài sản và lợi suất của thị trường.
3.1. Các giả thiết mô hình
- Mô hình chỉ số đơn: ri = γi + βirI + εi
Trong đó: ri là lợi suất của cổ phiêu
rI là chỉ số thị trường ta sử dụng chỉ số vn index
- Giả thiết của mô hình :
Sự tăng giảm giá cổ phiếu do tác động các yếu tố ngấu nhiên ngoài thị trường sẽ bằng 0 : cov (εi)=0
Sự biến động ngẫu nhiên riêng có của tài sản này không liên quan đến biến động ngẫu nhiên riêng có của tài sản kia : cov(εi, εk) = 0
Sự biến động ngẫu nhiên riêng có của các tài sản không chịu tác động đến biến động của thị trường: cov(εi, rI)=0
γi: biểu thị phần lợi suất riêng có của tài sản không phụ thuôc vào lợi suất của thị trường
βi: hệ số beta riêng có của tài sản, nó thể hiện mức độ năng động của tài sản i. Nếu βi>1 chứng tỏ tài sản năng động, vì nó phản ứng mạnh mẽ trước những biến động của thị trường, và ngược lại βi<1 là tài sản thụ động
3.2. Phương pháp ước lượng mô hình
Ta ước lượng mô hình theo phương pháp bình phương nhỏ nhất cổ điển OLS. Ta cần kiểm tra giả thiết khi sử dụng phương pháp ước lượng này
Kì vọng của yếu tố ngẫu nhiên trong mô hình bằng 0: E(ui/xi) = 0
Phương sai của các yếu tố ngẫu nhiên bằng nhau và không thay đổi: Var(ui/xi) = σ2
Các biến lợi suất đã được định trước
Không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến
Sai số ngẫu nhiên phân phối chuẩn: u ~ N (0, σ2)
3.3. Kiểm định mô hình:
+ Tự tương quan: là sự tương quan giữa các thành phần theo thứ tự thời gian hoặc không gian E(ui, uj) ≠ 0. Hiện tượng tự quan có thể do quán tính. Chẳng hạn trong thời kì khôi phục kinh tế, tổng sản phẩm có xu hướng đi lên, giá trị của chuỗi quan sát ở sau cao hơn của các chuỗi ở trước. Hay do hiện tượng mạng nhện, như sản lượng sản phẩm của thời kì này phụ thuộc vào giá cả của thời kì trước.Hoặc do trễ như tiêu dùng thời kì này phụ thuộc vào tiêu dùng ở thời kì trước đó…
Việc tồn tại tự tương quan sẽ làm cho hệ số beta đưa ra không còn chính xác nhất nữa ( không là ước lượng tốt nhất), phương sai của ước lượng và phương sai của phần dư thấp hơn, các kiểm định T và F mất ý nghĩa, và R2 thường cao hơn thông thường dẫn tới các kết luận về mô hình thiếu chính xác
+ Phương sai sai số thay đổi: có thể do bản chất của mối liên hệ kinh tế như thu nhập tăng thì mức biến động kinh tế cũng tăng, do kĩ thuật thu thập số liệu càng được cải tiến thì các sai số càng giảm, do con người đọc được hành vi trong quá khứ như nếu đánh máy càng nhiều con người càng ít gặp phải các lỗi về sau, do quan sát ngoại lai nhu giá trị của một số biến cao hơn hoặc thấp hơn hẳn các biến còn lại…
Phương sai sai số thay đổi làm ước lượng OLS không còn hiệu quả nữa, ước lượng của phương sai của hệ số beta không còn chính xác và các kiểm định T và F không còn hiệu lực
+ Dạng hàm: dạng hàm không phù hợp dù mô hình có chạy tốt nhưng ta cũng không có được ứng dụng gì trong thực tế
+ U phân phối chuẩn: muốn sử dụng được các kiểm định liên quan đến T và F ta phải có U phân phối chuẩn.
4. Một số ứng dụng của mô hình chỉ số đơn
4.1. Phân tích rủi ro của tài sản và danh mục
+ Tổng rủi ro, rủi ro hệ thống và phi hệ thống:
Lợi suất của tài sản tuân theo mô hình Sim: : ri = γi + βrI + εi
Dễ thấy : ρi2 = βi2ρI2 + ρ2εi
Trong đó: ρi2 là tổng rủi ro của cổ phiếu
βi2ρI2 là rủi ro hệ thống của cổ phiếu
ρ2εi là rủi ro phi hệ thống của cổ phiếu
Dựa vào mô hình Sim ta hoàn toàn tính toán được các rủi ro trên:
Đô lệch của lợi suất cổ phiếu ρi là độ lệch của biến phụ thuộc S.D. Dependent
Hệ số beta là hệ số gắn với chuỗi lợi suất của cổ phiếu vn-index
Độ rủi ro riêng có của mỗi cổ phiếu là sai lệch của mô hình hồi quy ta có thê sử dụng ước lượng = RSS/ (n-2), trong đó n là số quan sát sử dụng trong mô hình và RSS ta thu đươc trong kết quả ước lượng.
4.2. Ước lượng ma trận hiệp phương sai của lợi suất các tài sản
Lợi suất tài sản tuân theo mô hình Sim: ri = γi + βrI + εi
Xét hai tài sản bất kỳ j,k: rj = γj + βjrI + εj, rk = γk + βkrI + εk.
= Cov(rj, rk)= Cov(γj + βjrI + εj, γk + βkrI + εk) = βjβk
ρk2 = βk2ρI2 + ρ2εk
Như vậy ta có thể xác định được ma trận V=
4.3. Sử dụng thuật toán EGP để xác định danh mục tiếp tuyến
+ Gỉa thiết lợi suất tài sản tuân theo mô hình Sim, lợi suất tài sản i:
ri = γi + βirI + εi
+ Tiến hành hồi quy : rit = γi + βirIt + εit
Thông qua mô hình ta thu được các ươc lượng: βi, ρI2, ρ2εi,
+ Thuật toán EGP:
Tính tỷ số ERB
ERBi =
Xắp xếp các chỉ số ERBi theo thứ tự giảm dần với từng cổ phiếu
Tính Ci:
Ci = với i =
Xác định hệ số ngưỡng C*
So sánh ERBi với Ci để tìm số thứ tự k: C*= Ck với k sao cho: ERBi ≥ Ci với i > k
Danh mục tiếp tuyến gồm các tài sản xếp từ 1 đến k. Các tài sản từ (k+1) trở đi sẽ không có mặt trong danh mục
Tính tỷ trọng tài sản trong danh mục tiếp tuyến:
Tính zi : zi =
Tính tỷ trọng wi =
Ta áp dụng thuật toán trong trường hợp cấm bán khống tài sản. Tuy nhiên, nếu cho phép bán khống tài sản, mà tính ra hệ số beta vẫn dương, thì ta vẫn có thể áp dụng thuật toán.
III. Một số chỉ tiêu đánh giá việc thực thi danh mục
1. Tỷ suất lợi nhuận - rủi ro
Lợi suất cận biên của danh mục tối ưu:
Rủi ro biên của danh mục:
Tỷ suất lợi nhuận – rủi ro biên của danh mục:
RRRk (P)= : =
Từ ý nghĩa của lợi nhuận, rủi ro ta thấy nếu tài sản k có RRRk>1 thì khi điều chỉnh tăng vào tài sản k nhà đầu tư có lợi
2. Chỉ số Sharpe:
Chỉ số Shapre được tính theo công thức:
Nếu ta xây dựng danh mục đối chứng B thì tính SB . Nếu danh mục P thực thi tốt thì > SB, Thông thường , , được tính trung bình cộng của 20 quý cuối
3. Chỉ số Treynor:
Công thức tính chỉ số Traynor: TP =
Ta tính TB, so sánh hai kết quả TP> TB thì danh mục thực thi tốt
4. Hệ số α-Jensen
Xuất phát từ phương trình đường thị trường vốn:
Tính là lợi suất được tính toán theo lý thuyết thông qua lập mô hinh. Tính lợi suất r thực tế của danh mục: ta có thể tính lợi nhuận thực thông qua tính giá trị danh mục đầu kỳ và cuối kỳ cùng với khoản nhận được trong quá trình thực thi danh mục : r = ( giá trị danh mục P cuối kỳ- giá trị danh mục P đầu kỳ+ các khoản nhận được khi thực hiện danh mục)/ giá trị danh mục đầu kỳ
Hệ số α-Jensen: αP = r-
Nếu αP>0 thì danh mục P thực thi tốt.
Chương III: Áp dụng phương pháp trung bình - phương sai lập danh mục tối ưu
I. Đánh giá và lựa chọn cổ phiếu đầu tư
Các nhà đầu tư lựa chọn danh mục cổ phiếu tùy theo những mục đích và khả năng đầu tư chủ quan khác nhau như quy mô vốn nhà đầu tư, chiến lược đầu tư ( dài hạn hay ngắn hạn), mức độ ưa thích rủi ro của nhà đầu tư; dựa vào những phân tích cơ bản như phân tích ngành, phân tích báo cáo tài chính; dựa vào phân tích kỹ thuật như xác định chu kỳ của thị trường chứng khoán…
Để lựa chọn10 cổ phiếu, ta sử dụng phân tích cơ bản với việc đánh giá một số chỉ tiêu tài chính cơ bản của các công ty
Thị giá Vốn (tỷ đồng)
AGF
BT6
SAM
CAN
HAP
Doanh thu thuần (tỷ đồng)
218.6
544.4
1,306.0
57.0
196.8
Lợi nhuận ròng (tỷ đồng)
2,079.60
844.18
1,296.39
417.73
413.84
P/E (Price Earning) (lần)
11.45
36.12
75.90
12.05
12.72
P/B (Price to Book) (lần)
18.52
15.07
17.53
4.73
2.88
PS (lần)
0.35
1.66
0.59
0.72
0.47
EPS (VND)
0.11
0.64
1.03
0.14
0.48
EBITDA/Doanh thu
0.918
3,284
1,175
2,411
4,062
ROA
8.3%
20.0%
-10.4%
14.3%
-22.3%
ROE
2.0%
5.6%
-3.3%
-7.7%
-8.7%
Vay dài hạn/ Tài sản (lần)
0.9%
11.0%
-3.4%
0.8%
-16.3%
0.03
0.13
0.00016
0.09
0.14
Thị giá Vốn (tỷ đồng)
LAF
SAV
TRI
REE
TMS
Doanh thu thuần (tỷ đồng)
67.3
175.9
56.6
2,376.6
239.3
Lợi nhuận ròng (tỷ đồng)
564.47
502.88
580.60
1,154.39
174.84
P/E (Price Earning) (lần)
4.00
13.98
144.99
153.83
27.38
P/B (Price to Book) (lần)
6.811
12.61
0.39
15.39
6.72
PS (lần)
0.75
0.60
9.62
1.14
1.22
EPS (VND)
0.12
0.36
0.10
2.05
1.05
EBITDA/Doanh thu
0.690
1,467
19,038
1,891
4,313
ROA
10.6%
17.0%
-37.9%
-28.6%
69.3%
ROE
1.8%
2.5%
-34.2%
-5.9%
12.1%
Vay dài hạn/ Tài sản (lần)
4.4%
4.9%
2441.2%
-7.4%
14.0%
0.0016
0.02
0.19
0.01
0.028724
Sử dụng phần mềm Stoxpro ta lọc được 10 cổ phiếu thỏa mãn một số chỉ tiêu tài chính theo giới hạn lớn nhất và nhỏ nhất:
min
max
Thị giá Vốn
56.6
2376.6
Doanh thu thuần
174.84
2079.6
Lợi nhuận ròng
4
153.83
P/E (Price Earning)
0.39
18.52
P/B (Price to Book)
0.35
9.62
PS
0.1
2.05
EPS
0.69
19038
EBITDA/Doanh thu
-37.90%
69.30%
ROA
-34.20%
12.10%
ROE
-16.30%
2441.20%
Vay dài hạn/ Tài sản
0.000157
0.18786736
Ta có thể tìm hiểu thêm các chỉ tiêu tài chính trong phần phụ lục
II. Danh muc cổ phiếu:
1. Dữ liệu sử dụng:
Dữ liều sử dụng là chuỗi lợi suất của 10 cổ phiếu được tính theo công thức
Trong đó St là giá cổ phiếu ở ngày t
Số quan sát 1153 quan sát tương ứng với 1153 phiên giao dịch từ ngày 23/10/2006 đến 29/12/ 2008
2. Thông tin các công ty:
Sử dụng 10 cổ phiếu đang niêm yết trên thị trường chứng khoán với mã cổ phiếu lần lượt là: AGF, BT6, SAM, CAN, HAP, LAF, SAV, REE, TMS, TRI.
+ Công ty Cổ Phần Xuất nhập khẩu thủy sản AGF
Các lĩnh vực hoạt động kinh doanh được cấp phép bao gồm: sản xuất, chế biến và mua bán thủy, hải sản đông lạnh, thực phẩm, nông sản, vật tư nông nghiệp; Mua vật tư nguyên liệu, hóa chất phục vụ cho sản xuất; Mua bán đồ uống các loại và hàng mỹ phẩm; Sản xuất và mua bán thuốc thú y thủy sản; Sản xuất và kinh doanh thức ăn gia súc, gia cầm, thủy sản; Lắp đặt hệ thống cơ điện, thông gió, điều hòa cấp nhiệt, hệ thống làm lạnh, kho lạnh, điều hòa trung tâm, hệ thống bơm, ống nước, điều hòa không khí; Chế tạo thiết bị cho ngành chế biến thực phẩm, thuỷ sản; Mua bán máy móc thiết bị chuyên ngành chế biến thực phẩm, ngành chế biến thủy sản; Lai tạo giống, sản xuất con giống; Nuôi trồng thủy sản; Lắp đặt các hệ thống điện công nghiệp,dân dụng;Lắp đặt đường dây trung, hạ thế và trạm biến áp; Lắp đặt điện trong nhà,ống cấp nước, thoát nước, bơm nước; San lấp mặt bằng; Xây dựng công trình dân dụng, công nghiệp;Mua bán vật tư thiết bị cấp nước trong nhà, thiết bị, dụng cụ hệ thống điện; Kinh doanh bất động sản với quyền sở hữu hoặc đi thuê; Dịch vụ nhà sản xuất chế biến mua bán dầu Biodiesel từ mỡ cá
Vốn Khi thành lập : 41.791.300.000 đồngVốn điều lệ năm 2008 : 78.875.780.000 đồngVốn điều lệ Sau khi phát hành: 130.000.000.000 đồng
+Công ty Cổ phần Bê Tông 620 - Châu Thới BT6
Lĩnh vực sản xuất của công ty: sản xuất cấu kiện bê tông đúc sẵn, gia công các sản phẩm cơ khí cho đến trực tiếp thi công xây dựng các công trình giao thông, dân dụng, bến cảng, công nghiệp, vận chuyển sản phẩm đến địa điểm thi công và kinh doanh, xuất nhập khẩu các loại vật liệu xây dựng, cung cấp và vận chuyển các loại bê tông tươi, bê tông siêu trường, siêu trọng..vv..
Tổng vốn điều lệ đăng ký của Công ty là : 69,300,000,000
Tổng tài sản của công ty năm 2008 : 706,877,341,270
+ Công ty Cổ phần Đồ hộp Hạ Long CAN
Lĩnh vực hoạt động của công ty: sản xuất các sản phẩm thực phẩm đóng hộp. Sản xuất, chế biễn cac mặt hàng thủy sản, nông sản, thực phẩm. Sản xuất cac chế ph._. chuyển đổi từ các thị trường bất động san, tiết kiệm, tiêu dùng sang TTCK.
Nhìn chung năm 2007 là năm bùng nổ mạnh mẽ của thị trường chứng khoán. Hoạt động đầu tư chứng khoán chưa khi nào mạnh mẽ như thế. Hoạt động phân tích quản lý chứng khoán theo đó cũng đã có những thay đổi. tuy nhiên sự phát triển quá nóng của thị trường chứng khoán cũng đặt ra câu hỏi: trạng thái này có phải là thật
2.3. Đầu tư chứng khoán trong năm 2008.
Trong năm 2008 dù thị trường có nhiều biến động với xu hướng giảm mạnh về chỉ số và giá trị giao dịch, nhưng quy mô giao dịch cũng như sự quan tâm của nhà đầu tư trong nước, nước ngoài vẫn có những chuyển biến đáng chú ý. Trong năm 2008, với 248 phiên giao dịch, tổng giá trị giao dịch cả năm tại đây đạt hơn 57.122 tỷ đồng, giảm 10,6% so với năm 2007. Nhưng xét về khối lượng giao dịch trong năm lại tăng khá mạnh, với tổng khối lượng đạt 1.531 triệu cổ phiếu, tăng tới gần 2,5 lần năm 2007 và hơn 15 lần năm 2006.Khối lượng giao dịch bình quân phiên trong năm 2008 đạt 6,17 triệu cổ phiếu, tăng 148% so với năm 2007; giá trị giao dịch bình quân phiên đạt 230 tỷ đồng. triệu cổ phiếu và 1.203 tỷ đồng giá trị. Kỷ lục về khối lượng và giá trị giao dịch đã được xác lập ngày 28/8 với 20,5
Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài cũng tiếp tục tăng trong năm 2008, đạt 116,3 triệu cổ phiếu, chiếm 5% tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường, và tăng 38,5% so với 2007.
Với những quy định khá cởi mở, các nhà đầu tư nước ngoài đã có sự tham gia mạnh mẽ trong thời gian gần đây. Theo quy định, hiện nay nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ tối đa 49% tổng số cổ phiếu niêm yết. Đồng thời, các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài được góp vốn và mua cổ phần thành lập liên doanh với tỷ lệ 49% vốn điều lệ. Các nhà đầu tư nước ngoài được góp vốn tối đa là 30% đối với các ngân hàng thương mại
Hiện có khoảng 5.568 tài khoản giao dịch nhà nhà đầu tư nước ngoài(5.353 tài khoản cá nhân và 215 tài khoản tổ chức) và hiện có khoảng 260 quỹ nhà đầu tư nước ngoàiđầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam với tổng giá trị danh mục đầu tư ước tính khoảng 5 tỷ USD. Riêng số tài khoản cá nhân của các nhà đầu tư Nhật chiếm hơn 70% tổng số tài khoản cá nhân của nhà nhà đầu tư nước ngoài
Cổ phiếu của các công ty niêm yết hàng đầu như ACB, STB, BT6, AGF... được các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ ở mức tối đa giới hạn cho phép. Theo nhận xét của Ban phát triển thị trường, điều này cho thấy, nếu thị trường chứng khoán có hàng hóa tốt sẽ thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư bên ngoài, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. nhìn chung hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài trong năm này diễn ra mạnh mẽ.
Tuy nhiên, năm 2008 là năm thị trường chứng khoán Việt Nam tụt dốc không phanh. Không có con số thống kê chính xác, nhưng có lẽ đến 90% nhà đầu tư cá nhân đang đứng ngoài thị trường, số còn lại giao dịch cầm chừng . Nhiều tài khoản còn tiền, nhưng nằm im từ nhiều tháng nay. Một số tài khoản mở ra hồi tháng 9 - 10, nhưng không thấy nộp tiền vào. Một số tài khoản chỉ còn toàn cổ phiếu giá cao, chủ tài khoản nằm im chấp nhận trở thành nhà đầu tư dài hạn bất đắc dĩ, quyết ăn thua cùng thị trường.
Hoạt động đầu tư chứng khoán cuối năm 2008 vô cùng ảm đạm: Người có cổ phiếu đang lãi không muốn bán, người mua cũng không quá nhiệt tình. Lửa chứng khoán dường như đang nguội dần trên sàn niêm yết.
Nhing chung, đây là một xu thế đối với những thị trường chứng khoán mới thành lập, Việt Nam không thể tránh khỏi xu thế này. Bởi vậy ta cần nhìn nhận nghiêm túc, khoa học hoạt động phân tích và đầu tư chứng khoán
3. Một số kiến nghị với hoạt động phân tích đầu tư chứng khoán
3.1 Đối với các nhà đầu tư
+. Lựa chọn cổ phiếu đầu tư
Một trong những yếu tố quan trọng nhất khi bước chân vào sân chơi chứng khoán đó là tìm kiếm công ty để có thể mua cổ phiếu. Và một khi đã tìm hiểu và nghiên cứu về loại cổ phiếu quan tâm và có một nhà môi giới để giúp mua thì việc mua cổ phiếu là một việc tương đối dễ dàng. Nếu nhà đầu tư chưa thể xác định được nên đầu tư vào cổ phiếu nào thì có thể lựa chọn cổ phiếu theo cách như sau:
Hãy tìm hiểu những báo cáo tài chính công khai của các doanh nghiệp mà có những thông tin liên quan đến chứng khoán.
Hãy phân tích những bản báo cáo hàng quý của công ty đó trong vòng hai hoặc ba năm trở lại đây, và đặc biệt chú ý đến xu hướng lợi nhuận tính theo cổ phiếu và doanh thu của công ty.
Hãy tìm cho mình một công ty có xu thế tăng trưởng ổn định nhất về lợi nhuận tính trên cổ phiếu
Hãy tính tỉ lệ giá cả - lợi nhuận (tỉ lệ PE) của công ty đó, vì đây là một thước đo giá trị của cổ phiếu (Tính tỉ lệ này bằng cách chia giá cổ phiếu cho lợi nhuận hàng năm tính theo cổ phiếu )
Hãy so sánh tỉ lệ PE đó với các quy chuẩn của ngành và với tỉ lệ của chỉ số S&P 500. Tỉ lệ này càng thấp thì giá cổ phiếucàng rẻ so với lợi nhuận
Hãy chú ý đến cả các món nợ của công ty đó. Vì vậy phải kiểm tra bảng cân đối kế toán của công ty và tìm đến phần thông tin về các món nợ dài hạn.
Ngoài ra cũng cần phải chú ý đến bảng lưu chuyển tiền tệ trong các báo cáo tài chính đó để xem tiền được lưu chuyển như thế nào trong hoạt động kinh doanh của công ty. Bởi vì chắc hẳn rằng bạn sẽ muốn nhìn thấy một bảng lưu chuyển tiền tệ có lãi chứ không phải là thua lỗ.
+ Lựa chọn giao dịch và thời gian đầu tư.
Thực chất giao dịch dài hạn có nhiều ưu thế hơn so với giao dịch ngắn hạn ( đặc biệt là với những nhà đầu tư mới), nhiều nhà đầu tư thích giao dịch trong thời gian ngắn và có vài người đã thành công. Phải nói là giao dịch ngắn hạn có phần sôi động. các nhà đầu tư đôi khi có thể sử dụng một phần danh mục đầu từ của mình vì sự sôi động đó.
Tuy nhiên giao dịch dài hạn có khả năng kiếm lợi nhuận cao hơn và giúp cho việc quản lí rủi ro tốt hơn, việc quan sát, học hỏi và giao dịch cũng dễ dàng hơn với những nhà đầu tư mới.
Các giao dịch ngắn hạn thường được duy trì ít hơn một tuần. Khác biệt lớn nhất giữa nhà đầu tư ngắn hạn và dài hạn là khung thời gian của biểu đồ họ quan sát. Nhà đầu tư dài hạn thường sử dụng khung thời gian ngày. Còn nhà đầu tư ngắn hạn thường sử dụng khung thời gian ngắn hơn thậm trí là khung thời gian 5 phút
Những nhà đầu tư dài hạn thường quan sát đươc những điều mà thường nhà đầu tư ngắn hạn còn chưa quan sát, dự đoán đến, họ thường duy trì lệnh giao dịch kéo dài vài tuần đến vài tháng. Các nhà đầu tư dài hạn có ưu thế nhiều hơn trong viêc ước lượng khi nào cần dừng giao dịch và quản lí lệnh giao dịch thế nào, cũng như áp dụng cách kiểm soát rủi ro và cơ hội. Giao dịch dài hạn tốn ít thời gian hơn
Những nhà đầu tư tiền tệ ngắn hạn sẽ phải đối mặt ngày với bất lợi phải tăng khoản phí giao dịch vì đặt lệnh giao dịch nhiều hơn và phải kiếm được lời lớn hơn so với phí giao dịch thì mới mong có lãi.
Giao dịch ngắn hạn đòi hỏi nhiều sự tập trung, để ý hơn và mang tính liên tục. Điều đó có thể ảnh hưởng đến tâm lý của bạn. Thời gian quan sát thị trường biến động, lên rồi xuống giữa các mức dừng giao dịch của bạn, thì chỉ càng khiến bạn cảm thấy không yên tâm với lệnh giao dịch, chiến lược giao dịch của mình. Điều đó chỉ khiến tạo thêm stress cho bạn khi giao dịch và khiến những trải nghiệm của bạn trở lên không còn thoải mái nữa.
Nhìn chung khi mới tham gia vào đầu tư trên thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư thường thích giao dịch ngắn hạn vì nghĩ rằng như thế an toàn và kiếm lời chắc hơn. Nhưng thực chất các giao dịch dài hạn mới là các giao dịch mà ta nên theo đuổi
+ Cách thức cắt giảm thua lỗ
a. Giới hạn nắm giữ cổ phiếu
Nên bán các cổ phiếu giảm giá từ 7% đến 8% so với giá mua vào. Đây là một ngưỡng có thể làm giảm thua lỗ tới mức độ chấp nhận được, có tính tới việc biến động giá thông thường trong hầu hết mọi trường hợp. Tuy nhiên, quy tắc này đòi hỏi nhà đầu tư phải có ý chí cao. Hầu hết những nhà đầu tư thông thường đều cho rằng nói dễ hơn làm. Để thành công, ta cần nhận thức được thời điểm bạn sai lầm và cố gắng khắc phục. Nếu ta mua một cổ phiếu tốt ở thời điểm thích hợp thì giá của nó hiếm khi giảm 8% so với giá mua vào.
Ta có thể bán cổ phiếu có giá giảm 7 đến 8%, rồi sau đó cổ phiếu này lại tăng giá. Tuy nhiên đó chính là cái giá mà ta phải trả cho chính sách bảo hiểm danh mục đầu tư của mình khỏi thua lỗ thê thảm.
b. Kế hoạch lãi, lỗ
Các nhà đầu tư thường kiếm lời bằng việc bán đi các cổ phiếu đầu tư khi chúng tăng giá, nhưng lại giữ lại những cổ phiếu giảm giá với hi vọng chúng sẽ phục hồi; thông thường cách làm này sẽ không hiệu quả. Một giải pháp đưa ra là phải học cách trở thành một nhà đầu tư có tính kỉ luật cao và áp dụng một kế hoạch lãi/lỗ rõ ràng.
Nhà đầu tư nên đặt ra mức lợi nhuận và mức thua lỗ tối đa mà họ cảm thấy chấp nhận được, tuy nhiên, những mức giới hạn này không nhất thiết giống nhau giữa các loại cổ phiếu. Ví dụ, một cổ phiếu bluechip nhiều khả năng chỉ biến động trong khoảng 10% mỗi năm, trong khi đó một cổ phiếu small-cap tăng trưởng cao có thể biến động giá vài chục lần. Nói cách khác, ta phải phân tích từng cổ phiếu riêng biệt để ước tính mức độ tăng giảm khả dĩ của nó.
Một số nhà đầu tư sử dụng phân tích kĩ thuật, phân tích cơ bản, hoặc sự kết hợp của cả hai để xác định ra các giới hạn lãi/lỗ phù hợp. Một cách khác nữa để xác định những giới hạn đầu tư là áp dụng các mô hình đầu tư dựa trên những chuẩn mực sẵn có, như các chỉ số chứng khoán hay thậm chí là kết quả của danh mục đầu tư của chính bạn trong quá khứ.
Một yếu tố khác mà ta phải xem xét khi xác định kế hoạch lãi/lỗ là khả năng chấp nhận rủi ro của mình, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cá tính, khung thời gian hay lượng vốn sẵn có của bạn. Về căn bản, những người ngại rủi ro luôn đặt ra những giới hạn chặt chẽ hơn những người sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Những người ưa thích rủi ro cố gắng thu lợi càng nhiều càng tốt từ những cổ phiếu có tính phiêu lưu cao, nhưng một nhà đầu tư chắc ăn có thể sẽ bán cổ phiếu khi giá tăng chút ít để đề phòng nguy cơ thua lỗ sẽ xảy ra khi chẳng may cổ phiếu đột nhiên giảm giá. Nếu ta thích né tránh rủi ro, một kế hoạch lãi/lỗ có mức giới hạn tăng/giảm 10% mỗi chiều là không phù hợp hay thậm chí là không thực tế đối với chúng ta. Ngược lại, nếu nhà đầu tư sẵn sàng gánh chịu thêm rủi ro gắn với những khoản lợi nhuận tiềm năng hấp dẫn thì mức 10% có lẽ sẽ phù hợp hơn.
Thực hiện kế hoạch
Một khi nhà đầu tư đã quyết định được những con số phù hợp, dù cho nhà đầu tư chắc ăn hay phiêu lưu, cũng phải thực thi kế hoạch hành động một cách nhất quán nhất có thể. Hãy nhớ rằng, kế hoạch này luôn đặt ra một yêu cầu kép: nhà đầu tư phải bán cổ phiếu của nếu, một là, chúng rớt giá xuống một mức nhất định và, hai là, khi chúng tăng đến một mức giá nhất định.
Hiện nay, các nhà môi giới sẽ không cho phép nhà đầu tư nhập vào hai lệnh bán khác nhau với cùng một loại chứng khoán vì vậy nhà đầu tư phải quyết định xem họ muốn đưa lệnh nào vào trước tiên. Sẽ là khôn ngoan nhất khi nhập vào lệnh giúp đề phòng nguy cơ thua lỗ khi giá xuống: nhiều nhà đầu tư khôn ngoan đã sử dụng những lệnh "chống thua lỗ" hay còn gọi là lệnh dừng, các lệnh này yêu cầu nhà môi giới mua hoặc bán một cổ phiếu khi nó đạt đến một mức giá nhất định. Lệnh chống thua lỗ luôn đảm bảo rằng nhà đầu tư sẽ không mất hết thị trường không thuận lợi, đặc biệt nếu nhà đầu tư không có khả năng theo dõi thông tin thị trường một cách thường xuyên. Khi đặt một lệnh mua/bán với người môi giới, nên thiết lập mức giá giới hạn đó tương đương với số phần trăm thua lỗ tối đa chấp nhận được, sau đó hãy ngồi và đợi kết quả. Nếu giá cổ phiếu tăng cao hơn mức giá giới hạn trên của bạn, hãy thay đổi mức giá của lệnh chống thua lỗ ở trên, bởi vì mức giá cũ đã ngay lập tức kích hoạt lệnh bán cổ phiếu của nhà đầu tư
Luôn giữ kỉ luật: khi đang thực thi một kế hoạch lỗ/lãi như trên, nhà đầu tư nên ghi nhớ một điều rằng ý tưởng bao trùm của kế hoạch này là phải thiết lập ra những chỉ dẫn nghiêm ngặt về thời điểm nào thì bán cổ phiếu.
3.1.4. Quản lý một danh mục đầu tư
Quy trình quản lý danh mục đầu tư:Quản lý danh mục đầu tư là quá trình liên tục và có hệ thống gồm ta có thể thưc hiện theo quy trình sau:
Xác định mục tiêu đầu tư. Trọng tâm của việc xác định mục tiêu là xác định rõ mức độ rủi ro có thể chấp nhận được của chủ đầu tư và mức độ lợi nhuận mong đợi tương thích với mức độ rủi ro đó.
Xây dựng các chiến lược phù hợp với mục tiêu bao gồm việc lập các tiêu chuẩn và phân bổ đầu tư.
Giám sát theo dõi những diễn biến giá cả tương đối của chứng khoán trên thị trường, cả mức độ rủi ro và lợi nhuận mong đợi.
Điều chỉnh danh mục đầu tư phù hợp với diễn biến của thị trường và mục tiêu của người đầu tư.
Một nguyên tắc nữa của danh mục là chính sách đầu tư được viết ra bằng văn bản và có sự cam kết của nhà đầu tư. Điều này rất cần thiết vì nó đảm bảo tính nhất quán, không xét lại theo tính ngẫu hứng, không phụ thuộc vào quan điểm ngắn hạn của chủ đầu tư.
Học thuyết về thị trường hữu hiệu cho rằng, việc quản lý danh mục đầu tư chủ động (tức là dựa vào kỹ thuật và công nghệ hiện đại để phân tích, đầu tư vào một loại chứng khoán nào đó) chỉ là sự lãng phí thời gian và tiền bạc. Học thuyết này khuyến khích cho chiến lược đầu tư bị động. Mục tiêu duy nhất của chiến lược đầu tư bị động là tạo dựng một danh mục đầu tư được đa dạng hóa hoàn toàn. Điều này trái ngược hẳn với quản lý chủ động là luôn đi tìm những chứng khoán định giá thấp hơn hay cao hơn giá thị trường để mua hoặc bán kiếm lời
. Như ta đã biết khi thị trường là hiệu quả thì mọi phương pháp phân tích trên thị trường đều bị vô hiệu hóa, chẳng hạn không có cổ phiếu bị định giá thấp hơn giá trị vì thế ta không thể tìm kiếm những cổ phiếu như thế nhằm đầu tư sinh lời cao. Ta chỉ có thể cơ cấu danh mục sao cho đạt được một mục đích đề ra (chẳng hạn một mức lợi xuất nhất định) trong một khoảng thời gian nào đầy. nhà đầu tư cần quan tâm thị trường đang ở trạng thái nào để đưa ra những phương pháp đầu tư hợp lý. Đó cũng là lý do nhà đầu tư cần phải chọn lựa chiến lược đầu tư chủ động hay thụ động. khi thị trường hiệu quả nhà đầu tư chỉ có thể quản lý danh mục theo chiến lược chủ động tức là nhà đầu tư không phải để tạo ra một danh mục vượt trội so với chỉ số chuẩn trên thị trường mà tạo ra danh mục cổ phiếu có số lượng và chủng loại gần giống với chỉ số chuẩn, nhằm đạt mức sinh lời dự kiến tương đương mức sinh lời chuẩn. bởi thị trường là hiệu quả nên giá của cổ phiếu phản ánh đầy đủ mọi thông tin
Theo doi danh muc đầu tư:
Lập sổ sách theo dõi:
Có lập số sách thì nhà đầu tư mới có thể quản lý tốt các hoạt động đầu tư của mình. Khi có gì đột xuất xảy ra thì nhà đầu tư có thể dễ dàng tìm kiếm những dự liệu cần thiết cho hoạt động đầu tư của mình.
Lưu giữ tất cả các hợp đồng theo thứ tự ngày tháng. Đây là tập hồ sơ đầy đủ về danh mục đầu tư để nhà đầu tư theo dõi và tính toán các khoản thuế phải nộp (đối với nhà đầu tư là tổ chức). Hãy kiểm tra chi tiết từng hợp đồng xem có chính xác hay không.
Ghi nhận đầy đủ, chi tiết về các khoản cổ tức hay tiền lãi đã nhận được.
Nếu vẫn còn nắm giữ các chứng chỉ cổ phiếu, thì các chứng chỉ này phải được cất giữ an toàn nhưng dễ tìm thấy, phòng khi cần bán ngay.
Nhà đầu tư sẽ cần đến một phương pháp nào đó để bám sát tiến triển của các khoản đầu tư đã thực hiện. Phương pháp này có thể dưới dạng một biểu đồ thủ công ghi rõ tên cùng số lượng chứng khoán đang nắm giữ, giá mua vào, giá cả vào các thời điểm định giá sau đó.
Lượng thông tin này sẽ làm nền tảng cho một hệ thống theo dõi hoàn hảo những loại chứng khoán mà nhà đầu tư theo sát. Nếu nhà đầu tư muốn có một phương pháp tinh vi hơn, các công ty chứng khoán sẽ có những phần mềm điện toán giúp nhà đầu tư cập nhật giá cả và vẽ biểu đồ thành tích của danh mục đầu tư trên máy tính cá nhân của nhà đầu tư.
Thu thập thông tin:
Nắm thông tin là yêu cầu rất quan trọng đối với các nhà đầu tư trong quá trình chăm sóc chứng khoán. Có nắm tốt thông tin thì nhà đầu tư mới có thể nhạy bén trước những biến động của thị trường, của nền kinh tế, tránh khỏi tình trạng “nước đến chân mới nhảy”.
Nhà đầu tư muốn đích thân nghiên cứu đầu tư phải tinh lọc từ nhiều nguồn thông tin khác nhau.
-Báo chí cung cấp rất nhiều loại tư liệu, từ các thông tin về giá cả và các đặc điểm của từng công ty cá biệt cho đến các công trình phân tích và các bài báo về chiến lược đầu tư trong từng khu vực kinh doanh
- Phương tiện phát sóng truyền thông đại chúng bao quát rất nhiều tin tức, đặc biệt phải kể đến là các trang thời sự trên tivi về giá cả cập nhật ở thị trường chứng khoán và các bài tóm lược tin tức tài chính.
- Internet ngày càng được sử dụng rộng rãi giúp cho tình hình tiếp cận thông tin của các nhà đầu tư nhân lên gấp bội: các công ty mà nhà đầu tư muốn đầu tư vào cũng có các trang web riêng; các công ty chứng khoán nơi nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch có thể cung cấp thông tin thường xuyên qua địa chỉ e-mail.
Các bản tin ngày từ trung tâm giao dịch chứng khoán. - Các bản tin ngày và tin tuần kèm theo các bài phân tích về thị trường chứng khoán được cung cấp bởi các công ty chứng khoán. - Cuối cùng là loại thông tin căn bản nhất – báo cáo tình hình hoạt động từ các công ty niêm yết
3.1. Đối với các cơ quan có thẩm quyền.
Để tăng cường hoạt động đầu tư chứng khoán, trong thời gian tới, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cần khuyến khích phát triển nhà đầu tư,các tổ chức trong nước làm nòng cốt, đào tạo phổ cập kiến thức cho công chúng dưới các hình thức khác nhau, làm cho công chúng đầu tư, các doanh nghiệp hiểu được các nội dung của thị trường chứng khoán , các nghiệp vụ liên quan, thậm chí cần trang bị các kiến thức về đầu tư, về rủi ro và biện pháp phòng ngừa cũng như khả năng phân tích dự báo tình hình biến động của thị trường chứng khoán .
Đồng thời, xây dựng và công bố lộ trình mở cửa đối với nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán . Việc quy định tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư có điều kiện phải phù hợp với Điều luật quốc tế
Kết luận:
Trong năm 2008 khủng hoảng kinh tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu, nó kéo theo những biến động xấu trên thị trường tài chính và một bộ phận của thị trường tài chính là thị trường chứng khoán cũng không nằm ngoài xu hướng xấu đó. Việt Nam với sự phát triển của thị trường tài chính trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới chắc chắn không tránh khỏi những ảnh hưởng không tốt từ cuộc khủng hoảng này.
Thị trường chứng khoán hoạt động kém hiệu quả là nguyên nhân gây ra thiệt hại nặng nề về kinh tế. Các nhà đầu tư tham gia trên thị trường chứng khoán là những người bị ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất. Vì thế khi tham gia đầu tư , các nhà đầu tư trên thị trường chưng khoán cần phải quan tâm đến hoạt động phân tích và quản lý danh mục đầu tư
Trong chuyên đề thực tập, em đưa ra một thuật toán lọc cổ phiếu và mô hình trung bình-phương sai để điều chỉnh cơ cấu của danh mục đầu tư. Thông qua đó xác định được loại cổ phiếu và lượng cố phiếu trong một danh mục đầu tư. Về mặt nào đó, nó có thể áp dụng trong hoạt động môi giới chứng khoán
Trong khi thực hiện chuyên đề, do chưa có nhiều kinh nghiệm và kiến thức nên không tránh khỏi sai sót. Em rất mong sự góp ý của thầy giáo để bài làm của em được hoàn thiện hơn.
Một lân nữa Em xin chân thành cảm ơn TS. Trần Trọng Nguyên và các anh chị trong Công ty Cổ phần Chứng khoán An Thành đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 5 tháng 05 năm 2009
Sinh viên
Vũ Thị Hường
Danh mục tài liệu tham khảo
PGS.TS. Nguyễn Quang Dong (2007), Kinh tế lượng ( chương trình nâng cao).
PGS.TS. Nguyễn Quang Dong(2007), Bài tập Kinh tế lượng ( trợ giúp của phần mềm eview).
PGS.TS. Lưu Thị Hương, PGS.TS. Vũ Duy Đào (2007), “ Phân tích tài chính doanh nghiệp”, Tài chính doanh nghiệp.
PGS.TS. Nguyễn Văn Nam, PGS.TS. Vương Trọng Nghĩa (2002), “ Tổng quan thị trường chứng khoan”,Giao trình thị trường chứng khoan.
PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn, Bài giảng Phân tích và định giá các tài sản tài chính.
Bài viết ASSET giới thiệu trên Tạp Chí Chứng Khoán, hợp tác cùng
Tập đoàn Ngân hàng Hồng Kông - Thượng Hải (1/2009), báo cáo Việt Nam Monitor
Các trang web sử dụng:
Phụ lục
1. EBITDA: Là một chỉ tiêu đánh giá tỷ suất sinh lợi của doanh nghiệp, là lợi nhuận trước thuế, lãi vay và khấu hao
EBIT là lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Thông thường các doanh nghiệp khác nhau có cấu trúc vốn ( vốn chủ và nợ ) khác nhau. Do đó để đảm bảo tính so sánh tỷ suất lợi nhuận người ta dùng EBIT. EBIT giúp loại trừ sự ảnh hưởng của cấu trúc vốn
Tương tự như vậy, doanh nghiệp khác nhau có chính sách thuế khác nhau, EBITDA giúp loại trừ ảnh hưởng của yếu tố nà
2. Giá trị vốn hoá thị trường hay thị giá vốn: Là thước đo qui mô của một công ty, là tổng giá trị thị trường của một công ty, được xác định bằng số tiền bỏ ra để mua lại toàn bộ công ty này trong điều kiện hiện tại.Giá trị vốn hoá thị trường tương đương với giá thị trường của cổ phiếu nhân với số cổ phiếu phổ thông đang lưu hành. Khi tính giá trị vốn hoá thị trường người ta chỉ tính đến các cổ phiếu phổ thông chứ không tính đến cổ phiếu ưu đãi, vì chỉ cổ phiếu phổ thông mới đem lại cho người sở hữu quyền tham gia điều hành công ty. Không nên nhầm lẫn giữa giá trị vốn hoá thị trường với tổng giá trị cổ phần của công ty (equity value), vì trong tổng giá trị cổ phần còn bao gồm cả các quyền mua cổ phiếu chưa thực hiện và trái phiếu, cổ phiếu chuyển đổi nữa.
Qui mô và tốc độ tăng của giá trị vốn hoá thị trường là thước đo vô cùng quan trọng để đánh giá thành công hay thất bại của một công ty niêm yết công khai. Tuy vậy giá trị vốn hoá thị trường còn có thể tăng giảm do một số nguyên nhân ko liên quan gì đến kết quả hoạt động, ví dụ như việc mua lại một công ty khác, bán bớt một số bộ phận của tập đoàn, hay mua lại chính cổ phiếu của mình trên thị trường chứng khoán. Giá trị vốn hoá thị trường phản ánh giá cổ phiếu của một công ty, trong khi giá này có thể thay đổi theo kì vọng của các nhà đầu tư, vì vậy chỉ số này không phản ánh hoàn toàn chính xác giá trị thự sự của công ty đó.
3. ROA: Đây là một chỉ số thể hiện tương quan giữa mức sinh lợi của một công ty so với tài sản của nó. ROA sẽ cho ta biết hiệu quả của công ty trong việc sử dụng tài sản để kiếm lời. ROA được tính bằng cách chia thu nhập hàng năm cho tổng tài sản . Công thức tính như sau:
ROA = Thu nhập ròng/ Tổng tài sản
- ROA thể hiện hiệu quả của công ty trong việc sử dụng tài sản để kiếm lời
- ROA cho biết thông tin về các khoản lãi được tạo ra từ lượng vốn đầu tư (hay lượng tài sản).
- Hiệu quả của việc chuyển vốn đầu tư thành lợi nhuận được thể hiện qua ROA
- ROA càng cao thì càng tốt vì công ty đang kiếm được nhiều tiền hơn trên lượng đầu tư ít hơn
ROA đối với các công ty cổ phần có sự khác biệt rất lớn và phụ thuộc nhiều vào ngành kinh doanh. Đó là lý do tại sao khi sử dụng ROA để so sánh các công ty, tốt hơn hết là nên so sánh ROA của mỗi công ty qua các năm và so giữa các công ty tương đồng nhau.
Các nhà đầu tư cũng nên chú ý tới tỉ lệ lãi suất mà công ty phải trả cho các khoản vay nợ. Nếu một công ty không kiếm được nhiều hơn số tiền mà nó bỏ ra để chi cho các hoạt động đầu tư, đó hiển nhiên không phải là một dấu hiệu tốt. Ngược lại, nếu ROA mà tốt hơn chi phí vay thì có nghĩa là công ty đang bỏ túi một món hời.
4.ROE: Hệ số thu nhập trên vốn cổ phần (ROE) phản ánh mức thu nhập ròng trên vốn cổ phần của cổ đông (hay trên giá trị tài sản ròng hữu hình).
ROE= Lợi nhuận ròng / Vốn cổ phần
Trị giá ROE được tính bằng cách lấy lợi nhuận ròng theo niên độ kế toán sau khi đã trả cổ tức cho cổ phần ưu đãi nhưng trước khi trả cổ tức cho cổ phần thường, chia cho toàn bộ vốn chủ sở hữu (hay vốn cổ phần) vào lúc đầu niên độ kế toán. Chỉ số này là thước đo chính xác nhất để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy được tạo ra bao nhiêu đồng lời. Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường, từ đó tham khảo khi quyết định mua cổ phiếu của công ty nào. Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ đông, có nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô. Cho nên hệ số ROE càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn các nhà đầu tư hơn.
Khi tính toán được tỷ lệ này, các nhà đầu tư có thể đánh giá ở các góc độ cụ thể như sau:
ROE nhỏ hơn hoặc bằng lãi vay ngân hàng, vậy nếu công ty có khoản vay ngân hàng tương đương hoặc cao hơn vốn cổ đông, thì lợi nhuận tạo ra cũng chỉ để trả lãi vay ngân hàng.
ROE cao hơn lãi vay ngân hàng thì chúng ta phải đánh giá xem công ty đã vay ngân hàng và khai thác hết lợi thế cạnh tranh trên thị trường chưa để có thể đánh giá công ty này có thể tăng tỷ lệ ROE trong tương lai hay không.
5.EPS (Earning Per Share): Là lợi nhuận (thu nhập) trên mỗi cổ phiếu. Đây là phần lợi nhuận mà công phân bổ cho mỗi cổ phần thông thường đang được lưu hành trên thị trường. EPS được sử dụng như một chỉ số thể hiện khả năng kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp, được tính bởi công thức:
EPS = (Thu nhập ròng - cổ tức cổ phiếu ưu đãi) / lượng cổ phiếu bình quân đang lưu thông.
Trong việc tính toán EPS, sẽ chính xác hơn nếu sử dụng lượng cổ phiếu lưu hành bình quân trong kỳ để tính toán vì lượng cổ phiếu thường xuyên thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên trên thực tế người ta thường hay đơn giản hoá việc tính toán bằng cách sử dụng số cổ phiếu đang lưu hành vào thời điểm cuối kỳ. Có thể làm giảm EPS dựa trên công thức cũ bằng cách tính thêm cả các cổ phiếu chuyển đổi, các bảo chứng (warrant) vào lượng cổ phiếu đang lưu thông.
EPS thường được coi là biến số quan trọng duy nhất trong việc tính toán giá cổ phiếu. Đây cũng chính là bộ phận chủ yếu cấu thành nên tỉ lệ P/E. Một khía cạnh rất quan trọng của EPS thường hay bị bỏ qua là lượng vốn cần thiết để tạo ra thu nhập ròng (net income) trong công thức tính trên. Hai doanh nghiệp có thể có cùng tỷ lệ EPS nhưng một trong hai có thể có ít cổ phần hơn tức là doanh nghiệp này sử dụng vốn hiệu quả hơn. Nếu như các yếu tố khác là cân bằng thì rõ ràng doanh nghiệp này tốt hơn doanh nghiệp còn lại. Vì doanh nghiệp có thể lợi dụng các kỹ thuật tính toán để đưa ra con số EPS hấp dẫn nên các nhà đầu tư cũng cần hiểu rõ cách tính của từng doanh nghiệp để đảm bảo "chất lượng" của tỉ lệ này. Tốt hơn hết là không nên dựa vào một thước đo tài chính duy nhất mà nên kết hợp với các. bản phân tích tài chính và các chỉ số khác
6. Hệ số giá trên thu nhập (P/E): Là một trong những chỉ số phân tích quan trọng trong quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư. Thu nhập từ cổ phiếu sẽ có ảnh hưởng quyết định đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Hệ số P/E đo lường mối quan hệ giữa giá thị trường (Market Price - P) và thu nhập của mỗi cổ phiếu (Earning Per Share - EPS) và được tính như sau:
P/E=P/EPS Trong đó giá thị trường P của cổ phiếu là giá mà tại đó cổ phiếu đang được mua bán ở thời điểm hiện tại; thu nhập của mỗi cổ phiếu EPS là phần lợi nhuận ròng sau thuế mà công ty chia cho các cổ đông thường trong năm tài chính gần nhất.
P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu lần, hay nhà đầu tư phải trả giá cho một đồng thu nhập bao nhiêu. P/E được tính cho từng cổ phiếu một và tính trung bình cho tất cả các cổ phiếu và hệ số này thường được công bố trên báo chí.
Nếu hệ số P/E cao thì điều đó có nghĩa là người đầu tư dự kiến tốc độ tăng cổ tức cao trong tương lai; cổ phiếu có rủi ro thấp nên người đầu tư thoả mãn với tỷ suất vốn hoá thị trường thấp; dự đoán công ty có tốc độ tăng. trưởng trung bình và sẽ trả cổ tức cao
Hệ số P/E rất có ích cho việc định giá cổ phiếu. Giả sử người đầu tư có cổ phiếu AAA không được giao dịch sôi động trên thị trường, vậy cổ phiếu đó có giá bao nhiêu là hợp lý? Lúc đó cần nhìn vào hệ số P/E được công bố đối với nhóm các loại cổ phiếu tương tự với cổ phiếu AAA, sau đó nhân thu nhập của công ty với hệ số P/E sẽ cho chúng ta giá của loại cổ phiếu AA
P/B
Đây là tỉ lệ được sử dụng để so sánh giá của một cổ phiếu so với giá trị ghi sổ của cổ phiếu đó. Tỉ lệ này được tính toán bằng cách lấy giá đóng cửa hiện tại của cổ phiếu chia cho giá trị ghi sổ tại quý gần nhất của cổ phiếu đó. Công thức tính như sau:
P/B = Gía cổ phiếu/(Tổng giá tài sản – Gía trị tài sản vô hình và nợ)
Đối với các nhà đầu tư, P/B là công cụ giúp họ có thể tìm kiếm được các cổ phiếu có giá thấp mà phần lớn thị trường bỏ qua. Nếu một doanh nghiệp đang bán cổ phần với mức giá thấp hơn giá trị ghi sổ của nó (tức là có tỉ lệ P/B nhỏ hơn 1), khi đó có hai trường hợp sẽ xảy ra: hoặc là thị trường đang nghĩ rằng giá trị tài sản của công ty đã bị thổi phồng quá mức hoặc là thu nhập trên tài sản của công ty là quá thấp.
Nếu như điều đầu tiên xảy ra, các nhà đầu tư nên tránh xa các cổ phiếu này bởi vì giá trị tài sản của công ty sẽ nhanh chóng được thị trường điều chỉnh về đúng giá trị thật. Còn nếu điều thứ hai đúng thì có khả năng là lãnh đạo mới của công ty hoặc các điều kiện kinh doanh mới sẽ đem lại những triển vọng kinh doanh cho công ty, tạo dòng thu nhập dương và tăng lợi nhuận cho các cổ đông. Ngược lại, nếu một công ty có giá thị trường của cổ phiếu cao hơn giá trị ghi sổ thì đây thường là dấu hiệu cho thấy công ty làm ăn khá tốt, thu nhập trên tài sản cao.
Chỉ số P/B chỉ thực sự có ích khi bạn xem xét các doanh nghiệp có mức độ tập trung vốn cao hoặc các công ty tài chính bởi giá trị tài sản của các công ty này tương đối lớn. Vì công tác kế toán phải tuân thủ theo những tiêu chuẩn ngặt nghèo, giá trị ghi sổ của tài sản hoàn toàn không tính tới các tài sản vô hình như thương hiệu, nhãn hiệu, uy tín, bằng sáng chế và các tài sản trí tuệ khác do công ty tạo ra. Giá trị ghi sổ không có ý nghĩa nhiều lắm với các công ty dịch vụ vì họ giá trị tài sản hữu hình của họ không lớn.
Bảng kiểm định dạng hàm:
Cổ phiếu AGF:
Cổ phiếu BT6
Cổ phiếu Can
Cổ phiếu TMS
Cổ phiếu LAF
Cổ phiếu SAM
Cổ phiếu Hap
Cổ phiếu Sav
Cổ phiếu Tri
Cổ phiếu REE
Bảng kiểm định phân phối chuẩn của phần dư:
Cổ phiếu Agf
Cổ phiếu Can
Cổ phiếu Laf
Cổ phiếu Sam
Cổ phiếu Tms
Cổ phiếu BT6 Cổ phiếu Ree
Cổ phiếu Sav
Cổ phiếu Tri
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21965.doc