Tài liệu Áp dụng phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ Phần Bảo Hiểm AAA: CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI VÀ PHÍ BẢO HIỂM
I. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1. Sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Xe cơ giới là xe hoạt động bằng động cơ của chính mình, được phép lưu hành trên lãnh thổ của các quốc gia. Xe cơ giới không chỉ là phương tiện vận chuyển mà nó còn là một tài sản có giá trị tương đối lớn đối với cá nhân, tổ chức. Vận chuyển bằng xe cơ giới là hình thức vận chuyển phổ biến, được sử dụng rộng rãi d... Ebook Áp dụng phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ Phần Bảo Hiểm AAA
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1565 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Áp dụng phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ Phần Bảo Hiểm AAA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o có tính động cơ cao và linh hoạt, tốc độ vận chuyển nhanh và chi phí thấp, hoạt động trong phạm vi rộng kể cả địa bàn phức tạp. Trong quá trình hoạt động xe có một số đặc điểm ảnh hưởng đến quá trình triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm như sau ;
- Xe có tính cơ động cao, việt giã tốt trong quá trình tham gia vận tải
- Xe cơ giới tham gia vào giao thông đường bộ nên phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở, điều kiện tự nhiên, địa hình, cơ sở vật chất kỹ thuật…
- Xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ khi xảy ra tai nạn không những đem lại tổn thất, thiệt hại cho chính mình mà còn gây ra cho đối tượng khác nên việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là rất cần thiết nhằm đảm bảo quyền lợi của người dân khi không may gặp tai nạn. Tuy nhiên do liên quan đến nhiều bên, phát sinh những trách nhiệm ngoài hợp đồng làm cho nghiệp vụ bảo hiểm này có tính phức tạp nhất định.
- Xe cơ giới tham gia vào giao thông đường bộ chịu sự điều chỉnh của rất nhiều bộ luật của mỗi quốc gia như: Luật giao thông đường bộ, Bộ luật dân sự…hơn nữa nó lại phụ thuộc rất nhiều vào ý thức chấp hành luật giao thông của mỗi người dân khi tham gia giao thông nên nếu luật pháp thực hiện không nghiêm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến triển khai sản phầm bảo hiểm, trục lợi bảo hiểm gây thiệt hại cho DNBH, chủ xe và chính bản thân nạn nhân.
- Một đặc điểm nổi bật là số lượng xe cơ giới tham gia giao thông ngày càng nhiều. Đặc biệt là ở những nước đang phát triển và chậm phát triển sẽ có một giai đoạn trong quá trình phát triển số lượng xe cơ giới tăng lên đột biến; sự tăng quá mức so với cơ sở hạ tầng còn chưa được nâng cấp cho phù hợp sẽ làm tình hình tai nạn giao thông ngày càng gia tăng và hậu quả thiệt hại ngày càng nghiêm trọng.
Theo thống kê mới nhất của Ngân hàng phát triển châu Á về thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra tại Việt Nam, trung bình mỗi năm có hơn 11 nghìn người chết và hàng chục nghìn người bị thương do tai nạn giao thông đường bộ. Mỗi ngày ở Việt Nam có khoảng 33 người chết do tại nạn giao thông đường bộ, trong đó có nhiều trường hợp chết do chấn thương sọ não, đặc biệt có đến 40% những vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng lại rơi vào thanh thiếu niên trong độ tuổi 15-24. Theo ông Hans Troedson, Trưởng đại diện Tổ chức Y tế thế giới của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, thì vấn đề tai nạn giao thông ở Việt Nam đã đến mức báo động. Mỗi năm tai nạn giao thông làm thiệt hại 900 triệu USD về kinh tế.
Từ việc nghiên cứu đặc điểm của xe cơ giới ta có thể thấy, với những đặc tính ưu việt của nó so với một số loại hình vận chuyển khác, thì hiện nay xe cơ giới là một phương tiện được sử dụng rộng rãi với số lượng lớn, nhưng bên cạnh đó nó cũng chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro bất ngờ có thể xảy ra. Thực tế cho thấy là sự gia tăng về số lượng vụ tai nạn giao thông gây thiệt hại lớn về người và tài sản cho các chủ phương tiện tham gia giao thông. Đối với phần thiệt hại liên quan đến người thứ ba đã có Bảo hiểm trách nhiệm dân sự đứng ra bồi thường, đây là loại hình bảo hiểm mang tính chất bắt buộc mà chủ phương tiện xe cơ giới phải tham gia. Tuy nhiên, đối với phần thiệt hại vật chất thân xe mà chủ xe phải gánh chịu nếu tính bình quân thiệt hại về tài sản của mỗi vụ tai nạn thường lên đến hàng chục triệu đồng, đây là một số tiền không nhỏ đối với các chủ phương tiện. Mức độ thiệt hại mà các chủ xe phải chi trả là một gánh nặng đối với họ nó ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và gây khó khăn về mặt tài chính cho các chủ xe. Xuất phát từ thực tế đó bảo hiểm vật chất thân xe cơ giới đã ra đời, đây là một biện pháp hữu hiệu nhất khắc phục hậu quả do tai nạn gây ra, đảm bảo ổn định tài chính cho các chủ xe. Ý thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ này đối với các chủ phương tiện xe nói riêng và với toàn xã hội nói chung, hiện nay loại hình baảo hiểm vật chất xe cơ giới này đang được tất cả các Công ty bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam triển khai. Bảo hiểm vật chất thân xe là một loại hình của bảo hiểm tài sản thuộc bảo hiểm thương mại, nó luôn được thực hiện dưới hình thức tự nguyện, việc tham gia bảo hiểm phụ thuộc vào nhận thức và nhu cầu của người tham gia bảo hiểm, và thời hạn tham gia bảo hiểm của bảo hiểm vật chất xe thường là một năm trở xuống, nếu hết thời hạn hợp đồng người tham gia có thể tái tục. Khi tham gia bảo hiểm các chủ xe phải đóng góp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm và quỹ tiền tệ của nhà bảo hiểm, quỹ này sẽ được sử dụng chủ yếu cho các mục đích sau :
- Bồi thường cho khách hàng khi có rủi ro gây tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
- Đề phòng, hạn chế tổn thất.
- Dự trữ, dự phòng.
- Nộp ngân sách Nhà nước dưới hình thức thuế.
- Chi phí quản lý có lãi.
Như vậy ta có thể thấy được rằng bảo hiểm vật chất xe cơ giới ra đời là cần thiết khách quan cho nên ở tất cả các nước trên thế giới đều triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này. Hiện nay bảo hiểm AAA chỉ triển khai bảo hiểm vật chất xe cơ giới với xe ôtô do nó có giá trị lớn.
2. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Hoạt động trên những nguyên tắc chung của bảo hiểm thương mại đó là : nguyên tắc số đông bù số ít, nguyên tắc rủi ro có thể được bảo hiểm, nguyên tắc phân tán rủi ro, nguyên tắc trung thực tuyệt đối và nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm, việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới có những tác dụng cơ bản sau :
- Tích cực góp phần ngăn ngừa và đề phòng tai nạn giao thông
Thông qua việc thu phí từ người tham gia bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ lập một quỹ tài chính với mục đích là bồi thường cho các rủi ro được bảo hiểm xảy ra, một nhiệm vụ quan trọng của quỹ tài chính này phải kể đến đó là sử dụng vào mục đích đề phòng hạn chế tổn thất. Những nguy cơ gây ra tai nạn do chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng còn thấp, như tại các đèo, dốc nguy hiểm đã được các công ty bảo hiểm hỗ trợ hàng tỷ đồng để xây dựng đường lánh nạn, đường phụ, dốc cứu nạn, thành chắn...hàng năm cứu thoát khỏi nguy hiểm nhiều vụ tai nạn.
Ngoài việc xây dựng thêm các công trình lánh nạn, các công ty bảo hiểm còn bố trí hệ thống các Panô, áp phích có kèm những khẩu hiệu về an toàn giao thông trên đường để nâng cao ý thức người dân trong việc tham gia giao thông nhằm hạn chế các tai nạn xảy ra.
Các công ty bảo hiểm cũng khuyến khích các chủ xe thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, nâng cao ý thức thông qua công tác tuyên truyền luật lệ giao thông. Đặc biệt các công ty bảo hiểm còn giảm phí bảo hiểm nếu sau một thời gian nhất định mà xe không gặp phải bất kỳ một thiệt hại nào. Những biện pháp trên tất cả đều nhằm mục đích góp phần đề phòng hạn chế tổn thất tai nạn giao thông.
- Trực tiếp góp phần ổn định tài chính, khắc phục khó khăn đột xuất cho các chủ xe
Xe cơ giới với đặc điểm hoạt động trên địa bàn rộng và phức tạp chứa đựng rất nhiều rủi ro tiềm ẩn. Khi tham gia giao thông nhiều khi chỉ một sơ xuất, bất cẩn nhỏ cũng có thể dẫn tới những hậu quả thiệt hại lớn mà chủ xe là người đầu tiên phải gánh chịu những thiệt hại này. Chủ xe tự chấp nhận rủi ro mà không chuyển giao rủi ro cho bảo hiểm thì việc khắc phục hậu quả sau tai nạn là cả một quá trình, có thể gây gián đoạn kinh doanh của chủ xe, thiệt hại về tài chính. Nếu chủ xe chuyển giao rủi ro cho bảo hiểm thì hậu quả của rủi ro xảy ra đối với một hoặc một ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy động được từ rất nhiều người có khả năng cùng gặp rủi ro như vậy, bảo hiểm sẽ bồi thường nhanh chóng kịp thời cho chủ xe khắc phục khó khăn về tài chính, tiếp tục hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên nhà bảo hiểm cũng có những quy định những rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm và khống hạn chế mức trách nhiệm ( số tiền bồi thường ) để tránh trục lợi bảo hiểm đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm của chủ điều khiển phương tiện tham gia giao thông.
- Góp phần xoa dịu bớt sự căng thẳng giữa chủ xe với nạn nhân của các vụ tai nạn.
Khi xảy ra tai nạn giao thông đồng thời với những tổn thất xảy ra, hầu hết trong các trường hợp đều có thể xảy ra xích mích, căng thẳng giữa chủ xe với nạn nhân của vụ tai nạn. Với chuyên môn của mình, nhà bảo hiểm cùng với lực lượng cảnh sát giao thông đứng ra tổ chức giám định, xác định mức độ lỗi của hai bên từ đó nhanh chóng đưa ra mức bồi thường thoả đáng, giải quyết nhanh chóng những khúc mắc giữa hai bên.
- Góp phần tăng thu ngân sách, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Thông qua việc nộp thuế làm tăng thu ngân sách nhà nước của các công ty bảo hiểm, chính phủ sử dụng ngân sách phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng để thoả mãn tốt hơn nhu cầu đi lại của người dân. Ngoài ra, với phạm vi hoạt động rộng rãi của các công ty bảo hiểm hiện nay ở tất cả các tỉnh thành còn giải quyết được một phần không nhỏ công ăn việc làm cho người lao động, những người lao động này họ làm các đại lý, cộng tác viên, những nhân viên bảo hiểm...
II. Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1. Đối tượng bảo hiểm
Xe cơ giới có thể hiểu là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó, bao gồm ôtô, mô tô và xe máy. Để đối phó với những rủi ro tai nạn bất ngờ có thể xảy ra gây tổn thất cho mình, các chủ xe cơ giới thường tham gia một số loại hình bảo hiểm sau :
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới;
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với hàng hoá chở trên xe;
- Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe;
- Bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe;
- Bảo hiểm vật chất xe;
Trong phạm vi báo cáo chuyên đề thực tập này, chỉ tập trung trình bày nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe. Khác với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và đối với hành khách trên xe được áp dụng bắt buộc bằng pháp luật đối với các chủ xe. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản được thực hiện dưới hình thức bảo hiểm tự nguyện.
Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là để được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra với xe của mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên. Vì vậy, đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia.
Đối với xe mô tô, xe máy thường các chủ xe tham gia bảo hiểm toàn bộ vật chất thân xe. Đối với xe ôtô, các chủ xe có thể tham gia toàn bộ hoặc cũng có thể tham gia từng bộ phận của xe ( tổng thành xe ). Đứng trên góc độ đặc điểm kinh tế, kỹ thuật chiếc xe ôtô được chia thành 7 tổng thành : Tổng thành thân vỏ xe, tổng thành động cơ, tổng thành hộp số, tổng thành hệ thống lái, tổng thành trục trước, tổng thành trục sau, tổng thành lốp.
2. Phạm vi bảo hiểm
Trong hợp đồng bảo hiểm vật chất xe, các rủi ro được bảo hiểm thông thường gồm :
- Tai nạn do đâm va, lật đổ
- Cháy, nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá
- Mất cắp toàn bộ xe
- Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên
Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được bảo hiểm trong những trường hợp trên, các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm :
- Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm;
- Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất;
- Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm;
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp tổng số tiền bồi thường của công ty bảo hiểm là không vượt quá số tiền bảo hiểm đã ghi trên đơn hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Đồng thời công ty bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại vật chất của xe gây ra bởi :
- Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa. Hao mòn tự nhiên được tính dưới hình thức khấu hao và thường được tính theo tháng.
- Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị, săm lốp bị hư hỏng mà không do tai nạn gây ra.
- Mất cắp bộ phận của xe.
Để tránh những “ nguy cơ đạo đức ” lợi dụng bảo hiểm, những hành vi vi phạm pháp luật, hay một số rủi ro đặc biệt khác, những thiệt hại, tổn thất xảy ra trong những trường hợp sau cũng sẽ không được bồi thường :
- Hành động cố ý của chủ xe, lái xe;
- Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy định của Luật an toàn giao thông đường bộ;
- Chủ xe ( lái xe ) vi phạm nghiêm trọng Luật an toàn giao thông đường bộ như : Xe không có giấy phép lưu hành, lái xe không có bằng lái, lái xe bị ảnh hưởng bởi rượu bia, ma tuý trong khi điều khiển xe; xe chở quá trọng tải hoặc số hành khách quy định...
- Những thiệt hại gián tiếp như : Giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh;
- Thiệt hại do chiến tranh.
Và cần lưu ý một điều nữa là trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu xe cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực với chủ xe mới. Tuy nhiên, nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ yêu cầu.
3. Gía trị bảo hiểm
Gía trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm. Việc xác định đúng giá trị của xe tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường. Tuy nhiên, giá xe trên thị trường luôn có những biến động và có thêm nhiều chủng loại xe mới tham gia giao thông nên đã gây khó khăn cho việc xác định giá trị xe. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường dựa trên các nhân tố sau để xác định giá trị xe :
Loại xe;
Năm sản xuất;
Mức độ mới, cũ của xe;
Thể tích làm việc của xilanh...
Một phương pháp xác định giá trị bảo hiểm mà các công ty bảo hiểm hay áp dụn đó là căn cứ vào giá trị của xe và mức khấu hao. Trên cơ sở giá trị bảo hiểm, chủ xe có thể tham gia bảo hiểm nhỏ hơn, hoặc bằng, hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Tuy nhiên, việc quyết định tham gia bảo hiểm với số tiền là bao nhiêu sẽ là cơ sở để xác định số tiền bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra.
4. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới các công ty bảo hiểm cần chú ý đến việc đề phòng tai nạn xảy ra và hạn chế tối đa mức độ tổn thất để giảm thiểu chi phí bồi thường cho nhà bảo hiểm bởi nếu chỉ bồi thường quá cao thì doanh nghiệp kinh doanh sẽ ít hoặc thậm chí không có lãi, không đảm bảo duy trì hoạt động kinh doanh. Hàng năm các công ty bảo hiểm thường tiến hành trích một phần doanh thu từ nghiệp vụ để phục vụ cho công tác này. Chủ yếu là để xây dựng biển báo tại các đầu mối giao thông quan trọng, xây dựng đường lánh nạn, gương cầu tại đường rộng, đèo dốc. Tuy nhiên, để thực hiện tốt công tác này thì trách nhiệm chính lại thuộc về các chủ phương tiện thực hiện tốt các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất, như đối với lái xe ôtô cần thắt dây an toàn, cần đội mũ bảo hiểm đối với người sử dụng xe máy, chạy đúng phần đường, đúng tốc độ quy định,…sẽ làm giảm tai nạn xảy ra, giảm số tiền mà nhà bảo hiểm phải bồi thường từ đó giảm phí bảo hiểm cho người tham gia.
5. Giám định và bồi thường tổn thất
5.1. Giám định tổn thất
Đây là một khâu quan trọng trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm. Nó là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm, nó là khâu quan trọng bởi nếu không xác định chính xác mức độ thiệt hại thực tế, trách nhiệm của công ty bảo hiểm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu của công ty cũng như uy tín của công ty với khách hàng
Giám định được thực hiện bởi các giám định viên, có thể là nhân viên của công ty hoặc giám định viên thuê ngoài. Thông thường đối với bảo hiểm vật chất xe cơ giới, việc giám định tổn thất được công ty bảo hiểm tiến hành với sự góp mặt của chủ xe, lái xe hoặc người đại diện hợp pháp nhằm xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại và tất cả các thiệt hại thuộc trách nhiệm của nhà bảo hiểm phải được tiến hành giám định rất kỹ lưỡng.
5.2. Bồi thường tổn thất
5.2.1. Hồ sơ bồi thường
Khi yêu cầu công ty bảo hiểm bồi thường thiệt hại vật chất xe, chủ xe phải cung cấp những tài liệu, chứng từ sau :
- Tờ khai tai nạn của chủ xe;
- Bản sao của Giấy chứng nhận bảo hiểm, Giấy chứng nhận đăng ký xe, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện xe cơ giới đường bộ, Giấy phép lái xe;
- Kết luận điều tra của Công an hoặc bản sao bộ hồ sơ tai nạn gồm : Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn, Biên bản giải quyết tai nạn;
- Bản án hoặc quyết định của Toà án trong trường hợp có tranh chấp tại toà án;
- Các chứng từ xác định thiệt hại do tai nạn, ví dụ : chứng từ xác định chi phí sửa xe, thuê cầu kéo…
5.2.2 Nguyên tắc bồi thường tổn thất :
Khi tiến hành bồi thường các công ty bảo hiểm phải tuân theo các nguyên tắc sau :
- Giải quyết đúng chế độ bảo hiểm
+ Đúng trách nhiệm bảo hiểm : Về đối tượng bảo hiểm, rủi ro bảo hiểm;
+ Đúng thiệt hại thuộc phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm;
+ Trả tiền đúng đối tượng.
- Đủ căn cứ pháp lý chứng minh được :
+ Đối tượng được bảo hiểm đã gặp rủi ro nhận bảo hiểm khi hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực;
+ Thiệt hại thuộc phạm vi nhận bảo hiểm;
+ Không vi phạm những điểm loại trừ.
- Thuận lợi, kịp thời
Cụ thể số tiền bồi thường sẽ được tính như sau :
- Trường hợp xe tham gia bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế :
Số tiền bồi thường = Gía trị thiệt hại thực tế × "
- Trường hợp xe tham gia bảo hiểm trên giá trị :
Theo nguyên tắc để tránh việc trục lợi bảo hiểm, công ty bảo hiểm chỉ chấp nhận số tiền bảo hiểm nhỏ hơn hoặc bằng với giá trị bảo hiểm. Nếu người tham gia bảo hiểm cố tình tham gia với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm sẽ không có hiệu lực. Tuy nhiên nếu là vô tình tham gia bảo hiểm trên giá trị, công ty bảo hiểm vẫn bồi thường, nhưng số tiền bồi thường chỉ bằng giá trị thiệt hại thực tế và luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thực tế của xe.
Trong thực tế, cũng có những trường hợp Công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm trên giá trị thực tế, ví dụ theo " Gía trị thay thế mới ". Để được bảo hiểm theo giá trị thay thế mới, chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao và các điều kiện bảo hiểm rất nghiêm ngặt.
Ngoài ra, khi tính toán số tiền bồi thường còn phải tuân theo những nguyên tắc sau :
- Những bộ phận thay thế mới ( Tức là khi tổn thất toàn bộ một bộ phận hay một tổng thành), khi bồi thường phải trừ khấu hao đã sử dụng hoặc chỉ tính giá trị tương đương với giá trị của bộ phận được thay thế ngay trước lúc xảy ra tai nạn. Nếu tổn thất xảy ra ngay trước ngày 16 của tháng, tháng đó không phải tính khấu hao. Còn nếu tổn thất xảy ra từ ngày 16 trở đi thì phải tính khấu hao của tháng đó. Công ty bảo hiểm sẽ thu hồi những bộ phận được thay thế hoặc đã được bồi thường toàn bộ giá.
- Trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm một bộ phận hoặc tổng thành xe, số tiền bồi thường được xác định dựa trên thiệt hại của bộ phận hay tổng thành đó. Và số tiền bồi thường cũng thường được giới hạn bởi bảng tỷ lệ giá trị tổng thành xe của bộ phận hay tổng thành tham gia bảo hiểm.
- Trường hợp thiệt hại xảy ra có liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba, công ty bảo hiểm bồi thường cho các chủ xe và yêu cầu chủ xe bảo lưu quyền khiếu nại và chuyển quyền đòi bồi thường cho công ty bảo hiểm kèm theo toàn bộ hồ sơ, chứng từ có liên quan. Cụ thể, nếu xe có tham gia bảo hiểm vật chất bị một xe khác có bảo hiểm trách nhiệm dân sự đâm va gây thiệt hại thì bồi thường thiệt hại vật chất trước. Đối với trách nhiệm dân sự chỉ bồi thường phần chênh lệch giữa số tiền bồi thường trách nhiệm dân sự và số tiền thiệt hại vật chất.
- Chế độ bảo hiểm theo mức miễn thường : Công ty bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với những tổn thất mà giá trị thiệt hại thực tế vượt quá một mức đã thoả thuận gọi là mức miễn thường. Việc áp dụng bảo hiểm theo mức miễn thường có thể là tự nguyện hoặc bắt buộc. Nếu giữa công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm thoả thuận sẽ không bồi thường đối với những tổn thất nhỏ hơn mức miễn thường trên cơ sở phí tự nguyện thì phí bảo hiểm sẽ được giảm bớt phụ thuộc vào mức miễn thường cụ thể. Trong trường hợp miễn thường bắt buộc, phí bảo hiểm vẫn giữ nguyên. Bảo hiểm theo mức miễn thường không chỉ tránh cho công ty bảo hiểm phải bồi thường những tổn thất qúa nhỏ so với giá trị bảo hiểm mà còn có ý nghĩa trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm đề phòng, hạn chế rủi ro của người được bảo hiểm.
Có hai loại miễn thường : Miễn thường không khấu trừ và miễn thường có khấu trừ. Chế độ bảo hiểm miễn thường không khấu trừ đảm bảo chi trả cho những thiệt hại thực tế vượt quá mức miễn thường nhưng số tiền bảo hiểm sẽ không bị khấu trừ theo mức miễn thường.
Số tiền bồi thường bảo hiểm = Gía trị thiệt hại thực tế
Trong chế độ bảo hiểm miễn thường có khấu trừ, thiệt hại thực tế phải lớn hơn mức miễn thường mới được bồi thường nhưng số tiền bảo hiểm sẽ bị khấu trừ theo mức miễn thường này.
Số tiền bồi thường = Gía trị thiệt hại thực tế - Mức miễn thường
- Bảo hiểm trùng : Có những trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất theo một hay nhiều đơn bảo hiểm khác nhau theo đúng nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm, tổng số tiền mà chủ xe nhận được từ tất cả các đơn bảo hiểm chỉ đúng bằng thiệt hại thực tế. Thông thường, các công ty bảo hiểm giới hạn trách nhiệm bồi thường của mình theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm ghi trong Giấy chứng nhận bảo hiểm của công ty mình so với số tổng của những số tiền bảo hiểm ghi trong tất cả các đơn bảo hiểm.
6. Hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là sự thoả thuận giữa các bên theo đó bên mua bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm, bên bảo hiểm có trách nhiệm trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là chứng từ có tính chất pháp lý, quy định rõ nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên tham gia. Trước khi ký kết hợp đồng, chủ xe phải có giấy yêu cầu bảo hiểm và kê khai đầy đủ, trung thực những nội dung có trong giấy yêu cầu bảo hiểm. Đây là căn cứ để ký kết hợp đồng bảo hiểm. Trong hợp đồng bảo hiểm có quy định một số điều khoản quan trọng như :
- Điều khoản quy định về hình thức tham gia : Tham gia bảo hiểm toàn bộ hoặc bộ phận.
- Điều khoản quy định về mức trách nhiệm : Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm.
- Điều khoản quy định về thời gian và hiệu lực hợp đồng bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm chỉ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm khi chủ xe đã đóng phí bảo hiểm. Thời hạn hiệu lực bắt đầu và kết thúc được thể hiện trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Trường hợp chủ xe không nộp phí bảo hiểm đầy đủ vào đúng thời hạn quy định thì hợp đồng bảo hiểm mặc nhiên mất hiệu lực cho đến khi chủ xe tiếp tục đóng phí.
Trong thời hạn bảo hiểm, nếu có sự chuyển quyền sở hữu xe thì phải thông báo bằng văn bản cho công ty trước 15 ngày. Nếu hợp đồng được hai bên thoả thuận huỷ bỏ, công ty sẽ hoàn lại cho chủ xe 80% phí bảo hiểm của thời gian còn lại với điều kiện đến thời điểm đó chủ xe chưa lần nào được công ty chấp nhận trả tiền bảo hiểm.
III. Phí bảo hiểm xe cơ giới
1. Vai trò và yêu cầu của việc định phí bảo hiểm
Việc xác định mức giá cho sản phẩm bảo hiểm( hay còn gọi là phí bảo hiểm) đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong marketing hỗn hợp bởi vì giá cả sản phẩm sẽ có tác động đến số lượng hợp đồng khai thác được, đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Gía cả cũng tác động đến thị phần và vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Ngoài ra, giá cả sản phẩm bảo hiểm còn tác động đến vấn đề đầu tư, tái bảo hiểm, khả năng thanh toán…
Việc xác định giá cho sản phẩm bảo hiểm thường được xem xét trên hai khía cạnh cơ bản sau :
- Thứ nhất là đưa ra “ mức giá hợp lý ” ( giá kỹ thuật) nhằm giúp doanh nghiệp hình thành được quỹ tài chính đủ để chi trả bồi thường cho các khiếu nại, trang trải được các chi phí hoạt động và mang lại lợi nhuận hợp lý cho doanh nghiệp bảo hiểm. Mức giá này được xác định trên tần suất xảy ra sự kiện bảo hiểm, mức độ tổn thất bình quân, lãi suất đầu tư…Việc định giá được thực hiện bởi các chuyên gia định phí.
- Thứ hai là đưa ra giá bán thực tế. Gía này tính đến các mục tiêu thị phần, môi trương cạnh tranh của doanh nghiệp…Gía thực tế đưa ra trên cơ sở thu thập ý kiến của nhiều bộ phận có liên quan trong doanh nghiệp ( bộ phận đầu tư, bộ phận thẩm định đánh giá rủi ro, bộ phận giải quyết khiếu nại bồi thường, bộ phận kế toán…), nhưng chịu trách nhiệm chính là bộ phận marketing.
Gía bán thực tế có xu hướng luôn biến động trong khi giá kỹ thuật có tính ổn định hơn. Giữa giá bán thực tế và giá hợp lý có thể chênh lệch phụ thuộc vào trạng thái của thị trường tại từng thời điểm, kỳ vọng của người quản lý và các cổ đông…
Như vậy, giá cả sản phẩm bảo hiểm phải đáp ứng các yêu cầu trang trải chi phí. Mang lại lợi nhuận hợp lý cho doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu về cạnh tranh…và các yêu cầu quản lý của nhà nước. Gía cả sản phẩm bảo hiểm không được quá cao hoặc không được phân biệt đối xử một cách bất công bằng. Ngoài ra, giá cả sản phẩm bảo hiểm còn phải được đảm bảo tính ổn định theo thời gian và phản ứng được trước những thay đổi của môi trường cũng như bản thân doanh nghiệp.
2. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến phí bảo hiểm
2.1. Mục tiêu định phí
Khi doanh nghiệp đưa ra những mức giá cho sản phẩm, thì những mức giá đó nhằm giúp doanh nghiệp đạt được những mục tiêu nhất định. Nói một cách khác, mục tiêu định giá chính là cơ sở cho các quyết định liên quan đến giá cả. Và mục tiêu định giá phải được xác định dựa trên những mục tiêu chung của doanh nghiệp. Ví dụ khi mục tiêu chung của doanh nghiệp là duy trì chất lượng dịch vụ hàng đầu vượt hẳn đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ đặt giá cao hơn đối thủ cạnh tranh nhằm trang trải được các chi phí cao hơn phát sinh do cung cấp dịch vụ với chất lượng cao hơn. Ngoài ra các mục tiêu định giá của doanh nghiệp cũng phải phù hợp với các mục tiêu marketing cụ thể của doanh nghiệp.
2.1.1. Các mục tiêu hướng theo lợi nhuận
Lợi nhuận là mục tiêu của bất cứ một doanh nghiệp nào khi tham gia kinh doanh, nó chi phối toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên tùy từng sản phẩm hay tùy từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp mà mục tiêu lợi nhuận được ưu tiên trong mục tiêu trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp.
Mục tiêu lợi nhuận có thể được xác định cho toàn doanh nghiệp hay chỉ cho một hoặc một số lớp sản phẩm hay từng mặt hàng. Nếu doanh nghiệp đặt ra mục tiêu lợi nhuận thì doanh nghiệp phải đặt giá sao cho ít nhất là đạt được mức lợi nhuận đã định.
Để đạt được mục tiêu lợi nhuận, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ xem xét đánh giá kết quả thực hiện : Nếu các sản phẩm không đạt được lợi nhuận dự kiến thì sản phẩm đó cần phải được điều chỉnh thậm chí là rút khỏi thị trường.
2.1.2 Mục tiêu hướng theo số lượng hợp đồng khai thác
Một số doanh nghiệp xây dựng mục tiêu định giá hướng theo số lượng hợp đồng khai thác chứ không hướng theo lợi nhuận. Việc tăng số lượng hợp đồng khai thác không đồng nghĩa với tăng lợi nhuận vì nếu doanh nghiệp quyết định tăng số lượng hợp đồng khai thác bằng cách hạ giá bán thì lợi nhuận của doanh nghiệp có thể giảm do số lượng bán tăng không đủ bù đắp lợi nhuận giảm đi do đơn giá giảm.
Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp muốn tăng số lượng hợp đồng khai thác ở một số thị trường nhất định ngay cả khi lợi nhuận không tăng, với hy vọng thông qua việc tăng vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, hình ảnh của doanh nghiệp trong khách hàng sẽ tăng lên do đó dẫn đến tăng lợi nhuận như mong muốn.
2.1.3. Mục tiêu hướng theo cạnh tranh
Mục tiêu này liên quan đến thị phần của doanh nghiệp, thị phần của doanh nghiệp có thể duy trì hoặc tăng trong đó thị phần của doanh nghiệp có thể được đo lường theo số lượng hợp đồng khai thác được hoặc theo doanh thu phí bảo hiểm thu được.
Với mục tiêu hướng theo cạnh tranh, doanh nghiệp thực hiện việc định giá sản phẩm dựa trên giá cả của các đối thủ cạnh tranh thực tế hoặc đối thủ cạnh tranh tiềm năng. Có ba mục tiêu định phí hướng theo cạnh tranh thường thấy là: Không khuyến khích cạnh tranh ( triệt tiêu cạnh tranh ); đánh bại cạnh tranh; đương đầu cạnh tranh ( cân bằng cạnh tranh). Tùy vị thế của doanh nghiệp trên thị trường mà mục tiêu định giá của doanh nghiệp sẽ khác nhau :
Trong trường hợp doanh nghiệp độc quyền trên thị trường, có thể chọn mục tiêu định giá “ triệt tiêu cạnh tranh ”, tức doanh nghiệp sẽ định giá sản phẩm ở mức thấp nhất sao cho các đối thủ mới khó có thể hoặc không thể đưa ra mức giá thấp như thế mà vẫn thu được lợi nhuận. Như vậy với vị thế mạnh trên thị trường, doanh nghiệp độc quyền sẽ không khuyến khích các đối thủ mới gia nhập thị trường.
Trường hợp doanh nghiệp hoạt động trên thị trường cạnh tranh hơn, có thể chọn mục tiêu định giá “ đánh bại cạnh tranh”. Điều này có nghĩa doanh nghiệp sẽ định giá thấp hơn mức giá các đối thủ cạnh tranh và các nỗ lực marketing sẽ nhấn mạnh vào mức giá đó. Các doanh nghiệp thường hướng theo mục tiêu này khi họ là những đối thủ cạnh tranh mới trên thị trường và muốn thiết lập nhanh chóng danh tiếng trên thị trường nhằm chiếm lĩnh được thị phần. Ngoài ra, các doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu cạnh tranh giá phải sẵn sàng và có thể thay đổi các mức giá một cách thường xuyên nhằm phản ứng lại những thay đổi trong cạnh tranh.
Như vậy sử dụng giá cả làm cơ sở cho cạnh tranh có hai nhược điểm cơ bản là : Lợi thế cạnh tranh qua giá cả thường có vòng đời ngắn vì hầu hết các đối thủ có thể thay đổi mức giá của họ và định giá sản phẩm quá thấp có thể làm cho doanh nghiệp bị thiệt hại tài chính lớn.
Trong trường hợp doanh nghiệp bán các loại sản phẩm mà đa số khách hàng coi là giống với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ buộc phải định giá theo mức giá chung mà các đối thủ đưa ra. Mục tiêu định giá trong trường hợp này gọi là “ đương đầu với cạnh tranh ”. Khi muốn cạnh tranh trên cơ sở phi giá cả, tránh việc cạnh tranh giá cả, đa số các doanh nghiệp sẽ theo đuổi mục tiêu này.
2.2. Chi phí
Chi phí là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến việc định giá sản phẩm. Chi phí của sản phẩm định ra giới hạn dưới cho mức giá của sản phẩm bởi vì trong điều kiện kinh tế thị trường, không một doanh nghiệp nào có thể tồn tại nếu bán sản phẩm ở mức giá thấp hơn mức chi phí trong thời gian dài. B._.ởi khi kinh doanh mục tiêu lợi nhuận luôn được coi là mục tiêu hàng đầu, nó giúp doanh nghiệp có thể tồn tại cũng như tăng trưởng trên thị trường.
Tuy nhiên, nếu căn cứ vào chi phí thì việc định giá cho sản phẩm bảo hiểm phức tạp hơn việc định giá các sản phẩm khác rất nhiều, do tất cả các chi phí gắn với một hợp đồng bảo hiểm sẽ không thể xác định được cho đến khi các khiếu nại và các chi phí gắn với hợp đồng bảo hiểm đó phát sinh. Nói một cách khác, giá cả sản phẩm bảo hiểm được xác định dựa trên các chi phí dự tính chứ không phải dựa trên các chi phí thực tế phát sinh. Đây là điểm khác biệt cơ bản nhất giữa định giá sản phẩm bảo hiểm và định giá sản phẩm trong các lĩnh vực khác.
Qúa trình định phí có thể được coi là quá trình dự đoán tổn thất và chi phí trong tương lai, phân bổ các chi phí này giữa những người tham gia bảo hiểm. Ơ các quốc gia có ngành bảo hiểm phát triển, trong các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, việc định phí được thực hiện bởi bộ phận định phí hoặc đối với các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ quy mô nhỏ hơn thì việc định phí do các công ty tư vấn định phí thực hiện. Còn trong lĩnh vực bảo hiểm tài sản và trách nhiệm, giá cả sản phẩm bảo hiểm được xác định dựa trên số liệu thống kê về khuynh hướng tổn thất do các tổ chức tư vấn cung cấp hoặc từng doanh nghiệp bảo hiểm tự thu thập.
Nhìn chung, phụ thuộc vào các điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm, giá cả sản phẩm cụ thể cộng với lãi đầu tư doanh nghiệp thu được phải đủ để trang trải các chi phí như : Chi bồi thường hay trả tiền bảo hiểm, các chi phí hoạt động ( chi phí phát triển sản phẩm, chi phí phân phối sản phẩm, chi phí tái bảo hiểm, chi phí quản lý chung, thuế thu nhập doanh nghiệp…), các chi phí bất thường khác phát sinh không dự tính trước do rủi ro đầu tư…Bởi vì có nhiều nhân tố tác động đến các khoản chi phí này nên doanh nghiệp bảo hiểm phải thận trọng trong việc đưa ra các giả định sử dụng để xác định chi phí dự tính cho sản phẩm. Nhưng nếu quá cẩn trọng khi ước lượng về chi phí tương lai có thể dẫn đến một mức phí bảo hiểm quá cao làm cho doanh nghiệp khó cạnh tranh. Ngược lại, nếu quá lạc quan khi ước lượng về chi phí có thể dẫn đến mức phí bảo hiểm lại quá thấp làm cho doanh nghiệp khó thu được lợi nhuận.
Việc định giá sản phẩm mới là rất khó vì doanh nghiệp không có hoặc có rất ít kinh nghiệm cũng như số liệu về chi phí làm cơ sở cho các giả định. Khi doanh nghiệp có kinh nghiệm trong phát triển, marketing và quản lý sản phẩm mới, cũng như khi doanh nghiệp tích lũy được số liệu về chi phí thì khả năng dự đoán chi phí sẽ sát với thực tế.
Ngoài ra, việc phân bổ chi phí cho một sản phẩm cụ thể cũng là một công việc khá khó khăn. Để phân bổ chính xác, doanh nghiệp phải phân loại chi phí thành chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Trong đó, chi phí trực tiếp là những chi phí liên quan đến sản phẩm như chi phí bồi thường, chi phí thẩm định đánh giá rủi ro, chi phí phát hành hợp đồng bảo hiểm, hoa hồng bảo hiểm, chi phí xử lý khiếu nại...; Chi phí gián tiếp là những chi phí không liên quan trực tiếp đến một sản phẩm bảo hiểm cụ thể mà gắn liền với các họat động chung của doanh nghiệp như lưong cho cán bộ nhân viên, khấu hao tài sản cố định…
2.3. Khách hàng
Cầu về sản phẩm của khách hàng là nhân tố quyết định giới hạn trên của giá cả sản phẩm. Kinh nghiệm marketing thực tế đều cho thấy, cầu của hầu hết các loại sản phẩm có quan hệ tỷ lệ nghịch với giá cả sản phẩm với điều kiện là các nhân tố khác không thay đổi.
Khi phân tích cầu về sản phẩm phải xác định sự thay đổi của nó khi giá cả sản phẩm thay đổi. Để đo lường mức độ thay đổi này, kinh tế học vi mô đã đưa ra khái niệm “ độ co giãn của cầu theo giá”. Nhìn chung cầu về sản phẩm bảo hiểm xe cơ giới được coi là không co giãn theo giá. Khi mức giá chung tăng lên hay giảm đi, cầu về các sản phẩm này thường không thay đổi ( nhưng nếu giá bán sản phẩm của một doanh nghiệp nào đó thay đổi, doanh số bán sản phẩm của doanh nghiệp đó sẽ thay đổi do khách hàng chuyển sang mua sản phẩm của doanh nghiệp khác có mức giá thấp hơn). Còn cầu về sản phẩm bảo hiểm vật chất xe cơ giới khó xác định vì khách hàng không bắt buộc phải mua sản phẩm đó.
Độ co giãn của cầu về sản phẩm bảo hiểm theo giá thị trường bị tác động bởi các yếu tố sau :
- Số lượng sản phẩm thay thế sẵn có : Khi có nhiều sản phẩm thay thế, cầu về sản phẩm đó sẽ co giãn nhiều;
- Nhu cầu đi liền với sản phẩm: Khi sản phẩm bảo hiểm là thiết yếu, cầu về sản phẩm đó sẽ ít co giãn hơn;
- Mức chỉ tiêu cần để mua sản phẩm : Với các sản phẩm bảo hiểm mà chi tiêu cho sản phẩm đó chiếm tỷ trọng lớn trong ngân sách gia đình sẽ có độ co giãn lớn hơn sản phẩm chiếm tỷ trọng nhỏ trong ngân sách.
Ngoài cầu về sản phẩm, sức mua của khách hàng, nhận thức về giá mong muốn của khách hàng về sự linh hoạt giá cũng có tác động rất mạnh đến lượng sản phẩm mà doanh nghiệp có thể bán ở các mức giá khác nhau.
- Sức mua của khách hàng : là thước đo về khả năng mua sản phẩm của khách hàng. Sức mua thường được quyết định bởi thu nhập, tài sản, điều kiện tín dụng đối với khách hàng. Sức mua chịu ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế chung như : Lạm phát, thất nghiệp, thuế…Vì sức mua sản phẩm là có giới hạn nên khách hàng sẽ phân bổ sức mua cho các sản phẩm khác nhau.
- Nhận thức của khách hàng về giá cả sản phẩm : Nhận thức của khách hàng về giá cả của sản phẩm và tầm quan trọng mà khách hàng gắn cho giá cả sản phẩm sẽ thay đổi tùy theo sản phẩm và đoạn thị trường. Chẳng hạn với các sản phẩm mà khách hàng mua thường xuyên như thực phẩm, xăng dầu…họ nhận thức rất rõ về giá cả sản phẩm này nên rất nhạy cảm với sự thay đổi của giá cả. Còn với các sản phẩm bảo hiểm, người tiêu dung không mua các sản phẩm đó một cách thường xuyên nên họ sẽ không nhận thức được sự khác biệt về giá cả giữa các sản phẩm. Vì thế, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thay đổi chiến lược giá theo nhận thức của khách hàng.
Tương tự như vậy, trong đoạn thị trường mà khách hàng nhận thức rõ về giá, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn nếu đưa ra các mức giá cao hơn mức giá của đối thủ cạnh tranh, ngược lại trong đoạn thị trường mà người mua không nhận thức rõ về giá việc định giá sẽ trở nên dễ dàng hơn.
- Ngoài mức giá mà người tiêu dùng sẵn sàng chấp nhận sẽ nói lên sự đánh giá của họ về giá trị sản phẩm. Nếu công tác truyền thông và phân phối sản phẩm tạo ra giá trị mà khách hàng nhận thấy là bằng hoặc lớn hơn giá cả của sản phẩm thì khách hàng sẽ mua sản phẩm. Bản thân giá cả sản phẩm cũng có tác động mạnh đến giá trị mà người tiêu dùng định ra cho sản phẩm. Do vậy nếu sản phẩm được định giá là quá thấp, khách hàng có thể đánh giá sản phẩm là quá nghèo nàn nên sẽ không mua sản phẩm. Ngược lại, nếu sản phẩm được định giá là quá cao, khách hàng có thể coi sản phẩm vượt quá nhu cầu của mình và không xứng đáng với mức giá đó.
- Mong muốn về sự linh hoạt giá : Khi định giá sản phẩm doanh nghiệp bảo hiểm còn phải tính đến mức độ linh hoạt của giá cả mà khách hàng mong muốn. Một số khách hàng muốn giá cố định được duy trì, trong khi có một số khách hàng khác lại muốn giá của sản phẩm sẽ thay đổi và sẵn sàng trả mức giá cao trong giai đoạn đầu nhằm hy vọng sau này do hoạt động của doanh nghiệp tiến triển, giá của sản phẩm sẽ hạ xuống.
2.4. Yếu tố cạnh tranh
Doanh nghiệp bảo hiểm cần xem xét đối thủ cạnh tranh khi định giá cho sản phẩm. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp có mức phí không cạnh tranh, doanh thu phí bảo hiểm sẽ giảm do khách hàng chuyển sang mua sản phẩm của các doanh nghiệp khác có mức giá rẻ hơn. Thiệt hại về doanh thu sẽ khá lớn đối với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm hoặc khi sản phẩm có số tiền bảo hiểm lớn, còn đối với sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ trong đó có bảo hiểm vật chất xe cơ giới thì doanh thu cũng có giảm nhưng nó không rõ nét bằng sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Ngoài ra, sản phẩm bảo hiểm có mức giá không cạnh tranh cũng ảnh hưởng đến khâu phân phối bởi các đại lý bảo hiểm thường chọn các doanh nghiệp có sản phẩm có giá rẻ hơn để làm đại lý để việc bán sản phẩm của mình thuận lợi hơn. Còn môi giới bảo hiểm cũng sẽ có xu hướng tư vấn cho khách hàng những doanh nghiệp cung cấp sản phẩm có mức giá cạnh tranh.
Như vậy trong trường hợp cầu về sản phẩm co giãn theo giá và có các sản phẩm thay thế của các đối thủ cạnh tranh thì phản ứng của các đối thủ với mức giá chung của ngành tác động đến việc định giá của riêng từng sản phẩm của doanh nghiệp. Muốn đưa ra mức giá thấp hơn mức giá của đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp phải tìm cách cắt giảm chi phí hoặc lợi nhuận xuống dưới mức của đối thủ cạnh tranh.
Để thực hiện cạnh tranh, khi định giá sản phẩm doanh nghiệp phải xem xét các yếu tố :
- Số lượng đối thủ cạnh tranh và số sản phẩm cạnh tranh;
- Yếu tố chi phí gắn với từng sản phẩm của từng đối thủ cạnh tranh;
- Nguồn lực tài chính của từng đối thủ nói chung cũng như nguồn lực tài chính của từng đối thủ cạnh tranh dành riêng cho sản phẩm;
- Vai trò của sản phẩm trong danh mục sản phẩm của đối thủ cạnh tranh;
- Hành vi định giá trước đây của từng đối thủ;
- Phản ứng dự kiến của từng đối thủ cạnh tranh trước sự thay đổi giá cả;
- Điểm mạnh, điểm yếu của từng đối thủ cạnh tranh…
Khai thác những thông tin này sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra những mức giá phù hợp cho sản phẩm của mình trong mối tương quan với giá cả sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh.
2.5. Sự can thiệp của Nhà nước
Sự can thiệp của Nhà nước có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp đến giá cả sản phẩm của doanh nghiệp. Ơ một số quốc gia, luật pháp không trực tiếp điều chỉnh tỷ lệ phí bảo hiểm vì các nhà quản lý cho rằng thị trường cạnh tranh sẽ đưa ra mức phí hợp lý.
Một số quốc gia khác, Nhà nước thường quy định những tỷ lệ phí bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm bắt buộc phải áp dụng. Ngoài ra, giá cả sản phẩm bảo hiểm cũng chịu tác động gián tiếp bởi yêu cầu quản lý, mà điển hình nhất là việc yêu cầu các doanh nghiệp phải hình thành quỹ dự phòng cho từng nghiệp vụ bảo hiểm. Để đảm bảo khả năng thanh toán, doanh nghiệp bảo hiểm duy trì các tài sản có ít nhất bằng với quy mô quỹ dự phòng. Và để có được tài sản này, doanh nghiệp phải đưa ra mức phí cho phù hợp.
2.6. Các nhân tố khác
Vì các nhân tố marketing hỗn hợp có tác động qua lại lẫn nhau nên nỗ lực truyền thông, hệ thống phân phối và các đặc điểm cụ thể của sản phẩm, các lợi ích và các dich vụ đi kèm theo sẽ có tác động đến chi phí của sản phẩm do vậy tác động đến mức giá của sản phẩm bảo hiểm. Ngoài ra bản thân sản phẩm bảo hiểm và cách thức phân phối sản phẩm trong mối liên hệ với giá cả có tác động đến nhận thức kỳ vọng của khách hàng từ đó tác động đến việc định giá sản phẩm.
3. Các chiến lược định phí bảo hiểm
Chiến lược định giá là những chỉ dẫn chung mà doanh nghiệp bảo hiểm ap dụng nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra. Chiến lược định giá giúp doanh nghiệp xác định cách thức sử dụng giá cả như một biến trong marketing hỗn hợp. Chiến lược định giá được chia làm 3 nhóm như sau :
3.1. Các chiến lược định phí hướng theo chi phí
Những chiến lược này sử dụng các khoản chi phí làm cơ sở cho việc định phí sản phẩm. Nội dung cơ bản của chiến lược này là đưa ra mức giá trang trải được tất cả các chi phí doanh nghiệp bảo hiểm đã bỏ ra trong quá trình thiết kế, phân phối và khuếch trương sản phẩm, ngoài ra còn mang lại một khoản lợi nhuận nhất định cho doanh nghiệp. Chiến lược định phí hướng theo chi phí chỉ có thể thành công trong thị trường mà doanh nghiệp độc quyền hoặc doanh nghiệp là người dẫn đầu. Ngoài ra, chiến lược này cũng có thể thành công trong các thị trường mà ở đó doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường có ít đối thủ cạnh tranh, hoặc khi có khách hàng trung thành với doanh nghiệp.
3.2. Các chiến lược định giá theo hướng cạnh tranh
Đây là chiến lược định giá dựa trên các mức giá do đối thủ cạnh tranh đưa ra và cho phép doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng việc định giá để xác định vị trí trên thị trường. Tùy thuộc vào mục tiêu kinh doanh hay mục tiêu định giá mà doanh nghiệp có thể xác định giá cho sản phẩm bằng hoặc cao hơn hay thấp hơn mức giá thị trường.
Một doanh nghiệp có mục tiêu định giá là “ đương đầu với cạnh tranh” có thể đưa ra mức phí bằng mức phí trung bình của các doanh nghiệp cạnh tranh gần nhất với doanh nghiệp cho một loại sản phẩm cụ thể. Còn doanh nghiệp có mục tiêu định giá là “triệt tiêu cạnh tranh” có thể đưa ra mức phí thấp nhất trong số các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp sản phẩm cùng loại. Do vậy, trong chiến lược định giá cạnh tranh, sản phẩm thường được thiết kế hoặc được điều chỉnh nhằm phù hợp với mức phí đã định sẵn. Hai ví dụ thường thấy của chiến lược định giá cạnh tranh là chiến lược “định giá thâm nhập” và chiến lược “định giá linh hoạt”, trong đó :
- Chiến lược “định giá thâm nhập” là chiến lược định giá trong đó doanh nghiệp đưa ra mức giá tương đối thấp hơn mức giá của các đối thủ cạnh tranh. Mục đích là giúp doanh nghiệp thâm nhập thị trường và tăng nhanh lượng bán nhằm chiếm lĩnh thị phần của doanh nghiệp khác. Chiến lược này thường được sử dụng với các sản phẩm mới đưa ra thị trường có nhiều đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp đã hoạt động lâu trên thị trường nhưng có biên lợi nhuận thấp áp dụng chiến lược này nhằm ngăn cản các đối thủ cạnh tranh gia nhập thị trường.
- Chiến lược “định giá linh hoạt” là chiến lược định giá cho phép doanh nghiệp có thể đàm phán với khách hàng về giá cả của sản phẩm. Cụ thể, việc định giá được thực hiện thông qua đấu giá cạnh tranh và đưa ra các hợp đồng có thể đàm phán với các nhóm khách hàng quy mô lớn. Trong đó đấu giá cạnh tranh là hình thức trong đó người mua sản phẩm yêu cầu những người cung cấp đưa ra bảng giá cho các hợp đồng yêu cầu, còn hợp đồng có thể đàm phán là hợp đồng trong đó các điều khoản và các mức giá được thiết lập thông qua trao đổi giữa người mua và người bán.
3.3. Các chiến lược định giá hướng theo khách hàng
Trong những chiến lược này, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tập trung và việc đưa ra các mức giá mà những người phân phối hoặc những người sở hữu đơn bảo hiểm có thể chấp nhận được. Cụ thể, đối với các nhà phân phối, khi định giá và thiết kế sản phẩm doanh nghiệp sẽ tập trung vào yếu tố thù lao tức là mức giá được thiết kế sao cho sản phẩm của doanh nghiệp có mức hoa hồng cao hơn sản phẩm của các doanh nghiệp khác.
Còn đối với những người sở hữu đơn bảo hiểm, chiến lược định giá này sẽ tập trung và yếu tố “giá trị sản phẩm”. Nhưng cần lưu ý là với những khách hàng khác nhau thì “giá trị sản phẩm” được quan niệm khác nhau. Do vậy, khi sử dụng chiến lược định giá hướng theo khách hàng, doanh nghiệp phải xác định được các giá trị mà khách hàng mong muốn, và việc định giá sản phẩm của doanh nghiệp phải chỉ ra cho khách hàng thấy rằng các giá trị mà khách hàng mong muốn là có sẵn trong sản phẩm của doanh nghiệp.
Trong marketing nói chung, các ví dụ thường thấy của định giá khách hàng là “định giá tâm lý”, “định giá hớt váng” và “định giá khuếch trương”, trong đó : - Định giá tâm lý là chiến lược định giá dựa trên quan niệm cho rằng khách hàng nhận thấy một số loại giá hay khoảng giá nhất định là hấp dẫn hơn các khoản giá khác. Các doanh nghiệp áp dụng chiến lược định giá tâm lý cho rằng nếu giá cả được ấn định ở mức thấp hơn một chút so với mức giá dự kiến thì lượng sản phẩm bán ra sẽ đạt số lượng nhiều hơn. Ngoài ra, đối với các sản phẩm nộp phí định kỳ thì định giá tâm lý cũng thường giả định khách hàng muốn mua sản phẩm hơn nếu giá sản phẩm được xác định trên cơ sở trả theo tháng chứ không phải trả theo năm hay trả một lần.
Chiến lược định giá tâm lý phù hợp nhất với những thị trường mà ở đó khách hàng cực kỳ nhạy cảm với giá cả của sản phẩm hoặc khi khách hàng có nhận thức cao về giá cả sản phẩm và cũng phù hợp với những sản phẩm được phân phối qua kênh phân phối trực tiếp.
- “Định giá hớt váng” là chiến lược định giá trong đó doanh nghiệp sẽ đưa ra mức giá cao nhất có thể cho bộ phận khách hàng có nhiều mong muốn nhất được sử dụng sản phẩm. Với chiến lược này, doanh nghiệp hy vọng sẽ thu được doanh thu lớn trong thời gian đầu. Doanh thu này không những trang trải tất cả các chi phí mà còn mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Chiến lược này thường được áp dụng với các sản phẩm được quảng cáo là có công nghệ mới nhất, hiện đại nhất như máy tính xách tay, điện thoại di động,,, còn đối với các sản phẩm bảo hiểm nói riêng, các sản phẩm dịch vụ tài chính nói chung thì chiến lược này gần như không được sử dụng.
- Với chiến lược “ định giá khuếch trương”, doanh nghiệp sẽ đưa ra mức giá thấp hơn mức giá thông thường cho một sản phẩm nhất định nhằm thúc đẩy việc bán sản phẩm của tất cả các sản phẩm khác của doanh nghiệp.
4. Phương pháp tính phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia bảo hiểm cụ thể, các công ty bảo hiểm thường căn cứ vào những nhân tố sau :
- Loại xe : Do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau nên phí bảo hiểm vật chất xe được tính riêng cho từng loại xe. Thông thường, các công ty bảo hiểm đưa ra những biểu xác định phí bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các xe thông dụng thông qua việc phân loại xe thành các nhóm. Việc phân loại này dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, chi phí và mức độ khó khăn khi sửa chữa và sự khan hiếm của phụ tùng. Đối với các xe hoạt động không thông dụng như xe kéo rơ moóc, xe chở hàng nặng…do có mức độ rủi ro cao nên phí bảo hiểm thường được cộng thêm một tỉ lệ nhất định dựa trên mức phí cơ bản.
Giống như cách tính phí bảo hiểm nói chung, phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe được tính theo công thức sau :
trong đó:
p: phí bảo hiểm
S: số tiền bảo hiểm (xe mới = nguyên giá, xe cũ= giá trị thị trường tại thời điểm tham gia bảo hiểm)
f: phí thuần
d: phụ phí
Theo công thức trên, việc xác định phí bảo hiểm phụ thuộc vào các nhân tố sau :
- Tình hình bồi thường tổn thất của những năm trước đó.Căn cứ vào số liệu thống kê, công ty bảo hiểm sẽ tính toán được phần phí thuần “ f ” cho mỗi đầu xe như sau :
( với I = 1,2,…,n )
Trong đ ó : S: số vụ tai nạn giao thông xảy ra năm thứ i
C: số xe tham gia bảo hiểm TNDS năm thứ i
Ti : Thiệt hại bình quân một vụ tai nạn trong năm thứ i
- Các chi phí khác, hay còn gọi là phần phụ phí ( d ), bao gồm các chi phí như đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý…Phần phụ phí này thường được tính bằng một tỉ lệ phần trăm nhất định so với phí bồi thường.
- Khu vực giữ xe và để xe : Trong thực tế, không phải công ty bảo hiểm nào cũng quan tâm đến nhân tố này. Tuy nhiên, cũng có một số công ty bảo hiểm tính phí bảo hiểm tính phí bảo hiểm dựa theo khu vực giữ xe và để xe rất chặt chẽ.
- Mục đích sử dụng xe : Đây là nhân tố rất quan trọng khi xác định phí bảo hiểm. Nó giúp công ty bảo hiểm biết được mức độ rủi ro có thể xảy ra. Ví dụ, xe do một người về hưu sử dụng do mục đích đi lại đơn thuần chắc chắn sẽ đóng phí bảo hiểm thấp hơn so với xe do một thương gia sử dụng để đi lại trong những khu vực rộng lớn. Rõ ràng xe lăn bánh trên đường càng nhiều, khả năng xảy ra rủi ro tai nạn sẽ càng cao.
- Tuồi tác kinh nghiệm lái xe của người yêu cầu bảo hiểm và những người thường xuyên sử dụng chiếc xe được bảo hiểm. Số liệu thống kê cho thấy rằng các lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với các lái xe lớn tuổi. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường áp dụng giảm phí bảo hiểm cho các lái xe trên 50 hoặc 55 tuổi do kinh nghiệm cho thấy số người này ít gặp tai nạn hơn so với các lái xe trẻ tuổi. Tuy nhiên, với những lái xe quá lớn tuổi, thường phải xuất trình giấy chứng nhận sức khoẻ phù hợp để có thể lái xe thì công ty bảo hiểm mới nhận bảo hiểm. Ngoài ra, để khuyến khích hạn chế tai nạn, các công ty thường xuyên yêu cầu người được bảo hiểm tự chịu một phần tổn thất xảy ra với xe (mức miễn thường ). Đối với những lái xe trẻ tuổi mức miễn thường này thường cao hơn so với những lái xe có tuổi lớn hơn.
Giảm phí bảo hiểm : Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn tham gia bảo hiểm tại công ty mình, các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức phí giảm so với mức phí chung theo số lượng tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hầu hết các công ty bảo hiểm còn áp dụng cơ chế giảm giá cho những người tham gia bảo hiểm không có khiếu nại và tăng tỉ lệ giảm giá này cho một số năm không có khiếu nại gia tăng. Có thể nói đây là biện pháp phổ biến trong bảo hiểm xe cơ giới.
Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là chỉ hoạt động một số ngày trong năm, thì chủ xe chỉ phải đóng phí cho những ngày hoạt động đó theo công thức sau :
Biểu phí đặc biệt : Trong những trường hợp đặc biệt khi khách hàng có số lượng xe tham gia bảo hiểm nhiều, để tranh thủ sự ủng hộ, các công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu phí riêng cho khách hàng đó. Việc tính toán biểu phí riêng này cũng tương tự như cách tính phí được đề cập ở trên, chỉ khác là chỉ dựa trên các số liệu về bản thân khác hàng này, cụ thể :
- Số lượng xe của công ty tham gia bảo hiểm;
- Tình hình bồi thường tổn thất của công ty bảo hiểm cho khách hàng ở những năm trước đó;
- Tỉ lệ phụ phí theo quy định của công ty;
Trường hợp mức phí đặc biệt thấp hơn mức phí quy định chung, công ty bảo hiểm sẽ áp dụng theo mức phí đặc biệt. Còn nếu mức phí đặc biệt được tính là cao hơn ( hoặc bằng ) mức phí chung, tức là tình hình tổn thất của khách hàng cao hơn hoặc bằng mức tổn thất bình quân chung, thì công ty bảo hiểm sẽ áp dụng mức phí chung.
Hoàn phí bảo hiểm : Có những trường hợp chủ xe đã đóng phí bảo hiểm cả năm, nhưng trong năm xe không hoạt động một thời gian vì một lý do nào đó, ví dụ như ngừng hoạt động để tu sửa xe. Trong trường hợp này thông thường công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm của những tháng ngừng hoạt động đó cho chủ xe. Số phí hoàn lại được tính như sau :
Tuỳ theo từng công ty bảo hiểm khác nhau mà quy định tỉ lệ hoàn phí là khác nhau. Nhưng thông thường tỉ lệ này là 80%.
Trong trường hợp chủ xe muốn huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm khi chưa hết thời hạn hợp đồng thì thông thường công ty bảo hiểm cũng hoàn lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại đó theo công thức trên, nhưng với điều kiện là chủ xe chưa có lần nào được công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm.
Chương II : Tình hình áp dụng phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công Ty Cổ Phần Bảo Hiểm AAA
I. Sơ lược về công ty
1. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển
Công ty Cổ Phần Bảo Hiểm AAA, tên giao dịch tiếng Anh là "AAA Assurance Corporation", trụ sở chính tại: 02 Bis Trần Cao Vân, Quận 1, TP Hồ Chí Minh, được Bộ tài chính cấp giấy phép thành lập số 30/GP/KDBH ngày 28/02/2005; Công Ty Cổ Phần Bảo Hiểm AAA chính thức hoạt động tại thị trường bảo hiểm Việt Nam được gần 03 năm.
Phương châm hoạt động là: "Nhanh – Đúng - Đủ", Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA cam kết không ngừng mang lại nhiều hơn nữa những dịch vụ tiện ích cho khách hàng.
AAA chính là chữ viết tắt của 3 từ "An tâm – An tâm – An tâm", là biểu tượng cho khầu hiệu "Quyền được an tâm" của công ty, công ty mong muốn đem đến sự An tâm cho khách hàng – An tâm cho nhân viên – An tâm cho đối tác và cổ đông của công ty. Trên logo của công ty AAA được ghép lại chắc chắn theo lối phong thuỷ ngũ hành tạo thành một biểu tượng bền vững hình kim tự tháp đồng thời là sự phát triển của ngành bảo hiểm nói riêng, của xã hội nói chung mà trong đó có sự góp sức của AAA.
Sau 03 năm hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, công ty đã có rất nhiều những hoạt động nhằm tạo vị trí trong thị trường và thúc đẩy hoạt động kinh doanh, có những sự kiện quan trọng đánh dấu những thay đổi ý nghĩa đối với công ty:
Ngày 02/11/2005: tại TPHCM, Công ty cổ phần Bảo hiểm AAA chính thức ra mắt và đi vào hoạt động.
Ngày 05/04/2007: chính thức khai trương Sở giao dịch tại miền Bắc và Chi Nhánh Hà Nội tại 174 - Lê Duẩn (hiện nay tại 155 – Láng Hạ). Đây là một sự kiện đánh dấu sự phát triển của công ty ra miền Bắc, mở rộng địa bàn hoạt động.
Ngày 09/04/2007: Bộ tài chính phê duyệt công văn số 217/CV/07-AAA ngày 15/03/2007 của công ty về việc xin tăng vốn điều lệ từ 80 tỷ VNĐ lên 380 tỷ VNĐ. Công ty bảo hiểm AAA đã khẳng định được tiềm lực tài chính và tăng khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ khi mà sự cạnh tranh đó ngày càng trở nên gay gắt.
Ngày 27/05/2007: Ký bán 2 triệu cổ phiếu cho Tập đoàn Bankinvest của Đan Mạch. Đây là một đối tác lớn đang quản lý nguồn vốn hơn 25 tỷ đô la Mỹ, trong đó có quỹ đầu tư PENN trị giá 80 triệu đô la Mỹ. Đối tác này ngoài việc chuyển giao các bí quyết quản lý, phát triển kinh doanh sẽ là cầu nối công ty với thị trường bảo hiểm Đan Mạch và các nhà đầu tư Đan Mạch.
10/01/2008: Công ty Cổ Phần Bảo hiểm AAA được vinh dự xếp hạng trong top 100 Cúp Vàng Thương hiệu Việt 2007 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kinh Tế Việt Nam tổ chức. Đây là giải thưởng do người tiêu dùng chọn qua Mạng thương hiệu Việt nhằm ghi nhận và tôn vinh những doanh nghiệp, thành viên có những nỗ lực xây dựng và phát triển thương hiệu,làm ra các sản phẩm, dịch vụ chất lượng được người tiêu dùng đánh giá cao.
20/01/2008: Nhận "Vương miện vàng chất lượng Quốc tế" của Tổ chức sáng tạo quốc tế BID, dành cho doanh nghiệp đạt thành tựu xuất sắc về chất lượng phục vụ.
14/02/2008: Thành lập "Trung tâm trợ giúp khẩn cấp toàn cầu", với sự liên kết trực tiếp từ 49 tổng đài trên thế giới. Theo đó, khách hàng khi mua sản phẩm bảo hiểm "Du lịch toàn cầu" của công ty sẽ có quyền yêu cầu trợ cấp khẩn cấp 24/24 tại quốc gia mình đang đi du lịch. Điều đặc biệt là nhân sự sử dụng trả lời Tổng đài trợ giúp khẩn cấp là những thanh hiên giỏi bị khuyết tật, đây là một chiến lược tuyển dụng mang tính nhân văn sâu sắc. Với sự thành lập này, sản phẩm bảo hiểm du lịch đa mang một dấu ấn khác biệt và thể hiện ưu thế hơn so với những sản phẩm đang có trên thị trường.
2. Cơ cấu Tổ chức của Công Ty Cổ Phần Bảo Hiểm AAA
Tham gia sáng lập công ty gồm: 10 cổ đông
1) Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội - Số 3 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.
2) Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam – 279 Lý Thường Kiệt, Quận 11, TP Hồ Chí Minh.
3) Công ty Cổ phần tơ tằm Á Châu – 81 Nguyễn Thái Học, Bảo Lộc, Lâm Đồng.
4) Công ty trách nhiệm hữu hạn Thái Bình – 43/5 An Bình, Dĩ An, Bình Dương.
5) Bà Đỗ Thị Kim Liên – 1A Trần Bình Trọng, Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh.
6) Ông Nguyễn Ngọc Anh – 270/45 Phan Đình Phùng, Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh.
7) Ông Nguyễn Trọng Bảy – 237/11 Phan Đình Phùng, Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh.
8) Bà Trương Thị Quốc Khánh – 453/158 Lê Văn Sỹ, Quận 3, TP Hồ Chí Minh.
9) Ông Lê Việt Thành - Số 2 đường 49, quận 2 TP Hồ Chí Minh.
10) Ông Ngô Quang Dũng – 482/60 A7 Lê Quang Định, Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh.
Ban điều hành công ty
- Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc : Bà Đỗ Thị Kim Liên
- Phó chủ tịch HĐQT : Ông See Chin Thye
- Trưởng ban tư vấn : Ông Nguyễn Nam Cường
- Phó Tổng Giám đốc : Ông Đinh Nam Thắng
- Phó Tổng Giám đốc : Ông Lê Việt Thành
- Giám đốc tài chính : Ông Nguyễn Tuấn Đức
ĐỒNG CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
TỔNG GIÁM ĐỐC
PHÒNG CNTT
PHÓ TGĐ
GĐ VÙNG
BAN CỐ VẤN
PHÓ TGĐ
GĐ CHI NHÁNH
GĐ KTHUẬT
GĐ KDOANH
GĐ HÀNH CHÍNH
GĐ TÀI CHÍNH
BAN KIỂM SOÁT
3. Kết quả hoạt động kinh doanh
w Năm 2005:
Đây là năm công ty thành lập và đi vào hoạt động (từ tháng 3/2005), do vậy công ty chủ yếu tập trung vào hoàn thiện cơ sở vật chất, tuyển dụng cán bộ và tiến hành đào tạo, chuẩn bị các tài liệu kỹ thuật nghiệp vụ, thu xếp tái bảo hiểm… để từng bước đi vào hoạt động và ổn định kinh doanh. Khai trương vào 11/2005, sau đó công ty thực sự bước vào hoạt động khai thác bảo hiểm, bước đầu chủ yếu tập trung tại địa bàn TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh phía nam. Mặc dù thời gian thực sự hoạt động là tháng 11 và tháng 12 nhưng công ty cũng đã thu được kết quả đáng kể: doanh thu phí đạt 5.080.510.379 đồng (xem chi tiết tại bảng "Kết quả hoạt động kinh doanh Bảo hiểm").
w Năm 2006:
Bước sang năm thứ hai chính thức đi vào hoạt động, cùng với sự phát triển của thị trường bảo hiểm và sự năng động của mình Công ty cổ phần Bảo hiểm AAA đã thu được rất nhiều kết quả tích cực trong hoạt động kinh doanh năm 2006
Qua bảng cho ta thấy kết quả hoạt động kinh doanh năm 2006 có những thay đổi to lớn so với năm 2005, cụ thể ở một số chỉ tiêu như:
- Doanh thu phí bảo hiểm gốc tăng xấp xỉ gấp 9 lần, nếu như năm 2005 đạt hơn 5 tỷ đồng, thì đến năm 2006 là trên 48,5 tỷ.
- Doanh thu thuần hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng gấp gần 13 lần, từ trên 2.5 tỷ đồng lên hơn 27,2 tỷ đồng.
- Lợi nhuận thuần hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng xấp xỉ 5 lần từ 4,3 tỷ lên 23,1 tỷ đồng.
Tuy những con số này khá khiêm tốn so với những doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường, nhưng lại là những con số đáng nói cho một doanh nghiệp mới thành lập và hoạt động được hơn 1 năm, vừa hoàn thiện các điều kiện để tiến hành kinh doanh vừa hoạt động kinh doanh, khẳng định vị trí trên thị trường.
w Đầu năm 2007
Bước sang năm thứ ba hoạt động kinh doanh bảo hiểm được triển khai, với sự tăng trưởng mạnh mẽ của năm 2006, trên đà phát triển đó trong 9 tháng đầu năm 2007 kết quả đạt được của hoạt động kinh doanh đã vượt qua cả năm 2006. Cụ thể:
- Tổng số nghiệp vụ bảo hiểm được triển khai là 43 nghiệp vụ
- Thu phí bảo hiểm gốc đạt hơn 55 tỷ đồng tăng xấp xỉ 7 tỷ đồng so cuối năm 2006.
- Doanh thu thuần hoạt động kinh doanh bảo hiểm là: 37.533.974.279 đồng tăng 10 tỷ đồng so cuối năm 2006
- Lợi nhuận gộp hoạt động kinh doanh bảo hiểm: 14.692.822.111 đồng
- Lợi nhụân thuần hoạt động kinh doanh bảo hiểm: 34.379.532.385 đồng
Doanh thu từ hoạt động tài chính: 8.448.273.512 đồng
- Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: 8.026.213.097 đồng
Sau gần 3 năm hoạt động, Công ty bảo hiểm AAA đã mở rộng hoạt động kinh doanh của mình trên khắp cả nước với 33 văn phòng giao dịch, chi nhánh, trung tâm và hơn 400 nhân viên, tốc độ tăng trưởng nhanh. So với các doanh nghiệp bảo hiểm ra đời sớm thì những gì AAA đạt được chưa đúng như mong đợi nhưng nó đánh giá sự nỗ lực vươn lên khẳng định chính mình của toàn cán bộ, nhân viên trong công ty. Đặc biệt, chỉ sau hơn 1 năm đi vào hoạt động AAA đã vươn lên vị trí thứ 8 trong 18 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam và là một trong những công ty có đóng góp tích cực vào các hoạt động xã hội. Đó là : Tài trợ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12782.doc