mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN - Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những chủ trương lớn và nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Trong Nhà nước pháp quyền, quyền tư pháp là một bộ phận của quyền lực nhà nước luôn gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và quyền hành pháp trong tổng thể quyền lực nhà nước thống nhất và giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Quyền tư pháp được th
102 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1520 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó hoạt động xét xử của TAND thể hiện tập trung nhất của quyền tư pháp, thể hiện nền công lý, sự công bằng và bình đẳng của các chủ thể trước pháp luật. Vì vậy, mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta đến năm 2020 đã được chỉ ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (gọi tắt là Nghị quyết số 49-NQ/TW) là: "xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [4, tr.2].
Trong hệ thống các cơ quan tư pháp Việt Nam, Toà án được xác định là khâu trung tâm và việc nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án được coi là khâu đột phá của quá trình cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian qua, các Toà án đã có nhiều cố gắng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" (gọi tắt là Nghị quyết số 08-NQ/TW) là:
... Khi xét xử phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo,... để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định... [2].
Chất lượng hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng đã “được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [4, tr.1].
Bên cạnh đó, công tác tư pháp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, đó là:
Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân [2]; Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp,... còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử [4, tr.1].
Các TAQS là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được tổ chức trong quân đội. Tuy thuộc hệ thống TAND nhưng các TAQS có những đặc thù về mặt tổ chức và hoạt động phù hợp với đặc điểm tổ chức và hoạt động của quân đội. Trong những năm qua, so với các TAND, số lượng các vụ án hình sự phải giải quyết theo thủ tục sơ thẩm không nhiều nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên trong hoạt động xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự (xét xử hình sự sơ thẩm) nói riêng của các TAQS cũng còn bộc lộ một số hạn chế và tồn tại nhất định.
Công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi khoa học pháp lý cần đi sâu nghiên cứu và tìm ra lời giải đáp đối với hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn, trong đó có vấn đề đảm bảo hoạt động áp dụng pháp luật của các Tòa án nói chung và TAQS nói riêng.
Tất cả những phân tích nêu trên là lý do để tác giả lựa chọn vấn đề "áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử đã được một số nhà khoa học, cán bộ thực tiễn thực hiện và được công bố trong các công trình khoa học như sau:
- Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Xuân Thân: "áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay", năm 2004. Luận án đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân nhằm đáp ứng kịp thời mới của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hiện nay của đất nước ta.
- Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Đức Hiệp: "áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Ninh Bình", năm 2004. Luận văn đã phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong xét xử án hình sự và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử án hình sự của TAND ở tỉnh Ninh Bình, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của TAND ở tỉnh Ninh Bình đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng xét xử hiện nay.
- Thạc sĩ Chu Thị Trang Vân với "Tìm hiểu một số nguyên tắc áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử vụ án hình sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5/2001, đã đi sâu phân tích các nguyên tắc cơ bản về áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử vụ án hình sự.
- Ngoài ra còn một số công trình khác nghiên cứu một số vấn đề có liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án, như:
"Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật" của GS.TSKH. Đào Trí úc, Nxb Khoa học xã hội, 1993.
"Đảm bảo công bằng xã hội trong tư pháp" - PGS.TS Chu Hồng Thanh, Tạp chí Dân chủ pháp luật số 21/2001.
"Tăng cường năng lực xét xử của Tòa án cấp huyện - một số vấn đề cấp bách" - Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2002 và "Nâng cao năng lực soạn thảo bản án hình sự - một yêu cầu cấp bách", Tạp chí Dân chủ pháp luật số 4/2001 của TS. Nguyễn Văn Hiện.
Nhìn chung, các công trình nêu trên chỉ nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND nói chung hoặc trong xét xử án hình sự của TAND ở một địa phương cụ thể, hoặc chỉ nghiên cứu một số vấn đề cụ thể có liên quan đến hoạt động xét xử và áp dụng pháp luật của Tòa án. Cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ, có hệ thống cả ở góc độ lý luận chung cũng như thực tiễn về hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Về mục đích: Luận văn nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam hiện nay.
Về nhiệm vụ: Phù hợp mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS.
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử của TAQS các cấp ở Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2004, rút ra những ưu điểm, thành tựu đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
- Đề xuất và luận chứng các giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp ở Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu đề tài trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2004.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, đặc biệt là các quan điểm của Đảng chỉ đạo cải cách tư pháp.
Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử mác xít, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể; ngoài ra còn sử dụng phương pháp của các bộ môn khoa học khác như phương pháp thống kê.
6. Những điểm mới của luận văn
- Luận văn đóng góp vào việc phân tích làm sáng tỏ các đặc điểm của áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp trong thời gian qua, rút ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
- Luận chứng các giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp ở Việt Nam.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu thực tiễn và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và TAQS nói riêng; xây dựng tiến trình cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quân đội nói chung và các TAQS nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam
1.1. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam
1.1.1. Khái quát những vấn đề lý luận chung về áp dụng pháp luật
Pháp luật XHCN là hệ thống quy phạm pháp luật thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng XHCN. Hình thức thể hiện của pháp luật XHCN là các văn bản quy phạm pháp luật trong đó chứa đựng các quy tắc xử sự chung có tên gọi và hiệu lực pháp lý khác nhau do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự, thủ tục nhất định.
Với tư cách là hệ thống các quy tắc xử sự chung và là nhân tố để điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó là phương tiện để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Nhà nước sử dụng các quy phạm pháp luật để thực hiện chức năng quản lý các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và các nhân viên nhà nước cũng được tiến hành trên cơ sở các quy định pháp luật. Các quy phạm pháp luật còn là cơ sở pháp lý để mọi người tôn trọng và thực thi các quyền tự do, dân chủ của công dân, đồng thời là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật từ phía Nhà nước, những người có chức vụ quyền hạn và các chủ thể khác.
Tuy nhiên, bản thân các quy phạm pháp luật không thể tự đi vào cuộc sống mà chỉ có thể trở thành hiện thực khi các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành được các cơ quan, tổ chức và công dân tuân thủ và thực hiện một cách nghiêm minh và chính xác.
Trong khoa học pháp lý, khái niệm thực hiện pháp luật được xác định là “quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [25, tr. 270]. Do các quy phạm pháp luật rất đa dạng, phong phú nên hình thức thực hiện pháp luật cũng rất khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý phân thành các hình thức thực hiện pháp luật sau đây:
- Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật phải kiềm chế không thực hiện các hành vi mà pháp luật nghiêm cấm.
- Thi hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó có các chủ thể pháp luật thực hiện các nghĩa vụ của mình bằng hành động tích cực.
- Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật tích cực, chủ động thực hiện các quyền năng pháp lý của mình theo quy định của pháp luật.
- áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó thông qua các cơ quan nhà nước hoặc những người có thẩm quyền, Nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật hoặc căn cứ vào các quy định của pháp luật để ra các quyết định nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.
Trong các hình thức thực hiện pháp luật nêu trên, thì tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức thực hiện pháp luật phổ biến mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện. Còn áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù và bao giờ cũng có sự tham gia của Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước, những người có thẩm quyền. Thông qua hoạt động áp dụng pháp luật, Nhà nước thực hiện quyền hạn, nghĩa vụ của mình hoặc tổ chức cho cá nhân hay các tổ chức thực hiện các yêu cầu của pháp luật. Việc áp dụng pháp luật được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Khi cần sử dụng các biện pháp cưỡng chế bằng những chế tài thích hợp đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật (ví dụ: Tòa án áp dụng pháp luật để ra một bản án xử phạt đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm).
- Khi các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể không tự phát sinh cần có sự tác động của Nhà nước (ví dụ: Theo quy định tại Điều 58 Hiến pháp 1992 của nước ta thì "công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật". Tuy nhiên, để thực hiện được quyền này, công dân phải có đầy đủ các yêu cầu theo quy định của pháp luật và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh).
- Khi xảy ra tranh chấp giữa các bên tham gia vào quan hệ pháp luật về quyền và nghĩa vụ pháp lý mà họ không thể tự giải quyết được với nhau (ví dụ: các bên tham gia hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng dân sự tranh chấp với nhau về quyền và nghĩa vụ).
- Khi Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia vào quan hệ pháp luật để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của vụ việc, sự kiện thực tế (xác nhận di chúc, chứng thực văn bằng, chứng chỉ,...).
Tuy hoạt động áp dụng pháp luật do các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ được giao với các hình thức rất đa dạng, phong phú nhưng hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan này đều có một số đặc điểm chung sau đây:
- áp dụng pháp luật là một hoạt động tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Tính chất này thể hiện ở chỗ hoạt động áp dụng pháp luật chỉ có thể do các cơ quan nhà nước và những người có thẩm quyền tiến hành. Mỗi loại cơ quan nhà nước được giao thực hiện một số hoạt động áp dụng pháp luật nhất định trong phạm vi thẩm quyền của mình (ví dụ: trong lĩnh vực quản lý nhà nước về kinh tế, văn hóa, xã hội,..., thì việc áp dụng pháp luật do cơ quan, nhân viên nhà nước tiến hành theo thủ tục hành chính như: cấp giấy phép kinh doanh, khen thưởng, kỷ luật, ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính,... Trong lĩnh vực tư pháp, hoạt động áp dụng pháp luật (tiến hành các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử,...) được giao cho các cơ quan tư pháp và nhân viên tư pháp (những người có chức danh tư pháp như điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán,...). Trong một số trường hợp cá biệt, Nhà nước có thể giao quyền áp dụng pháp luật cho một số tổ chức xã hội (tuần tra nhân dân, thanh tra nhân dân,...).
Việc áp dụng pháp luật được tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể áp dụng pháp luật hay chủ thể bị áp dụng pháp luật. Quyết định áp dụng pháp luật có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các chủ thể có liên quan và trong trường hợp cần thiết nó được đảm bảo bằng các biện pháp cưỡng chế, các chế tài do pháp luật quy định.
- áp dụng pháp luật phải tiến hành theo các trình tự, thủ tục nhất định được pháp luật quy định rất chặt chẽ và đòi hỏi các chủ thể áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm minh. Việc quy định trình tự, thủ tục chặt chẽ này nhằm bảo đảm cho việc ra áp dụng pháp luật được công bằng, khách quan và chính xác. Tính chất của trình tự, thủ tục áp dụng pháp luật đơn giản hay phức tạp phụ thuộc vào tính chất, nội dung của sự việc cần giải quyết và mức độ nghiêm khắc của chế tài cần áp dụng. Ví dụ: Việc áp dụng các quy phạm pháp luật để xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ thì trình tự và thủ tục được quy định đơn giản và nhanh chóng hơn rất nhiều so với việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự để xác định hành vi phạm tội, người phạm tội,... vì cần phải tiến hành các hoạt động tố tụng tỉ mỉ, chặt chẽ như điều tra xác minh, thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ, thủ tục phiên toà xét xử công khai, ra bản án,...
- áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh mang tính chất cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội. Đối tượng của hoạt động áp dụng pháp luật là các quan hệ xã hội cần có sự điều chỉnh cá biệt trên cơ sở các quy phạm pháp luật chung. Tính điều chỉnh cá biệt, cụ thể của áp dụng pháp luật được thể hiện ở chỗ kết quả của việc áp dụng pháp luật phải xác định một cách cụ thể, chính xác về sự kiện, con người, thời gian, không gian,... để làm cơ sở cho việc áp dụng pháp luật. Văn bản áp dụng pháp luật là sự cụ thể hóa quy định của pháp luật trong từng trường hợp cụ thể (đối với một cá nhân hay tổ chức nhất định) và được áp dụng một lần. Ví dụ: Trong quyết định phải nêu rõ tình tiết vụ việc; điều khoản cụ thể của văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng; chủ thể phải thi hành; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể,...
- áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo. Nó thể hiện ở chỗ hoạt động áp dụng pháp luật là quá trình vận dụng cái chung (quy phạm pháp luật - quy tắc xử sự chung) để giải quyết một vụ việc cụ thể. Thực tiễn cho thấy pháp luật không bao giờ dự liệu được mọi tình huống, hoàn cảnh có thể xảy ra trong đời sống xã hội. Vì vậy, chủ thể áp dụng pháp luật phải xác định rõ nội dung vụ việc, làm sáng tỏ các dấu hiệu (cấu thành) pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để giải quyết vụ việc đó, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành.
Trong hoạt động tư pháp nói chung, hoạt động xét xử nói riêng, chủ thể áp dụng pháp luật (các cơ quan và những người tiến hành tố tụng) phải thu thập, kiểm tra và đánh giá các chứng cứ để xác định sự kiện thực tế đã xảy ra, đánh giá chính xác về mặt pháp lý đối với vụ việc đó và lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp đối với trường hợp cụ thể đang giải quyết . Đây là một hoạt động tư duy sáng tạo của chủ thể áp dụng pháp luật. Nó đòi hỏi các chủ thể này không chỉ nắm vững các quy định pháp luật, tri thức tổng hợp mà còn phải có phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm cao, kinh nghiệm phong phú và kỹ năng nghề nghiệp giỏi bảo đảm cho việc vận dụng quy định pháp luật chung để giải quyết vụ việc cụ thể cho phù hợp và chính xác.
Từ phân tích trên cho thấy áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, nhưng là hình thức pháp luật đặc thù. Đó là "hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua những cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền, hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước ủy quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể" [53, tr.474].
áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thực hiện chức năng tổ chức và quản lý của Nhà nước đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Thông qua hình thức này, các quy định pháp luật được đưa vào cuộc sống một cách triệt để và chính xác, ý chí nhà nước trở thành hiện thực nhằm đảm bảo cho bộ máy nhà nước, các tổ chức và mọi công dân hoạt động của trong khuôn khổ của pháp luật; bảo vệ kịp thời và có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, các tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Có thể phân quá trình áp dụng pháp luật thành các giai đoạn sau đây:
- Phân tích, đánh giá những tình tiết khách quan của vụ việc và các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó. Đây là khâu đầu tiên có ý nghĩa quan trọng đối với việc áp dụng pháp luật. Để giải quyết vụ việc chính xác và đúng đắn chủ thể áp dụng pháp luật phải hiểu được bản chất của vụ việc, làm rõ tính chất pháp lý của nó, nắm vững các tình tiết và xem xét toàn diện, khách quan các chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ việc đó. Trong trường hợp cần thiết phải sử dụng những biện pháp chuyên môn để xác định độ tin cậy của các chứng cứ, tài liệu. Đây là cơ sở thực tế để áp dụng pháp luật đúng đắn và chính xác.
- Lựa chọn quy phạm pháp luật cần áp dụng, phân tích làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của quy phạm pháp luật đó: Đây là giai đoạn tiếp theo của quá trình áp dụng pháp luật. Sau khi đã xác định đầy đủ các dấu hiệu (đặc trưng) pháp lý của vụ việc đang xem xét, các cơ quan và những người có thẩm quyền phải lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để giải quyết vụ việc đó. Trước hết cần xác định vụ việc đó do ngành luật nào điều chỉnh? Sau đó cần xác định lựa văn bản pháp luật và quy phạm pháp luật cụ thể nào điều chỉnh quan hệ pháp luật đó. Sau khi tìm được quy phạm pháp luật thích hợp, cơ quan hoặc người có thẩm quyền phải nghiên cứu để hiểu chính xác nội dung của quy phạm đó. Đây là hoạt động tư duy của chủ thể áp dụng pháp luật trên cơ sở các phương pháp giải thích pháp luật như: phương pháp lôgíc, phương pháp giải thích về mặt văn phạm, phương pháp giải thích về mặt lịch sử, phương pháp giải thích hệ thống,... [25, tr.278]. Việc lựa chọn quy phạm pháp luật cần áp dụng phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
+ Văn bản quy phạm pháp luật đã lựa chọn là văn bản chính thức và đang còn hiệu lực thi hành. Trong trường hợp có nhiều văn bản quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh về một vấn đề, thì văn bản lựa chọn phải là văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Trường hợp cùng một vấn đề lại có hai văn bản cùng một cơ quan ban hành thì văn bản nào ban hành sau cùng là văn bản quy phạm pháp luật cần áp dụng.
+ Quy phạm pháp luật lựa chọn để áp dụng phải là quy phạm pháp luật đang có hiệu lực ở thời điểm xảy ra vụ việc đang xem xét giải quyết.
- Ra văn bản áp dụng pháp luật: Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình áp dụng pháp luật phản ánh kết quả của các giai đoạn áp dụng pháp luật trước đó. ở giai đoạn này, các cơ quan và những người có thẩm quyền ra văn bản trong đó xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của bên tham gia quan hệ pháp luật, những biện pháp hay trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm. Văn bản áp dụng pháp luật thể hiện trình độ và năng lực của người có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Thông qua văn bản áp dụng pháp luật, những tình tiết của vụ việc được đánh giá chính thức về mặt pháp lý; các quyền và nghĩa vụ pháp lý được quy định trong các quy phạm pháp luật được cụ thể hóa trong từng trường hợp cụ thể.
Một yêu cầu đặt ra đối với việc ra văn bản áp dụng pháp luật là quyết định áp dụng pháp luật phải đảm bảo tính khách quan, chính xác, đúng với quy phạm pháp luật được áp dụng. Văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành đúng thẩm quyền, đúng hình thức (tên gọi, hình thức thể hiện) và nội dung của văn bản phải rõ ràng, chính xác về vụ việc, chủ thể cụ thể và chỉ áp dụng một lần.
- Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật: Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình áp dụng pháp luật bao gồm các hoạt động tổ chức nhằm đảm bảo về mặt kỹ thuật, vật chất để bảo đảm cho việc thực hiện văn bản áp dụng pháp luật được đầy đủ, đúng đắn và chính xác. Ngoài ra, cần phải tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc tổ chức và thực hiện văn bản áp dụng pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân nhằm bảo đảm để quyết định áp dụng pháp luật trở thành hiện thực trong đời sống xã hội.
1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự
Xét xử là từ Hán Việt và được hiểu là sự xem xét và phân xử của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Toà án). ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt động bảo vệ pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp.
Theo quy định tại Điều 127 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức TAND thì ở nước ta "Tòa án Nhân dân tối cao, các Tòa án Nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật”. Tại Điều 9 BLTTHS 2003 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chỉ hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Theo các quy định trên, thì xét xử là một hoạt động đặc thù của Nhà nước, là chức năng được Nhà nước giao cho một chủ thể duy nhất thực hiện đó là Tòa án. Việc tuyên bố một người là có tội và phải chịu hình phạt nhất thiết phải được thực hiện thông qua hoạt động xét xử và quyết định bằng một bản án. Như vậy, xét xử là hoạt động của Tòa án nhân danh Nhà nước để xem xét và ra phán quyết đối với các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính.
Việc xét xử phải được tiến hành tuân thủ các trình tự thủ tục (như thụ lý hồ sơ, chuẩn bị xét xử, nghiên cứu hồ sơ, xét xử tại phiên tòa) theo quy định của pháp luật. Hoạt động xét xử vụ án hình sự tại phiên tòa bắt buộc phải tiến hành thông qua các thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận, nghị án, tuyên án và phải tuân thủ các nguyên tắc: Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử công khai, trực tiếp, bằng lời nói và liên tục; Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật;... Thông qua các thủ tục tố tụng do pháp luật luật quy định, căn cứ vào các quy định của pháp luật nội dung (luật hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình,...), Tòa án (Hội đồng xét xử) nhân danh Nhà nước ra bản án để phán xét một hành vi nào đó là tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội; phán quyết về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi; xác định tính có căn cứ hay không đối với các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể;...
Như vậy, xét về bản chất thì nội dung của hoạt động xét xử của Tòa án theo chức năng được Nhà nước giao cho chính là hoạt động áp dụng pháp luật. Xét xử được hiểu là một quá trình áp dụng pháp luật của Tòa án nhân danh Nhà nước nhằm xem xét và ra phán quyết về các vụ án. Để đảm bảo cho việc xét xử được khách quan, công bằng, nghiêm minh, và đúng pháp luật, theo quy định của pháp luật hoạt động xét xử của Tòa án được tiến hành theo các thủ tục: sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Xét xử hình sự sơ thẩm là cấp (thủ tục) xét xử lần đầu đối với bất kỳ một vụ án hình sự nào. Đây cũng là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng hình sự và được bắt đầu từ thời điểm Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án và kết thúc khi Tòa án ra bản án hình sự sơ thẩm kết tội bị cáo hoặc tuyên không phạm tội. So với các giai đoạn (thủ tục) xét xử khác, ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hầu hết những người tham gia tố tụng đều được triệu tập để tham gia phiên tòa và tất cả các nguyên tắc của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự đều được áp dụng.
Về nguyên tắc, việc xét xử vụ án hình sự theo trình tự sơ thẩm do HĐXX gồm Thẩm phán và hai Hội thẩm tiến hành (trong trường hợp cần thiết hoặc pháp luật quy định thì HĐXX có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm). Trên cơ sở tuân thủ các trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định, HĐXX tiến hành xác định sự thật khách quan của vụ án và căn cứ vào các quy định của pháp luật nội dung để nhân danh nhà nước ra phán quyết bằng một bản án về hành vi bị coi là tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội hoặc tuyên bố không phạm tội để minh oan cho người vô tội.
ở nước ta, các TAQS là cơ quan xét xử của Nhà nước được tổ chức trong quân đội. Về nguyên tắc, việc xét xử theo trình tự sơ thẩm các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của TAQS quân khu, quân chủng Hải quân (gọi chung là TAQS cấp quân khu) và TAQS khu vực cũng phải được tiến hành theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng quy định có sự tham gia của HTQN trong HĐXX.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra kết luận: áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm đối với các vụ án thuộc thẩm quyền của TAQS là một hình thức thực hiện pháp luật do TAQS cấp quân khu và khu vực tiến hành thông qua hoạt động nhân danh Nhà nước của HĐXX (gồm Thẩm phán và các HTQN) nhằm xác định sự thật khách quan về vụ án và ra phán quyết (bản án, quyết định) về hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm đồng thời áp dụng hình phạt đối với người phạm tội và các trách nhiệm pháp lý khác (nếu có) đối với chủ thể pháp luật có liên quan hoặc tuyên bố không phạm tội để minh oan cho người vô tội.
1.1.3. Đặc điểm của áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự
1.1.3.1. áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự do Tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa án quân sự khu vực tiến hành
Hệ thống TAQS (trừ các TAQS thuộc Quân chủng Hải quân) được tổ chức theo nguyên tắc hành chính lãnh thổ quân sự bao gồm:
- Tòa án quân sự Trung ương (thuộc cơ cấu TAND tối cao);
- Các TAQS quân khu và Quân chủng Hải quân;
- Các TAQS khu vực.
Việc xét xử các vụ án của các TAQS được thực hiện theo nguyên tắc hai cấp xét xử. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của các TAQS được quy định tại Điều 170 BLTTHS 2003, các Điều 26 và 29 Pháp lệnh tổ chức TAQS. Theo các quy định này thì các TAQS cấp quân khu, TAQS khu vực có thẩm quyền xét xử theo trình tự sơ thẩm các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của TAQS. Vì vậy, việc áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm chỉ do các TAQS cấp quân khu và TAQS khu vực thực hiện.
Xuất phát từ đặc thù tổ chức và hoạt động của các TAQS, việc áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm ở các TAQS chỉ tiến hành đối với các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS theo quy định của pháp luật, cụ thể là:
- Những vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công nhân, nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân q._.uân tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý [30, tr.8-9], không phụ thuộc vào việc họ phạm tội gì và phạm tội ở đâu.
- Những vụ án hình sự mà người phạm tội không thuộc đối tượng nêu trên chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của các TAQS nếu họ phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội [30, tr.9].
Bí mật quân sự là bí mật của Quân đội, bí mật về an ninh quốc phòng được quy định trong các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Gây thiệt hại cho Quân đội là gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm của những người do Quân đội quản lý hoặc tài sản của những người này được Quân đội cấp phát để thực hiện nhiệm vụ quân sự; gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội.
Trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND thì: Trường hợp có thể tách vụ án thì TAQS xét xử những bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền. Trường hợp không thể tách vụ án thì TAQS xét xử toàn bộ vụ án.
Đối với những người không còn phục vụ trong Quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ trong Quân đội hoặc những người đang phục vụ trong quân đội mà phát hiện hành vi phạm tội của họ đã được thực hiện trước khi vào Quân đội, thì TAQS chỉ xét xử những tội phạm có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội [42, tr. 46].
Đặc điểm nêu trên phản ánh đặc thù về áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của các TAQS và đây cũng là cơ sở để phân định thẩm quyền áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử giữa TAND và TAQS.
1.1.3.2. áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự là hoạt động nhân danh Nhà nước do Hội đồng xét xử gồm Thẩm phán và Hội thẩm quân nhân tiến hành để ra quyết định áp dụng pháp luật bằng bản án (quyết định) hình sự sơ thẩm
Xuất phát từ nguyên tắc Hiến định “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số”, chức năng xét xử của Tòa án được thực hiện thông qua hoạt động áp dụng pháp luật của HĐXX. Theo quy định của pháp luật, thành phần HĐXX sơ thẩm của các TAQS bao gồm một Thẩm phán và hai HTQN (trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật thì HĐXX gồm hai Thẩm phán và ba HTQN). Thẩm phán và HTQN là những chủ thể duy nhất được pháp luật giao quyền áp dụng pháp luật trong xét xử. Theo quy định tại Điều 31 Pháp lệnh tổ chức TAQS 2002, thì:
Sĩ quan quân đội tại ngũ có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự... Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân thì có thể được cử làm Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự... [30, tr. 21].
Thẩm phán TAQS là người được Nhà nước (thông qua cấp có thẩm quyền) bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử có các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được quy định tại Điều 39 BLTTHS. HTQN là người được cơ quan có thẩm quyền cử để làm nhiệm vụ xét xử có các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được quy định tại Điều 40 BLTTHS.
Như vậy, hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS được thực hiện thông qua HĐXX gồm Thẩm phán và các HTQN. Đây cũng là một đặc điểm khác biệt của thủ tục xét xử sơ thẩm so với các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. ở thủ tục xét xử phúc thẩm, thành phần HĐXX gồm ba Thẩm phán (chỉ trong trường hợp cần thiết có thể có thêm hai HTQN). Còn trong Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không có Hội thẩm tham gia.
Điểm khác biệt giữa HTQN và HTND ở chỗ HTQN phải là quân nhân, công nhân, viên chức quốc phòng đang phục vụ trong quân đội. Những người đã có quá trình phục vụ quân đội, nhưng hiện tại không còn phục vụ trong quân đội thì không được làm HTQN. HTQN có thể tham gia xét xử ở nhiều địa phương, có thể ở nhiều tỉnh hoặc huyện, được phân định theo địa bàn khu vực hoặc quân khu hoặc được phân định căn cứ vào phạm vi hoạt động quân sự (như TAQS quân chủng Hải quân), còn HTND là công dân của một địa phương, có thể là cán bộ đương chức hoặc đã nghỉ hưu,... thẩm quyền xét xử được phân định theo địa giới hành chính cấp tỉnh hoặc cấp huyện.
Việc HTQN tham gia xét xử theo thủ tục sơ thẩm là một nguyên tắc Hiến định nhằm bảo đảm quyền dân chủ, thể hiện tính nhân dân và quan điểm lấy dân làm gốc của Đảng ta. Đây cũng là một hình thức nhân dân trực tiếp tham gia vào việc thực hiện quyền lực nhà nước và quản lý nhà nước. Nó hoàn toàn phù hợp với tư tưởng của V. I. Lênin: "Bản thân chúng ta phải tự mình xét xử, toàn thể công dân không trừ một ai đều tham gia xét xử và quản lý đất nước" [28, tr.67].
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là những người được Nhà nước trao quyền nhân danh Nhà nước xét xử các vụ án để xử phạt đối với các hành vi bị coi là tội phạm nhằm bảo vệ pháp luật và công lý. Các phán quyết (bản án, quyết định) của HĐXX không nhân danh cá nhân hoặc nhân danh Tòa án mà nhân danh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (Điều 224 BLTTHS). Nó trực tiếp đụng chạm đến danh dự, tài sản, các quyền tự do, dân chủ và cả tính mạng của công dân; uy tín và lợi ích của các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân. Đây là điểm khác biệt trong hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án đối với các cơ quan nhà nước khác. Văn bản áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước khác được thể hiện dưới dạng văn bản hành chính và nhân danh chính là cơ quan đó. Với đặc điểm này, bản án không đơn thuần chỉ là văn bản áp dụng pháp luật như của các cơ quan nhà nước khác mà thể hiện tính nhân đạo, dân chủ, nền công lý và pháp chế của một quốc gia. Mọi sai lầm trong việc quyết định áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự không chỉ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân; ảnh hưởng đến uy tín của Tòa án mà nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với công lý.
Việc ra bản án nhân danh Nhà nước là điều kiện đảm bảo để Tòa án thực thi pháp luật, thực thi công lý và công bằng xã hội, bảo đảm cho Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong áp dụng pháp luật khi xét xử [34, tr.29-30]. Đây cũng là cơ sở để đề cao vai trò và vị thế của Tòa án nói chung và của Thẩm phán và Hội thẩm nói riêng. Điều đó cần đặt ra những yêu cầu rất cao (cả về trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức cũng như lương tâm và trách nhiệm) đối với đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm.
1.1.3.3. áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự phải tuân thủ các nguyên tắc "Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số", "khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật"
áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử nói chung và trong xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS nói riêng là hoạt động lao động tư duy (trí não) đầy khó khăn và phức tạp. Khác với các hoạt động khác, hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử là hoạt động nhằm cụ thể (cá biệt) hóa những quy định chung của pháp luật đối với từng vụ việc và từng chủ thể cụ thể. Quá trình này đòi hỏi chủ thể áp dụng pháp luật phải có tư duy sáng tạo, phát huy toàn bộ hiểu biết không chỉ về pháp luật mà về cả các lĩnh vực khoa học khác, về cuộc sống xã hội... Mặt khác, kết quả áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử luôn luôn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích cũng như nghĩa vụ của các tổ chức và công dân, kể cả tính mạng con người (trường hợp tuyên phạt tử hình),... Do đó, để đảm bảo các phán quyết của Tòa án được khách quan, chính xác và đúng pháp luật, hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS phải triệt để tuân thủ các nguyên tắc này.
Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số là nguyên tắc Hiến định được quy định tại Điều 131 Hiến pháp 1992, Điều 17 BLTTHS và Điều 9 Pháp lệnh tổ chức TAQS. Theo các quy định này thì việc áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS do HĐXX (gồm Thẩm phán và các HTQN) tiến hành. Các thành viên của HĐXX phải trực tiếp tham gia xét xử vụ án, xem xét, thảo luận và biểu quyết theo đa số về từng vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Các ý kiến của các thành viên HĐXX (Thẩm phán và Hội thẩm) đều có giá trị như nhau. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu trong hồ sơ vụ án.
Nguyên tắc nêu trên nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong việc nghiên cứu, xem xét và đánh giá các chứng cứ, tài liệu về vụ án; tiến hành các thủ tục tố tụng cũng như xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình xét xử vụ án tại phiên tòa. Đây là một trong các điều kiện đảm bảo để xem xét, kiểm tra và đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết, các chứng cứ, tài liệu về vụ án nhằm xác định sự thật khách quan và lựa chọn đúng, chính xác các quy phạm pháp luật cần áp dụng và ra các phán quyết về vụ án bảo đảm khách quan, chính xác và đúng đúng pháp luật.
Chức năng xét xử và bảo vệ công lý của Tòa án đòi hỏi các thành viên HĐXX phải độc lập trong xét xử, không bị lệ thuộc vào bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào. Vì vậy, có thể nói "khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" là nguyên tắc cốt lõi xuyên suốt toàn bộ quá trình áp dụng pháp luật (xét xử vụ án) của Tòa án. Tuy nhiên, sự độc lập ở đây không có nghĩa là Thẩm phán và Hội thẩm quyết định sự việc theo ý chí chủ quan của mình. Nguyên tắc này là điều kiện giúp cho Thẩm phán và Hội thẩm có nhận thức khách quan, toàn diện hơn trong việc xem xét sự việc, lấy các quy định của pháp luật làm tiêu chí và giới hạn cho sự độc lập - độc lập nhưng phải tuân theo pháp luật.
Nguyên tắc này đòi hỏi "Thẩm phán và Hội thẩm không một bước xa rời pháp luật, không có bất kỳ một sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không tha thứ cho bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào" [1, tr. 170-171]. Thẩm phán và HTQN phải đề cao ý thức trách nhiệm và lương tâm, phải nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật trong quá trình xét xử vụ án và không để cho các yếu tố chủ quan, bị ảnh hưởng hoặc lệ thuộc vào những tác động từ bên ngoài. Việc xem xét, đánh giá các tình tiết và các chứng cứ, tài liệu về vụ án phải bảo đảm khách quan, toàn diện, đầy đủ và dựa vào niềm tin nội tâm của mình. Việc ra các phán quyết về vụ án phải căn cứ vào các quy định của pháp luật và các chứng cứ, tài liệu về vụ án đã được kiểm tra, đánh giá công khai tại phiên tòa thông qua xét hỏi và tranh luận công khai, dân chủ giữa các bên buộc tội, bào chữa.
Độc lập trong áp dụng pháp luật khi xét xử là một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm. Để nguyên tắc này có thể thực thi trong thực tiễn, đòi hỏi Thẩm phán và HTQN phải có bản lĩnh, lập trường tư tưởng vững vàng; tự học tập và rèn luyện để có trình độ và năng lực chuyên môn giỏi, có niềm tin nội tâm và ý thức trách nhiệm cao, biết khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi sự tác động từ bên ngoài để bảo vệ công bằng và sự nghiêm minh của pháp luật.
1.1.3.4. Nội dung áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự
Nội dung hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS bao gồm áp dụng pháp luật hình thức (pháp luật tố tụng hình sự) và áp dụng pháp luật nội dung (pháp luật hình sự). Hai nội dung này là hai mặt có liên quan chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau của một quá trình áp dụng pháp luật thống nhất và biện chứng. Việc áp dụng pháp luật hình thức là điều kiện bảo đảm tính hợp pháp, khách quan của việc áp dụng pháp luật nội dung. Và ngược lại việc áp dụng pháp luật nội dung bảo đảm cho phán quyết của HĐXX có căn cứ, chính xác, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Sự coi trọng nội dung này hay coi nhẹ nội dung kia đều có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật của HĐXX.
Việc ra quyết định áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS chính là việc HĐXX nhân danh Nhà nước ra phán quyết (bản án, quyết định) về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án (về tội danh, trách nhiệm hình sự, hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với bị cáo,...). Bản chất pháp lý của các quyết định của HĐXX về tội danh và hình phạt chính là kết quả của quá trình giải quyết hai nội dung cơ bản của pháp luật hình sự là tội phạm và hình phạt.
Định tội danh là việc xem xét sự đồng nhất hay không đồng nhất giữa hành vi đã xảy ra trên thực tế với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS [9, tr.299]. Quyết định hình phạt là việc lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể được quy định trong BLHS tương ứng với một cấu thành tội phạm cụ thể [9, tr.310-311], tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để áp dụng đối với người phạm tội.
Trong hệ thống pháp luật nước ta hiện nay, vấn đề tội phạm và các hình thức trách nhiệm pháp lý (chủ yếu là hình phạt) chỉ được quy định duy nhất trong BLHS. Do đó việc xác định tội danh, quyết định hình phạt và các biện pháp tư pháp phải căn cứ vào các quy định của BLHS. Điều đó có nghĩa là BLHS là cơ sở pháp lý để Tòa án ra các phán quyết khi xét xử các vụ án hình sự. Việc xác định tội danh và hình phạt đối với bị cáo dựa vào các căn cứ pháp lý khác ngoài quy định của BLHS đều là không hợp pháp. Trong thực tế, có một số văn bản đơn ngành của các cơ quan tư pháp đề cập đến việc xác định tội danh và quyết định hình phạt nhưng đó chỉ là những văn bản mang tính chất hướng dẫn của cơ quan nghiệp vụ cấp trên về áp dụng các quy định của BLHS về tội phạm và hình phạt nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn chưa được cơ quan có thẩm quyền kịp thời hướng dẫn hoặc hướng dẫn chưa đầy đủ, cụ thể để kịp thời đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong từng giai đoạn cụ thể.
1.1.3.5. Quyết định áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự phải căn cứ vào các chứng cứ khách quan
Đây là một trong những đặc điểm khác biệt cơ bản giữa hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử nói chung và xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS nói riêng với hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước khác. Hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước khác chủ yếu được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc quyền uy, phục tùng. Việc ra quyết định áp dụng pháp luật không phụ thuộc vào ý chí của đối tượng bị áp dụng và ý kiến của đối tượng bị áp dụng chỉ có ý nghĩa tham khảo đối với cơ quan áp dụng pháp luật.
Việc ra quyết định áp dụng pháp luật trong xét xử của Tòa án trên cơ sở các chứng cứ khách quan là điều kiện đảm bảo cho việc xét xử đạt được mục đích đặt ra của tố tụng hình sự, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Căn cứ để quyết định áp dụng pháp luật trong xét xử nói chung và xét xử hình sự sơ thẩm ở các TAQS nói riêng là cơ sở thực tế và cơ sở pháp lý.
Cơ sở thực tế của quyết định áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm là sự thật khách quan của vụ án được tái hiện lại thông qua hệ thống các chứng cứ (vật chứng, lời khai, kết luận giám định, các biên bản về hoạt động điều tra và các tài liệu khác) về vụ án được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập theo quy định của pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và được kiểm tra, xem xét và đánh giá công khai tại phiên toà. Chứng cứ là phương tiện duy nhất để xác định sự thật khách quan của vụ án [9, tr.322] (chứng minh tội phạm). Thông qua hoạt động xét hỏi, tranh luận dân chủ, công khai và bình đẳng tại phiên tòa, tất cả các chứng cứ của vụ án được trực tiếp xem xét, kiểm tra và đánh giá với sự tham gia đầy đủ của HĐXX, kiểm sát viên, luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Với tư cách là "trọng tài" giữa bên buộc tội và bào chữa, trên cơ sở kết quả điều tra công khai và tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, HĐXX nhân danh Nhà nước ra các phán quyết xác định bị cáo có tội hay không có tội? Nếu có tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của BLHS? Xác định trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và trách nhiệm pháp lý khác (nếu có) đối với các chủ thể có liên quan. Trong trường hợp không đủ chứng cứ họăc các chứng cứ không rõ ràng cần phải tiếp tục điều tra làm rõ, thì HĐXX ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Cơ sở pháp lý của quyết định áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm là các quy định pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung (BLHS, BLDS,...) mà Toà án căn cứ vào đó để ra các phán quyết về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án (tội danh, điều khoản BLHS, hình phạt, biện pháp tư pháp, án phí,...).
Như vậy, việc HĐXX ra phán quyết trên cơ sở các quy định pháp luật, các chứng cứ khách quan về vụ án được kiểm tra công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa cho thấy phương pháp áp dụng pháp luật trong xét xử của Tòa án là phương pháp tranh tụng công khai, bình đẳng tại phiên tòa giữa các bên buộc tội và bào chữa. Vì vậy, đảm bảo cho hoạt động tranh tụng một cách dân chủ, công khai, bình đẳng giữa các bên tham gia tranh tụng; nghiêm chỉnh tuân thủ các nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo có ý nghĩa rất quan trọng và quyết định đối với chất lượng các phán quyết của HĐXX.
1.1.3.6. áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự phải tuân theo một quy trình nhất định
áp dụng pháp luật là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, giai đoạn trước là tiền đề cho giai đoạn tiếp theo. Về mặt lý luận, như đã phân tích ở trên, quy trình áp dụng pháp luật được phân thành bốn giai đoạn: phân tích, đánh giá những tình tiết thực tế khách quan của vụ việc và các đặc trưng pháp lý của nó; lựa chọn quy phạm pháp luật cần áp dụng, làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của quy phạm pháp luật đó; ra văn bản áp dụng pháp luật; tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật.
Việc nghiên cứu quy trình áp dụng pháp luật trong xét xử của Tòa án cũng phải được tiến hành trên cơ sở những quan điểm lý luận chung nêu trên. Tuy nhiên, hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS nói riêng là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều công đoạn và các thủ tục tố tụng rất chặt chẽ. Đặc điểm này xuất phát từ mục đích của hoạt động xét xử là bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trên cơ sở quyết định truy tố (cáo trạng) của Viện kiểm sát, HĐXX có trách nhiệm xác định sự thật khách quan của vụ án một cách khách quan, đầy đủ và toàn diện để làm cơ sở cho việc áp dụng pháp luật và ra các phán quyết về vụ án nhân danh Nhà nước. Xuất phát từ đặc điểm này, có thể phân quy trình áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS thành các giai đoạn sau đây:
- Nghiên cứu hồ sơ, đánh giá các tình tiết, chứng cứ, tài liệu về vụ án: Đây là giai đoạn đầu tiên và có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo tiền đề cho các giai đoạn tiếp theo của quá trình áp dụng pháp luật của Tòa án. Về mặt lý luận, đây là giai đoạn phân tích, đánh giá những tình tiết khách quan của vụ án và các dấu hiệu đặc trưng pháp lý của nó. Công việc này được tiến hành trong suốt quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa.
Trước hết, cần khẳng định rằng nghiên cứu hồ sơ vụ án là công việc không thể thiếu khi tiến hành xét xử một vụ án. Nó giúp cho Thẩm phán và Hội thẩm nắm được toàn bộ nội dung của vụ án để có phương hướng xử lý tiếp theo. Quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án cần tập trung làm rõ các vấn đề sau:
- Xác định vụ án có thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp mình hay không? Việc tách, nhập vụ án có cần thiết và đúng pháp luật hay không?
- Các thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố có bảo đảm đầy đủ và đúng pháp luật không?
- Có cần thiết áp dụng thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hay không?
- Các chứng cứ, tài liệu về vụ án đã đủ để làm sáng tỏ vụ án chưa? Hành vi của bị can có cấu thành tội phạm không?
- Tội danh và điều khoản BLHS mà Viện kiểm sát truy tố trong cáo trạng có phù hợp không?
- Có cần xử lý vật chứng trước khi xét xử và áp dụng biện pháp cần thiết để bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại không?
- Có căn cứ để đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án?... [59, tr.22].
Việc xem xét, đánh giá các tình tiết, chứng cứ, tài liệu của vụ án khi nghiên cứu hồ sơ cần chú ý làm sáng tỏ các yếu tố thuộc đối tượng chứng minh để là cơ sở cho việc áp dụng pháp luật sau này, cụ thể là cần xác định:
- Có hành vi phạm tội xảy ra hay không? Thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội?
- Ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội? Lỗi, động cơ và mục đích phạm tội?
- Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo?
- Tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra và các tình tiết khác cần thiết để giải quyết đúng đắn vụ án? [54, tr.149].
Về nguyên tắc, phán quyết của HĐXX phải căn cứ vào các chứng cứ khách quan đã được kiểm tra, xác minh tại phiên toà và kết quả tranh tụng. Vì vậy, HĐXX không được phép đánh giá các tình tiết, các chứng cứ về vụ án chỉ dựa trên cơ sở hồ sơ vụ án mà phải căn cứ vào kết quả điều tra công khai và tranh tụng tại phiên toà với sự tham gia của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng.
Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự tiến hành xét hỏi bị cáo, người làm chứng, các đương sự, người giám định,... và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan để xác định sự thật khách quan của vụ án cũng như các tình tiết khác liên quan.
Trong phần tranh luận các chủ thể của bên buộc tội và bào chữa trình bày các lập luận, đưa ra lý lẽ, chứng cứ và viện dẫn các quy phạm pháp luật cần thiết để đối đáp với nhau nhằm bảo vệ quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án. Thông qua hoạt động tranh tụng của các bên, HĐXX tiếp tục kiểm tra, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án, củng cố niềm tin nội tâm làm cơ sở cho việc nghị án và ra các phán quyết khách quan, chính xác về vụ án. Thực tiễn xét xử cho thấy trong nhiều trường hợp thông qua tranh luận, HĐXX hoặc các bên đã phát hiện những vấn đề, tình tiết của vụ án chưa được xác minh đầy đủ cần thiết quay lại phần xét hỏi để xem xét thêm chứng cứ. Kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án, điều tra công khai và tranh tụng tại phiên toà là cơ sở thực tế để HĐXX có kết luận đúng đắn và ra các phán quyết chính xác về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án.
Những phân tích trên cho thấy ở giai đoạn đầu tiên của quá trình áp dụng pháp luật trong xét xử, ngoài HĐXX còn có sự tham gia của các chủ thể khác - những người tham gia phiên toà như: kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, các đương sự,... Đây là đặc thù của hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử so với việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước khác.
- Xác định các quy phạm pháp luật cần áp dụng để định tội danh, quyết định hình phạt, các biện pháp tư pháp: Đây là giai đoạn quan trọng của quá trình áp dụng pháp luật trong xét xử. Hoạt động của HĐXX ở giai đoạn này là áp dụng những quy định của pháp luật nội dung (về tội phạm, hình phạt và các biện pháp tư pháp) để quy định các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật liên quan. Xét về bản chất pháp lý, đây là hoạt động mang tính chất vừa là định tính vừa là định lượng của HĐXX nhằm xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra có phải là tội phạm hay không và trách nhiệm pháp lý của bị cáo và các chủ thể pháp luật khác có liên quan trong vụ án.
Về nguyên tắc, việc xác định tội danh, điều khoản BLHS, hình phạt cần áp dụng và trách nhiệm pháp lý khác đối với bị cáo được thực hiện chính thức khi HĐXX nghị án. Các thành viên HĐXX có trách nhiệm thảo luận và biểu quyết để xác định sự đồng nhất giữa cơ sở thực tế (sự thật khách quan của vụ án) với cơ sở pháp lý là các những quy định cụ thể của BLHS về tội phạm, hình phạt,... dựa vào các yếu tố của cấu thành tội phạm (khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm). Về mặt lôgíc, việc định tội danh bao giờ cũng diễn ra trước việc quyết định hình phạt và các biện pháp tư pháp. Vì vậy, việc xác định đúng tội danh là tiền đề cho việc quyết định hình phạt và các biện pháp tư pháp khác.
- Ra quyết định áp dụng pháp luật thể hiện là bản án, quyết định hình sự sơ thẩm: Bản án hoặc quyết định về vụ án của HĐXX là văn bản áp dụng pháp luật của Tòa án, trong đó nhân danh Nhà nước, Toà án kết luận bị cáo phạm tội và quyết định hình phạt cùng các biện pháp tư pháp khác (nếu có) hoặc xác định bị cáo không phạm tội và minh oan cho họ.
Việc ra bản án, quyết định được HĐXX tiến hành trong phòng nghị án theo nguyên tắc bí mật; thiểu số phục tùng đa số; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Bản án là một văn bản áp dụng pháp luật ghi nhận chính thức kết quả áp dụng pháp luật của HĐXX đối với vụ án và là hình thức thể hiện tập trung rõ nét nhất chức năng xét xử của Tòa án. Bản án phải được ban hành theo một thể thức thống nhất, bao gồm đầy đủ các nội dung theo quy định tại Điều 224 BLTTHS và được tuyên công khai tại phiên tòa.
Theo tố tụng hình sự, thủ tục xét xử sơ thẩm kết thúc sau khi HĐXX ra phán quyết (bản án, quyết định) và tuyên đọc công khai, nhưng theo quy trình áp dụng pháp luật thì việc ra phán quyết (bản án, quyết định) chỉ là kết thúc giai đoạn thứ ba của quy trình áp dụng pháp luật nói chung.
- Tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật, đó là bản án, quyết định của Tòa án.
Theo lý luận chung về áp dụng pháp luật, đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình áp dụng pháp luật bao gồm các hoạt động tổ chức và thực hiện các văn bản áp dụng pháp luật, làm cho các quyết định áp dụng pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống.
Theo quy định của pháp luật, những bản án, quyết định được đưa ra thi hành là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Chánh án (Tòa án đã xét xử sơ thẩm) ra quyết định thi hành án (thi hành án hình sự) hoặc ủy thác cho Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án. Việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAQS do các tổ chức trong quân đội đảm nhiệm theo quy định của pháp luật, ví dụ: Trại giam quân sự thi hành án phạt tù; cơ quan thi hành án trong quân đội thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản và quyết định dân sự trong vụ án hình sự;...
Để đảm bảo tính thực thi của bản án, quyết định của Tòa án, đòi hỏi:
- Bản án, quyết định của Tòa án phải đảm bảo chính xác, đúng pháp luật. Tòa án phải đảm bảo đầy đủ thủ tục, hồ sơ thi hành án theo quy định.
- Cơ quan thi hành án phải thực hiện tích cực, đúng quyền năng, nhiệm vụ.
- Những người có trách nhiệm thi hành phải tuân thủ và thực hiện nghiêm các quyết định của Tòa án.
1.2. Các yếu tố đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự
Chất lượng áp dụng pháp luật trong xét xử nói chung và xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS nói riêng chịu sự tác động và ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Có thể xem xét chúng từ những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi của luận văn từ góc độ đặc điểm của hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS được thực hiện bởi HĐXX gồm Thẩm phán và các HTQN theo nguyên tắc "khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", chúng tôi chỉ xem xét một số yếu tố cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp đến việc đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử, cụ thể là:
- Phẩm chất chính trị, đạo đức; trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của Thẩm phán và HTQN;
- Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật;
- Hoạt động kiểm tra giám đốc án, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và tổng kết rút kinh nghiệm xét xử.
1.2.1. Phẩm chất chính trị, đạo đức; trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của Thẩm phán và Hội thẩm quân nhân
- Phẩm chất chính trị của Thẩm phán và HTQN: Thẩm phán và Hội thẩm là những người được Nhà nước giao cho quyền “cầm cân, nảy mực” để thực thi pháp luật - ý chí của Nhà nước nhằm bảo đảm công bằng xã hội. Kết quả áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là sự thể hiện thái độ của Nhà nước và xã hội đối với hành vi phạm tội và người phạm tội. Vì vậy, hoạt động áp dụng pháp luật không thể tách rời đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Thẩm phán và HTQN phải nhận thức rõ và có ý thức cao về nhiệm vụ chính trị được Đảng, Nhà nước giao phó. Đây là yếu tố quan trọng để hình thành lý tưởng cách mạng và lập trường tư tưởng vững vàng của Thẩm phán và HTQN trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Trước tiên, việc thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ giúp cho người Thẩm phán, HTQN có một thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản; sống, làm việc và cống hiến phục vụ Đảng, phụng sự Tổ quốc và nhân dân [34, tr.211]. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trang bị phương pháp luận khoa học, giúp Thẩm phán và HTQN có những phán quyết đảm bảo tính chính xác, khách quan, khoa học trong áp dụng pháp luật khi xét xử.
Lập trường tư tưởng vững vàng giúp cho Thẩm phán và HTQN kiên định mục tiêu, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, trung thành với Tổ quốc, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân và vượt qua mọi khó khăn và những tác động tiêu cực, kiên quyết bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế XHCN. Đây là tiền đề vững chắc đảm bảo cho hoạt động áp dụng pháp luật đúng đắn và tránh được hiện tượng "pháp lý đơn thuần, máy móc hoặc vô chính trị". Đây cũng là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán hoặc để cử làm HTQN: "trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam" (Điều 5 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân) [30, tr.59].
- Phẩm chất chất đạo đức của Thẩm phán và HTQN: áp dụng pháp luật trong xét xử là hoạt động đánh giá về tính hợp pháp hay không của một hành vi và tính có căn cứ hay không của một sự kiện,... Các phán quyết (bản án, quyết định) về vụ án của HĐXX luôn gắn liền với lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Vì vậy, phẩm chất đạo đức cũng là một yếu tố không thể thiếu được ở người Thẩm phán và HTQN - các chủ thể áp dụng pháp luật trong xét xử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: "Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó". Đức và tài là hai mặt luôn gắn kết._.chọn, đào tạo và sử dụng cán bộ ngành TAQS đảm bảo đúng các tiêu chuẩn theo quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm. Việc tái bổ nhiệm Thẩm phán phải căn cứ vào chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của Thẩm phán trong nhiệm kỳ, kiên quyết không đề nghị tái bổ nhiệm những người hoàn thành nhiệm vụ ở mức độ thấp.
Cùng với việc bổ nhiệm, tái nhiệm Thẩm phán, phải có kế hoạch, hình thức và biện pháp đào tạo, bồi dưỡng toàn diện đội ngũ cán bộ ngành TAQS; có quy hoạch khoa học, hợp lý về sử dụng đội ngũ Thẩm phán để không bị hẫng hụt, lựa chọn các Thẩm phán xuất sắc ở TAQS cấp dưới để bổ nhiệm Thẩm phán ở Tòa cấp trên; thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ, nhất là đối với các Thẩm phán giữ vị trí lãnh đạo.
Tiến hành các hình thức, biện pháp về đào tạo, bồi dưỡng về mọi mặt để nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ Thẩm phán, đào tạo toàn diện không chỉ kiến thức pháp lý mà cả kiến thức khác như chính trị, triết học, các khoa học xã hội khác phục vụ cho xét xử, như: Tích cực liên hệ với các trường đào tạo chuyên ngành trong và ngoài quân đội để cử cán bộ đi học: Trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện đào tạo các chức danh tư pháp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quân sự,...; Tổ chức Hội nghị tập huấn chuyên ngành giúp Thẩm phán nắm vững các văn bản pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật; Tổ chức nghiên cứu, xây dựng các đề tài khoa học, các chuyên đề về xét xử sơ thẩm như: phương pháp nghiên cứu hồ sơ, kỹ năng xét hỏi tại phiên tòa, nội dung bản án sơ thẩm...
Các tổ chức đảng ở các TAQS cần phải hết sức coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng; thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước.
Lãnh đạo các Tòa án quân sự và cơ quan có thẩm quyền phải chú trọng thường xuyên và chặt chẽ công tác quản lý Thẩm phán. Thường xuyên theo định kỳ rà soát, đánh giá các hoạt động của từng Thẩm phán làm cơ sở đánh giá chất lượng phân loại Thẩm phán và để từ đó có hướng đào tạo, bồi dưỡng cho họ làm tốt hơn. Phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh những trường hợp có biểu hiện lệch lạc, vi phạm đạo đức nghề nghiệp,...
Nhà nước cần phải xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ thoả đáng phù hợp với lao động đặc thù của Thẩm phán như: chế độ tiền lương, phụ cấp, chế độ ưu đãi khi thi hành công vụ, bậc quân hàm (đối với Thẩm phán TAQS),... Phải coi Thẩm phán là một nghề, do đó cần sửa đổi Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm theo hướng bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời hoặc với nhiệm kỳ dài hơn để họ yên tâm công tác, có thời gian tu dưỡng, rèn luyện, tích luỹ kinh nghiệm.
- Về xây dựng đội ngũ HTQN: Các cơ quan có thẩm quyền phải lựa chọn kỹ và giới thiệu những người đủ tiêu chuẩn theo quy định của Pháp luật để cử làm HTQN, trong đó coi trọng tuổi đời, tuổi quân, cấp bậc, quân hàm, kiến thức về tổ chức, quân sự, kinh nghiệm trong cuộc sống. Các TAQS phải làm tốt công tác quản lý đội ngũ HTQN, thường xuyên bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ với thời gian và nội dung phù hợp thông qua các hình thức bồi dưỡng tập trung theo các chuyên đề như: kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án, xét hỏi... Bảo đảm các văn bản pháp luật và tài liệu cần thiết để họ cập nhật kiến thức pháp luật phục vụ công tác xét xử. Tổ chức cho các HTQN tham dự các phiên tòa để họ học tập phương pháp và kinh nghiệm xét xử.
Mỗi HTQN phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vị trí, vai trò của mình khi tham gia xét xử để từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm chính trị, có lập trường, quan điểm đúng đắn; nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thận trọng, khách quan khi xét xử các vụ án.
3.1.4. Giải pháp đảm bảo chất lượng hoạt động bổ trợ tư pháp có liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của các Tòa án quân sự
Các hoạt động bổ trợ tư pháp liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật của các TAQS (như: hoạt động bào chữa của luật sư; giám định tư pháp,...) có vai trò hết sức quan trọng đối với việc đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử. Do vậy, một trong những giải pháp quan trọng để đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong xét xử là phải nâng cao chất lượng của các hoạt động này.
Luật sư tham gia tố tụng trong vụ án hình sự (do bị can, bị cáo, đương sự mời hoặc theo yêu cầu của Tòa án trong những trường hợp pháp luật quy định) có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, đương sự. Bằng hoạt động của mình, luật sư góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội, pháp chế XHCN và bảo đảm sự dân chủ trong hoạt động xét xử.
Những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đội ngũ luật sư và tổ chức các đoàn luật sư ở nước ta từng bước được kiện toàn và phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt những quy định của BLTTHS năm 2003 đã mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi để luật sư phát huy tốt vai trò của mình trong quá trình giải quyết các vụ án như: được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can; được phép có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can; được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;... [6, tr.48]. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy còn có một số vấn đề (như năng lực, phẩm chất đạo đức và việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của luật sư,...) đang đặt ra cần được tiếp tục quan tâm để xây dựng đội ngũ luật sư có ý thức trách nhiệm cao, có tâm trong sáng, có năng lực nghề nghiệp để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, đương sự; thực hiện đúng nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trên cơ sở quy định của pháp luật,... đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Để bảo đảm chất lượng hoạt động của luật sư, ngoài việc nâng cao năng lực trình độ của luật sư thông qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội, rèn luyện kỹ năng thực hành,... cần phải hoàn thiện pháp luật về luật sư theo hướng xây dựng đội ngũ luật sư chuyên nghiệp, chỉ cho phép những người đủ tư cách mới được hành nghề. Đây là vấn đề quan trọng để bảo đảm tính chuyên nghiệp trong hoạt động luật sư.
Cùng với trình độ năng lực, luật sư phải có phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình; trung thực, khách quan, tôn trọng lẽ phải và tuân thủ các quy định của pháp luật, Để có những phẩm chất này đòi hỏi luật sư phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp. Cơ quan có thẩm quyền cần thực hiện tốt công tác quản lý đối với đội ngũ luật sư, phát hiện và xử lý nghiêm khắc, kịp thời những trường hợp vi phạm. BLHS cần bổ sung một số quy định về các tội phạm xâm phạm quyền bào chữa của công dân cũng như xâm phạm hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
Các hoạt động bổ trợ tư pháp khác như: giám định pháp y, giám định tâm thần, giám định khoa học hình sự... cũng có vai trò quan trọng đối với quá trình giải quyết vụ án. Trong tố tụng hình sự, trưng cầu giám định tư pháp là biện pháp nhằm kiểm tra, đánh giá chứng cứ của vụ án. Đây là hoạt động sử dụng những phương pháp khoa học, kỹ thuật và kiến thức, nghiệp vụ chuyên ngành để kết luận những vấn đề có liên quan đến vụ án theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Kết luận giám định về vấn đề liên quan đến vụ án là phương tiện chứng minh, là một trong những nguồn chứng cứ chủ yếu.
Trong những năm qua, hoạt động giám định tư pháp đã góp phần quan trọng đối với hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử của Tòa án nói chung và của các TAQS nói riêng. Nhìn chung các kết luận giám định đảm bảo tính khách quan, khoa học và là một trong các căn cứ để Tòa án giải quyết đúng đắn vụ án. Tuy nhiên, công cuộc cải cách tư pháp và thực tiễn xét xử trong giai đoạn hiên nay đã và đang đặt ra yêu cầu cần phải có những biện pháp để nâng cao chất lượng hoạt động này, đó là:
- Các ngành, các cấp cần thực hiện đầy đủ các yêu cầu đề ra trong Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị: "Từng bước hoàn thiện các tổ chức giám định tư pháp. Thành lập cơ quan giám định pháp y quốc gia. Sớm hoàn thiện pháp luật về giám định...", "hoàn thiện chế định giám định tư pháp, Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định. Ban hành quy chế chuẩn giám định phù hợp với từng lĩnh vực. Xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ việc".
- Các tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần; giám định khoa học hình sự, tài chính kế toán,... cần được sắp xếp cho hợp lý, tinh gọn. cần sớm có đội ngũ giám định viên về những lĩnh vực môi trường, công nghệ thông tin,...
- Các giám định viên phải đảm bảo đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Ngoài các yêu cầu về năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức còn phải có hiểu biết nhất định về pháp luật tố tụng. Cần quy định không cho giám định viên tham gia vào các hoạt động mà chúng có thể ảnh hưởng đến sự khách quan trong kết luận giám định.
- Các phương tiện kỹ thuật, máy móc phục vụ cho việc giám định cần được hiện đại hóa để đáp ứng kịp thời, chính xác và nhanh chóng các yêu cầu của công tác giám định.
- Các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan tổ chức có liên quan phải phối hợp, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến giám định theo yêu cầu của giám định viên.
- Để việc tham gia tố tụng tại phiên tòa của người giám định được thuận lợi, cần quy định trách nhiệm cụ thể của người giám định khi được Toà án triệu tập. Để bảo đảm cho việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà, cần tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác giám định tư pháp cả về số lượng và chất lượng.
- Cùng với việc nâng cao ý thức trách nhiệm, Nhà nước cần đảm bảo chế độ thù lao cho giám định viên phù hợp hoạt động giám định và tham gia tố tụng của họ tại phiên tòa.
3.2. Các giải pháp cụ thể
3.2.1. Giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
Giai đoạn chuẩn bị xét xử là khâu đầu tiên của quá trình xét xử vụ án hình sự. Nó được bắt đầu từ thời điểm Toà án thụ lý hồ sơ vụ án đến trước khi mở phiên tòa xét xử. Đây là giai đoạn hết sức quan trọng của quá trình áp dụng pháp luật trong xét xử. Trên thực tế, giai đoạn này chỉ thực sự bắt đầu sau khi Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án (làm chủ toạ phiên toà).
Trong giai đoạn này Chánh án TAQS cấp sơ thẩm phải đề cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình để tổ chức, kiểm tra, đôn đốc việc xét xử vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Việc áp dụng pháp luật trong xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào việc phân công Thẩm phán giải quyết từng vụ án cụ thể. Căn cứ vào tính chất của vụ án, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn, Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết vụ án cho phù hợp, bảo đảm đúng đúng pháp luật; Kịp thời phân công HTQN tham gia HĐXX và ra các quyết định cần thiết để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Chánh án và Phó Chánh án phải tăng cường công tác kiểm tra công tác chuẩn bị và chất lượng giải quyết các vụ án của các Thẩm phán, tổ chức rút kinh nghiệm xét xử để kịp thời khắc phục những sai sót nếu có.
Trong giai đoạn chuẩn bị, Thẩm phán có nhiệm vụ làm các công tác chuẩn bị cho việc đưa vụ án xét xử nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án: Nghiên cứu hồ sơ vụ án; ra một trong các quyết định theo quy định tại Khoản 2 Điều 176. Trường hợp vụ án có đủ điều kiện để đưa ra xét xử, thì Thẩm phán xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; lên kế hoạch xét xử và triệu tập những người tham gia phiên toà và làm các công việc chuẩn bị khác cho việc mở phiên toà đảm bảo đúng thời hạn theo quy định của pháp luật.
Về cơ bản, việc áp dụng pháp luật để ra các quyết định liên quan đến việc giải quyết vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử do Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà thực hiện. Vì vậy, ngoài trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ, Thẩm phán phải nêu cao ý thức trách nhiệm, thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Thẩm phán phải nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách thận trọng, tỉ mỉ và toàn diện để phát hiện kịp thời những thiếu sót (cả về nội dung và thủ tục tố tụng), những điểm không hợp lý, mâu thuẫn giữa các chứng cứ để có hướng xử lý kịp thời. Việc xem xét, đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ phải bảo đảm các nguyên tắc và yêu cầu về đánh giá chứng cứ. Coi trọng việc xem xét, giải quyết khiếu nại và những vấn đề phát sinh trong quá trình nghiên cứu, chuẩn bị xét xử vụ án,...
Ngoài ra, việc trao đổi, thảo luận với đồng nghiệp, những nhà chuyên môn ở các lĩnh vực khoa học chuyên ngành về những vấn đề của vụ án mà Thẩm phán chưa rõ hoặc còn có những quan điểm khác nhau cũng là điều kiện để Thẩm phán áp dụng đúng pháp luật trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
3.2.2. Giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa
Giai đoạn xét xử công khai tại phiên tòa được bắt đầu từ khi HĐXX vào phòng xử án và kết thúc sau khi tuyên án. Nó thể hiện chính thức toàn bộ nội dung hoạt động áp dụng pháp luật (cả pháp luật nội dung và pháp luật hình thức) để ra phán quyết về vụ án của HĐXX với sự tham gia đầy đủ của hầu hết những người tiến hành và tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Vì vậy, đây là giai đoạn trung tâm và giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình xét xử sơ thẩm vụ án. Nó được tiến hành theo các trình tự và thủ tục tố tụng: Thủ tục bắt đầu phiên tòa; xét hỏi; tranh luận; nghị án và tuyên án.
Vai trò của Thẩm phán chủ toạ phiên toà trong giai đoạn xét xử tại phiên toà có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật (cả luật hình thức và luật nội dung) của HĐXX. Ngoài việc tuân thủ trình tự và thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật, Thẩm phán chủ toạ phiên toà phải đảm bảo các nguyên tắc: “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”; “bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên”, “Thẩm phán và HTQN độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; dân chủ, công khai và khách quan,... trong quá trình xét xử. Các phán quyết của HĐXX phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, của người bào chữa, bị cáo, người làm chứng, nguyên đơn, bị đơn... Để áp dụng đúng pháp luật và ra các phán quyết chính xác về vụ án, cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:
- Nâng cao trách nhiệm của HĐXX, trong đó Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa là người tổ chức, điều khiển toàn bộ hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử. Thẩm phán phải nắm vững toàn bộ nội dung vụ án, dự kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa và các phương án xử lý các tình huống đó. Tôn trọng ý kiến của HTQN, nhất là các ý kiến về lĩnh vực chuyên môn mà họ hiểu biết rõ.
- Đảm bảo việc xem xét, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án vô tư, khách quan, toàn diện nhằm xác định sự thật khách của vụ án.
- Bảo đảm các điều kiện để những người tham gia tố tụng tại phiên tòa thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật.
- Phải phân công cụ thể và có sự phối hợp chặt chẽ giữa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa với các thành viên khác của HĐXX trong quá trình xét xử, đặc biệt là ở phần xét hỏi; Bảo đảm sự tham gia của kiểm sát viên và luật sư vào quá trình xét hỏi trong phạm vi mà pháp luật quy định;... Việc công bố lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu về vụ án phải thực hiện đúng quy định tại Điều 208 BLTTHS;...
- Hội đồng xét xử phải đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, tạo mọi điều kiện để kiểm sát viên, luật sư tham gia vào quá trình xét hỏi để làm rõ các tình tiết của vụ án; kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của chứng cứ, tài liệu về vụ án. Chủ toạ phiên toà có trách nhiệm điều khiển quá trình tranh luận, đối đáp giữa các bên tại phiên tòa đảm bảo thực sự dân chủ, bình đẳng, đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 217 và 218 BLTTHS.
Hoạt động chính thức về áp dụng pháp luật của HĐXX được thực hiện tại phòng nghị án dưới sự điều khiển của Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa. Căn cứ vào kết quả điều tra công khai, quan điểm của kiểm sát viên, luật sư, bị cáo, người bị hại,... hoạt động áp dụng pháp luật (nghị án) của HĐXX phải tuân thủ trình tự và các yêu cầu sau:
+ Thẩm phán chủ toạ phiên toà nêu các vấn đề (đã được Thẩm phán chuẩn bị ở giai đoạn chuẩn bị xét xử và bổ sung tại phiên toà) mà HĐXX cần thảo luận và giải quyết trong vụ án: về tội danh, điều khoản BLHS cầp áp dụng; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; hình phạt, biện pháp tư pháp,...
+ Các thành viên HĐXX tiến hành thảo luận và biểu quyết theo đa số về từng vấn đề của vụ án (theo thứ tự HTQN nêu ý kiến trước, rồi đến Thẩm phán và cuối cùng là chủ toạ phiên toà). Trên cơ sở đánh giá khách quan, toàn diện tất cả các tình tiết, các chứng cứ của vụ án đã được kiểm tra công khai và ý kiến của các bên tham gia tranh tụng tại phiên toà, HĐXX lựa chọn các quy định pháp luật phù hợp để ra phán quyết về tội danh, điều khoản BLHS cầp áp dụng; hình phạt, biện pháp tư pháp;...
+ Để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được đúng đắn, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc như: “Bảo đảm bí mật khi nghị án”; “Toà án xét xử tập thể và biểu quyết theo đa số”; “Thẩm phán và Hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp luật”;..., Thẩm phán phải chuẩn bị đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật cần thiết liên quan đến việc giải quyết vụ án. Trong trường hợp ý kiến của HTQN về giải quyết các vấn đề của vụ án không đúng do nhận thức không chính xác, đầy đủ về các quy định của pháp luật, Thẩm phán cần giải thích để HTQN có nhận thức chính xác và áp dụng quy phạm pháp luật.
+ Bản án, quyết định hình sự sơ thẩm phải được HĐXX thông qua tại phòng nghị án. Bản án phải bảo đảm về hình thức, cơ cấu và nội dung theo mẫu hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của TANDTC.
Tiểu kết Chương 3
Việc áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS là một yêu cầu cấp thiết và tất yếu khách quan trước yêu cầu phát triển của xã hội, đất nước; công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xuất phát từ thực trạng những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp trong những năm vừa qua, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể sau:
- Giải pháp hoàn thiện pháp luật.
- Giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc án, tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
- Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán và HTQN;
- Giải pháp đảm bảo chất lượng hoạt động bổ trợ tư pháp có liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS.
- Giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
- Giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa;
Các giải pháp nêu trên liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau, giải pháp này là tiền đề, điều kiện để thực hiện các giải pháp kia và ngược lại, do đó cần phải thực hiện các giải pháp này một cách đồng bộ.
Kết luận
Pháp luật XHCN là hệ thống các quy phạm pháp luật, là những quy tắc xử sự chung, là khuôn mẫu, thước đo đánh giá mọi hành vi của tổ chức, cá nhân trong đời sống xã hội. Các quy phạm pháp luật được ban hành đòi hỏi phải được tôn trọng, tuân thủ và thi hành trong đời sống xã hội, đây cũng là mục đích quan trọng của Nhà nước mong muốn khi ban hành các quy phạm pháp luật. Khi các quy phạm pháp luật được các thành viên trong xã hội nhận thức và tự giác thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất sẽ tạo lên sức mạnh của nền pháp chế: Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, là hoạt động của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật. Thông qua hình thức này Nhà nước mới có thể thực hiện tốt được chức năng tổ chức và quản lý của mình đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội; pháp luật mới có thể đi vào cuộc sống một cách triệt để và chính xác, ý chí nhà nước trở thành hiện thực; bảo đảm cho bộ máy nhà nước, các tổ chức và mọi công dân hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; bảo vệ kịp thời và có hiệu quả các lợi ích của nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS là một hoạt động áp dụng pháp luật cụ thể nhân danh Nhà nước của Thẩm phán và HTQN trong quá trình xét xử các vụ án hình sự để ra phán quyết dưới hình thức bản án hoặc quyết định về một hành vi là tội phạm, xác định trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội hoặc tuyên bố không phạm tội và minh oan đối với người vô tội.
áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS có một số đặc thù so với hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ở chỗ đây là hoạt động nhân danh Nhà nước xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền được tiến hành theo các trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ và những nguyên tắc thể hiện tính chất dân chủ, công khai và minh bạch nhằm bảo vệ pháp chế XHCN và công lý. Từ những đặc điểm này mà hoạt động áp dụng pháp luật của các TAQS phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định đồng thời cũng chịu sự tác động và ảnh hưởng của một số yếu tố. Việc nghiên cứu những vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn giúp chúng ta tiếp cận công tác xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS với góc độ đặc thù trong cái phổ biến, trên cơ sở đó có những đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân những hạn chế của việc áp dụng pháp luật trong xét xử, từ đó có những kiến nghị và đề ra những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS, đáp ứng yêu cầu chính trị được Đảng và nhân dân giao phó, đặc biệt là trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
Hoạt động xét xử của Tòa án là biểu hiện tập trung nhất nền tư pháp nước nhà, là một trong những thước đo quan trọng về pháp chế, dân chủ, công bằng xã hội. Chất lượng áp dụng pháp luật trong xét xử càng cao, có sức thuyết phục, đáp ứng theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong công tác đấu tranh, giáo dục và phòng ngừa tội phạm thể hiện cho sự tiến bộ và phát triển của nền tư pháp trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Danh mục tài liệu tham khảo
Alexeev S.S. (1986), Pháp luật trong cuộc sống của chúng ta, Đồng ánh Quang (dịch), Nguyễn Đình Lộc (hiệu đính), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003 (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Công an nhân dân.
Lê Cảm (2004), "Vai trò của thực tiễn xét xử trong việc phát triển luật hình sự Việt Nam", Tòa án Nhân dân, (6), tr. 9-13.
Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Ngọc Đường (2005), "Cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (5), tr. 30-34.
Hoàng Hùng Hải (2005), "Mấy ý kiến về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội thẩm", Tòa án Nhân dân, (6), tr. 17-19.
Phạm Hồng Hải (1999), "Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự - một vài vấn đề lý luận và thực tiễn", Nhà nước và pháp luật, (6), tr. 13-20.
Phạm Hồng Hải (2003), "Đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả của hoạt động tư pháp", Luật học, (2), tr.12-17.
Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (sửa đổi) (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Văn Hiện (2001), "Nâng cao chất lượng soạn thảo bản án hình sự - một yêu cầu cấp bách", Dân chủ pháp luật, (4), tr. 2-7.
Nguyễn Văn Hiện (2002), "Tăng cường năng lực xét xử của Tòa án cấp huyện - một số vấn đề cấp bách", Tòa án Nhân dân, (1), tr. 1-5.
Nguyễn Đức Hiệp (2004), áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Ninh Bình, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Trương Thị Hòa (2004), "Cải cách tư pháp và việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn cho cán bộ cơ quan tư pháp", Nhà nước và pháp luật, (9), tr.29-31.
Phan Trung Hoài (2004), Vấn đề hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Mạnh Kháng (2003), "Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng", Nhà nước và pháp luật, (1), tr. 32-37.
Khoa Nhà nước và pháp luật - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Lịch sử ngành Tòa án quân sự Việt Nam (1997), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân năm 2002 (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
V. I. Lênin (1997), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
C. Mác - Ph. Ănghen (1979), Toàn tập, Tập 21, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự và những tài liệu nghiên cứu (2002), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
Đinh Văn Quế (2004), "Một số vấn đề thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003", Tòa án nhân dân, (8), tr. 3-10.
Chu Hồng Thanh (2001), "Đảm bảo công bằng xã hội trong hoạt động tư pháp", Dân chủ pháp luật, (2), tr. 13, 14, 21.
Lê Xuân Thân (2003), "Các yếu tố cơ bản tạo thành tư cách của người Thẩm phán", Tòa án Nhân dân, (12), tr. 2-4.
Lê Xuân Thân (2004), áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án Nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Đỗ Gia Thư (2004), "Thực trạng đội ngũ Thẩm phán nước ta, những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm từ quá trình xây dựng", Tòa án Nhân dân, (7), tr. 5-10.
Phan Hữu Thư (1996), "Văn hóa tư pháp và đạo đức người Thẩm phán", Nhà nước và pháp luật, (2), tr. 5-6.
Phan Hữu Thư (2003), "Đạo đức nghề luật", Đặc san nghề Luật, (3), (4).
Phan Hữu Thư (2004), "Đặc trưng của nghề Luật và đạo đức của người hành nghề Luật", Nhà nước và pháp luật, (10), tr. 14-22.
Trần Quang Tiệp (2004), "Quá trình chứng minh theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003", Nhà nước và pháp luật, (7), tr. 46-52.
Phạm Văn Tỉnh (2001), "Hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn, cơ sở đánh giá", Nhà nước và pháp luật, (12), tr. 52-62.
Tòa án Nhân dân tối cao (2003), "Một số gợi ý về tổ chức phiên tòa hình sự theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/1/2002 về cải cách tư pháp", Thông tin khoa học pháp lý, (1), tr. 92.
Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an (2005), Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BCA ngày 18/4/2005, hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, Tòa án nhân dân, (13), tr. 46-48.
Tòa án quân sự Trung ương (2000), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án quân sự năm 2000.
Tòa án quân sự Trung ương (2001), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án quân sự năm 2001.
Tòa án quân sự Trung ương (2002), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án quân sự năm 2002.
Tòa án quân sự Trung ương (2003), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án quân sự năm 2003.
Tòa án quân sự Trung ương (2004), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án quân sự năm 2004.
Tòa án quân sự Trung ương (2000), Báo cáo thống kê giải quyết án năm 2000.
Tòa án quân sự Trung ương (2001), Báo cáo thống kê giải quyết án năm 2001.
Tòa án quân sự Trung ương (2002), Báo cáo thống kê giải quyết án năm 2002.
Tòa án quân sự Trung ương (2003), Báo cáo thống kê giải quyết án năm 2003.
Tòa án quân sự Trung ương (2004), Báo cáo thống kê giải quyết án năm 2004.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Trường Đào tạo các chức danh tư pháp (2001), Giáo trình kỹ năng xét xử vụ án hình sự, tập 1, Phần chuyên đề, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
Trường Đào tạo các chức danh tư pháp (2001), Giáo trình kỹ năng xét xử vụ án hình sự, tập 2, Phần kỹ năng, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
Từ điển tiếng Việt (2004), Nxb Đà Nẵng.
Phùng Văn Tửu (1999), Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đào Trí úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Đào Trí úc (2003), "Cải cách tư pháp, ý nghĩa, mục đích và trọng tâm", Nhà nước và pháp luật, (2), tr. 3-6.
Đào Trí úc (2003), "Vị trí, vai trò, đặc trưng và các nguyên tắc của hoạt động tư pháp", Nhà nước và pháp luật, (7), tr. 3-6.
Chu Thị Trang Vân (2001), "Tìm hiểu một số nguyên tắc áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử vụ án hình sự", Nhà nước và pháp luật, (5), tr.36-43.
Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1995), Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2702.doc