Lời mở đầu
Trong nền kinh tế quốc dân dầu khí là một trong những ngành đóng góp GDP cao trong tổng GDP của cả nước. Nó góp phần tăng thêm sự giàu có cho đất nước và sự ổn định xã hội. Cùng với sự phát triển không ngừng của ngành, Công ty xăng dầu Phú Thọ đã nhận thấy được tầm quan trọng của mình cũng như của ngành, từng bước phát triển đi lên để hoà cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế nước nhà. Mặc dù mới được thành lập năm 1956 song đến nay Công ty xăng dầu Phú Thọ đã có một hệ th
95 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1849 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Áp dụng phương pháp sơ đồ mạng lưới trong quá trình sản xuất hàng tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ống cơ sở vật chất đủ để đảm bảo nhu cầu hàng hoá tiêu dùng trong tỉnh cũng như các tỉnh bạn.
Trải qua thời gian thực tập và nghiên cứu tại Công ty xăng dầu Phú Thọ, tuy thời gian còn hạn hẹp song được sự chỉ bảo tận tình của ban lãnh đạo cùng các cô chú trong phòng kinh doanh tôi đã được tiếp xúc và làm quen với hầu hết các công việc trong Công ty. Thời gian qua tôi đã được trực tiếp tham quan và nghiên cứu toàn bộ quy trình công nghệ xuất nhập xăng dầu ở kho B1- một trong những kho lớn của Công ty. Tôi nhận thấy rằng đây là một trong những quy trình tương đối hiện đại và khoa học. Được sự giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn cộng với những kiến thức đã được học tập và nghiên cứu trong thời gian học đại học, tôi đã chọn đề tài "áp dụng phương pháp sơ đồ mạng lưới trong quy trình xuất hàng tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ" làm khoá luận tốt nghiệp của mình. Tôi nghĩ rằng với hệ thống cơ sở vật chất cũng như quy trình công nghệ tại kho B1 nếu áp dụng phương pháp này sẽ tối ưu hoá được các chỉ tiêu thời gian cũng như chi phí từ đó sẽ làm lợi cho Công ty hàng chục triệu đồng và Công ty cũng có thể áp dụng cho các hoạt động khác để đạt được kết quả cao.
Trong một thời gian ngắn bài viết không tránh khỏi những sai sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy giáo hướng dẫn cùng ban lãnh đạo Công ty xăng dầu Phú Thọ.
Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Trong phạm vi khoá luận này, tôi muốn trình bày những nhận thức cơ bản của mình về sự cần thiết phải áp dụng phương pháp sơ đồ mạng trong quản trị kho tàng. Thực trạng việc áp dụng phương phương pháp này trong quy trình xuất hàng tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ. Qua đó đề xuất một số giải pháp và một số kiến nghị để đề tài mang tính khả thi cao.
Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Quản trị kho tàng là một nội dung lớn và rất phức tạp, xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ của đề tài, nội dung của đề tài tập trung chủ yếu nghiên cứu phân tích thực trạng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật trong kho B1 để từ đó thấy được việc áp dụng phương pháp sơ đồ mạng lưới là một yêu cầu mang tính tất yếu khách quan cần phải có.
Phương pháp nghiên cứu đề tài:
- Phân tích khái quát những tài liệu lý luận và thực tế có liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp biện chứng: Xem xét, phân tích, đánh giá các công việc và sự kiện trong mối quan hệ biện chứng, lô gíc ràng buộc lẫn nhau để thấy được mối liên hệ chặt chẽ của các công việc và sự kiện này trong sơ đồ mạng lưới.
- Phương pháp phân tích thống kê để thu thập số liệu về thời gian cũng như chi phí khi tiến hành các công việc và sự kiện.
Kết cấu của đề tài
Với mục đích, nhiệm vụ, nội dung và phương pháp nêu trên kết cấu của đề tài bao gồm:
Chương I : Sự cần thiết phải nghiên cứu áp dụng phương pháp sơ đồ mạng lưới trong quản trị kho tàng
Chương II: Thực trạng việc xây dựng và áp dụng sơ đồ mạng lưới trong quy trình xuất hàng tại kho B1- Công ty xăng dầu Phú Thọ
Chương III: Một số giải pháp đề xuất & kiến nghị thực hiện đề tài
Chương I: Sự cần thiết phải nghiên cứu áp dụng phương pháp sơ đồ mạng lưới trong quản trị kho tàng
I. Bản chất của sơ đồ mạng lưới (PERT)
Trong quản trị doanh nghiệp, để thuận tiện cho công tác kế hoạch hoá hay điều khiển một quá trình sản xuất, thi công hay kể cả một quá trình nghiên cứu khoa học (ta gọi chung là một quá trình sản xuất) người ta thường tìm cách biểu diễn quá trình đó bằng phương pháp sơ đồ. Phương pháp được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực là phương pháp sơ đồ thẳng (sơ đồ Gant), phương pháp này đã giúp ích rất nhiều cho các nhà quản trị doanh nghiệp trong công việc của mình. Tuy nhiên, khi một quá trình phức tạp với số lượng công việc khá lớn, mối liên hệ giữa các công việc phức tạp thì phương pháp sơ đồ thẳng đã tỏ ra kém hiệu lực.
Năm 1956, ở Mỹ xuất hiện một phương pháp được gọi là “phương pháp đường găng“. Năm 1958 người ta đưa phương pháp này vào việc đánh giá và kiểm tra quá trình thực hiện kế hoạch sản xuất và được mang tên là ‘Phương pháp PERT’. Chữ PERT là chữ viết tắt có tên gọi “Program Evaluation and Review Technique” (kỹ thuật đánh giá và kiểm tra dự án). Phương pháp này biểu diễn hệ thống các công việc bằng một mạng lưới nên người ta thường goi là ”Phương pháp sơ đồ mạng lưới”.
Về bản chất phương pháp sơ đồ mạng lưới được áp dụng trong nhiều lĩnh vực hoạt động của con người. Nhờ áp dụng sơ đồ mạng lưới người ta có thể giải quyết được các vấn đề sau:
- Có thể biểu diễn rõ ràng các mối quan hệ phức tạp giữa các bộ phận của quá trình sản xuất, phân tích, tính toán các chỉ tiêu cần thiết của quá trình sản xuất đó để đi đến những quyết định phù hợp.
- Cho phép xử lý thông tin khi điều hành quá trình sản xuất để đi đến mục đích cuối cùng một cách tối ưu.
Nói chung phương pháp sơ đồ mạng lưới có thể được coi là phương pháp chỉ đạo sản xuất dựa trên cơ sở phương pháp kế hoạch hoá tối ưu, nó cho phép định hướng & điều hành các công việc của một quá trình sản xuất bất kỳ nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong thời gian ngắn nhất & sử dụng tối ưu các dự trữ cho phép.
II. Phương pháp xây dựng sơ đồ mạng lưới
Để xây dựng sơ đồ mạng lưới người ta sử dụng một số khái niệm của lý thuyết đồ thị sau đây:
1. Cơ sở lý thuyết đồ thị
1.1. Đồ thị có hướng
Là tập hợp các điểm và các cạnh có hướng, ký hiệu là G = {A,U}, trong đó A = {ai} là tập hợp các điểm, U = {ui} là tập hợp các cạnh có hướng.
Cạnh nối 2 điểm ai và aJ được ký hiệu là (i,j). Điểm ai được gọi là điểm gốc, điểm aJ được gọi là điểm ngọn của cạnh (i,j) và cạnh (i,j) được gọi là cạnh liên thuộc của 2 điểm ai và aJ. Hai cạnh (i,j) và (j,k) như hình vẽ (1.1) được gọi là 2 cạnh kề nhau.
aj
ai ak
Hình 1.1
1.2. Đường đi
Một đường đi từ điểm ao đến điểm an trong đồ thị G = {A,U} là tập hợp các cạnh cùng hướng kế tiếp nhau (nối đuôi nhau) đi từ ao đến an và tập hợp các điểm liên thuộc của tập hợp các cạnh trên.
a1
u3
u1 u4 a3
ao u5 u7
u2
a2 u6 u6 a4
Hình 1.2
Ví dụ: Trên đồ thị G = {A,U} ở hình vẽ (1.2) tập hợp {ao,u1,a1,u3,a3,u7,a4} là một đường đi từ ao đến a4.
Một đường đi từ ao đến an được gọi là đóng kín (hay chu trình) nếu ao trùng với an. Thí dụ đường đi {a1,u3,a3,u5,a2,u4,a1} trên hình (1.2) là một chu trình.
1.3. Dây chuyền
Một dây chuyền đi từ điểm a0 đến điểm an trong đồ thị G = {A,U} là tập hợp các điểm và các cạnh kề nhau liên tiếp nối a0 đến an (các cạnh có thể khác hướng).
Ví dụ: Tập hợp {a0,u1,a1,u3,a3,u7,a4}trên hình (1.2) là một dây chuyền nối a0 với a4
1.4. Đồ thị liên thông
Đồ thị G = {A,U} được gọi là đồ thị liên thông nếu giữa 2 điểm bất kỳ ai và ak đều có ít nhất một dây chuyền nối liền.
Ví dụ: Đồ thị trên hình vẽ (1.2) là một đồ thị liên thông.
1.5. Đồ thị phản xứng
Đồ thị G = {A,U} được gọi là đồ thị phản xứng nếu đã có cạnh hướng từ ai đến aj thì sẽ không có cạnh hướng từ aj đến ai.
1.6. Khuyên
Một cạnh có hướng nối một điểm với chính nó được gọi là một khuyên.
1.7. Đơn đồ thị
Đồ thị G = {A,U} được gọi là đơn đồ thị nếu giữa 2 điểm ai và aj chỉ có nhiều nhất một cạnh liên thuộc.
1.8. Mạng
Mạng là một đồ thị có hướng, liên thông, không khuyên, đơn và phản xứng, đồng thời trên mỗi cạnh (i,j) U được gắn một số thực được gọi là độ dài của cạnh.
Một mạng có điểm ai chỉ gồm toàn các cạnh đi ra và điểm an chỉ gồm toàn các cạnh đi vào được gọi là mạng Ford-Fulkerson.
Trong mạng Ford-Fulkerson điểm ai được gọi là điểm vào, điểm an được gọi là điểm ra.
Bao giờ cũng có thể biến một cạnh bất kỳ thành mạng Ford-Fulkerson bằng cách đưa thêm vào đồ thị các cạnh giả. Cạnh giả là cạnh có độ dài bằng 0 và được biểu diễn bằng một đường nét đứt (cạnh (1,2) trên hình 1.3). Độ dài của một đường đi là tổng độ dài của các cạnh của nó.
Mạng PERT là một mạng Ford-Fulkerson dùng để biểu thị một quá trình gồm nhiều khâu, nhiều công việc có mối liên hệ với nhau.
a4
6
3 4 a5
a1 5 8
7
1 2 a3 9 a6
a2
Hình 1.3
2. Các quy tắc xây dựng sơ đồ mạng lưới
Sơ đồ mạng lưới sử dụng 2 yếu tố lô gíc là công việc và sự kiện để xây dựng một mạng Ford-Fulkeson (PERT) theo các quy tắc sau:
- Công việc được biểu thị bằng một cạnh có hướng.
- Sự kiện được biểu thị bằng một điểm.
Điểm vào là sự kiện khởi công toàn bộ quá trình sản xuất, điểm ra là sự kiện hoàn thành toàn bộ quá trình sản xuất, các sự kiện trung gian đánh dấu sự kết thúc của một số công việc và sự bắt đầu của một số công việc khác, một công việc được coi như hoàn thành nếu như mọi công việc dẫn đến sự kiện đó hoàn thành.
- Công việc (i,j) được bắt đầu sau sự kiện i và kết thúc trước sự kiện j.
- Có thể dùng cạnh giả để biểu thị mối quan hệ giữa các công việc, kết hợp giữa các sự kiện khi cần thiết.
- Một số công việc phức tạp, trong quá trình thực hiện nó có thể bắt đầu hoặc kết thúc một số công viêc khác thì công việc này có thể được phân nhỏ thành các công việc con và sau mỗi công viêc con được biểu diễn bằng một cạnh.
Nói tóm lại, căn cứ vào trình tự tiến hành các công việc và bằng các quy tắc biểu diễn trên đây đầu tiên tiến hành phác thảo sơ đồ mạng lưới, sau đó điều chỉnh sao cho còn lại ít nhất các cạnh cắt nhau, ít nhất các cạnh giả, chỉ còn một điểm vào và một điểm ra, ghi thời gian tiến hành các công việc trên các cạnh tương ứng, ta sẽ có một sơ đồ mạng PERT biểu diễn quá trình sản xuất được quan tâm.
3. Quy tắc đánh số thứ tự cho các điểm (các sự kiện)
Để đảm bảo tính lô gíc của các sự kiện khởi công và kết thúc các công việc và để thuận tiện cho việc phân tích sơ đồ mạng lưới, sau khi xây dựng được sơ đồ mạng lưới ta phải tiến hành đánh số thứ tự cho các điểm (các sự kiện) theo quy tắc sau:
- Điểm vào mang số 1
- Sau khi một điểm đã được mang số (i) ta tưởng tượng xoá tất cả các cạnh có hướng mà gốc tại i và xét tất cả các điểm chưa được đánh số, điểm nào chỉ gồm các cạnh đi ra ta đánh số (i+1). Nếu có nhiều điểm như vậy ta lần lượt đánh số (i+1, i+2,...) theo thứ tự từ trên xuống cho các điểm ấy.
Sau khi sơ đồ mạng lưới được đánh số thứ tự, các công việc sẽ được đưa vào một bảng mới theo trình tự được đánh số để tiện cho việc phân tích và tính toán.
III. Phân tích sơ đồ mạng lưới theo chỉ tiêu thời gian
Để làm căn cứ cho công tác kế hoach hoá và quản lý quá trình sản xuất, sau khi xây dựng được sơ đồ mạng lưới ta cần phải tiến hành phân tích sơ đồ mạng lưới theo chỉ tiêu thời gian. Việc phân tích sơ đồ mạng lưới theo chỉ tiêu thời gian sẽ cho thấy được công việc nào cần phải quản lý sát sao còn những công việc nào có thể kéo dài thời gian tiến hành mà không ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất chung đã được đặt ra. Việc phân tích sơ đồ mạng lưới theo chỉ tiêu thời gian còn là căn cứ cho việc tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới theo các chỉ tiêu khác.
1. Các chỉ tiêu thời gian đối với các sự kiện
1.1. Thời gian sớm nhất hoàn thành sự kiện
Gọi tJs là thời điểm sớm nhất hoàn thành sự kiện j trên sơ đồ mạng lưới đã được đánh số thứ tự. Sự kiện 1 là sự kiện khởi công toàn bộ quá trình sản xuất do đó ta cho tjs = 0. Các sự kiện j 1 chỉ được hoàn thành khi mọi đường đi từ sự kiện 1 đến sự kiện j được hoàn thành, tức là có thể coi tJs là độ dài (thời gian) đường đi dài nhất từ sự kiện 1 đến sự kiện j .
Gọi tij là thời gian thực hiện công việc (i,j), ta có công thức xác định thời gian sớm nhất hoàn thành sự kiện j như sau:
tJs = 0 với j = 1
max (tJs + tiJ) với (i,j) UJ+ (1.1)
1.2. Thời gian muộn nhất hoàn thành sự kiện
Gọi tim là thời điểm muộn nhất hoàn thành sự kiện i.
Để đảm bảo thời gian thực hiện quá trình sản xuất không bị kéo dài, người ta thường mong muốn thời điểm muộn nhất hoàn thành sự kiện cuối cùng phải bằng thời điểm sớm nhất hoàn thành nó, tức là tns = tnm.
Thời điểm muộn nhất hoàn thành các sự kiện i còn lại (in) được xác định sao cho bảo đảm mọi công việc nằm trên các đường đi từ sự kiện đó đến sự kiện cuối cùng đều được hoàn thành mà thời gian hoàn thành toàn bộ quá trình sản xuất không bị kéo dài. Nói cách khác, thời điểm muộn nhất hoàn thành mỗi sự kiện bằng hiệu số giữa thời gian hoàn thành toàn bộ quá trình sản xuất với tổng thời gian tiến hành các công việc nằm trên đường đi dài nhất từ sự kiện đó đến sự kiện cuối cùng. Từ đó ta có công thức tính tim như sau:
tim = tns với i = n
min (tJm - tiJ) với (i,j) UJ- (1.2)
1.3. Thời gian dự trữ của sự kiện
Dự trữ thời gian của sự kiện nào đó là hiệu số giữa thời điểm muộn nhất và thời điểm sớm nhất hoàn thành sự kiện đó.
Ký hiệu di là dự trữ thời gian của sự kiện i, nó được xác định theo công thức:
di = tim - tis (1.3)
1.4. Ghi các chỉ tiêu thời gian của các sự kiện trên sơ đồ mạng lưới
Để thuận tiện cho việc phân tích sơ đồ mạng lưới người ta biểu diễn các chỉ tiêu thời gian của các sự kiện ngay tại các điểm của sơ đồ mạng lưới. Mỗi một điểm được chia thành 4 góc như hình (1.4) dưới đây.
Trong đó:
j : chỉ số sự kiện
j
tJs : Thời điểm sớm nhất hoàn thành
tjm
tjs
sự kiện j
i(j)
tJm : Thời điểm muộn nhất hoàn thành
sự kiện j
i(j) : Chỉ số của sự kiện i đi liền trước
sự kiện j và nằm trên đường đi dài Hình 1.4
nhất từ i đến j (tức là nó đạt giá trị max trong biểu thức tính tJs)
1.5. Đường găng và ý nghĩa của đường găng
Đường găng là đường đi dài nhất từ sự kiện i đến sự kiện n. Công việc nằm trên đường găng được gọi là công việc găng. Sự kiện nằm trên đường găng được gọi là sự kiện găng.
Đường găng được tìm thấy một cách rễ ràng nhờ chỉ số i(j) ghi trên các sự kiện theo quy tắc sau: Từ sự kiện cuối cùng (điểm ra) đi ngược lại các sự kiện theo chỉ số i(j) cho tới sự kiện đầu tiên (điểm vào) và tô đậm các điểm và các cạnh vừa đi qua. Đường đi từ điểm vào đến điểm ra bao gồm các sự kiện và các công việc (các cạnh) được tô đậm chính là đường găng. Sơ đồ mạng lưới có thể có thể có 1 hoặc nhiều đường găng.
ý nghĩa của đường găng: Việc tìm ra đường găng trong sơ đồ mạng trên cơ sở tính toán, là một trong những ưu điểm nổi bật của sơ đồ mạng. Trên thực tế, đường găng đóng vai trò hết sức quan trọng vì nó có ý nghĩa sau: Thời gian hoàn thành toàn bộ quá trình sản xuất không thể nhỏ hơn tổng thời gian của các công việc trên đường găng, do đó khi có công việc găng nào đó bị chậm chễ thì toàn bộ quá trình sản xuất sẽ được hoàn thành chậm lại. Hay nói cách khác, tốc độ hoàn thành quá trình sản xuất chỉ tăng lên (thời gian hoàn thành rút ngắn lại) khi các công việc găng được rút ngắn thời gian hoàn thành. Từ đó ta thấy đường găng là tập hợp các công việc xung yếu, người chỉ đạo sản xuất cần quan tâm đầy đủ và có biện pháp tích cực để hoàn thành đúng thời hạn các công việc này. Các công việc găng nói chung chỉ chiếm khoảng 10% đến 15% tổng số các công việc của quá trình sản xuất nên người chỉ đạo dễ dàng theo dõi và xử lý kịp thời các tình huống làm kéo dài thời hạn hoàn thành chúng. Sơ đồ mạng là một mô hình toán học động, thể hiện một kế hoạch động, nên rất phù hợp với thực tế. Nhờ phân tích sơ đồ mạng mà tính lại được đường găng, ta có thể điều hoà, phối hợp lại các sự kiện từ các công việc không găng cho các công việc găng. Đó là quy tắc ưu tiên một cách khoa học trong chỉ đạo sản xuất. Mặt khác, sau khi lập được mô hình mạng, ta mới tính toán để tìm ra đường găng. Do đó, đường găng mang yếu tố khách quan, nó phản ánh đúng “Sự găng” về lô gíc công việc, chứ không phụ thuộc vào tên công việc là quan trọng hay không quan trọng. Cho nên nhiều công việc găng là các công việc ảo, nó không đòi hỏi chi phí tài nguyên, nếu theo kinh nghiệm thì chắc chắn không được xếp vào công việc quan trọng. Điều đó giúp ta tránh được căng thẳng giả tạo trong chỉ đạo sản xuất. Đường găng còn có ý nghĩa khi chuyển sơ đồ mạng từ mô hình mạng lưới lên trục thời gian, sẽ làm xuất hiện các dự trữ của các công việc không găng, dùng để điều chỉnh nhân lực sau này. Đường găng còn đóng vai trò chính trong việc giải quyết các bài toán về “Tìm luồng cực đại” trong bài toán về vận tải trên mạng lưới đường giao thông.
2. Các chỉ tiêu thời gian đối với các công việc
Thông qua các chỉ tiêu thời gian đối với các sự kiện ta có thể đánh giá được tình hình sử dụng thời gian đối với các công việc, cụ thể là thời gian tis cho biết thời điểm khởi công sớm nhất của các công việc có cạnh đi ra khỏi sự kiện i và tJm cho biết thời điểm hoàn thành muộn nhất của các công việc có cạnh đi tới sự kiện j. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý sản xuất người ta còn quan tâm đến các loại thời gian dự trữ của mọi công việc thuộc quá trình sản xuất đó, vì vậy cần phải biết các chỉ tiêu thời gian sau đây:
2.1. Thời gian dự trữ đầy đủ của các công việc
Thời gian dự trữ đầy đủ của công việc (i,j) ký hiệu là dij là khoảng thời gian mà công việc (i,j) có thể kéo dài tối đa mà không làm ảnh hưởng tới thời gian hoàn thành toàn bộ quá trình sản xuất. Từ ý nghĩa trên ta suy ra thời gian dự trữ đầy đủ của công việc (i,j) là khoảng thời gian chênh lệch giữa độ dài đường găng và độ dài đường đi dài nhất từ sự kiện 1 đến sự kiện n qua công việc (i,j).
Ta đã biết tis là độ dài đường đi dài nhất từ sự kiện 1 đến sự kiện i. Nếu ký hiệu tdG là độ dài đường găng, thì (tdG - tJm) sẽ là độ dài đường đi dài nhất từ sự kiện j đến sự kiện n. Khi đó thời gian dự trữ đầy đủ của công việc (i,j) sẽ là:
diJ = tdG -[tis + tiJ + (tdG - tJm)] = tJm - tis - tiJ (1.4)
Có thể tìm đường găng bằng cách đi từ sự kiện 1 đến sự kiện n qua các sự kiện găng (di = tim - tis =0) xen kẽ các công việc có dự trữ đầy đủ bằng không (diJ = 0). Các công việc có thời gian dự trữ đầy đủ rất nhỏ được gọi là các công việc gần găng.
2.2. Thời gian dự trữ riêng của các công việc không găng
Các công việc không găng ngoài thời gian dự trữ đầy đủ còn có hai loại thời gian dự trữ riêng loại 1 và thời gian dự trữ riêng loại 2.
2.2.1. Thời gian dự trữ riêng loại 1
Thời gian dự trữ riêng loại 1 của công việc (i,j) ký hiệu là dIJ1 là khoảng thời gian mà công việc (i,j) có thể kéo dài tối đa mà không ảnh hưởng tới thời điểm muộn nhất hoàn thành công việc.
Từ đó ta có công thức tính như sau:
dIJ1 = tJm- tim - tiJ (1.5)
2.2.2. Thời gian dự trữ riêng loại 2
Thời gian dự trữ riêng loại 2 của công việc (i,j) ký hiệu là dIJ2 là khoảng thời gian mà công việc (i,j) có thể kéo dài tối đa mà không ảnh hưởng tới thời điểm sớm nhất hoàn thành công việc.
Từ đó ta có công thức tính như sau:
dIJ2 =tJs - tis -tiJ (1.6)
2.2.3. Thời gian dự trữ độc lập của các công việc không găng.
Thời gian dự trữ độc lập của công việc không găng (i,j) được ký hiệu là diJdl là khoảng thời gian mà công việc (i,j) có thể kéo dài tối đa mà không ảnh hưởng đến thời điểm muộn nhất hoàn thành các công việc kề trước và thời điểm khởi công sớm nhất các công việc kề sau nó. Thời gian dự trữ độc lập của công việc không găng (i,j) là thời gian dự trữ dành riêng cho công việc đó được phép sử dụng còn các công việc không găng khác không được sử dụng.
Ta có công thức tính thời gian dự trữ độc lập của công việc (i,j) như sau:
diJdl = max{0; tis - tJm - tiJ} (1.7)
2.2.4. Thời gian dự trữ chung của các công việc không găng.
Thời gian dự trữ chung của công việc (i,j) được ký hiệu là diJc là khoảng thời gian được sử dụng cho các công việc không găng kề nhau trên đường đi dài nhất từ 1 đến n qua công việc (i,j) đó.
Ta có công thức tính thời gian dự trữ chung của công việc (i,j) như sau :
diJc = dịJ - diJdl (1.8)
IV. Hệ số căng và hệ số rỗi công việc
1. Hệ số căng của công việc
Thời gian dự trữ đầy đủ của công việc chưa nói rõ mức độ căng thẳng của thời gian hoàn thành công việc đó. Để đo mức độ căng thẳng của thời hạn hoàn thành công việc đó người ta dùng chỉ tiêu hệ số căng của công việc.
Hệ số căng của công việc (i,j) được ký hiệu là KiJc và được xác định theo công thức sau:
KiJc = 1 với (i,j) đường găng
1 - với(i,j)đường găng (1.9)
Trong đó: tdg là độ dài đường găng
tdg (lmaxij) là độ dài đoạn đường găng trùng với đường đi dài nhất từ sự kiện 1 đến sự kiện n qua công việc (i,j).
Các công việc có hệ số căng bằng 1, có nghĩa là nhịp độ hoàn thành công việc này rất căng thẳng đòi hỏi phải có sự quan tâm sát sao của người quản lý, đó là các công việc găng. Hệ số căng của các công việc gần bằng 1 thì mức độ căng thẳng của thời hạn hoàn thành công việc đó càng lớn. Những công việc có hệ số căng xấp xỉ 1 người ta gọi chúng là các công việc gần găng. Khi chỉ đạo sản xuất, mức độ quan tâm của người quản lý tuỳ thuộc vào hệ số căng của từng công việc. Công việc găng được các nhà quản lý quan tâm nhiều nhất sau đó đến các công việc gần găng và mức độ quan tâm của họ sẽ giảm dần theo chiều giảm của hệ số căng của công việc.
2. Hệ số rỗi của công việc
Đối với các công việc có hệ số căng thấp (nhỏ hơn 1 khá nhiều), người ta thường tìm hiểu xem thời gian hoàn thành các công việc này có thể kéo dài được bao nhiêu lần mà không ảnh hưởng đến thời hạn hoàn thành các công việc khác. Vì vậy, ngoài hệ số căng người ta còn dùng thêm hệ số rỗi công việc.
Hệ số rỗi công việc (i,j) được ký hiệu là KiJr, nó được xác định theo công thức sau:
KiJr = (1.10)
V. Mối quan hệ giữa thời gian và giá thành trong sơ đồ mạng
1. Giới thiệu chung
Có thể thấy rằng việc rút ngắn thời gian sản xuất là một trong những vấn đề được rất nhiều các doanh nghiệp quan tâm, bởi lẽ việc rút ngắn thời gian sản xuất tạo điều kiện cho việc hạ giá thành sản phẩm. Đối với người tổ chức, quản lý nói chung, muốn rút ngắn thời gian sản xuất cần phải quan tâm tới toàn bộ các vấn đề về kinh tế - kỹ thuật của đơn vị mình. Trong đó hai yếu tố quan trọng gắn bó với nhau là thời gian và giá thành, đặc biệt trong quá trình lập phương án kế hoạch và thực hiện thì việc phân tích hai yếu tố này có ý nghĩa thực tiễn rất lớn.
Có thể hiểu một cách tổng quát giá thành là biểu hiện bằng tiền của tất cả những chi phí về lao động sống và lao động quá khứ của đơn vị sản xuất trong quá trình làm ra sản phẩm. Giá thành là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh trình độ tổ chức, kế hoạch hoá quản lý kỹ thuật và năng suất lao động. Chính vì vậy, ngay từ khâu lập phương án kế hoạch, chúng ta cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa thời gian sản xuất và chi phí sản xuất.
Vấn đề thường được quan tâm là rút ngắn thời gian sản xuất, song nó chỉ có ý nghĩa khi gắn liền với yêu cầu: Làm thế nào để sự tăng chi phí do rút ngắn thời gian là nhỏ nhất. Đây là bài toán tương đối phức tạp vì cần phải so sánh nhiều phương án có thể rút ngắn thời gian. Hiện nay, bằng thuật toán chúng ta có khá nhiều phương pháp tính toán như phương pháp giải bài toán trên mạng, bài toán tìm luồng cực đại.
Tuy nhiên, chỉ có một số ít phương pháp áp dụng được trong thực tế. Để rút ngắn thời gian, ta có thể thay đổi về kỹ thuật hoặc về tổ chức, thường được giải quyết bằng cách sắp xếp lại các công việc thay thế những công việc này bằng những công việc khác. Các sự thay đổi này không nhất thiết phải kèm theo sự thay đổi về phương tiện.
Chỉ cần gộp lại hay phân nhỏ một số công việc trên đường găng, đã có thể đưa đến kết quả là đường găng đổi hướng và chiều dài của nó được rút ngắn, phân nhỏ công việc tạo thêm những công việc mới có thể làm đồng thời với những công việc cũ, và như vậy bao giờ cũng có khả năng rút ngắn toàn bộ thời gian của quá trình sản xuất.
Nếu làm theo cách này có kết quả thì không phải chi phí gì thêm, vì thời gian thực hiện từng công việc là hợp lý, ta sẽ phải rút ngắn thời gian thực hiện một số công việc, để rút ngắn thời hạn toàn bộ quá trình sản xuất. Chúng ta có thể đạt được bằng cách :
- Tăng thêm công nhân lao động để rút ngắn thời gian.
- Chuyển giao công nghệ từ lao động thủ công sang cơ giới.
- Tăng thêm máy móc, thiết bị.
- Tổ chức lại sản xuất, phân chia thành các công đoạn.
- Làm thêm giờ, thêm ca.
Tất nhiên các biện pháp trên sẽ kéo theo sự tăng thêm chi phí, mỗi công việc có tầm quan trọng khác nhau, chúng ta phải trả lời được câu hỏi rút ngắn bao nhiêu, rút ngắn công việc nào, để đạt được thời hạn quy định mà chi phí tăng thêm là ít nhất?
Chúng ta sẽ nghiên cứu mối quan hệ này để giải bài toán trên cơ sở ứng dụng phương pháp sơ đồ mạng lưới.
2. Thời gian và giá thành
Mối quan hệ giữa thời gian và giá thành của công việc (i,j) được biểu diễn theo đồ thị sau:
Hình 1.5: Mối quan hệ giữa thời gian và giá thành
Giá thành(c)
Điểm giới hạn
Đường cong lý thuyết C và t CA A
Lấy gần đúng là đường thẳng
CB B
Điểm bình thường
tA tB Thời gian(t)
Từ đồ thị ta thấy:
- Nếu công việc thực hiện trong điều kiện bình thường (Điểm B) thì giá thành là nhỏ nhất.
- Nếu rút ngắn thời gian sẽ phải tăng thêm chi phí nhưng đến một mức độ giới hạn (Điểm A) thì dù có tăng thêm chi phí vẫn không rút ngắn thêm được thời gian nữa vì điều kiện kỹ thuật.
- Nếu quá điểm bình thường (Điểm B) thì sự kéo dài thời gian cũng làm tăng thêm chi phí.
Trong phương pháp sơ đồ mạng, chúng ta đã giả thiết thời gian thực hiện mỗi công việc (i,j) là một số xác định (tij). Như vậy, thời gian này là một hằng số. Khi cần rút ngắn thời gian thì thời gian thực hiện một số công việc trở thành những biến số độc lập được xác định trong khoảng:
tAtiJtB
Trong đó:
tA: thời gian tối thiểu thực hiện công việc (i,j)
tB: thời gian tối đa thực hiện công việc (i,j), còn gọi là thời gian bình thường thực hiện công việc (i,j). Với thời gian này, công việc được tiến hành trong những điều kiện bình thường và chi phí nhỏ nhất.
Để thấy rõ được mối quan hệ giữa thời gian và giá thành ta đi xét một vài chỉ tiêu liên quan sau.
2.1. Hệ số giá thành
Khi giảm thời gian thì chi phí và giá thành sẽ tăng thêm “sự tăng giá thành khi giảm một đơn vị thời gian của công việc được gọi là hệ số giá thành”.
Từ hình vẽ (1.5) ta có thể xác định được hệ số giá thành (hGT) như sau:
hGT = = () (1.11)
Hệ số giá thành biểu thị cái “giá “mà ta phải trả khi rút ngắn thời gian thực hiện công việc.
2.2. Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp
Trong bất kỳ một doanh nghiệp nào giá thành tổng cộng của sản phẩm cũng bao gồm trong đó hai phần, đó là chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Việc xác định giá thành thực chất là xác định hai loại chi phí trên, mà đặc điểm của từng loại có ảnh hưởng rất riêng biệt đến bài toán mà ta nghiên cứu.
2.2.1. Chi phí gián tiếp
Quá trình tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới có liên quan đến chi phí tiến hành các công việc, tuy nhiên các chi phí này thường chỉ là các chi phí trực tiếp tiến hành các công việc chứ không bao gồm các chi phí gián tiếp bởi vì thời gian tiến hành công việc ít chịu ảnh hưởng của các chi phí gián tiếp này, vả lại nếu muốn tính đến cả chi phí gián tiếp của từng công việc thì chi phí này là các chi phí phân bổ mà việc phân bổ các chi phí cho các công việc là việc làm khá phức tạp và khó chính xác nên người ta thường bỏ qua.
2.2.2. Chi phí trực tiếp
Khác với chi phí gián tiếp, chi phí trực tiếp tăng khi thời gian giảm và khi thời gian vượt quá giới hạn của thời gian bình thường thì chi phí trực tiếp cũng tăng khi thời gian tăng.
Đồ thị chi phí trực tiếp (hình 1.6) là một đường cong bậc hai có cực tiểu tại điểm bình thường. Trong thực tế thường không có đủ số liệu, nên đường cong biểu diễn mối quan hệ thời gian và giá thành thường lấy gần đúng là một đường thẳng.
Hình 1.6: Đồ thị chi phí trực tiếp
Giá thành(c)
D(tA,max)
A(tA,cA)
C(ti,ci) B(tB,cB)
tA ti tB Thời gian(t)
Trong đó:
B : Giá thành tối thiểu với thời gian bình thường (tB).
A: Giá thành tối thiểu với thời gian tối thiểu (tA).
C: Giá thành tối thiểu với thời gian (ti).
D: Giá thành tối đa với thời gian tối thiểu (tA).
tB: Thời gian thực hiên dự án trong điều kiện bình thường.
tA: Thời gian tối thiểu thực hiện dự án.
Từ đồ thị ta có:
CiJ = hGTiJ*tiJ + biJ (1.12)
Hệ số hGTiJ: Có ảnh hưởng quyết định tới kết quả của bài toán.
biJ: Biểu thị số chi phí cố định nên không có tác dụng gì trong việc giải bài toán.
Từ các hàm số giá thành của các công việc (i,j) ta có thể đi tới hàm số giá thành toàn bộ.
Hàm số giá thành toàn bộ được biểu diễn như sau:
C = SCiJ = S (hgtiJ*tiJ + biJ) = min! (1.13)
Nếu trong sơ đồ mạng tất cả các công việc đều làm bình thường thì không có vấn đề gì, vì chỉ có một kết quả về một giá thành toàn bộ (Điểm B) trên hình (1.6). Nhưng nếu ta tiến hành rút ngắn toàn bộ thời gian thực hiện công việc thì tất nhiên phải rút ngắn một số công việc và sẽ có rất nhiều cách chọn các công việc mà ta có thể rút ngắn được, để đảm bảo được thời hạn quy định (ti).
VI. Tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới
1. Nội dung phương pháp
Trong quá trình lập kế hoạch sản xuất, một bài toán thường được đặt ra là tìm phương án sản xuất sao cho với thời gian định trước mà tổng chi phí là ít nhất, hoặc ngược lại, hãy tìm phương án sản xuất sao cho với chi phí định trước mà thời hạn hoàn thành là ngắn nhất.
Ví dụ: Cho trước thời hạn chuẩn bị tầng khai thác mới để vào sản xuất trong kỳ tới, hãy xây dựng phương án thi công sao cho tổng chi phí vốn đầu tư cho công tác chuẩn bị chuẩn bị tầng khai thác đó là ít nhất. Hoặc là trong phạm vi cho phép về vốn đầu tư giành cho công tác chuẩn bị tầng khai thác mới hãy tìm phương án thi công mới sao cho tầng khai thác đó được đưa vào khai thác sớm nhất.
Bài toán trên đây thuộc loại bài toán tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới. Bài toán này có thể được giải bằng nhiều phương pháp khác nhau như phương pháp quy hoạch tuyến tính, phương pháp quy hoạch động, nhưng đơn giản nhất và thông dụng nhất là phương pháp Ford-Fulkerson.
Nội dung của phương pháp tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới bằng Ford-Fulkerson là xuất phát từ sơ đồ mạng lưới ứng với một phương án tối ưu ở nhịp độ nào đó (thường xuất phát từ nhịp độ bình thường) tiến hành biến đổi từng bước sơ đồ mạng lưới trên cơ sở rút ngắn thời gian hoàn thành các công việc nằm trên đường găng.
2. Trình tự áp dụng sơ đồ mạng lưới
Không nên quan niệm rằng sơ đồ mạng lưới là một công cụ vạn năng, được áp dụng cho mọi lĩnh vực, mọi đối tượng và hễ đưa vào áp dụng là dẫn đến hiệu quả kinh tế cao.
Thực chất, sơ đồ mạng lưới thường được áp dụng trong các lĩnh vực kế hoạch hoá và chỉ đạo các quá trình sản xuất, trong đó các khâu công việc có các mối liên hệ phức tạp. Hơn nữa, muốn đưa phương pháp sơ đồ mạng lưới áp dụng vào sản xuất có kết quả chúng ta phải thay đổi phương pháp tổ chức lao động, phải xây dựng được hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật tiên tiến,._. giảm bớt các khâu chỉ đạo trung gian, áp dụng cơ chế quản lý thích hợp. Đối với người chỉ đạo, đòi hỏi phải luôn bám sát sản xuất, có trình độ khoa học kỹ thuật, nhạy bén và sáng tạo trong mọi tình huống, đồng thời phải luôn có ý thức làm chủ và có tinh thần khắc phục khó khăn thì việc áp dụng sơ đồ mạng lưới mới có thể đem lại kết quả mong muốn.
Khi áp dụng sơ đồ mạng lưới vào sản xuất thông thường người ta tiến hành theo trình tự sau:
2.1. Bước chuẩn bị
Đây là một bước khá quan trọng, nó quyết định phần lớn sự thành công của việc áp dụng sơ đồ mạng lưới. Bước này bao gồm các phần việc sau đây:
2.1.1. Phân tích quy trình sản xuất
Tìm hiểu và liệt kê tên gọi, trình tự tiến hành và các chỉ tiêu khác có liên quan của tất cả các công việc thuộc quá trình sản xuất, phân tích kỹ từng công việc để đi đến kết luận cần kết hợp hay phân nhỏ chúng khi xây dựng sơ đồ mạng lưới.
Chú ý rằng, trình tự các công việc không được liệt kê theo sự phân công lao động hiện tại mà phải dựa vào mối quan hệ về mặt công nghệ sản xuất. Khi liệt kê các công việc cần ghi rõ công việc đó do đơn vị nào phụ trách.
2.1.2. Ước lượng thời gian hoàn thành công việc
Thời gian hoàn thành công việc (i,j) được ký hiệu là tiJ. Nó có thể được tính bằng đơn vị: phút, giờ, ngày, tuần , tháng, quý hay năm tuỳ thuộc vào quá trình sản xuất cũng như mục đích và nội dung cần nghiên cứu bằng sơ đồ mạng lưới.
Việc xác định đúng đắn thời gian hoàn thành công việc có ý nghĩa quyết định đến giá trị thực tế của sơ đồ mạng lưới.
Để xác định được tiJ người ta thường dùng 2 phương pháp sau:
a. Phương pháp đánh giá chính xác: Theo phương pháp này thời gian hoàn thành công việc được xác định trên cơ sở mức có căn cứ kỹ thuật và được kiểm nghiệm qua thực tế sản xuất.
b. Phương pháp ước lượng: Phương pháp này dựa vào hai hoặc ba ước lượng để tính ra thời gian trung bình hoàn thành công việc. Các ước lượng đó là:
+ Ước lượng khả quan (a): Là thời gian ngắn nhất hoàn thành công việc trong điều kiện sản xuất thuận lợi nhất.
+ Ước lượng với xác suất lớn nhất (m): Là thời gian hoàn thành công việc với khả năng xảy ra cao nhất.
+ Ước lượng bi quan (b): Là thời gian hoàn thành công việc trong điều kiện sản xuất khó khăn nhất.
2.1.3. Lập bảng tổng hợp sơ bộ
Các kết quả thu được ở phần trên được tổng hợp lại vào bảng (1.7) sau:
Bảng 1.7: Bảng tổng hợp sơ bộ
Stt
Tên công việc
Đơn vị phụ trách
Trình tự tiến hành
Định mức
Số lượng lao động
Thời gian
hoànthành
Bậc thợ
Mức độ lao động
1
2
3
4
5
6
7
8
2.2. Xây dựng sơ đồ mạng lưới
Dựa vào dữ liệu trong bảng (1.7), theo quy tắc thiết lập sơ đồ mạng lưới ta sẽ xây dựng sơ đồ mạng lưới biểu diễn quá trình sản xuất được nghiên cứu.
2.3. Phân tích sơ đồ mạng lưới theo chỉ tiêu thời gian
Sau khi xây dựng xong sơ đồ mạng lưới ta tiến hành phân tích nó theo chỉ tiêu thời gian. Cần chú ý rằng khi đưa sơ đồ mạng lưới vào sản xuất, việc thực hiện các công việc chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau, có những nhân tố mang tính chất chủ quan, có những nhân tố mang tính chất khách quan và có những nhân tố hoàn toàn mang tính chất ngẫu nhiên làm cho thời hạn hoàn thành toàn bộ quá trình sản xuất sẽ không xảy ra chính xác như đã được ấn định mà sẽ có những sai lệch nhất định (kể cả trường hợp thời gian tiến hành từng công việc được xác định căn cứ vào định mức kinh tế kỹ thuật). Vì vậy, khi phân tích sơ đồ mạng lưới theo chỉ tiêu thời gian ta cần phải đưa ra chỉ tiêu đánh giá thời hạn hoàn thành quá trình sản xuất được nghiên cứu.
2.4. Tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới
Căn cứ vào mục tiêu đã đề ra cho quá trình sản xuất người ta tiến hành tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới bằng phương pháp thích hợp. Quá trình này có thể sử dụng phương pháp Ford- Fulkerson, phương pháp quy hoạch tuyến tính hoặc quy hoạch động và kết hợp sử dụng máy tính điện tử.
2.5. Chỉ đạo sản xuất sơ đồ mạng lưới
Sau khi đã thực hiện tất cả các bước từ xây dựng, phân tích đến tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới, để sơ đồ mạng lưới áp dụng vào sản xuất đạt kết quả tốt, ta cần tiến hành các công việc sau:
- Phải thành lập bộ phận tổng hợp nhằm chỉ đạo việc thực hiện quá trình sản xuất theo đúng tiến độ đã được xây dựng, giải quyết các tình huống đi chệch với phương án kế hoạch. Bộ phận này thường bao gồm các cán bộ phụ trách sản xuất.
- Xây dựng kế hoạch định kỳ báo về trung tâm điều hành của các bộ phận trong dây chuyền sản xuất theo các nội dung sau đây: Việc đã hoàn thành, việc bỏ đi vì không cần nữa, việc mới đưa vào chưa có dự kiến, sự thay đổi nội dung công việc, thay đổi thời gian hoàn thành công việc.
Quá trình chỉ đạo sản xuất theo sơ đồ mạng lưới là một quá trình xử lý liên tục các biến động một cách tối ưu về mặt thời gian và theo một tiêu chuẩn tối ưu nào đó nên cần phải xây dựng lại sơ đồ mạng lưới tại từng thời điểm có sự biến động, xác định lại các chỉ tiêu thời gian, từ đó điều chỉnh lại phương án sản xuất và có biện pháp đẩy nhanh quá trình sản xuất.
Tóm lại, để việc áp dụng sơ đồ mạng lưới vào tổ chức sản xuất có hiệu quả thì quá trình áp dụng nó cần phải được tiến hành theo một trình tự nhất định. Quá trình đó có thể được mô tả bằng sơ đồ ở hình (1.8) dưới đây:
Hình 1.8: Quá trình áp dụng sơ đồ mạng lưới vào sản xuất
Lập lại và phân tích lại sơ đồ mạng lưới
Bước chuẩn bị
Tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới
Xây dựng sơ đồ mạng lưới
Truyền đạt thông tin
Xác định nhiệm vụ cho người thực hiện
Phân tích sơ đồ mạng lưới
Thông tin về quá trình sản xuất
Điều khiển quá trình sản xuất
Thực hiện theo sơ đồ mạng lưới
VII. Sự cần thiết phải áp dụng phương pháp sơ đồ mạng trong quản trị kho tàng
Dầu khí nói chung là một khoáng sản quý do thiên nhiên ban tặng cho con người. Nó đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vì nó vừa là nguyên liệu vừa là năng lượng. Đồng thời là nguồn thu nhập ngoại tệ mạnh cho các nước sản xuất dầu thô.
Thực tế cho thấy một nền kinh tế phát triển bao giờ cũng kèm theo việc gia tăng tiêu thụ năng lượng. Tuy nhiên nguồn năng lượng hoá thạch này lại không được phân bố đồng đều giữa các nước. Do đó những nước nào may mắn có được nguồn hoá thạch này thì việc sản xuất chúng là cơ may đặc biệt cho nền kinh tế cất cánh.
Việt Nam là một trong những nước may mắn có được sự hiện diện của dầu khí và ngành dầu khí mang lại lợi nhuận lớn cho đất nước, đồng thời cũng là ngành chủ lực cho nền kinh tế quốc dân.
Vì tầm quan trọng và vai trò to lớn của dầu khí trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, nhà nước đã đầu tư hàng tỷ đô la vào ngành này. Tuy nhiên tình hình hiện nay của nền nền kinh tế đất nước còn gặp nhiều khó khăn do lịch sử đất nước phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh nên không có những nguồn vốn tích luỹ lớn, không thể đảm bảo vấn đề về vốn để phát triển nghành này theo ý muốn. Mặt khác, hệ thống cở sở vật chất, kho tàng, bến bãi còn chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành. Từ đó cho thấy vấn đề chi phí cho công tác quản trị kho tàng nói chung là rất cần thiết. Có thể nói rằng sự phát triển của nghành phụ thuộc rất nhiều vào các khoản chi phí này. Việc sử dụng đúng, hiệu quả, tiết kiệm và tối ưu hoá trong quy trình xuất nhập hàng góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả đầu tư cũng như tối thiểu hoá chi phí, giảm giá thành và rút ngắn thời gian sản xuất.
1. Xây dựng hệ thống kho tàng
Có thể nói rằng việc xây dựng hệ thống kho tàng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào là một yêu cầu cần thiết, chỉ trừ trường hợp một số doanh nghiệp kinh doanh các sản phẩm mà quá trình mua sắm và quá trình sử dụng chúng được tiến hành đồng thời do chúng được vận chuyển liên tục đến doanh nghiệp bằng dây dẫn hoặc đường ống (điện, nước). Còn lại đối với hầu hết mọi loại hàng hoá khác đều mang đặc điểm là tách rời quá trình mua sắm và sử dụng nên doanh nghiệp phải tiến hành tổ chức lưu kho chúng. Lưu kho ở đây được hiểu theo hai nghĩa, thứ nhất với ý nghĩa là dự trữ thì lưu kho chính là quá trình dự trữ hàng hoá ở trong kho sau khi hàng hoá được nhập vào doanh nghiệp và trước khi xuất chúng ra khỏi doanh nghiệp (đem bán), chẳng hạn như xăng dầu sau khi được nhập từ các kho lớn của Tổng công ty được các công ty thành viên dự trữ trong các kho, bể chứa của công ty mình sau đó mới có thể xuất bán cho thị trường. Thứ hai có thể hiểu lưu kho là một bộ phận của quá trình sản xuất, chẳng hạn nếu cần phải lưu kho để làm khô (gỗ, gạch ngói) hoặc lên men và chín (rượu vang, đồ hộp) trước khi chúng có thể được chế biến tiếp tục hay đem bán, loại lưu kho này được gọi là lưu kho sản xuất. Tuy nhiên, trong điều kiện giá tăng hoặc những hạn hẹp về mua sắm trong tương lai thì bên cạnh các chức năng cân đối và bảo hiểm việc dự trữ còn có ý nghĩa đầu cơ. Trong trường hợp này, lượng đặt hàng không dựa trên cơ sở cầu của thời kỳ kế hoạch mà thường dựa trên cơ sở năng lực kho tàng và các khả năng về tài chính.
Muốn lưu kho doanh nghiệp phải xây dựng hệ thống kho tàng thích hợp. Giữa mua sắm, vận chuyển và lưu kho tồn tại mối quan hệ sau: mọi hàng hoá mua sắm ở thị trường phải được vận chuyển đến doanh nghiệp và tạm thời dự trữ trong kho (trừ các trường hợp ngoại lệ). Việc tính toán, bố trí hệ thống kho tàng phải nhằm mục tiêu đáp ứng kịp thời yêu cầu sản xuất (bán hàng) với chi phí kinh doanh tối thiểu. Doanh nghiệp không chỉ hình thành kho nhập mà còn cả kho chuẩn bị, kho trung gian và kho xuất vật tư. Kho nhập chứa các vật tư hàng hoá mua vào và chuẩn bị cho việc xuất vật tư hàng hoá. Kho chuẩn bị được tổ chức như những nơi làm việc nhất định. Hàng hoá ở trong kho được phân loại phù hợp với những đòi hỏi sử dụng chúng ở các nơi làm việc. Kho trung gian có thể cần cho các sản phẩm dở dang và bán thành phẩm ở các mức độ khác nhau. Kho xuất chỉ có ở cuối quá trình sản xuất. Kho này chỉ nhận và lưu trữ thành phẩm cho tới khi bán hoặc chuyển hàng cho khách nên được tổ chức ở bộ phận tiêu thụ.
Về nguyên tắc ở các doanh nghiệp thương mại không cần có sự tách biệt giữa kho nhập, kho trung gian và kho xuất. Thông thường các doanh nghiệp này chỉ phân kho hàng hoá theo số lượng, không gian và thời gian để hoàn thành việc chuyển hoá giữa mua và bán.
Có thể có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại hệ thống kho tàng, dưới đây chỉ đề cập đến các tiêu thức phổ biến:
- Nếu căn cứ vào không gian phân bố sẽ có hình thức kho tập trung và hình thức kho phân tán:
+ Bố trí kho tập trung là hình thức tổ chức một kho lớn cho toàn doanh nghiệp. Với kho dự trữ này chi phí kinh doanh quản trị kho tàng sẽ ít hơn so với tổ chức kho phi tập trung vì chi phí kinh doanh về lao động sẽ giảm, hiệu quả hợp lý hoá có thể đạt được nhờ bố trí kho tàng và thiết bị vận chuyển hợp lý. Những kho xa nơi sử dụng sẽ bất lợi lớn: lợi thế chi phí kinh doanh của kho trung tâm sẽ giảm và thậm chí mất hẳn do chi phí kinh doanh cho vận chuyển nội bộ lớn.
+ Bố trí kho phân tán là việc xây dựng nhiều kho nhỏ lẻ ở nhiều vị trí khác nhau. Kho phân tán gây ra chi phí kinh doanh quản trị kho tàng lớn song nếu gần nơi sử dụng sẽ đem lại lợi thế của việc giảm chi phí kinh doanh do việc vận chuyển vòng vèo. Mặt khác, khi chi phí sản xuất (bán hàng) phân tán thì việc bố trí kho phân tán sẽ đáp ứng yêu cầu đảm bảo cung ứng trực tiếp, tránh các nguy cơ không cung ứng kịp thời do những trục trặc trong quá trình vận chuyển gây ra.
Trường hợp bố trí kho tàng tập trung là tương đối đơn giản. Trong trường hợp bố trí kho phân tán, phải tính toán lựa chọn địa điểm và bố trí kho tàng sao cho đạt được chi phí kinh doanh cho vận chuyển nhỏ nhất. Muốn thế phải chú ý không phải chỉ tới khoảng cách kho tàng so với nơi cung ứng mà thường phải chú ý đến cả các đường vận chuyển, trọng lượng và thể tích của sản phẩm cần phải chuyển đến các điểm sản xuất của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, nếu không có sự bắt buộc của sản xuất thì việc tính toán, xác định số lượng và địa điểm xây dựng kho tàng phải dựa trên cơ sở xác định đồng thời quãng đường và hướng vận chuyển, khả năng kết hợp hai chiều trong khâu vận chuyển.
Xác định số lượng kho cũng như địa điểm đặt kho tối ưu trong hệ thống kho phân tán sẽ đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp thương mại, các doanh nghiệp sản xuất đòi hỏi hoặc là mua nguyên vật liệu trên địa bàn rộng hoặc là tổ chức sản xuất trên địa bàn rộng.
- Nếu căn cứ vào hình thức xây dựng kho tàng có kho ngoài trời và kho trong nhà. Các kho ngoài trời tuy đỡ chi phí kinh doanh xây dựng kho tàng song lại không đáp ứng được việc bảo quản hàng hoá nên chỉ sử dụng đối với loại hàng hoá không bị mất phẩm chất bởi nắng, mưa và những thay đổi khác về khí hậu, thời tiết. Ngoài ra, còn phân biệt kho thông thường và kho đặc biệt như bồn chứa. Các loại kho đặc biệt chỉ đặt ra yêu cầu kỹ thuật của hàng hoá cần bảo quản đòi hỏi.
- Nếu căn cứ vào trang thiết bị cho toàn bộ khu vực kho người ta phân biệt nhiều loại kho tàng khác nhau:
+ Trường hợp thông thường nhất là kho trong nhà nhiều tầng hay một tầng. Kho một tầng có ưu điểm là hàng hoá lưu kho dễ xếp vào và chuyển ra. Hàng hoá lưu kho thông thường có thể bố trí trực tiếp vận chuyển bằng xe tải. Lợi thế chi phí vận tải bằng phương tiện này lại so với nhược điểm lớn: cần có diện tích lớn cho các phương tiện vận chuyển ra vào kho nên làm tăng chi phí kinh doanh về nhà kho. Kho nhiều tầng tận dụng được diện tích đất đai song gây khó khăn cho tổ chức vận chuyển nội bộ.
+ Theo trang thiết bị còn phân biệt kho tiếp đất, kho bố trí theo khối và kho bố trí theo giá hàng.
Kho tiếp đất là kho không có trang bị cách đất cho hàng hoá. Hình thức này chỉ phù hợp với những bộ phận kho lớn. Ưu điểm của nó là ít trang thiết bị kho, tận dụng diện tích và trực tiếp với từng bộ phận kho. Nhược điểm của nó là không tận dụng không gian kho nên dẫn đến chi phí kinh doanh kho tàng cho từng đơn vị phẩm cao.
Với lưu kho theo khối nguyên vật liệu, hàng hoá lưu kho được đưa tư các phương tiện thích hợp (container) nhờ các kệ hàng. Việc chuyển hàng lên các phương tiện vận chuyển cũng hết sức đơn giản do sử dụng các kệ hàng. Với hình thức này, hàng nằm trên kệ hàng trong suốt thời gian lưu kho.
Lưu kho theo giá hàng là hình thức kho mà hàng hoá được bảo quản trên các giá hàng. Càng nhiều giá để hàng càng tận dụng không gian kho. Việc lưu kho theo giá chuyên dùng sẽ đặc biệt dễ nhìn và tạo ra khả năng thấy từng sản phẩm. Nó sẽ rất thích hợp trước hết ở việc lưu kho các chi tiết (bu lông, ê cu, dụng cụ nhỏ). ở doanh nghiệp sản xuất sẽ thường gặp cách lưu kho bằng giá chuyên dùng trong trường hợp nhiều chủng loại hàng lưu kho với trọng lượng nhỏ. Trong doanh nghiệp thuơng mại hình thức lưu kho này chiếm địa vị thống trị.
Một hình thức giá hàng chuyên dụng là giá tĩnh. Diện tích cần rộng hơn và chứa được nhiều hơn so với các giá hàng thông thường. Diện tích đi lại cũng phải rộng hơn so với các giá hàng thông thường. ở các thị trường tiêu dùng lớn hình thức này đã rất phát triển: hàng hoá như đồ uống, đồ dự trữ được đặt trên các giá bán riêng cao tới 2 mét khi chuyển ra có thể sử dụng xe nâng.
Giá chuyển động gắn chức năng lưu kho với chức năng vận chuyển. Hàng được vận chuyển tới một nơi và xuất hiện ở nơi khác. Cứ mỗi lần có hàng mới nhận thì hàng cũ trong kho chuyển dịch đến gần nơi xuất hơn. Như thế hàng lưu kho phải đặt trên băng chuyền hay bánh chuyển động. Kỹ thuật kho tàng này cho phép tuân thủ theo nguyên tắc”một vào - một ra”: sản phẩm vào đầu tiên sẽ xuất kho đầu tiên. Giá chuyển động đặc biệt phù hợp với loại hàng lưu kho cần kiểm tra kỹ thời hạn lưu kho.
Giá dịch chuyển là một hình thức giá chuyên dụng.Trong khi đường phục vụ phải đặt trước cho mỗi loại giá chuyên dụng thì giá dịch chuyển được bố trí sao cho chẳng hạn chỉ cần một đường phục vụ cho khoảng 20 giá đặt sát nhau. Nhờ có sự dịch chuyển mà đường phục vụ luôn được sử dụng cho bất kỳ giá nào trong cả cụm. Lợi ích của giá dịch chuyển nằm ở việc tận dụng nhà kho. Hạn chế của nó nằm ở thời gian hao phí cho việc dịch chuyển giá mỗi khi nhập, xuất. Nó chỉ phù hợp cho loại kho lưu trữ các hàng hoá đặc biệt ít khi nhập, xuất.
Tuy mỗi kiểu bố trí kho tàng cũng như mỗi hình thức tổ chức và trang thiết bị kho tàng đều có những ưu nhược điểm riêng ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí kinh doanh cho quá trình vận chuyển và lưu kho song trong nhiều trường hợp không thể cứng nhắc quyết định bố trí và trang thiết bị kho tàng mà phải dựa vào các đặc điểm sản xuất, kinh doanh mà lựa chọn cách bố trí, hình thức cũng như trang thiết bị kho tàng phù hợp. Đó là cách tốt nhất để có một hệ thống kho tàng đem lại hiệu quả kinh doanh cao. Trong các yếu tố quy định các thức bố trí cũng như hình thức, trang thiết bị kho tàng thì những nhân tố dưới đây đóng vai trò đặc biệt quan trọng:
Cơ cấu sản xuất (bán hàng): Cơ cấu sản xuất là tập trung hay phân tán sẽ quyết định việc bố trí hệ thống kho tàng tập trung hay phân tán. Cơ cấu sản xuất là phức tạp hay đơn giản quy định việc có cần bố trí kho trung gian hay không.
Đặc điểm, tính chất của hàng hoá cần lưu kho ảnh hưởng trực tiếp đến việc bố trí kho tàng tập trung hay phân tán và sau nữa còn ảnh hưởng rất lớn đến hình thức cũng như trang thiết bị kho tàng.
Việc lựa chọn người cung cấp, lựa chọn một số lượng lớn người cấp nguyên vật liệu ở trong địa bàn rộng không thể không nghĩ đến việc phải bố trí hệ thống kho phân tán.
Việc quyết định quy mô cũng như việc sử dụng năng lực kho tàng hiện có phụ thuộc vào hoạt động đặt hàng. Lượng đặt hàng càng lớn, càng nhiều hàng hoá phải lưu kho.
Việc xây dựng kho tàng phải đáp ứng được các nguyên tắc cơ bản sau:
Diện tích kho tàng phải đủ lớn. Hàng hoá trước hết phải được đưa vào, mở ra và kiểm tra; sau đó mới phân loại, lưu kho, bảo quản, chuẩn bị và xuất kho. Phải có đủ diện tích cần thiết để thực hiện các công việc trên. Diện tích chật hẹp làm tăng chi phí kinh doanh cho các hoạt động trên vì phải kéo dài thời gian thao tác.
Kho tàng phải sáng sủa, dễ quan sát. Trang thiết bị kho tàng không phải chỉ phục vụ cho việc chắc chắn và nhanh chóng tìm được loại hàng muốn tìm mà còn phải làm giảm chi phí kinh doanh liên quan đến kho tàng đặc biệt là cho công tác kiểm tra, kiểm kê.
Kho tàng phải đảm bảo an toàn. Việc xây dựng và trang thiết bị kho tàng phải bảo đảm chống trộm cắp và chống cháy.
2. Quản trị hệ thống kho tàng ( quản trị hàng hoá trong kho )
Công tác quản trị kho tàng ở đây đồng nghĩa với việc quản trị hàng hoá ở trong kho. Công tác này bao hàm nhiều nội dung khác nhau như tiếp nhận, bảo quản và cấp phát hàng cho quá trình sản xuất hoặc bán hàng.
2.1. Công tác tiếp nhận hàng
Tiếp nhận hàng phải đảm bảo mục tiêu đúng về số lượng, chủng loại, chất lượng và thời gian. Mục tiêu này được thực hiện bởi sự cố gắng của nhiều bộ phận có liên quan: kế hoạch hoá mua sắm và vận chuyển, tổ chức vận chuyển.
Tiếp nhận hàng là hoạt động của bộ phận quản trị kho tàng. Hoạt động này có liên quan đến bộ phận cung ứng và vận chuyển hàng hoá về kho doanh nghiệp. Về nguyên tắc, khi tiếp nhận phải đảm bảo thủ tục giao nhận hàng giữa hai bên và bộ phận tiếp nhận phải kiểm tra kỹ lưỡng cả hai mặt số lượng và chất lượng. Để đạt được hiệu quả cao, bộ phận tiếp nhận phải chuẩn bị kỹ lưỡng nơi nhận hàng, thực hiện tốt thủ tục nhận hàng và bố trí hàng hoá trong kho:
+ Nơi nhận hàng phải rộng rãi, có đường xe ra, vào thuận tiện và có trang thiết bị nâng hạ nếu cần.
+ Thủ tục nhận hàng bao gồm các công việc kiểm tra số lượng và chất lượng bằng các phương pháp thích hợp, ghi nhận những sai hỏng so với mẫu mã, ghi chép vào sổ giao nhận hàng, phân loại, đánh dấu và đưa vào kho. Trong trường hợp thuê ngoài chuyên chở việc quy trách nhiệm nhất thiết phải tiến hành ngay khi giao nhận hàng hoá. Nếu không có thoả thuận riêng thì người chuyên chở phải chịu trách nhiệm cả về số lượng và chất lượng hàng hoá giao cho bộ phận quản trị kho tàng nếu không chứng minh được rằng rủi ro xảy ra là bất khả kháng, do tính chất của hàng hoá hay do lỗi của bên bán hàng. Nếu có sự hư hại, hai bên phải lập biên bản và phải báo cáo ngay cho bên giao hàng bằng văn bản. Nếu hai bên không thống nhất được với nhau và người chuyên chở không chịu trách nhiệm, doanh nghiệp sẽ phải có biện pháp bảo vệ quyền lợi bằng hệ thống toà án kinh tế.
+ Việc bố trí hàng trong kho phải khoa học theo phương châm dễ tìm, dễ thấy, dễ lấy, dễ kiểm tra. Phải đảm bảo điều kiện thiết bị bảo quản hàng hoá. Trong trường hợp cần thiết cho phép cần bố trí sao cho hàng vào trước, ra trước. Thông thường, việc bố trí hàng trong kho liên quan trực tiếp đến việc trang thiết bị kho tàng.
2.2. Công tác bảo quản hàng
Bảo quản hàng liên quan nhiều đến trang thiết bị kho tàng. Khi trang thiết bị kho tàng cần chú ý mức trang thiết bị thấp nhất do chính đặc điểm của hàng hoá đòi hỏi, chẳng hạn dự trữ xăng dầu cần có bồn chứa, dự trữ nguyên vật liệu tươi sống cần có thiết bị lạnh hay dự trữ và chuẩn bị sẵn sàng cấp phát dụng cụ, phụ tùng, linh kiện nhỏ lẻ cần có giá hàng. Chi phí kinh doanh mua sắm trang thiết bị loại này là cần thiết trong mọi tình huống, không được cắt xén. Loại trang thiết bị nâng cao khả năng và hiệu quả hoạt động tuỳ thuộc vào ý đồ xây dựng, trang thiết bị và bố trí hàng hoá trong kho chẳng hạn kho một tầng hoặc kho nhiều tầng, giá hàng cố định hay giá hàng chuyển động.
2.3. Quản trị cấp phát hàng
Quản trị cấp phát hàng đòi hỏi phải tiến hành một loạt các công việc liên quan trực tiếp đến việc quản trị hàng hoá trong kho như:
+ Công tác thống kê, lập sổ sách theo dõi việc xuất, nhập, tồn đối với từng loại hàng hoá cụ thể. Tuỳ theo từng loại hàng mà sử dụng hình thức sổ sách, thẻ theo dõi hoặc hoá đơn chứng từ xuất nhập thích hợp.
+ Công tác kiểm kê hàng hoá định kỳ, đột xuất và các biện pháp nâng cao hiệu lực quản trị hàng hoá tuỳ theo kết quả kiểm kê.
+ Công tác định mức tiêu dùng nguyên vật liệu và cấp phát nguyên vật liệu cho các bộ phận sử dụng có liên quan. Định mức tiêu dùng nguyên vật liệu là một trong các cơ sở để cấp phát nguyên vật liệu. Xây dựng định mức tiêu dùng nguyên vật liệu phải đảm bảo tính khoa học của công tác này theo nguyên tắc đảm bảo tính tiên tiến và hiện thực của định mức. Công nghệ sản xuất càng hoàn thiện, trang thiết bị sản xuất càng đồng bộ thì định mức tiêu dùng nguyên vật liệu càng chứa đựng nhiều yêu cầu kỹ thuật sản xuất, càng loại bỏ được các ảnh hưởng chủ quan của con người và do đó càng mang tính ổn định.
+ Công tác chuẩn bị sẵn sàng cho cấp phát hàng. Căn cứ vào đặc điểm của hàng cần cấp phát cũng như hình thức cấp phát theo lệnh cấp phát hay theo kế hoạch mà làm các công việc chuẩn bị thích hợp chẳng hạn như phân loại, sơ chế đối với loại nguyên vật liệu cần thiết, sắp xếp theo thứ tự hàng cần xuất trước ở vị trí dễ lấy nhất.
Ghi chép, theo dõi cấp phát hàng phải liên tục, đầy đủ các tiêu thức về thời gian cấp phát, số lượng, chất lượng, địa điểm sử dụng từng loại nguyên vật liệu cụ thể làm cơ sở cho công tác phân tích và hạch toán chi phí sử dụng nguyên vật liệu, lập các báo cáo cần thiết.
Cần lưu ý là công tác ghi chép, phân tích, xử lý số liệu về cấp phát chỉ có hiệu quả khi có được hệ thống sổ sách đã được tiêu chuẩn hoá và thống nhất trong phạm vi doanh nghiệp. Hiệu quả của công tác này sẽ được nâng cao rất nhiều nếu doanh nghiệp trang bị hệ thống chế biến dữ liệu điện tử.
2.4. Kiểm tra kho tàng và hàng hoá trong kho
Đây và công tác cực kỳ quan trọng vì chỉ có thông qua kiểm tra mới xác định xem liệu giữa tồn kho trên thực tế và trong báo cáo có ăn khớp với nhau hay không? Nếu không khớp nhau quản trị kho tàng phải tìm xem nguyên nhân nào dẫn đến sự sai lệch đó và đưa ra biện pháp cần thiết để khắc phục sự sai lệch này. Đồng thời việc kiểm tra còn giúp cho việc đánh giá lại chính xác lượng hàng lưu kho để thông báo cho bộ phận cung tiêu kiểm tra lại lượng đặt hàng cũng như khoảng cách thời gian đặt hàng. Cũng thông qua kiểm tra kho tàng mới đánh giá lại chất lượng hàng đang bảo quản tại kho, phát hiện những hàng hoá kém phẩm chất và phân tích nguyên nhân để có biện pháp kịp thời nâng cao chất lượng bảo quản hàng hoá trong kho.
2.5. Tính chi phí kinh doanh cho quản trị kho tàng
Chi phí kinh doanh cho quản trị kho tàng được cấu thành chủ yếu từ số tiền phải trả lãi cho số vốn liên quan đến kho tàng, tiền thuê mướn hay khấu hao kho tàng, tiền lương cho đội ngũ lao động phục vụ kho tàng, tiền trả cho điện, nước, phục vụ kho tàng, tiền trả cho các vật liệu phụ sử dụng cho kho tàng cũng như tiền bảo hiểm kho tàng và hàng hoá trong kho. Chi phí kinh doanh về kho tàng có thể giảm nhờ số lượng và số ngày lưu kho.
Chương II: Thực trạng việc xây dựng và áp dụng sơ đồ mạng lưới trong quy trình xuất hàng tại kho B1- Công ty xăng dầu Phú Thọ
I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty xăng dầu Phú Thọ
1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty xăng dầu Phú Thọ là doanh nghiệp nhà nước, là đơn vị trực thuộc Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (PETROLIMEX) đựợc thành lập ngày 12/06/1956. Trụ sở của Công ty đóng tại Phường Vân Cơ -Thành phố Việt Trì -Tỉnh Phú Thọ _ là cửa ngõ của thủ đô Hà Nội với các tỉnh trung du miền núi phía Bắc. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty được đánh dấu qua các thời kỳ sau :
- Từ năm 1956 đến năm 1965 : Được thành lập vào ngày 12/06/1956 tiền thân của Công ty xăng dầu Phú Thọ hiện nay là Trạm bán buôn, bán lẻ dầu mỡ Việt Trì. Trong thời kỳ này kho cảng Bến Gót được xây dựng và đi vào hoạt động. Phương thức sản xuất kinh doanh thời kỳ này chủ yếu phục vụ theo kế hoạch từ cấp trên phân bổ xuống cho các đơn vị, các đối tượng: quân đội, kinh tế, các cơ quan nhà nước. Cơ sở vật chất thời kỳ này còn nhỏ bé, đơn sơ, vừa làm vừa xây dựng. Với 4 xe vận tải, một kho trung tâm tại Bến Gót với sức chứa 2000 m3 hàng hoá, có cầu tàu để tiếp nhận hàng bằng đường thuỷ và có đường sắt từ ga và kho để tiếp nhận toa P. Năm đầu trạm mới thành lập, mới chỉ cung cấp xấp xỉ 1000 tấn xăng dầu thì đến 1960 đã 4689 tấn và đến 1965 đạt 10622 tấn.
- Từ năm1966 đến năm 1972: Năm 1966 Công ty đổi tên là Công ty xăng dầu mỡ Việt Trì. Phương thức kinh doanh của Công ty không có gì thay đổi, mặc dù khối lượng nhiệm vụ tăng lên. Đây là thời kỳ đánh phá ác liệt nhất của đế quốc Mỹ. Công ty xăng dầu mỡ Việt Trì cũng là một trong những mục tiêu trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ. Công ty vừa sản xuất kinh doanh phục vụ nhiệm vụ chính trị, vừa phải di chuyển, sơ tán vật tư, thiết bị, hàng hóa, xây dựng kho bãi mới theo hình thức dã chiến. Tính đến năm 1972 lượng xăng dầu cung ứng đã lên tới 27 300 tấn. Trước tình hình khó khăn như vậy, đảng ủy, ban giám đốc Công ty đã lãnh đạo toàn thể công nhân viên trong Công ty vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng được phát huy trong sản xuất kinh doanh, các tấm gương lao động sản xuất quên mình, không sợ nguy hiểm, bám trụ bảo vệ hàng hóa, cung ứng xăng dầu cho sản xuất và chiến đấu mãi mãi tô đậm truyền thống của Công ty, của ngành xăng dầu Việt Nam.
-Từ năm1973 đến năm 1989: Thời kỳ này Công ty được đổi tên thành Công ty xăng dầu Vĩnh Phú. Vào giai đoạn này đất nước ta chưa được hoàn toàn giải phóng, với tinh thần “Cả nước cho tiền tuyến” phương thức kinh doanh của Công ty theo chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước. Từ 1975 đến 1989, non sông đất nước đã thống nhất về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của các nghị quyết Trung ương Đảng theo tinh thần đổi mới đất nước, đổi mới tư duy kinh tế. Song phương thức sản xuất kinh doanh của Công ty vẫn mang đậm bản chất của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hành chính. Công ty chủ yếu cung ứng xăng dầu theo chỉ tiêu pháp lệnh. Giai đoạn này có nhiều yếu tố tác động đến nhiệm vụ của Công ty, nguồn hàng không ổn định, giá cả xăng dầu thường xuyên thay đổi theo hướng gia tăng, cơ sở vật chất kỹ thuật được đầu tư nhưng không đồng bộ, có tính chất chắp vá, đời sống của cán bộ công nhân viên vì thế chưa được cải thiện, nâng cao. Nền kinh tế đất nước đang từng bước chuyển sang cơ chế quản lý mới vận hành theo cơ chế thị trường. Cái cũ chưa mất đi, cái mới chưa thật sự hình thành, sản xuất không phát triển. Có thể nói đây là thời kỳ khó khăn vất vả nhất của Công ty xăng dầu Vĩnh Phú. Mặc dù vậy cán bộ công nhân viên Công ty xăng dầu Vĩnh Phú vẫn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vẫn phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, với 188 lao động và 47 xe ô tô vận tải các loại. Đến năm 1989 Công ty đã cung ứng 31 215 tấn xăng dầu các loại, năng suất lao động bình quân đạt 153 tấn/người/năm.
- Từ năm1990 đến nay: Năm 1997 tỉnh Vĩnh Phú được tách lập thành hai tỉnh là Vĩnh Phúc và Phú Thọ, từ đó Công ty xăng dầu Vĩnh Phú được đổi tên thành Công ty xăng dầu Phú Thọ và đây cũng là tên gọi của Công ty hiện nay. Điểm nổi bật của thời kỳ này là cùng với sự thay đổi trong phương thức kinh doanh của toàn ngành, phù hợp với công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, phương thức sản xuất kinh doanh của Công ty đã thay đổi. Mặc dù những năm đầu của thập kỷ 90, có những khó khăn như sự kiện chiến tranh vùng Vịnh, sự tan dã của chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và các nước Đông Âu. Song nguồn hàng của Công ty vẫn bảo đảm đầy đủ, giá cả ổn định hơn, đảm bảo cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Điều đáng chú ý là phương thức cung ứng của Công ty có thay đổi, mạng lưới bán lẻ được quan tâm đầu tư mở rộng, nâng cấp. Hệ thống kho tàng bến bãi, trụ sở làm việc cũng được đầu tư hiện đại hóa, đảm bảo thuận lợi, nhanh chóng, chính xác, đúng chất lượng và giá cả cho khách hàng.
Trong thời kỳ này nguồn nhân lực được chú ý sử dụng có hiệu quả hơn. Công ty đã quan tâm đến vấn đề thị trường, tạo lập, gây dựng các mối quan hệ bạn hàng, khách hàng và các cơ quan quản lý trên địa bàn tỉnh. Do vậy đời sống, mức thu nhập được nâng cao, cải thiện theo hướng gia tăng hàng năm. Đội ngũ cán bộ trưởng thành nhanh, tích lũy được kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý trong cơ chế mới. Đảng ủy, ban giám đốc đã tạo được khối đoàn kết cán bộ công nhân viên vững mạnh, đồng lòng xây dựng Công ty ngày càng phát triển.
2. Nhiệm vụ chung của Công ty
Hiện nay trên con đường hội nhập vào công cuộc đổi mới của đất nước, của ngành, Công ty đã và đang tích cực thực hiện các mục tiêu chiến lược:
+ Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật.
+ Thường xuyên nâng cao chất lượng phục vụ, giữ gìn và khuyếch trương uy tín đối với._. lại là 64000000 đồng thì việc áp dụng phương pháp sơ đồ mạng đem lại lợi ích kinh tế cao hơn.
Như vậy lợi ích kinh tế là 64000000 - 54500000 = 8500000 đồng
Tóm lại nếu tính theo phương pháp này thì Công ty xăng dầu Phú Thọ đã tiết kiệm được một khoản tiền là 8.5 triệu đồng. Số tiền này tuy không lớn song đó mới chỉ là bước đầu khi mà khối lượng các công việc cũng như các sự kiện không nhiều và không phức tạp. Tuy nhiên điều đáng nói đến ở việc áp dụng phương pháp này tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ là khi khối lượng các công việc & sự kiện ngày càng nhiều và mức độ phức tạp ngày càng được thể hiện rõ ràng hơn thì việc áp dụng phương pháp sơ đồ mạng lưới sẽ làm lợi cho Công ty hàng chục triệu đồng và có thể hơn thế nữa. Đây là một trong những xu hướng tất yếu trong tương lai bởi lẽ Công ty xăng dầu Phú Thọ là một trong những đầu mối quan trọng trong việc cung ứng hàng hoá cho tỉnh nhà cũng như phân phối trên toàn bộ các tỉnh phía Bắc. Vì vậy nhu cầu của thị trường không cho phép Công ty không áp dụng các phương pháp tối ưu để thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng cũng như tối đa hoá lợi nhuận của ngành, góp phần nâng cao mức thu nhập của cán bộ công nhân viên của Công ty. Mặt khác Công ty hoàn toàn có thể vận dụng phương pháp này trong tất cả các hoạt động khác của Công ty để có thể tối ưu tất cả các công việc theo mong muốn của Ban giám đốc Công ty.
2. Một số hạn chế khi áp dụng phương pháp sơ đồ mạng lưới trong quy trình xuất hàng tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ
Ta hoàn toàn không thể phủ định những lợi ích kinh tế cũng như những kết quả thực sự đạt được khi tiến hành áp dụng phương pháp sơ đồ mạng lưới trong quy trình xuất hàng tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ. Tuy nhiên không nên cho rằng phương pháp sơ đồ mạng lưới là một công cụ vạn năng, được áp dụng cho mọi lĩnh vực, mọi đối tượng và hễ đưa vào áp dụng là dẫn tới đạt hiệu quả kinh tế ngay lập tức. Việc áp dụng phương pháp sơ đồ mạng lưới thực tế tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ còn gặp phải không ít những trở ngại cũng như những hạn chế cần khắc phục.
2.1. Hạn chế về thời gian & chi phí
Về thực chất thì sơ đồ mạng lưới là một mô hình toán học động, thay đổi một cách linh hoạt khi một trong các chỉ tiêu của mô hình thay đổi. Song đối với hai chỉ tiêu là thời gian và chi phí hoàn thành các công việc thì việc xác định một cách chính xác hai chỉ tiêu này là rất khó khăn. Thực tế cho thấy việc xác định hai chỉ tiêu này phải tiến hành thông qua nhiều khâu trung gian, ở nhiều mức độ khác nhau. Từ đó để tổng hợp được bảng hao phí về thời gian và tiền tệ cho các công việc và sự kiện của mô hình, Công ty xăng dầu Phú Thọ đã phải chi phí một khoản không phải là nhỏ cho công tác nghiên cứu thị trường cũng như thống kê xã hội học.
2.2. Hạn chế về tình trạng công nghệ
Phương pháp sơ đồ mạng là một trong những phương pháp được ứng dụng rất thực tiễn trong thực tế sản xuất, song hiện tại ở kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật chưa thể đáp ứng một cách tốt nhất cho việc áp dụng phương pháp này, chẳng hạn hệ thống giàn xuất quy mô còn nhỏ, các trang thiết bị như hệ thống máy tính, hệ thống điều khiển tự động PLC còn mới ở chế độ bán tự động, công tác hoá nghiệm còn hạn chế và mang tính thụ động làm ảnh hưởng không nhỏ đến chi phí tiến hành các công đoạn của quy trình xuất cũng như nhập xăng dầu với khối lượng lớn. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới theo chỉ tiêu chi phí, cụ thể:
Đối với hệ thống đường ống công nghệ từ bể chứa ra giàn xuất
Hệ thống đường ống công nghệ từ khu vực bể chứa ra giàn xuất được đặt nổi, khi trời nắng to nhiệt độ xăng dầu trong đường ống rất cao (đầu giờ chiều mùa hè), khi trời lạnh nhiệt độ xăng dầu trong đường ống rất thấp (đầu giờ sáng), vì vậy khi tiến hành bơm hàng rất có thể xảy ra tình trạng lượng hàng lấy đầu tiên thường có nhiệt độ cao quá hoặc thấp quá. Do đó lượng hàng thực tế được xuất vào ôtô ci téc có thể không được đúng như trong hợp đồng đã ký kết của Công ty với khách hàng. Như vậy công việc bơm hàng trong sơ đồ mạng đã không tối ưu về việc đảm bảo đúng số lượng hàng hoá giao cho khách hàng. Đây là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến uy tín danh tiếng của Công ty.
Các van công nghệ tại dãy bể 25 M3 chứa dầu hoả và diesel
Các van công nghệ tại hai dãy bể này do cũ và không được bảo dưỡng thường xuyên nên hay gây ra hiện tượng giò rỉ sản phẩm chảy ra ở ty van, tấm chắn và các phớt trong van khi van đóng mà sản phẩm (xăng dầu) vẫn đi qua được vì vậy gây ra hiện tượng lẫn các loại hàng với nhau trong khi xuất nhập hàng ảnh hưởng đến chi phí bơm hàng và hao phí xăng dầu khi tiến hành áp dụng sơ đồ mạng lưới.
Bơm xuất hàng
Bơm cấp hàng cho 4 họng xuất hiện nay chỉ có 4 bơm, không có bơm dự phòng (bơm dự phòng được dùng để cấp xăng Mogas 92), vì vậy khi 1 trong 4 bơm này gặp sự cố (đặc biệt là bơm cấp xăng 92) thì sẽ không có bơm thay thế để cấp hàng, điều này ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình xuất hàng do đó có thể gây gián đoạn đến trình tự các công việc khi tiến hành quy trình xuất hàng theo phương pháp sơ đồ mạng lưới.
Đối với hệ thống giàn xuất
Đồng hồ lưu lượng
Đồng hồ lưu lượng được đặt phía dưới giàn xuất vì vậy khi công nhân đứng trên citéc đóng hàng cho ô tô, nhìn số trên đồng hồ không rõ lắm vì tầm nhìn xa góc nhìn chéo, nên có thể gây ra hiện tuợng đóng thừa hàng hoặc thiếu hàng cho ô tô.
Bộ tách khí tinh trước đồng hồ lưu lượng
Bộ tách khí tinh trước đồng hồ lưu lượng của 4 họng xuất hiện nay hoạt động không tách được khí, vì ta luôn phải đóng van tự động xả khí. Nguyên nhân là do van phao đóng, mở kém hoặc roăng không kín nên khi ta mở van khí xả tự động thì nhiên liệu cũng theo ra ngoài.
Công tác hoá nghiệm và phân tích lấy mẫu
Có thể thấy rằng công tác hoá nghiệm và lấy mẫu phân tích xăng dầu là một công việc hết sức quan trọng. Tuy nhiên công tác này được tiến hành chưa thực sự được tốt nhất trong điều kiện chất lượng xăng dầu ngày càng được khách hàng quan tâm hơn. Mặt hạn chế của công tác này được thể hiện ngay ở đội ngũ cán bộ phòng hoá nghiệm, phân tích lấy mẫu và ở ngay hệ thống cơ sở vật chất trang thiết bị tại phòng hoá nghiệm.
2.3. Hạn chế về phương pháp tính toán
Sơ đồ mạng lưới là một trong những mô hình toán học được áp dụng khá nhiều trong các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên để có thể tối ưu sơ đồ mạng lưới một cách nhanh nhất và đạt hiệu quả cao nhất thì cần phải ứng dụng phần mềm tin học trong việc tính toán các chỉ tiêu của mô hình. Song phần mềm này chưa được ứng dụng tại Công ty xăng dầu Phú Thọ. Đây là một trong những nhược điểm lớn của phương pháp sơ đồ mạng lưới, bởi lẽ khi khối lượng các công việc trong kho không nhiều thì việc tính toán trực tiếp trên sơ đồ không khó khăn song khi khối lượng các công việc trong kho ngày càng nhiều do lượng hàng được xuất ra để phục vụ nhu cầu ngày càng lớn, lúc đó nếu không áp dụng tin học trong tính toán ta sẽ phải giải bài toán n ẩn n phương trình để tìm ra nghiệm hợp lý. Rõ ràng việc giải một bài toán như vậy đòi hỏi phức tạp hơn nhiều so với việc đưa tin học ứng dụng vào trong xuất hàng.
2.4. Hạn chế về nhân sự
Việc áp dụng phương pháp sơ đồ mạng lưới trong quy trình xuất hàng tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ đòi hỏi phải có một đội ngũ chuyên gia cũng như cán bộ chỉ đạo trình độ cao. Tuy nhiên vào thời điểm hiện nay đội ngũ này chưa đáp ứng một cách tối ưu nhất cho việc áp dụng sơ đồ mạng lưới trong quy trình xuất hàng tại kho.
Đội ngũ chuyên gia nghiên cứu phần mềm tin học, các thuật toán chương trình của phương pháp sơ đồ mạng lưới hoàn toàn chưa có. Do đó khi tiến hành tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới theo chỉ tiêu chi phí phải tính trực tiếp trên sơ đồ.
Đội ngũ nhân viên nghiên cứu thị trường để tính ra thời gian và chi phí khi tiến hành các công việc của quy trình xuất hàng chưa thực sự được đào tạo một cách đầy đủ nhất, từ đó việc đưa ra các số liệu này đôi khi không chính xác. Do đó ảnh hưởng đến kết quả tối ưu cuối cùng.
Đội ngũ nhân viên phân tích hoá nghiệm trình độ còn hạn chế do đó việc phân tích xăng dầu đôi khi chưa phản ánh đúng chất lượng của sản phẩm.
2.5. Hạn chế về tính tối ưu của sơ đồ mạng lưới
Khi nhắc đến sơ đồ mạng lưới, ta liên tưởng tới hệ thống các công việc có một mối liên hệ chằng chịt & phức tạp giống như một mạng lưới vậy. Rõ ràng không thể phủ nhận được tính tối ưu của sơ đồ mạng lưới trong việc tính ra được thời gian cũng như chi phí tối ưu khi tiến hành áp dụng sơ đồ mạng lưới này trong quy trình xuất hàng tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ. Song bản thân sơ đồ mạng lưới này khi áp dụng vào thực tế việc xuất hàng tại kho B1 lại bộc lộ những hạn chế nhất định.
Một là Việc tính ra được các chỉ tiêu thời gian cũng như chi phí qua 8 bước tối ưu và rút ra được lợi ích kinh tế có hiệu quả thực sự, nhưng thực tế việc xuất hàng tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ khi tiến hành phân tích các công việc đã chưa thể hiện được lợi ích kinh tế cũng như hiệu quả thực sự của từng công việc đem lại nếu các công việc này được đưa vào sơ đồ mạng lưới để thực hiện quá trình tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới. Ta có thể đi sâu phân tích một số công việc để thấy rõ được hạn chế này.
- Đối với công việc lắp ráp & đưa vào sử dụng nhà đóng dầu ô tô ci téc (9,11) và công việc thiết kế xây dựng nhà đóng dầu ô tô ci téc (1,3). Nếu xét về bản chất thì hai công việc này được tách nhau ra từ một công việc, nhưng việc tách ra này hoàn toàn không tối ưu mà chỉ làm cho hệ thống sơ đồ mạng lưới thêm phức tạp. Rõ ràng ảnh hưởng tới quá trình tối ưu hoá vì một trong các công việc của hệ thống không tối ưu sẽ dẫn đến hệ thống không tối ưu.
- Đối với công việc thiết kế đường ống (2,5) và công việc lắp ráp đường ống (8,11) cũng được tách nhau ra giống như hai công việc (9,11) và (1,3) ở trên.
Nếu như qua 8 bước tối ưu với thời gian thực hiện hoàn tất các công việc là 11 ngày và chi phí là 54,5 triệu đồng, rõ ràng là tối ưu hơn so với phương án ở nhịp độ khẩn trương vời thời gian cũng là 11 ngày nhưng chi phí những 64 triệu đồng. Song đối với công việc (9,11) và công việc (1,3) tổng thời gian cho hai công việc này là 13 ngày (ở nhịp độ bình thường) nhưng nếu được tiến hành cùng chung một lúc thì chi phí chưa chắc đã đến 8 triệu đồng (chi phí cho hai công việc này ở nhịp độ bình thưòng là 8 triệu đồng). Cũng hoàn toàn tương tự đối với đối với hai công việc (2,5) và (8,11), chi phí chưa chắc đã đến 7 triệu đồng (chi phí cho hai công việc này ở nhịp độ bình thường là 7 triệu đồng).
Hai là Việc phân tích sơ đồ mạng lưới thông qua các công việc được tiến hành trong toàn bộ quy trình xuất hàng tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ không phản ánh được tính tối ưu chỉ có ở việc xuất hàng đơn thuần mà trong xuất hàng lại có cả nhập hàng cũng như các công việc khác như làm hợp đồng, lập kế hoạch, phân tích lấy mẫu. Đây là một trong những hạn chế cơ bản của sơ đồ mạng lưới khi áp dụng trong quy trình xuất hàng tại kho B1 của Công ty. Bởi lẽ nếu sơ đồ mạng lưới được áp dụng trong xuất hàng một cách đơn thuần thì hệ thống các công việc của quy trình xuất hàng chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn và chi phí cho các công việc này là không lớn. Song nếu như vậy thì bản thân trước khi tiến hành áp dụng sơ đồ mạng lưới thì các công việc này đã tối ưu rồi, do đó sẽ không cần tối ưu theo sơ đồ mạng lưới nữa.
Tuy nhiên việc áp dụng sơ đồ mạng lưới trong xuất hàng tại kho B1 của Công ty cần phải được hiểu theo nghĩa rộng, tức là muốn xuất hàng thì bản thân kho phải có hàng đã và hàng hoá phải được nhập vào bể chưa của kho bằng các phương tiện khác nhau, thông qua các quy trình công nghệ khác nhau.
II- Một số giải pháp đề xuất
Trên cơ sở hệ thống kho tàng bể chứa hàng hoá hiện đại, trữ lượng lớn cũng như mạng lưới tiêu thụ ngày càng được mở rộng thì việc cung cấp hàng hoá cho thị trường ngày càng trở nên quan trọng. Do đó việc vận dụng ngay phương pháp sơ đồ mạng lưới trong thực tế quy trình xuất hàng tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ trở nên vô cùng cấp thiết. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay thì để có thể áp dụng được phương pháp này một cách tối ưu nhất thì cần phải đưa ra một số giải pháp đề xuất mang tính chất lâu dài cũng như những kiến nghị để đề tài mang tính khả thi cao.
1. Giải pháp đề xuất
1.1. Giải pháp về thời gian và chi phí trong sơ đồ mạng
Việc tính được thời gian và chi phí khi tiến hành các công việc của quy trình xuất hàng tại kho B1 công ty xăng dầu Phú Thọ một cách chính xác và phản ánh đúng thực tế là một trong những vấn đề nan giải. Bởi lẽ thời gian và chi phí là hai phạm trù mang tính trìu tượng cao mà nhà quản trị đôi khi không thể kiểm soát nó một cách chặt chẽ được. Do đó giải pháp cho vấn đề này:
Một là Tiến hành chia nhỏ các công việc trước khi đưa vào áp dụng sơ đồ mạng lưới (càng nhỏ càng tốt), từ đó ta sẽ ước lượng được một cách chính xác thời gian cũng như chi phí khi tiến hành các công việc trên. Cuối cùng tổng hợp các công việc nhỏ lại ta sẽ có được một công việc hoàn chỉnh với thời gian cũng như chi phí tiến hành một cách chính xác nhất. Chẳng hạn, việc thiết kế xây dựng nhà đóng dầu ô tô ci téc có thể chia thành các công việc như thiết kế mặt bằng nền, hệ thống mái tre, hệ thống giàn xuất. Hoặc công việc thiết kế đường vận chuyển hàng hoá trong kho có thể chia thành các công việc nhỏ như thiết kế đường vận chuyển từ cổng bảo vệ đến nhà đóng dầu ô tô ci téc, đường vận chuyển bao quanh kho cũng như mặt bằng nền cho hệ thống đường vận chuyển này.
Hai là Đối với mỗi công việc được tổng hợp trên sơ đồ mạng lưới bao hàm trong đó đã có các hao phí, do đó để giảm một cách lớn nhất các hao phí này Ban giám đốc Công ty có thể tiến hành tách riêng các chi phí tổng hợp trên các công việc để khi tiến hành áp dụng sơ đồ mạng lưới các chỉ tiêu của các công việc phản ánh đúng bản chất của quá trình tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới theo chỉ tiêu chi phí. Còn các hao phí này có thể đưa vào khoản mục chi phí bất thường.
1.2. Giải pháp về tình trạng công nghệ tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ
Tình trạng công nghệ và trang bị hệ thống cơ sở vật chất thiết bị cho kho B1 cần phải được nâng cấp ngày càng hiện đại hơn để phù hợp với việc áp dụng phương pháp sơ đồ mạng một cách tối ưu hơn, cụ thể:
Đối với hệ thống đường ống công nghệ từ bể chứa ra giàn xuất:
Để tránh được những ảnh hưởng do điều kiện tự nhiên tác động trực tiếp lên hệ thống đường ống công nghệ từ bể chứa ra giàn xuất thì giải pháp cho vấn đề này có thể thiết kế thêm một giàn mái tre đường ống đặt cách đường ống khoảng 40 cm khi đó điều kiện tự nhiên sẽ không thể trực tiếp tác động lên hệ thống đường ống tránh những hao hụt đáng kể khi bơm hàng, đảm bảo cung cấp xăng dầu đúng và đủ số lượng.
Các van công nghệ tại dãy bể 25 M3 chứa dầu hoả và diesel
Để hạn chế đến mức thấp nhất lượng xăng dầu thất thoát do hệ thống các van công nghệ bị rò rỉ, từ đó làm tăng chi phí khi tiến hành hoạt động bơm hàng. Vì vậy, giải pháp cho vấn đề này cần phải lắp đặt và bảo dưỡng thường xuyên loại van này trong suốt quy trình xuất cũng như nhập hàng hoá. Việc bảo dưỡng hệ thống các loại van này phải được thực hiện theo kế hoạch và phải tính khấu hao cho chúng để đảm bảo độ an toàn và chính xác khi tiến hành thực hiện xuất hàng cũng như nhập hàng. Từ đó sơ đồ mạng lưới được áp dụng một cách tối ưu nhất.
Bơm xuất hàng
Hệ thống bơm sử dụng trong xuất hàng cũng như nhập hàng tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ được coi là một trong những công cụ chính để thực hiện quy trình xuất, nhập hàng. Hệ thống này đóng vai trò quan trọng, đóng vai trò là cầu nối giữa các công việc trong sơ đồ mạng lưới. Do đó hệ thống này cần phải liên tục hoạt động với cường độ cao trong điều kiện áp lực lớn của xăng dầu. Để khắc phục hạn chế do hệ thống này luôn phải làm việc với cường độ cao đồng thời nhằm tránh trường hợp khi một trong 4 họng xuất hàng bị hỏng, ảnh hưởng đến trình tự tiến hành các công việc khi áp dụng sơ đồ mạng lưới trong quy trình xuất hàng thì một trong những giải pháp quan trọng đối với sự việc này là việc thiết kế và lắp thêm một bơm cấp hàng dự phòng, có thể cấp được các mặt hàng (Mogas 90, Mogas 92, Diesel, dầu hoả) cho cả bốn họng xuất (sử dụng khi 1 trong 4 bơm cấp hàng gặp sự cố) tránh được hiện tượng gián đoạn khi thực hiện quy trình xuất hàng.
Đối với hệ thống giàn xuất
Đồng hồ lưu lượng
Đồng hồ lưu lượng là một trong những công cụ quan trọng trong quy trình bơm hàng. Nó thể hiện được lượng hàng thực tế được bơm và là cơ sở cho việc đo nhiệt độ thực tế của xăng dầu khi lượng hàng này đi qua đồng hồ lưu lượng. Do đó cần phải đặt đồng hồ lưu lượng lên phía trên giàn xuất để việc bơm hàng được tiến hành một cách dễ dàng và chính xác.
Bộ tách khí tinh trước đồng hồ lưu lượng
Để tránh trường hợp bộ tách khí tinh trước đồng hồ lưu lượng của 4 họng xuất hiện nay hoạt động không tách được khí phòng kỹ thuật của Công ty cần phải có kế hoạch nâng cấp và chế độ bảo dưỡng thường xuyên đối với bộ tách khí này.
Công tác hoá nghiệm và phân tích lấy mẫu
Có thể thấy rằng công tác hoá nghiệm và lấy mẫu phân tích xăng dầu là một công việc hết sức quan trọng. Vì vậy, để đảm bảo một cách chính xác trong việc phân tích chất lượng xăng dầu thì đội ngũ nhân viên làm việc trong lĩnh vực này cần phải được đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên nhằm phân tích đúng chất lượng hàng hoá khi tiến hành xuất nhập. Mặt khác cần phải trang bị thêm các trang thiết bị cho phòng hoá nghiệm, để phù hợp với phòng thử nghiệm cấp hai, chẳng hạn các thiết bị để đo các chỉ tiêu sau:
Đối với xăng
- áp suất hơi bão hoà.
Đối với dầu hoả
- Điểm khói.
- Màu Saybolt.
Đối với dầu Diesel
- Chỉ số Cetan, min.
- Độ nhớt động học.
- Nước và tạp chất cơ học.
- Hàm lượng nhựa thực tế.
1.3. Giải pháp áp dụng phần mềm trong việc tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới
Có thể nói rằng hiện nay các phần mềm tin học đã len lỏi vào hầu hết các ngõ ngách của các ngànhvà cũng không thể phủ nhận vai trò cực kỳ to lớn của các phần mềm này trong việc tính toán cũng như trong quản lý. Do đó để khắc phục tình trạng tính toán trực tiếp ngay trên sơ đồ mạng có thể dẫn đến những sai sót làm ảnh hưởng đến quá trình tối ưu hoá khi tiến hành áp dụng sơ đồ mạng lưới trong quy trình xuất hàng. Một trong những giải pháp hữu hiệu nhất cho vấn đề này là Công ty xăng dầu Phú Thọ có thể sử dụng phần mềm tin học để tính toán các chỉ tiêu trong sơ đồ mạng lưới. Phần mềm này đòi hỏi phải có một bộ phận chuyên môn chuyên nghiên cứu nhằm viết được các chương trình, thuật toán để sử dụng các chương trình này trên mày tính điện tử và tối ưu sơ đồ mạng lưới. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này Công ty xăng dầu Phú Thọ có thể sử dụng chương trình sau để áp dụng vào quy trình xuất hàng tại kho B1.
Program SO_DO_MANG_LUOI;
var
d1,d2: array[1..30] of integer;
t,ks,hs,km,hm,dcv: array[1..30] of real;
ts,tm,dsk: array[1..30] of real;
dt: array[1..30] of integer;
n,m,i,j,f,k,p: integer;
max,min: real;
f1,f2:text; tf1,tf2: string[30];
Begin
write('Vao ten file so lieu:');
readln(tf1);
Assign(f1,tf1);
Reset(f1);
Write('VAO TEN FILE KET QUA:');
Readln(tf2);
Assing(F2,tf2);
Rewrite(f2);
Readln(f1,n,m);
For i:=1 to m do readln(f1,d1[i],d2[i],t[i]);
Close(f1);
dt[1]:=0;
ts[1]:=0;
For j:= 2 to n do
Begin
max:=-1.0e30;
k:=0;
For i:=1 to m do
If(d2[i]=j) adn (ts[d1[i]]+t[i]>max) then
Begin
max:=ts[d1[i]]+t[i];
K:=d1[i];
End;
ts[j]:=max;
dt[j]:=k;
End;
tm[n]:=ts[n];
For j:=n-1 downto 1 do
Begin
min:=1.0e30;
For i:=1 to m do
If(d1[i]=j ) and (tm[d2[i]]-t[i]< min) then min:=tm[d2[i]] -t[i];
tm[j]:=min;
End;
For i:=1 to m do
Begin
ks[i]:=ts[d1[i]];
hs[i] :=ks[i] +t[i];
hm[i] :=tm[d2[i]];
km[i]:= hm[i]-t[i];
dcv[i]:=km[i]-ks[i];
End;
For i:=1 to n do dsk[i] :=tm[i]-ts[j];
Writeln(f2,i,ts[i]:7:3,'',tm[i]:9:3,'',dt[i],'',dsk[i]:1:3);
Writeln(f2,'STT - d1 - d2 - t - ks - hs - km - hm - dcv ');
For i:=1 do m do
Writeln(f2,i:2,'',d1[i]:4,d2[i]:4,t[i]:9:3,ks[i]:9:3,hs[i]:9:3,km[i]:9:3,hm[i]:9:3,dcv[i]:9:3);
P:=n;
Write(f2,'DUONG GANG LA : ');
Repeat Write(f2,p:4,' - ');
Write(f2,dt[p]:4,',');
P:=dt[p];
Until dt[p]=0;
Close(f2);
Write('TINH XONG NEU MUON NHAP FILE SO LIEU THI TIM FILE SDML.SLI, AN ENTER');
Write('TINH XONG NEU MUON XEM KET QUA THI TIM FILE SDML.KQU, AN ENTER');
Readln;
End.
1.4. Giải pháp về nhân sự
Đối với bất kỳ một công việc gì, trong lĩnh vực gì, điều kiện như thế nào đi chăng nữa thì bàn tay của con người bao giờ cũng đóng vai trò quyết định. Dù máy móc có hiện đại đến đâu đi chăng nữa, công nghệ có tiến tiến và ưu việt đến đâu đi chăng nữa cũng đòi hỏi cần phải có bàn tay và khối óc sáng tạo của con người. Nói như vậy để thấy được con người đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển của doanh nghiệp. Việc áp dụng sơ đồ mạng lưới trong quy trình xuất hàng tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ đòi hỏi người chỉ đạo quá trình bắt buộc phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ về xăng dầu cũng như kỹ thuật lập trình tính toán các chỉ tiêu của sơ đồ mạng lưới.
Một là Thành lập một bộ phận nhân viên chuyên nghiên cứu thị trường và thống kê xã hội học để có thể đáp ứng được việc phân tích trình tự tiến hành các công việc trong sơ đồ mạng lưới cả về thời gian cũng như chi phí tiến hành. Đây là một bộ phận không thể thiếu nếu Công ty muốn áp dụng phương pháp sơ đồ mạng trong xuất hàng một cách tối ưu nhất. Bộ phận này cần phải được hoạt động thường xuyên trên cơ sở kế hoạch chỉ đạo thống nhất của trưởng phòng kinh doanh. Để đáp ứng được yêu cầu của việc áp dụng sơ đồ mạng lưới trong xuất hàng thì nhiệm vụ của bộ phận này là tiến hành thu thập, xử lý, thống kê và hiệu chỉnh số liệu của tất cả các công việc liên quan đến quy trình xuất hàng, cụ thể như sau:
- Xem xét tất cả các công việc trong kho liên quan đến quy trình nhập và xuất hàng. Phân tích ảnh hưởng của các công việc chung và các công việc riêng đến tiến trình xuất hàng ở cả hai nhịp độ bình thường và nhịp độ khẩn trương.
- Dùng phương pháp quan sát trực tiếp để xem xét và tính thời gian tiến hành các công việc có liên quan đến quy trình xuất hàng hết bao nhiêu thời gian khi thực hiện chúng ở nhịp độ bình thường và khi thực hiện chúng ở nhịp độ khẩn trương.
- Dùng phương pháp phân tích thống kê và ước lượng hồi quy kinh tế lượng để tính toán chi phí khi tiến hành các công việc trong sơ đồ mạng lưới ở nhịp độ bình thường và nhịp độ khẩn trương.
- Sau khi đã tính được thời gian và chi phí của các công việc của quy trình xuất hàng theo sơ đồ mạng lưới cần phải tổng hợp chúng vào một bảng và tiến hành các buớc tối ưu.
Để có thể đáp ứng được nhiệm vụ trên thì bộ phận này của Công ty cần phải được đào tạo một cách cơ bản về chuyên môn , đó là khả năng phân tích sản phẩm, nghiệp vụ marketing, nghiệp vụ tính toán, thống kê và kỹ thuật ước lượng kinh tế lượng.
Hai là Tiến hành bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân viên chuyên nghiên cứu về lập trình, sư dụng máy tính điện tử để tiến hành tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới. Mặc dù đội ngũ nhân viên này của Công ty cũng có song đội ngũ này chưa đáp ứng được yêu cầu khi áp dụng sơ đồ mạng lưới. Việc đào tạo đội ngũ này là cần thiết và cấp bách, bởi lẽ khi khối lượng xăng dầu ngày càng tiêu thụ nhiều do nhu cầu của thị trường trong và ngoài tỉnh ngày càng cao nên khối lượng các công việc khi tiến hành xuất hàng tại kho B1 càng lớn và phức tạp hơn. Khi đó đòi hỏi đội ngũ nhân viên này cần phải tiến hành tối ưu sơ đồ mạng lưới trên cơ sở sử dụng chương trình tính toán trên máy tính điện tử. Để từ đó đưa ra được kết quả chương trình một cách nhanh nhất và chính xác nhất.
Ba là Đối với bộ phận phân tích hoá nghiệm, chất lượng xăng dầu phụ thuộc vào trình độ phân tích của đội ngũ này, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, danh tiếng của Công ty trên thị trường. Do đó bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ này trong giai đoạn hiện nay là một chính sách đúng đắn của Ban giám đốc Công ty.
1.5. Giải pháp về tính tối ưu của sơ đồ mạng lưới
Thông qua việc bộc lộ những mặt hạn chế của phương pháp sơ đồ mạng lưới áp dụng trong quy trình xuất hàng tại kho B1 của Công ty xăng dầu Phú Thọ, cần phải có một số giải pháp để có thể tối ưu hoá sơ đồ mạng lưới này tốt hơn và được áp dụng thực tiễn hơn cả trong lý thuyết và trong thực tế của việc xuất hàng.
Một là Khi tiến hành phân tích các công việc để tiến hành thu thập các số liệu về các hao phí như thời gian cũng như chi phí ta có thể tách chúng ra thành từng công việc nhỏ để rễ ràng quản lý và khai thác. Song khi đưa các công việc này lên sơ đồ mạng lưới để thực hiện các bước tối ưu thì cần phải tiến hành tổng hợp các công việc có cùng bản chất lại thành một công việc chung. Đây cũng là một trong những giải pháp nhằm giảm thiểu một cách tối đa nhất chi phí khi tiến hành quản lý và khai thác các công việc.
Qua sơ đồ mạng lưới đã được phân tích ở trên, ta có thể gộp công việc thiết kế xây dựng nhà đóng dầu ô tô ci téc (1,3) với công việc lắp ráp và đưa vào sử dụng nhà đóng dầu ô tô ci téc (9,11) thành một công việc; Công việc thiết kế đường ống dẫn (2,5) và công việc lắp ráp đường ống dẫn (8,11) thành một công việc. Hoặc cũng có thể gộp tất cả các công việc thiết kế vào thành một công việc chung và tách các công việc lắp ráp, kết nối với mạng máy tính thành các công việc riêng.
Hai là Song song với việc phân tích và tổng hợp các công việc trên sơ đồ mạng lưới thành các công việc mang tính bao quát cả về nội dụng và quy trình công nghệ thì sơ đồ mạng lưới được áp dụng trong quy trình xuất hàng tại kho B1 của Công ty cần phải có một bảng tổng hợp để thuyết minh một cách rõ ràng xuất phát điểm của quy trình xuất hàng và tiến hành tối ưu theo sơ đồ mạng lưới khác với khối lượng công việc mang bản chất của cả quy trình công nghệ xuất nhập hàng, trong đó xuất hàng là nội dung cần làm rõ hơn cả.
Trên cơ sở giải pháp này ta có thể đưa ra bảng thuyết minh sau
Bảng 1.32: Bảng thuyết minh công việc
Diễn giải
Công việc (i,j)
Nhịp độ bình thường
Nhịp độ khẩn trương
Trình tự tiến hành các công việc
Thời gian
Chi phí
Thời gian
Chi phí
2. Kiến nghị thực hiện đề tài
- Đầu tư xây dựng thêm một tuyến đường ống nhập hàng song song với tuyến đường ống cũ từ ga Phủ Đức về kho. Khi đó tách một tuyến nhập xăng, một tuyến nhập Diesel và dầu hoả. Như vậy đồng thời có thể tăng gấp đôi năng lực nhập, đáp ứng nhu cầu xuất hàng ngày càng cao của thị trường.
- Trong một khoảng thời gian nghiên cứu không dài và trình độ còn hạn chế nên chương trình không thể thực hiện một cách tự động hoàn toàn. Với sự phát triển không ngừng của công nghệ tin học, hiện nay trên thị trường đã có những phần cứng như máy chiếu lắp trực tiếp vào mày vi tính thì việc thực hiện tự động hoàn toàn sơ đồ mạng lưới trong quy trình xuất hàng là hoàn toàn khả thi. Cụ thể, với một máy chiếu đặt trong phòng thực hiên kế hoạch (Giá khoảng 15 triệu đồng) thì đã có thể có một hệ thống tự động hoàn toàn. Lúc đó các bộ quản lý thực hiện nhập dữ liệu vào file để chương trình sẽ tính toán tự động và đưa ra các đường găng trên sơ đồ mạng lưới đó. Chiếu trực tiếp lên máy chiếu thì tất cả công nhân trong Công ty đi làm có thể nhìn vào máy chiếu để thấy được công việc làm hôm nay ở mức độ găng như thế nào để có kế hoạch thực hiện hoàn thành xuất xắc nhiệm vụ được giao.
kết luận
với sự công nghiệp hoá và hiện đại hoá nhanh chóng của đất nước ta nói chung và trong nền công nghiệp dâù khí nói riêng, việc tự động hoá trong quá trình sản xuất là điều vô cùng cấp thiết và cấp bách. Hoà cùng với sự phát triển đó, việc áp dụng các phương pháp cũng như các chương trình tính toán nhằm tối ưu các công đoạn của quá trình sản xuất ngày càng được các doanh nghiệp quan tâm. Việc áp dụng phương pháp sơ đồ mạng lưới trong quy trình xuất hàng tại kho B1 Công ty xăng dầu Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu không thể thiếu, bởi lẽ xăng dầu là một mặt hàng vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Vì thế, nó cần phải được bảo quản cũng như lưu thông một cách tiết kiệm và an toàn. Sử dụng phương pháp sơ đồ mạng lưới trong xuất hàng đã giải quyết được vấn đề tối ưu hoá theo chỉ tiêu chi phí góp phần tiết kiệm được nguồn kinh phí không nhỏ trong tổng giá thành sản xuất. Mặt khác khi khối lượng hàng hoá ngày càng lớn để có thể phân phối đáp ứng nhu cầu tiêu thụ cho tỉnh nhà và các tỉnh lân cận thì việc rút ngắn thời gian lưu chuyển hàng hoá là một bài toán nan giải. Phương pháp sơ đồ mạng đã giải quyết được vấn đề này. Đây là một trong những ưu điểm nổi bật của phương pháp này so với các phương pháp khác.
Trải qua một thời gian nghiên cứu và thực tập tại Công ty xăng dầu Phú Thọ, thời gian còn hạn chế và kiến thức bản thân chưa được sâu. Đề tài không tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự đóng góp của thầy giáo hướng dẫn, ban lãnh đạo và các cô chú trong phòng kinh doanh của Công ty xăng dầu Phú Thọ.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Nguyễn Ngọc Huyền, ban lãnh đạo và các cô chú trong phòng kinh doanh của Công ty xăng dầu Phú Thọ đã giúp tôi hoàn thành đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn.
Mục lục
Trang
Tài liệu tham khảo
1. PGS.TS. Nguyễn Thành Độ, TS. Nguyễn Ngọc Huyền (chủ biên) - Giáo trình Quản trị kinh doanh tổng hợp - NXB Thống kê, 2001.
2. PTS. Trịnh Quốc Thắng - Các phương pháp sơ đồ mạng lưới trong xây dựng - NXB Xây dựng.
3. PGS.PTS. Nguyễn Văn Nhân - Sơ đồ mạng lưới - NXB Thống kê, 1996.
4. PGS. PTS. Nhâm Văn Toán - Toán kinh tế - Hà Nội, 1999.
5. PGS.PTS. Bùi Thế Dũng - Turbo Pascal 7.0 - NXB Thống kê - Hà Nội, 1999
6. GS.TS. Bùi Văn Vĩnh - Tối ưu hoá bài toán giao thông vận tải - NXB Thống kê.
Danh mục các thuật ngữ viết tắt
GDP : (Gross Domestic Product) Tổng sản phẩm quốc nội
PERT : (Program Evaluation and Review Technique) Kỹ thuật đánh giá và kiểm tra dự án.
OPECT : (Organization of Petroleum Exporting Countries) Hiệp hội các Quốc gia xuất khẩu dầu mỏ.
SĐML : Sơ đồ mạng lưới
M90 : (Mogas 90) Xăng 90
M92 : (Mogas 92) Xăng 92
TCN : Tiêu chuẩn ngành
D15 : Tỷ trọng ở nhiệt độ 15
V15 : Thể tích ở nhiệt độ 15
LPG : (Liquefied Petrolium Gas) Khí đốt hoá lỏng
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37031.doc