LỜI MỞ ĐẦU
Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu:
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã vận hành được gần 7 năm, nhưng việc đầu tư của các nhà đầu tư cũng như các công ty chứng khoán còn mang nặng cảm tính. Việc áp dụng các mô hình phân tích, các phương pháp phân tích còn nhiều hạn chế. Điều này tạo ra sự ì trong quá trình phát triển của thị trường chứng khoán. Vì vậy việc nâng cao hoạt động phân tích là hết sức cần thiết, đặc biệt là tại các tổ chức chuyên nghiệp như Công ty chứng khoán. Hoạt động
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1623 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Áp dụng phân tích kỹ thuật trong phân tích và đầu tư chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phân tích kỹ thuật ở thị trường chứng khoán ở Việt Nam còn khá mới mẻ. Hơn nữa thị trường Việt Nam mới có những bước đầu phát triển, tâm lý bầy đàn vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới các quyết định đầu tư và vì vậy ở thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn khá nhiều điểm hạn chế. Chính điều này làm cho việc áp dụng các biện pháp phân tích chưa được hiệu quả.
Tuy nhiên cùng với quá trình phát triển kinh tế, thị trường chứng khoán Việt Nam cũng ngày càng trở nên hoàn thiện hơn. Lượng vốn đổ vào thị trường ngày càng nhiều, các quỹ nước ngoài cũng bắt đầu quan tâm nhiều hơn tới thị trường Việt Nam. Những thay đổi về luật pháp cũng như hình thức hoạt động cũng giúp cho thị trường ngày càng hoàn thiện hơn. Sắp tới trung tâm giao dịch thành phố Hồ Chí Minh cũng chuyển sang hình thức khớp lệnh liên tục. Điều này cũng giúp cho việc phân tích kỹ thuật được chính xác hơn.
Cũng vì những lý do trên nên việc nghiên cứu và sử dụng phân tích kỹ thuật ngày được các quỹ, các công ty chứng khoán, các nhà đầu tư ngày càng quan tâm hơn.
Với sự hoàn thiện của thị trường, phân tích kỹ thuật ngày càng chính xác hơn. Điều này sẽ giúp sức rất nhiều trong việc ra quyết định trong đầu tư chứng khoán.
Xuất phát từ những lý do trên em quyết định nghiên cứu đề tài
“ÁP DỤNG PHÂN TÍCH KỸ THUẬT TRONG PHÂN TÍCH VÀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN”.
Mục đích nghiên cứu:
Hệ thống hóa toàn bộ vấn đề lý thuyết cơ bản về hoạt động phân tích kỹ thuật đối với cổ phiếu
Ứng dụng phân tích kỹ thuật đối với cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng cho đề tài là: Phương pháp phân tích và tổ hợp, phương pháp logic, phương pháp lý thuyết hệ thống.Phân tích kinh tế trên cơ sở tư duy lý luận và điều tra thực tiễn ở Việt Nam có được dự báo cho tương lai gần. Trừu tượng hoá khoa học và tư duy khách quan trong quá trình nghiên cứu.
Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài nghiên cứu gồm 3 chương:
CHƯƠNG I Lý thuyết cơ bản về phân tích kỹ thuật
CHƯƠNG II: Phân tích kỹ thuật đối với cổ phiếu REE trên thị trường chứng khoán Việt Nam
CHƯƠNG 1: PHÂN TÍCH KỸ THUẬT TRONG PHÂN TÍCH VÀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
1.1. Khái niệm và các giả định
1.1.1. Khái niệm
Phân tích kỹ thuật được nghiên cứu và sử dụng bởi rất nhiều nhà kinh tế, mỗi người đều đưa ra cho mình những khái niệm khác nhau:
Nick và Barbara Apostolous định nghĩa Phân tích kỹ thuật là “quá trình dự báo biến động giá chứng khoán trong tương lai dựa trên cơ sở phân tích những biến động trong quá khứ của giá và các áp lực cung cầu có ảnh hưởng đến giá”. Tuy nhiên định nghĩa này làm cho Phân tích kỹ thuật dường như trở lên gần tương đương với phân tích cơ bản - là quá trình ước lượng giá trị chứng khoán hay hàng hóa bằng cách phân tích các điều kiện kinh tế tài chính cơ bản mỗi công ty, mỗi ngành,…"
Norman Fosback, trong cuốn “Stock Market Logic”:“Nếu như bản chất của phân tích cơ bản là việc xác định giá trị và xác định mua hay bán cổ phiếu khi giá trên thị trường sai lệch khỏi giá trị thực, thì Phân tích kỹ thuật lại dựa trên 2 giả thuyết cơ bản khác hoàn toàn. Thứ nhất, những ước lượng mang tính chủ quan là quá mơ hồ và không thích hợp và thứ hai là dao động giá trong tương lai có thể dự đoán được qua việc phân tích biến động giá trong quá khứ, phân tích mối quan hệ cung - cầu và một số yếu tố khác có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả thị trường “
Trong cuốn phân tích kỹ thuật đối với thị trường tài chính, John J. Murphy định nghĩa rằng: Phân tích kỹ thuật nghiên cứu các biến động thị trường, thông qua việc sử dụng các biểu đồ, với mục đích dự báo xu hướng giá trong tương lai.
Thuật ngữ biến động thị trường ở đây bao gồm ba nguồn thông tin cơ bản đối với phân tích kỹ thuật – giá, khối lượng và trạng thái mở của thị trường.
Ở đây Murphy quá tập trung vào dự báo. Việc dự báo này ám chỉ việc đoán một mức giá cụ thể tại một thời điểm cụ thể trong tương lai. Hầu hết các nhà phân tích và người giao dịch đề gặp khó khăn trong việc dự báo tương lai.
Trong cuốn sách giải thích phân tích kỹ thuật, Martin Pring đã định nghĩa phân tích kỹ thuật như sau:
Phân tích kỹ thuật xác định được sự thay đổi của xu hướng ngay khi nó bắt đầu và duy trì đầu tư cho đến khi có các dấu hiệu cho thấy xu hướng đã đổi chiều.
Định nghĩa này đứng trên phương diện là một nhà đầu tư, không mang bản chất học thuật của phân tích kỹ thuật.
Tác phẩm các nhân tố cho thành công của hoạt động giao dịch, Robert Rotella – có vẻ giống một người giao dịch hơn là một nhà phân tích – đã đưa ra một định nghĩa sâu sắc:
Phân tích kỹ thuật nghiên cứu các hành vi thị trường trong quá khứ để xác định thực trạng và điều kiện của thị trường trong hiện tại...
Rotella đưa ra quan điểm cho rằng phân tích kỹ thuật về căn bản là phản ứng lại diễn biến thị trường và so sánh nó với phân tích cơ bản vốn căn bản là hoạt động dự báo trước thị trường. Một vài nhà quan sát cho rằng phân tích kỹ thuật cũng là hoạt động dự báo trước. Đó là vì các nhà phân tích kỹ thuật, trong khi đưa ra các quyết định phù hợp với diễn biến của thị trường, đã xây dựng một quan điểm về sự định hướng bở giá. Rõ ràng là quan điểm đánh giá về sự định hướng của giá không thể là hoạt động dự báo vốn chính là việc đoán định giá tương lai ở một thời điểm trong tương lai. Đây là điểm khác biệt rất nhỏ nhưng cũng không quan trọng.
Còn theo Edward và Magee thì:“Phân tích kỹ thuật là môn khoa học của sự ghi nhận lại, thường là dưới dạng đồ thị, những hoạt động giao dịch diễn ra trong quá khứ gây lên những thay đổi về giá, khối lượng giao dịch, … của một chứng khoán bất kì hay với chung toàn bộ thị trường và sau đó sẽ dựa trên “bức tranh về quá khứ” đó để suy luận ra xu thế có thể xảy ra trong tương lai”
Edward và Magee còn đưa ra 4 điểm căn bản sau về Phân tích kỹ thuật:
Giá trị thị trường của một chứng khoán được xác định duy nhất thông qua tác động qua lại giữa cung và cầu.
Cung và cầu chịu ảnh hưởng, ở bất kì thời điểm nào, bởi hàng trăm những yếu tố, một số là ảnh hưởng hợp lý, một số hầu như phi lý. Thông tin, ý kiến, tâm lý, dự đoán,…(có thể đúng, có thể sai,…) về tương lai kết hợp và trộn lẫn với nhau và với những yếu tố cần thiết khác để tạo thành sự cân bằng chung của toàn thị trường. Không một cá nhân nào có thể nắm lấy và định lượng những điều này mà thị trường sẽ tự thực hiện.
Bỏ qua những dao động nhỏ thì giá nhìn chung sẽ vận động theo những xu thế giá chung của thị trường, những xu thế này là ổn định trong một khoảng thời gian tương đối dài.
Những thay đổi trong xu thế thị trường thể hiện qua sự dịch chuyển của điểm cân bằng cung cầu dù là vì bất kì nguyên nhân nào đều có thể xác định sớm hơn hoặc muộn hơn thời điểm thị trường biến động.
Như vậy Phân tích kỹ thuật được áp dụng như là một khâu trong quá trình đưa ra quyết định đầu tư hoạt giao dịch trên thị trường tài chính. Với yếu tố chú trọng tính thời điểm, phân tích kỹ thuật được dùng chủ yếu để trợ giúp người đầu tư hoặc người giao dịch nếu họ muốn:
Xác định thời điểm bắt đầu của một xu hướng giá trên thị trường
Tiến hành giao dịch tùy theo xu hướng giá đó
Xác định thời điểm kết thúc của một xu hướng giá trên thị trường
Thoát khỏi thị trường hoặc tiến hành đổi chiều giao dịch
1.1.2. Các giả định cơ bản của phân tích kỹ thuật
Giá thị trường không tính đến bất cứ yếu tố nào
Thành viên chịu tác động của thông tin mà học có, kể cả những thông tin đó được công bố hay là không. Họ cũng sẽ hành động tùy theo những thay đổi trong kỳ vọng họ đặt vào sự phát triển của thị trường trong tương lai. Cuối cùng , tiềm lực tài chính, nhu cầu, nỗi lo sợ, niềm hy vọng cũng ảnh hưởng đến các quyết định mau bán của thành viên tham gia thị trường. Do vậy, các nhà phân tích kỹ thuật giả định rằng giá đã chịu tác động bởi tất cả các nhân tố có ảnh hưởng đến giá rồi, nghĩa là tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến giá kể trên đều được phản ánh trọn vẹn vào mức giá hiện tại, trong pham vi tầm quan trọng của các yếu tố này đối với các thành viên tham gia thị trường cũng như khả năng của họ trong việc phản ứng lại các yếu tố ảnh hưởng đến giá trên thị trường.
Trên cơ sở nhận thức chung về việc giá phản ánh những biến động trong cung, cầu. Các nhà Phân tích kỹ thuật chỉ ra rằng khi giá tăng dù vì bất kì lý do gì thì cầu phải vượt cung và thị trường tăng giá. Chúng ta cũng đều biết và đồng ý rằng động lực chính của cung và cầu là những yếu tố kinh tế căn bản, chúng làm hình thành lên Bull Market hay Bear Market, còn đồ thị thì không tự nó làm cho thị trường dịch chuyển lên hay xuống. Đồ thị chỉ có thể phản ánh tình hình thị trường mà thôi.
Giá không biến động một cách ngẫu nhiên mà chúng biến động theo xu hướng.
Nhiều nhà lý thuyết thuần túy lý luận rằng giá là ngẫu nhiên do đó người ta không thể kiếm lời từ hoạt động nghiên cứu sự vận động của giá. Lý luận này dựa trên cơ sở một lý thuyết cho rằng thị trường là “hiệu quả” khi thông tin được tác động đến giá ngay lập tức. Tuy nhiên, trong khi nhiều thị trường là khá hiệu quả, đặc biệt là trong ngắn hạn, thì cũng có nhiều thị trường nơi mà giá không phản ứng tức khắc đối với thông tin. Theo thời gian thì các thành viên tham gia thị trường đã có nhiều cách thức nhìn nhận khác. Bên cạnh đó, vẫn có nhiều thành viên thị trường chưa có phản ứng thật sự hợp lý, đi ngược lại các giả định trong mô hình thị trường hiệu quả.
Thị trường càng “hiệu quả” thì dường như nó càng có những biến động theo từng bước rõ ràng chứ không biến động theo một xu hướng thẳng. Nhiều xu hướng thị trường định hình với từng bước biến động và ở một phương diện nào đó đây là những xu hướng dễ dàng nhất để tham gia giao dịch. Tuy nhiên, thường thì giá sẽ dần tự điều chỉnh. Có một lý do là nếu một thành viên thị trường có một số thông tin hay phân tích về một thực tế nào đó không sẵn có trên thị trường, thì người này sẽ cố gắng mua với giá tốt nhất và không trả hơn mức giá mà người này có thể kiếm lời. Chỉ ở những thị trường rất hiệu quả, nơi mà nhiều người theo dõi các thông tin phát ra trên thị trường thì giá mới tự điều chỉnh nhanh. Sự tự điều chỉnh nhanh còn có thể là nhờ việc thông báo thông tin cho tất cả mọi người – như là thông tin về một vụ thâu tóm. Giá cũng sẽ tự điểu chỉnh dần dần nếu càng nhiều người nắm được tin và một điều cũng rất quan trọng là mọi người thường có một mức chấp nhận hay kỳ thị rủi ro khác nhau.
Những ai đã từng có kinh nghiệm thực tế trên thị trường đều biết rằng tất cả các thị trường biến động theo xu hướng ít nhất tại một vài thời điểm. Giá biến động theo xu hướng rất hữu dụng đối với phương pháp phân tích kỹ thuật. Xác định sớm một xu hướng là rất quan trọng nhằm tối đa hóa lợi nhuận thông qua giao dịch theo xu hướng đã được xác định. Ngoài ra, việc xác định sớm sự đổi chiều của một xu hướng là tối quan trọng nhằm thoát khỏi giao dịch với lợi nhuận tối đa hoặc trước khi có thể bị lỗ.
Nếu giá không biến động theo xu hướng sẽ chẳng có căn cứ gì làm cơ sở cho hoạt động phân tích kỹ thuật hoặc bất cứ phương pháp phân tích nào khác.
Lịch sử lặp lại
Một thành viên thị trường đều chịu tác động bởi nỗi lo sợ, lòng tham, hy vọng và lòng tự tôn. Khi đối mặt với những tình huống tương tự nhau tất cả chúng ra thường có xu hướng phản ứng theo những cách giống nhau. Mặc dù theo thời gian một vài phản ứng có thể khiến chúng ta rút kinh nghiệm và có được các cách hành xử khác. Thật ngạc nhiê là các thành viên thị trường mới không quan tâm đến phản ứng của thị trường trong quá khứ. Các khiếm khuyết tượng tự nhau này vẫn bị từng thế hệ thành viên thị trường liên tục phạm phải. Bị tác động bởi các yếu tố tâm lý kể trên thì ngay cả các thành viên thị trường kinh nghiệm vẫn có thể lặp lại khiếm khuyết đó.
Có một yếu tố khác là mọi thị trường đều thật sự là một tập hợp một đám đông cùng theo dõi giá, cùng tác động qua lại lẫn nhau và đưa ra quyết định. Đàn ông và đàn bà là động vật cao cấp mang tính xã hội do vậy đều chịu tác động lớn dưới áp lực tâm lý tương tự nhau. Chúng ta ai cũng đều thấy khó khăn khi quyết định đi ngược lại ý kiến của số đông. Nghiên cứu chỉ ra rằng số đông thường khiến các thành viên thị trường phản ứng nặng về cảm tính và thiếu thận trọng thay vì đáng ra họ phải suy nghĩ độc lập khi đưa ra quyết định. Điều này đúng với cả những người được gọi là nhà đầu tư chuyên nghiệp lẫn những nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ.
Những khái niệm cơ bản này là sơ sở cho khả năng của các nhà phân tích kỹ thuật trong việc theo dõi điều gì đang xảy ra trên đồ thị giá, trong việc giải thích các nhà giao dịch đã phản ứng lại tình hình của thị trường như thế nào, và xây dựng nên một dự đoán về xu hướng có thể xẩy ra của thị trường.
1.2. So sánh phân tích kỹ thuật và phân tích cơ bản
Thông thường hoạt động phân tích thị trường thường được tiến hành thông qua 2 phương pháp – phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. Cả 2 phương pháp này là hai cách tiếp cận khác nhay dối với quá trình đưa ra quyết định giao dịch hoặc đầu tư trên thị trường tài chính. Quá trình này chính là việc cân nhắc để lựa chọn thị trường nào và công cụ tài chính nào để tiến hành giao dịch hoặc đầu tư cũng như là việc đưa ra quyết định về thời điểm tiến hành giao dịch hoặc đầu tư nhằm đạt được những lợi nhuận lớn nhất
1.2.1. Phân tích cơ bản
Phân tích cơ bản là quá trình đưa ra quyết định bằng việc tìm cách xác định giá trị nội tại của một công cụ tài chính. Theo cách hiểu thông thường thì nếu một công cụ tài chính được giao dịch với giá thấp hn giá trị nội tại thì giá của nó sẽ tăng và ngược lại nếu công cụ tài chính đó được giao dịch với giá cao hơn giá trị nội tại thì giá của nó sẽ giảm.
Giá trị nội tại được ước tính bằng cách xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến cung và cầu của bất cứ yếu tố nào là cơ sở của công cụ tài chính. Đó có thể là một công ty, một hàng hóa, một đơn vị tiền tệ, một lãi suất hoặc một chỉ số của thị trường. Do đó hoạt động phân tích cơ bản nghiên cứu các nguồn gốc của giá hoặc các thay đổi về giá của các công cụ tài chính. Hoạt động phân tích cơ bản chỉ cho chúng ta thấy chiều hướng thay đổi của giá.
Có một vấn đề đối với hoạt động phân tích cơ bản là hoạt động này được tiến hành với giả định các thông tin có được là hoàn hảo và được xử lý đúng. Những quan sát thực tiễn trên thị trường cho thấy là các giả định như thế không phải khi nào cũng đúng, đặc biệt là trong ngắn hạn. Tuy nhiên nói chung thì trong dài hạnh chiều hướng thay đổi của giá được quy định bởi giá trị nội tại.
1.2.2. Phân tích kỹ thuật
Phân tích kỹ thuật là quá trình đưa ra quyết định bằng việc nghiên cứu khảo sát thị trường cho một công cụ tài chính. Dữ liệu được quan tâm đầu tiên trên thị trường là giá, khối lượng và nếu thị trường tương lai thì dữ liệu được quan tâm là trạng thái giao dịch mở của thị trường. Phân tích kỹ thuật chỉ xem xét việc cung cầu đã ảnh hưởng như thế nào đến giá của một công cụ tài chính mà không quan tâm đến giá trị của bất cứ yếu tố nào là cơ sở của công cụ tài chính đó.
Trong khi cung và cầu tương tác với nhau thì theo lý thuyết có hau hướng riêng rẽ liên quan đến các công cụ tài chính được giao dịch. Một thị trường cho các tàu sảnh vật chất vốn là cơ sở của một công cụ tài chính và là một thị trường cho bản thân công cụ tài chính đó. Mặc dù giá trên thị trường tài sản vật chất tác động đến giá của các công cụ tài chính thì vẫn có những khác biệt đáng chú ý – đặc biệt là trên thị trường cổ phiếu nơi mà quyền kiểm soát các công ty (trong dài hạn) không phải là một thị trường sôi động nếu so với hoạt động giao dịch ( trong ngắn hạn) các cổ phần trong công ty.
Phân tích cơ bản có xu hướng nhìn nhận giá của một công cụ tài chính có liên quan trực tiếp tới giá trị nội tại của tài sản là cơ sở quyết định giá trị của công cụ tài chính đó. Mặt khác, phân tích kỹ thuật cho rằng có những yếu tố khác ảnh hưởng đến cung cầu của một công cụ tài chính và làm thay đổi cơ bản mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa giá của công cụ tài chính và giá trị thực của tài sản là yếu tố cơ bản quyết định giá trị của công cụ tài chính đó. Do đó, nhà phân tích kỹ thuật nghiên cứu trực tiếp những thay đổi trong mức cung và cầu của một công cụ tài chính được giao dicdhj chứ không nghiên cứu gián tiếp thông qua các yếu tố có ảnh hưởng đến cung và cầu của tài sản là cơ sở quyết định giá của công cụ tài chính đó.
1.2.3. Sự bổ sung lẫn nhay giữa phân tích kỹ thuật và phân tích cơ bản
Không có sự xung đột tự nhiên nào giữa hai phương pháp phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. Sở dĩ có một số ý kiến phản đối phương pháp phân tích kỹ thuật là do những ý kiến này dựa trên giả định sai là hoạt động phân tích kỹ thuật chỉ là cố gắng đoán giá trong tương lai dựa trên những biến động giá trong quá khứ. Đây chính là một hiểu lầm thường gặp khi người ta đánh giá phương pháp phân tích kỹ thuật. Thật ra mục đích trong việc khảo sát biến động giá là nhằm xác định những thay đổi trong mối cân bằng giữa cung và cầu. Hầu hết các đánh giá có liên quan ở đây cơ bản dựa trên cách hiểu về việc làm thế nào các thành viên tham gia thị trương phản ứng lại tùy theo vị thế của họ trên thị trường. Thật ra phân tích kỹ thuật chỉ sự mở rộng của một phương pháp đã từng được sử dụng trong kinh tế học cổ điển. Trên thực tế, một số nhà kinh tế học ngay từ bây giờ đã bắt đầu xem xét hoạt động của phân tích kỹ thuật như là một phương pháp theo dõi thị trường trong đó sử dụng phương pháp phân tích hành vi ứng xử của thị trường hơn là phân tích các con số thông kê đơn thuần.
Nhược điểm cơ bản của phân tích cơ bản là thật khó để tính được giá trị nội tại một cách chính xác. Nguyên nhân giải thích nhược điểm này rất phức tạp. Hơn nữa phân tích cơ bản còn có một điểm sai là nó đã bỏ qua vai trò của tâm lý trên thị trường đối với bản thân công cụ tài chính nó đang phân tích, như thế nhược điểm của phân tích cơ bản chính là tính thời điểm, đặc biệt là trong ngắn hạn.
Trong khi đó, phương pháp phân tích kỹ thuật lại tập trung tất cả vào tính thời điểm – nó tìm mọi cách xác định xem khi nào thì mối cân bằng giữa cung và cầu thay đổi. Phương pháp phân tích cơ bản sẽ chỉ cho chúng ta thấy điều gì sẽ ảnh hưởng đến giá. Phương pháp phân tích kỹ thuật lại chỉ cho chúng ta thấy khi nào thì giá bắt đầu thay đổi và khi nào thì sự thay đổi về giá này kết thúc. Người đầu tư thận trọng nhận thấy cả hai phương pháp này có thể bổ sung cho nhau trong quá trình đưa ra quyết định cũng như kết hợp thành một phương pháp phân tích thống nhất.
Khung thời gian cũng là một nhân tố cần tính đến khi quyết đinh chọn phương pháp phân tích nào. Trong khi đồng ý rằng về dài hạn, thị trường được quy định bởi các yếu tố cơ bản thì nhiều nhà phân tích kỹ thuật vẫn cho là trong ngắn hạn, yếu tố tâm lý của các thành viên tham gia thị trường đóng vai trò quan trọng hơn. Để đáp ứng được các nhu cầu của thành viên tham gia thị trường trong việc đưa ra quyết định mua hoặc bán trong ngắn hạn trên thị trường, đặc biệt là trên thị trường chứng khoán phái sinh có tính bấp bênh cao, thì đối với kiểu giao dịch như vậy phương pháp phân tích kỹ thuật có lẽ thích hợp hơn phương pháp phân tích cơ bản.
1.3. Lý thuyết Dow
Lý thuyết Dow được đặt tên theo của Charles Dow, chủ bút đầu tiên của tờ thời báo phố Wall và là người sáng tạo ra chỉ số trung bình của thị trường, ngày nay được biết tới cái tên chỉ số trung bình Dow Jones. Lý thuyết Dow mà chúng ta vẫn nghiên cứu ngày nay chính là lý thuyết Dow đã được William Hamilton, người đã thay Dow làm chủ tờ Thời báo phố Wall, phát triển và cuối cùng Robert Rhea đã tổng hợp lại thành một lý thuyết hoàn chỉnh.
1.3.1. Những nguyên tắc cơ bản của lý thuyết Dow
Trung bình thị trường không phụ thuộc vào bất kỳ yếu tố:
Sự giao động giá đóng cửa hàng ngày của chỉ số giá trung bình ngành công nghiệp và đường sắt Dow Jones chính là chỉ số tổng hợp của tất cả các yếu tố hy vọng thất vọng và kiến thức của bất kỳ ai biết bất cứ điều gì về các vấn đề tài chính và vì thế mà ảnh hưởng của những sự kiện sắp đến (không tính đến thiên tai bất khả kháng) luôn luôn được dự báo trước một cách chính xác trong quá trình biến động của chúng. Các chỉ số trung bình của thị trường sẽ nhanh chóng đo lường những thảm họa thiên tai như hỏa hoạn và động đất.
Chúng ta vẫn luôn bắt gặp quan điểm quan trọng này với tư cách là một giả định cơ bản của tất cả các phương pháp phân tích kỹ thuật. Rõ ràng là quan điểm này tỏ ra đúng không chỉ đối với các chỉ số trung bình của thị trường mà còn đúng với hoạt động phân tích các cổ phiếu riêng rẽ cũng như bất cứ thị trường tài chính nào khác.
Thị trường có ba luồng vận động
Có ba luồng vận động của mức giá trung bình của thị trường, tất cả có thể diễn ra ngay lập tức và cùng một thời điểm.
Luồng vận động thứ nhất và cũng là quan trọng nhất, là xu hướng chính của thị trường: xu hướng vận động lên hoặc xuống với biện độ rộng được gọi là thị trường giá lên và thị trường giá xuống, và xu hướng này có thể tồn tại trong một vài năm.
Luồng vận động thứ hai, luồng vận động dễ gây hiểu lầm nhất, chính là luồng phản ánh điều chỉnh phụ của thị trường: một đợt giảm giá đáng kể trong một thị trường mà xu hướng là lên giá hoặc ngược lại trong một thị trường xuống giá. Thường thì những phản ứng như vậy kéo dài từ ba tuần đến nhiều tháng.
Luồng vận động thứ ba và thường là không quan trọng chính là sự biến động của giá theo ngày
Thị trường giá xuống
Thị trường giá lên
Luồng vận động chủ yếu :
Nói chung luồng vận động chủ yếu là xu hướng chính có biện độ rộng được biết đến với tên gọi thị trường bò và thị trường con gấu có thể kéo dài trong khoảng thời gian một vài tháng đến một vài năm. Hoạt động đầu cơ muốn thành công phụ thuộc rất nhiều vào việc xác định đúng hướng của luồng vận động này. Chưa có phương pháp nào dự báo được luồng vận động chủ yếu này của thị trường kéo dài trong bao lâu.
Thị trường bò là thị trường có xu hướng chủ yếu là đi lên có biên độ rộng, bị gián đoạn bời một xu hướng phụ có nướng ngược lạ và trung bình thường kéo dài lâu hơn hai tháng. Trong suốt quá trình này, giá cổ phiếu đi lên bởi vì nhu cầu mua của cả người đầu tư lẫn người đầu cơ khi điều kiện kinh doanh phát triển và hoạt động đầu cơ trở nên sôi động.
Thị trường gấu là thị trường có xu hướng chủ yếu là đi xuống có biên độ rộng, bị gián đoạn bởi xu hướng phụ đáng kể có xu hướng ngược lại. Nguyên nhân là do những điều kiện kinh doanh khó khăn và xu hướng này kéo dài cho đến khi giá cổ phiếu xuống đến mức thấp nhất.
Luồng vận động phụ
Luồng vận động phụ
Thị trường giá lên Thị trường giá xuống
Một sự phản ứng phụ của thị trường được hiểu là một sự đi xuống đáng kể của giá thị trường trên thị trường bò và ngược lại đi lên đáng kể trên thị trường gấu.
Luồng vận động phụ thường xuyên tồn tại từ ba tuần đến nhiều tháng ba
Trong suốt quá trình diễn ra xu hướng phụ nó khiếp giá lệch từ 33% đến 66% so với giá trong xu hướng chính tính đến thời điểm kết thúc lần điều chỉnh giá cuối cùng.
Những phản ứng điều chỉnh giá của thị trường hay những xu hướng phụ này thường khiến người ta hiểu lầm là xu hướng chính đã thay đổi, bởi vì rõ ràng là giai đoạn thứ nhất của thị trường lên giá luôn luôn trùng với một biến động vốn chỉ diễn ra như một xu hướng phụ trên thị trường xuống giá và xu hướng xuống giá này lại xuất hiện khi thị trường bò đã lên đến đỉnh của nó.
Luồng vận động hàng ngày
Theo lý thuyết, dao động giá từng ngày không đóng vai trò quan trọng trong việc xác định xu hướng của toàn bộ thị trường và cả Dow cho rằng đây là chỉ số có thể dẫn đến những nhận định sai lầm về thị trường và ông bỏ qua luồng vận động này. Cần phải nhớ rằng ông chỉ quan tâm đến luồng vận động chính và luồng vận động phụ của thị trường. Nhiều phương pháp phân tích kỹ thuật hiện đại có xu hướng quan tâm đến hoạt động giao dịch trong ngắn hạn và do đó tìm cách phân tích các dao động giá theo ngày.
Luồng vận động chính có ba giai đoạn phát triển
Trên lý thuyết thì luồng vận động chính có ba giai đoạn phát triển. Ba giai đoạn phát triển này chính là các phản ứng của thị trường mà chúng ta đang tìm hiểu thông qua việc nghiên cứu các đồ thị biểu diễn mức giá trung bình của thị trường. Nhưng không thể xác định chính xác được vì thời điểm khởi đầu và kết thúc của mỗi giai đoạn phát triển luôn giao thoa với nhau. Theo lý thuyết ba giai đoạn phát triển của luồng vận động chủ yếu có thể được biểu diễn dưới dạn đồ thị sau:
Thị trường giá lên
Thị trường giá xuống
Lấy lại tự tin
Tăng thu nhập
Đầu cơ
Từ bỏ hy vọng
Giảm thu nhập
Buộc phải bán
Ba giai đoạn phát triểu của xu hướng thị trường bò:
Giai đoạn đầu tiên cho thấy việc người đầu tư lấu lại niềm tin vào tương lai của thị trường.
Giai đoạn thứ hai là phản ứng của giá khi có thông tin về việc làm ăn có lăi của các công ty
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn khi hoạt động đầu cơ vượt ra khỏi vọng kiểm soát và lạm phát xảy ra – giai đoạn giá cổ phiếu tăng vì có sức kỳ vọng của người đầu tư.
Ba giai đoạn phát triển của xu hướng thị trường gấu:
Giai đoạn đầu tiên cho thấy việc người đàu tư không có kỳ vọng vào thị trường do các cổ phiếu được mua với giá bị thổi phồng.
Giai đoạn thứ hai phản ánh hoạt động bán do sự sụt giảm lợi nhuận trong kinh doanh của các công ty
Giai đoạn thứ ba diễn ra là do người ta không thể bán được các chứng khoán.
Dow tìm cách miêu tả hành vi thị trường được phản ánh qua các đồ thị biểu diễn mức giá trung bình của thị trường. Ông không coi đồ thị như là một công cụ không liên quan đến những rì đang diễn ra trên thị trường. Các ông quan tâm tới các đồ thị trên quan điểm chúng chỉ ra việc mức giá trung bình của thị trường đã phản ánh hành vi của các thành viên thị trường như thế nào trong các giai đoạn khác nhau của chu kỳ kinh doanh và sử dụng đồ thị để xác định vị trí của họ trong một chu kỳ kinh doanh. Ngày nay phân tích kỹ thuật không chỉ được xem xét cùng với chu kỳ kinh doanh mà còn được xem xét cùng với hoạt động giao dịch trong ngắn hạn. Tuy nhiên công dụng hiệu quả nhất của phân tích kỹ thuật là khi phân tích kỹ thuật được sử dụng để nhận diện hành vi của các thành viên thị trường, từ đó người ta có thể đề ra chiến lược giao dịch.
Để xác định giai đoạn đang diễn ra của thị trường, một vài dấu hiệu nhận biết
Chỉ số giá trên thu nhập trung bình của thị trường
Mức cổ tức trung bình của thị trường
Phản ứng của thị trường đối với các tin tức
Mức độ huy động vốn mới và mức độ phát hành lần đầu ra công chúng
Xu hướng hiển hiện của thị trường
Mức độ tham gia của công chúng vào thị trường
Mức độ quan tâm của các phương tiện truyền thông chính đối với thị trường
Số lượng nhân viên môi giới, các hoạt động củng cố hoặc phá sản và mối quan tâm đối với các khách hàng riêng
Mức độ hoạt động, tuyển dụng nhân lực, thua lỗ trong kinh doanh........
1.3.2. Các hạn chế của lý thuyết Dow
Các thị trường ngoài thị trường Mỹ
Hamilton và Rhea cho rằng lý thuyết Dow cũng có thể áp dụng để phân tích các thị trường khác nếu các thị trường này có các mức giá thích hợp trung bình như ở thị trường Mỹ. Trên thực tế chẳng thể tìm ra câu trả lời hợp lý cho câu hỏi tại sao lý thuyết Dow lại không sử dụng được ở các thị trường tương tự như ở thị trường Mỹ. Tuy nhiên, trong phạm vi bối cảnh của thị trường Úc, vẫn còn các vấn đề khác cần xem xét”
Thứ nhất các chỉ số ASX được cấu trúc khác với chỉ số trung bình thị trường của Mỹ. Chỉ số vận tải là một phần trong chỉ số công nghiệp. Do đó, sự biến động giá các cổ phiếu ngành vận tải ảnh hưởng đến chỉ số công nghiệp không như cách mà nó ảnh hưởng đến chỉ số trung bình thị trường ở Mỹ. Mặc dù người ta có thẻ nghĩ nhiều về điều này nhưng nó có vẻ cũng ko phải là một vấn đề lớn bởi vì ngành vận tải không có tỷ trọng lớn lắm trong toàn bộ thị trường.
Thứ hai, thị trường Úc có một ngành tài nguyên tương đối lớn và nên kinh tế có một ngành nông nghiệp cũng khá lớn mà ít được tính vào ASX. Cả hai ngành này đều có ảnh hưởng lớn đối với chu kỳ kinh doanh ở Úc trong khi lý thuyết Dow lại không tính đến ngành này. Tuy nhiên không hoàn toàn như thế. Nên nhớ rằng thị trường chứng khoán bao hàm cả thông tin và kỳ vọng. Bất kỳ ai giao dịch cổ phiế công nghiệp đều tính đến triển vọng của nền kinh tế nói chung, trong đó bao gồm vả ngành tài nguyên và nông nghiệp, khi họ xây dựng kỳ vọng của mình đối với cổ phiếu công nghiệp.
Các tín hiệu mà lý thuyết Dow đưa ra đều chậm so với diễn biến của thị tr._.ường.
Những người chỉ trích lý thuyết Dow vì lý thuyết này đưa ra các tín hiệu chậm khi chỉ ra một thực tế là lý thuyết Dow không phản ánh kịp các đỉnh và đáy thị trường. Những chỉ trích như vậy là không có cơ sở, bởi vì họ đã sai khi cho rằng lý thuyết Dow được xây dựng nhằm xác định đỉnh và đáy của các biến động giá, mà đối với thị trường, mà đối với thị trường đó là các dấu hiệu dự báo mang tính dẫn đường. Lý thuyết Dow không bao giờ có ý định trở thành một công cụ cho hoạt động phân tích đầu cơ, ngoài việc chỉ ra xu hướng vận động của thị trường, lý thuyết Dow còn đảm bảo tính thận trọng trong mỗi giao dịch cổ phiếu đơn lẻ ở mỗi xu hướng của thị trường.
Lý thuyết Dow không giúp gì được cho những nhà đầu tư theo các biến động trung gian
Họ là những người đầu tư trong ngắn hạn. Lý thuyết Dow hầu như không đưa ra (nếu có thì chỉ rất ít) những dấu hiệu về sự thay đổi trong các xu thế trung gian. Tuy nhiên nếu có thể có được những dấu hiệu này thì rõ ràng lợi nhuận sẽ cao hơn nhiều so với chỉ đầu tư theo những biến động của xu thế cấp 1. Một số nhà Kinh doanh chứng khoán đã dựa trên Lý thuyết Dow để đưa ra những nguyên lý phụ áp dụng cho các biến động trung gian. Nhưng nhìn chung chưa có một nguyên lý nào loại này họat động thực sự có hiệu quả. Lý thuyết Dow chỉ là mộ công cụ - một chiếc máy để khi ta đưa dữ liệu vào thì nó đưa ra những kết quả về xu thế cấp 1 - xu thế chính của thị trường. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi hầu hết các cổ phiếu trên thị trường đều vận động theo xu thế đó. Lý thuyết Dow không thể chỉ ra, không thể giúp bạn xác định nên mua hay bán loại cổ phiếu nào.
1.4. Các loại biểu đồ
Hiện nay trên Thị trường chứng khoán các chuyên viên phân tích dùng rất nhiều các loại biểu đồ khác nhau để phân tích, trong đó có 3 loại biểu đồ được dùng một cách phổ biến nhất đó là: biểu đồ dạng đường (Line chart), biểu đồ dạng then chắn (Bar chart), biểu đồ dạng ống (Candlestick chart).
1.4.1. Biểu đồ dạng đường (Line chart).
Dạng biểu đồ này từ trước tới nay thường được sử dụng trên Thị trường chứng khoán, và cũng là loại biểu đồ được dùng một cách phổ biến nhất trong các ngành khoa học khác dùng để mô phỏng các hiện tượng kinh tế và xã hội…và nó cũng là loại biểu đồ được con người dùng trong thời gian lâu dài nhất. Nhưng hiện nay trên Thị trường chứng khoán do khoa học kỹ thuật phát triển, diễn biến của Thị trường chứng khoán ngày càng phức tạp cho nên loại biểu đồ này ngày càng ít được sử dụng nhất là trên các Thị trường chứng khoán hiện đại. Hiện nay nó chủ yếu được sử dụng trên các Thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động trong thời gian ngắn, khớp lệnh theo phương pháp khớp lệnh định kỳ theo từng phiên hoặc nhiều lần trong một phiên nhưng mức độ giao dịch chưa thể đạt được như Thị trường chứng khoán dùng phương pháp khớp lệnh liên tục. Ưu điểm của loại biểu đồ này là dễ sử dụng, lý do chính là vì nó được sử dụng trên tất cả các Thị trường chứng khoán trên khắp thế giới từ trước tới nay. Hiện nay loại biểu đồ này ít được sử dụng để phân tích trên các Thị trường chứng khoán hiện đại vì các Thị trường chứng khoán hiện đại ngày nay thường diễn biến khá phức tạp, mức độ dao động trong thời gian ngắn với độ lệch khá cao, nếu dùng loại biểu đồ này để phân tích thì thường mang lại hiệu quả thấp trong phân tích.
Đồ thị này được xây dựng bằng cách đánh dấu giá trị biến số với khoảng thời gian mà biểu đồ liên quan và nối tất cả các điểm lại với nhau thành một đường.
Ví dụ về dạng biểu đồ dạng đường (line chart):
Đồ thị 1: Biến động VNIndex (tính đến ngày 18/01/2007)
(Nguồn: bsc.com.vn)
Hiện nay trên các Thị trường chứng khoán hiện đại đang dùng một số loại biểu đồ trong Phân tích kỹ thuật mang lại hiệu quả cao đó là Bar chart và Candlestick chart.
1.4.2. Biểu đồ dạng then chắn (Bar chart)
Ví dụ về dạng biểu đồ dạng then chắn (Bar chart):
Đồ thị 2: Biến động của cổ phiếu General Electric
Trên các Thị trường chứng khoán hiện đại trên thế giới hiện nay các chuyên viên phân tích thường dùng loại biểu đồ này trong phân tích là chủ yếu lý do chính vì tính ưu việt của nó đó là sự phản ánh rõ nét sự biến động của giá chứng khoán.
Hai kí tự mà dạng biểu đồ này sử dụng đó là:
Giá mở cửa.
Giữa các phiên giao dịch trên thị trường, các thành viên thị trường có thời gian để xem xét điều gì xảy ra trong phiên giao dịch trước đó và phân loại bất kỳ tin tức nào được phát ra sau khi đóng cửa phiên giao dịch cuối cùng. Công chúng sẽ chỉ nhận biết thông tin về giá đóng cửa và họ chỉ có những ứng xử mua bán dựa trên mức giá đóng cửa và bất kỳ tin trức nào họ có được bằng cách đặt lệnh trước khi mở cửa thị trường. Do đó, giá mở cửa có xu hướng phản ánh quan điểm của công chúng với những gì xảy ra trên thị trường theo cảm tính. Các nhà chuyên nghiệp không giao dịch tại thời điểm mở cửa nhưng họ cũng có những động thái phản ứng với mức giá mở cửa của thị trường. Giá mở cửa thường ở mức cận trên hoặc cận dưới trong ngày.
Giá đóng cửa
Giá đóng cửa là giá được theo dõi nhiều nhất và là giá quan trọng nhất trong ngày giao dịch. Giá này có chiều hướng là giá duy nhất được công chúng quan tâm theo dõi. Đây cũng là giá mà theo đó các nhà chuyên nghiệp kiếm thêm lợi nhuận hơn là duy trì chúng qua đêm. Giá đóng cửa cũng được dùng để đánh giá số dư của các tài khoản kinh doanh chứng khoán nhằm tính toán lợi nhuận và có chiều hướng là động lực cho các hệ thống giao dịch. Vì vậy giá đóng cửa cho ta thấy mức giá tại đó mà trận chiến thường nhật giữa người mua và người bán đã được giải quyết.
Mức giá cận trên
Giá cận trên phản ánh sức mua tối đa của những người mua trong ngày. Ít nhất nó biểu thị mức giá ngắn hạn tại đó mức cung cao hơn mức cầu và người bán nhiều hơn người mua. Trường hợp ngoại lệ duy nhất ở đây là khi thị trường đóng cửa tại mức giá cận trên – trong trường hợp này, người mua vẫn trong tình trạng chi phối thị trường khi thị trường đóng cửa.
Mức giá cận dưới
Giá cận dưới phản ánh ức bán tối đa của người bán trong ngày. Ít nhất nó phản ánh ức giá ngắn hạn mà tại đó cầu vượt cung và người mua nhiều hơn người bán. Trường hợp ngoại lệ duy nhất ở đây là khi thị trường đóng cửa mức giá cận dưới – trong trường hợp này người bán vẫn trong tình trạng chi phối thị trường khi thị trường đóng cửa.
1.4.3. Biểu đồ dạng ống (Candlestick chart)
Ví dụ về dạng biểu đồ dạng ống (Candlestick chart):
Đồ thị 3: Biến đông giá của YAHOO, 18/1/2007
(nguồn:
Hai kí tự mà loại biểu đồ này sử dụng là:
Phần rộng nhất của một “cây nến” gọi là “thân” của nến. Phần này mô tả thể hiện khoảng cách giữa giá mở cửa và giá đóng cửa của phiên. Nếu giá đóng cửa cao hơn giá mở cửa, phần thân có màu xanh, ngược lại sẽ có màu đỏ. Phần đường thẳng “mỏng” phía trên và phía dưới gọi là “bóng” – thể hiện các mức giá cực điểm của phiên: cao nhất và thấp nhất. Rõ ràng nhứng mức giá này có thể nhưng không nhất thiết phải là giá đóng cửa hay giá mở cừa của phiên. Người ta đặt tên nó là biểu đồ nến bởi phần thân với phần đường thẳng giá cực điểm cho ta hình ảnh cây nến và phần bấc để đốt cháy của nó.
Với dạng biểu đồ này, giá đóng cửa trùng với giá mở cửa, do đó mà ta sẽ hầu như không thấy thân nến mà chỉ thấy bấc nến. ở đây cũng sẽ có trường hợp giá mở cửa bằng giá đóng cửa và bằng giá thấp nhất hoặc cao nhất trong ngày.
1.5. Xu thế, Đường xu thế, Kênh
Xu thế gồm có cả xu thế giá tăng và xu thế giá giảm. Xu thế giá tăng gồm liên tiếp những đỉnh giá cao dần và đáy giá cao dần (đỉnh trước cao hơn đỉnh sau và đáy trước cao hơn đáy sau). Một xu thế giá tăng sẽ được coi là vẫn duy trì cho đến khi xuất hiện một đáy mới thấp hơn đáy trước nó. Ngược lại xu thế giá giảm cũng sẽ được coi là vẫn đang tiếp diễn cho đến khi xuất hiện một đỉnh mới cao hơn đỉnh trước nó.
1.5.1. Đường xu thế
Xu thế giá tăng và xu thế giá giảm cũng được nghiên cứu dưới dạng các đường xu thế. Với xu thế giá tăng ta có đường xu thế giá tăng, đây là đường nối các điểm đáy cao dần lên và đường xu thế giảm là đường nối các đỉnh thấp dần. Đường xu thế có thể kéo dài thậm chí nhiều năm. Qui trình vẽ một đường xu thế khá đơn giản nhưng cũng rất dễ nhầm. Điều căn bản là phải có những dấu hiệu chắc chắn về sự xuất hiện một xu thế giá. Khi muốn vẽ một xu thế giá tăng ta phải có ít nhất hai điểm đáy mà đáy sau cao hơn đáy trước. Tất nhiên điều kiện cần và đủ để có thể vẽ được một đường thẳng là phải có hai điểm, tuy nhiên người ta thường đợi cho đến khi xuất hiện một đáy thứ ba cao hơn hai đáy trước và đường xu thế đi qua cả 3 đáy (một cách tương đối). Điều này có nghĩa là đường xu thế có thể không đi qua đáy thứ ba mà chỉ đi sát, nhìn chung như thế là đạt yêu cầu. Nhưng một đường xu thế đi qua cả đáy bao giờ cũng được coi là một đường xu thế chính xác và có độ tin cậy cao.
Khi một đường xu thế đã được xác nhận về độ chính xác thì nó sẽ trở nên rất hữu ích bởi tính chính xác ấy đảm bảo chắc chắn hướng chuyển động ổn định của giá. Với xu thế giá tăng, sau mỗi đợt tăng biến động điều chỉnh xuất hiện sẽ kéo giá xuống sát hoặc đến đúng đường xu thế những sẽ không xuống thấp hơn nếu xu thế thị trường vẫn đang ổn định. Đường xu thế lúc này là biên thấp nhất của dao động giá. Tương tự, với thị trường đang có xu thế giá giảm thì đường xu thế sẽ là biên cao nhất cho mọi dao động giá. Như thế, các đường xu thế chính xác của thị trường sẽ là các biên dao động cơ sở để xác định mức giá mua và bán tối đa và tối thiểu hợp lý.
Nếu chuyển động của đồ thị vượt lên đường xu thế giảm hoặc xuống dưới đường xu thế giá tăng thì đây là dấu hiệu, có thể nói là sớm nhất, cho sự thay đổi trong xu thế thị trường.
1.5.2. Kênh
Kênh là khoảng giao động của giá, nếu giá sẽ dao động trong một dải thì dải đó gọi là kênh. Dải dao động đó được xác định bởi hai đường biên là đường xu thế và đường kênh (channel line), hai đường này song song với nhau. Vấn đề là làm sao có thể xác định được hai đường này.
Sau khi đã xác định được đường xu thế như trên, giả sử với xu thế giá tăng, ta vẽ đường kênh là một đường song song với đường xu thế và đi qua đỉnh giá rõ nhất đầu tiên. Nếu ở lần tăng giá tiếp theo giá tăng đến gần hoặc chạm vào đường kênh rồi lại giảm xuống đến gần đường xu thế thì khả năng có thể tồn tại một kênh dao động của giá. Với xu thế giá giảm việc vẽ và xác định kênh là hoàn toàn tương tự, tất nhiên là theo hướng ngược lại.
Mỗi lần giá chạm vào hoặc đến gần đường kênh rồi quay trở lại xuống đến đường xu thế là một lần kênh được kiểm tra thành công. Kênh tồn tại càng lâu với càng nhiều lần thử thành công thì vai trò cũng như độ tin cậy của nó càng lớn. Kênh có thể sử dụng cho kiếm lời trong ngắn hạn và thậm chí một số nhà đầu tư táo bạo còn sử dụng đường kênh để tiến hành những giao dịch ngược hướng với xu thế thị trường nhằm tìm kiếm những khoản lợi lớn hơn cho dù giao dịch ngược hướng thị trường có thể là một chiến thuật nguy hiểm và phải trả giá đắt.
Khi chuyển động của giá trên thị trường phá vỡ đường xu thế thì có thể gây ra sự đảo chiều của xu thế thị trường, nhưng nếu đường kênh bị chuyển động của giá phá vỡ (khi giá vượt ra ngoài đường kênh) thì tác động lại hoàn toàn ngược lại: đây là dấu hiệu cho sự gia tăng sức mạnh của xu thế hiện tại, thậm chí một số nhà đầu tư tin tưởng rằng việc giá chuyển động làm mất đi đường kênh sẽ xác nhận cho một xu thế ổn định trong thời gian dài và là cơ hội cho những nhà đầu tư thực hiện những hợp đồng dài hạn.
Ngược lại, khi giá không lên được đến đường kênh mà quay ngược trở lại quá sớm thì đây lại là dấu hiệu dự báo sớm sự suy giảm của xu thế hiện tại và là dấu hiệu cho thấy có thể chuyển động của giá sẽ phá vỡ đường xu thế.
Nói chung việc chuyển động của giá không thể đạt đến sát một trong hai đường biên của kênh có thể là một dấu hiệu sớm cho thấy xu thế giá có thể thay đổi và khả năng chuyển động của giá có khả năng sẽ phá vỡ đường biên còn lại của kênh. Với xu thế giá tăng, có thể có hai trường hợp (trong các hình vẽ ở hai trường hợp này ta giả định ban đầu kênh đang có xu thế hướng lên- xu thế tăng giá, hoàn toàn tương tự nếu muốn xem xét đối với xu thế giá giảm).
Nếu chuyển động của giá vượt qua đường kênh một khoảng lớn thì đây là dấu hiệu cho thấy xu thế lên giá đang mạnh lên, thường ta sẽ phải vẽ một đường xu thế mới dốc hơn từ điểm đáy cuối cùng song song với đường kênh mới. Thực tế cho thấy đường xu thế mới này hoạt động tốt hơn đường cũ.
Nếu giá không đạt được đến đường kênh và chuyển động phá vỡ đường xu thế thì điều này chỉ ra rằng xu thế thị trường đổi ch iều thành xu thế giá giảm. Hai đỉnh mới xuất hiện (đỉnh 5 và 7) sẽ là cơ sở để vẽ đường xu thế giá giảm, tương tự ta sẽ vẽ đường kênh song song đường xu thế và đi qua đáy 4. Chú ý là ở đây có sự đổi vai trò đường xu thế ban đầu trở thành đường kênh và ngược lại.
Ngoài ra kênh và các đường kênh còn mang một ý nghĩa khác: Khi giá chuyển động phá vỡ xu thế hiện tại - xuất hiện ‘breakout’ từ kênh hiện tại, giá thường sẽ chuyển động một khoảng bằng với độ rộng của kênh đó.
Như thế, để xác định điểm dừng của chuyển động này ta có thể tính tương đối chính xác bằng cách đo độ rộng của kênh vừa bị phá vỡ và dự kiến điểm dừng từ điểm giá vượt ra ngoài kênh (Tuy nhiên cần luôn luôn lưu ý rằng trong hai đường biên của kênh thì đường xu thế luôn có vai trò quan trọng và đáng tin cậy hơn, đường kênh chỉ là một công cụ kĩ thuật xuất phát từ đường xu thế).
1.6. Mức hoàn lại - Khung giao dịch - Hỗ trợ và Kháng cự
1.6.1. Mức hoàn lại.
Trong bất kì một đồ thị nào ta đều thấy sau một giai đoạn giá chuyển động theo xu thế của thị trường thì giá sẽ hoàn lại một chút trước khi quay trở lại chuyển động theo xu thế cũ. Những chuyển động ngược xu thế này thường có độ lớn ở vào những khoản có thể dự đoán được và được gọi là mức hoàn lại. Mức hoàn lại trung bình thường gặp nhất là 50%. Bên cạnh đó còn có các mức hoàn lại thường thấy khác đó là các mức 1/3 và 2/3. Nói cách khác, nếu chia một xu thế giá thành ba phần thì nói mức hoàn lại thấp nhất là 33% và cao nhất là 66% có nghĩa là ở giai đoạn điều chỉnh của xu thế đó giá sẽ hoàn lại ít nhất 1/3 mức tăng (hay giảm) mà nó đạt được trong xu thế trước đó và mức hoàn lại đó không vượt quá 2/3 mức tăng (hay giảm) trước đó đạt được. Nếu mức hoàn lại cao hơn thì khả năng sẽ xảy ra sự đảo chiều thị trường tức là giá sẽ chuyển động theo xu thế đảo ngược xu thế trước mà không quay lại chuyển động theo xu thế đó.
1.6.2. Khung Giao Dịch.
Thị trường có thể ở một trong 3 xu thế là xu thế tăng, xu thế giảm và xu thế dao động ngang. Nhiều người cho rằng thị trường chỉ có thể tăng hoặc giảm, nhưng thực tế có đến 1/3 thời gian giá chuyển động theo một hình mẫu dạng ‘phẳng’ nằm ngang gọi là khung giao dịch. Khung giao dịch là một dải nằm ngang trên đồ thị trong đó bao gồm các dao động của giá trong một giai đoạn dài. Nói chung hầu hết các biến động của thị trường sẽ diễn ra bên trong khung giao dịch. Tuy nhiên khi thị trường có biến động dạng khung giao dịch thì lại rất khó kiếm được lợi nhuận. Khung giao dịch phản ánh thời kỳ mà áp lực cung cầu là tương đối cân bằng và giá duy trì ở mức cân bằng thị trường. Đôi khi người ta còn gọi thời kỳ mà giá biến động theo khung giao dịch là thời kỳ không có xu thế thị trường. Hầu hết các công cụ kinh tế đều được tạo ra để có thể áp dụng vào các thị trường có xu thế tăng hoặc giảm rõ rệt còn khi thị trường ở dang không có xu thế rõ rệt thì các công cụ này nhìn chung hoạt động kém hiệu quả, thậm chí là không thể áp dụng. Đây cũng chính là thời kỳ gây khó chịu nhất cho những người đi theo Phân tích kỹ thuật và gây ra nhiều lỗ nhất. Trong những tình huống ấy nhà đầu tư luôn phải đối mặt với một trong ba quyết định là mua, bán hay đứng ngoài không tham gia vào thị trường và thông thường thì quyết định không tham gia vào thị trường luôn là quyết định sáng suốt nhất.
Thực tế cũng có một số phương pháp có thể áp dụng để kiếm lời khi thị trường xuất hiện dạng khung giao dịch, chẳng hạn như sử dụng các chỉ số dao động thị trường (Oscillators) mà ta sẽ nghiên cứu ở phần sau. Nhìn chung rất khó có thể dự đoán sự xuất hiện trong tương lai của mô hình khung giao dịch. Mô hình này cũng có thể kéo dài trong nhiều tháng, một năm hay nhiều năm. Cũng giống như kênh, khung giao dịch cũng có các đường biên bên trên và bên dưới, đây chính là các đường kháng cự và hỗ trợ của khung (ta sẽ nghiên cứu về kháng cự và hỗ trợ ở phần sau). Những “sự phá vỡ” (break out) ra ngoài khung có thể là các dấu hiệu quan trọng để tiến hành các giao dịch. Tuy nhiên cũng cần lưu ý bởi giá cũng thường dao động vượt ra ngoài khung nhưng chỉ với một lượng nhỏ, sau đó quay trở lại bên trong khung. Đôi khi nguyên nhân của hiện tượng này là do những lệnh dừng mà nhà đầu tư đã đặt và những lệnh này tác động đến những vùng giá nằm ngoài khung. Khi những lệnh này kết thúc thì giá sẽ trở lại dao động bên trong khung giao dịch nếu không có những lý do liên quan đến những yếu tố tài chính cơ bản hay có sự xuất hiện khối lượng giao dịch lớn duy trì sự vượt ra ấy. Nhìn chung nhà đầu tư không nên đi theo ngay những “breakout” mới xuất hiện mà nên chờ thêm một dao động tiếp theo xác nhận “breakout” này cho dù điều này có thể làm chậm lại một chút nhưng sẽ tránh được rất nhiều dấu hiệu sai và tránh được những khoản lỗ.
1.6.3. Hỗ trợ và kháng cự
Việc nghiên cứu về mức hỗ trợ và kháng cự là một trong những vấn đề khá quan trọng đối với Phân tích kỹ thuật. Nó cho phép người nghiên cứu có thêm những cơ sở mới trong việc chọn các loại cổ phiếu để mua hay bán, trong dự đoán các biến động tiềm năng, trong việc chỉ ra những thời điểm mà thị trường có thể gây ra rắc rối cho nhà đầu tư. Trên thực tế, nhiều nhà đầu tư có kinh nghiệm đã xây dựng cho họ một “hệ thống đầu tư” riêng dựa hầu hết vào những nguyên lý về mức kháng cự và hỗ trợ. Việc nghiên cứu về mức kháng cự và hỗ trợ một cách đầy đủ cần rất nhiều thời gian và cần thêm nhiều yếu tố khác, người viết chỉ xin đưa ra một số khía cạnh cơ bản nhất với mục đích đưa ra cơ sở lý thuyết cơ bản nhất về khái niệm quan trọng này của Phân tích kỹ thuật.
Mức kháng cự và hỗ trợ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu phân tích các hình mẫu kỹ thuật. Những kiến thức cơ bản về mức kháng cự và hỗ trợ sẽ giúp người nghiên cứu dễ dàng hiểu bản chất và các ứng dụng của các hình mẫu đó.
Mức hỗ trợ thường được dùng khá thông dụng. Trên thị trường phố Wall, bạn có thể nghe thấy việc một nhóm nhà đầu tư luôn sẵn sàng hỗ trợ thị trường bằng cách mua tất cả các chứng khoán chào bán nếu giá giảm 5 điểm. Vậy mức hỗ trợ là gì? Ta có thể định nghĩa mức hỗ trợ là việc mua thực tế hay khả năng mua với khối lượng đủ để làm ngưng lại xu thế giảm của giá trong một thời kỳ đáng kể (tương đối dài). Mức kháng cự lại ngược lại với mức hỗ trợ: đó là việc bán, trong thực tế hay tiềm năng, một khối lượng đủ để thoả mãn tất cả các mức chào mua, do đó, làm giá ngừng không tăng nữa trong một khoảng thời gian nhất định. Như thế mức kháng cự và hỗ trợ là gần giống theo thứ tự với khối lượng cầu và khối lượng cung. Mức hỗ trợ là mức giá ở đó mức cầu cho một cổ phiếu là đủ để, ít nhất là, làm dừng xu thế giảm giá của thị trường và cũng có thể đổi chiều xu thế đó, tức là làm xu thế giá đi xuống quay ngược đi lên. Từ đó ta có định nghĩa về mức kháng cự, đó là mức giá mà ở đó lượng cung đủ để giá sẽ ngừng không tăng nữa và có thể chuyển động ngược lại đi xuống. Theo lý thuyết thì mỗi mức giá có một lượng cung và cầu nhất định. Nhưng khoản hỗ trợ thể hiện sự tập trung của cầu còn khoảng kháng cự thể hiện sự tập trung của cung. Như vậy với một hình mẫu giá nhất định, chẳng hạn ta xét với hình mẫu dạng hình chữ nhật (mô hình này phản ánh giai đoạn thị trường gồm rất nhiều những dao động nhỏ của giá theo hướng ngang đồ thị chứ không hướng lên hay hướng xuống rõ rệt, hai đường nối các đỉnh và các đáy của thị trường trong giai đoạn này gần như song song, không cần thiết phải song song 100% nhưng độ lệch phải rất nhỏ, hay có thể nói là một dạng của khung giao dịch), đường nối các đỉnh có thể coi là mức kháng cự, còn đường nối các đáy được coi là mức hỗ trợ.
Nhìn chung trong giai đoạn hai mức này còn phát huy hiệu lực thì giá sẽ không vượt quá mức kháng cự và không xuống dưới mức hỗ trợ. Nhưng với tư cách một nhà đầu tư ta sẽ quan tâm hơn đến việc xác định tại sao và yếu tố nào làm xuất hiện các mức kháng cự và hỗ trợ ở một mức giá nhất định. Các chuyên gia còn tập trung nghiên cứu thời điểm giá lên đạt đến mức kháng cự và khi nào giá xuống đến mức hỗ trợ.
Cơ sở của những dự đoán này cũng là những dữ liệu cơ bản hình thành nên lý thuyết về hỗ trợ và kháng cự, đó là khi giá trị giao dịch có xu hướng bị tập trung tại một số mức giá có khối lượng các cổ phiếu được giao dịch lớn. Điều đáng chú ý là tại bất kì mức giá nào xuất hiện mức khối lượng giao dịch lớn thường đều trở thành điểm đảo chiều đối với xu thế hiện tại của thị trường và mọi điểm đảo chiều đều có xu hướng lặp đi lặp lại thường xuyên và hoàn toàn mang tính tự nhiên. Có một thực tế quan trọng mà nhiều khi một số người quan sát và phân tích biểu đồ một cách ngẫu nhiên không nhận ra đó là: những mức giá đó đang dần dần chuyển vai trò từ hỗ trợ thành kháng cự và ngược lại từ kháng cự thành hỗ trợ. Nếu như biến động của giá vượt qua một đỉnh giá đã được hình thành trước đó thì đỉnh này sẽ đóng vai trò là khoảng đáy của xu thế giảm giá (điều chỉnh) sẽ xuất hiện sau xu thế tăng hiện tại và một đáy sau khi đã bị giá vượt xuống dưới sẽ trở thành khoảng đỉnh của xu thế tăng sẽ xuất hiện ngay sau đó.
1.7. Các hình mẫu trong phân tích kỹ thuật
1.7.1. Các hình mẫu kỹ thuật đảo chiều xu hướng thị trường
Double bottom (Mô hình hai đáy)
Mô hình hai đáy hình thành khi giá tạo thành hai điểm đáy liên tiếp trên cùng một đồ thị. Mô hình này chỉ hoàn thiện khi giá tăng vượt qua điểm bắt đầu hình thành đáy thứ hai (tức là vượt qua đường Neckline sau khi đã chạm đến đáy thứ hai). Mô hình hai đáy là thời kỳ chuyển đổi xu thế giảm giá thành xu thế tăng giá, nó mang tính đảo chiều. Có điều là mô hình này tương đối dễ nhận ra nên cũng rất dễ nhầm do đó nhà đầu tư nên cẩn thận khi quyết định tham gia trong thời kỳ này. Thực tế thống kê cho thấy nếu nhà đầu tư nóng vội tham gia ngay từ đầu thì xác xuất thất bại là 64% còn nếu họ cố gắng đợi đến khi xuất hiện "breakout" (đảo chiều) thật sự thì xác xuất thất bại chỉ còn 3%.
Để có thể nhận diện chính xác mô hình, nhà đầu tư nên chú ý đến một số vấn đề: đáy thứ hai không nên xuống vượt quá đáy thứ nhất; khoảng thời gian giữa hai đáy cũng là một dấu hiệu quan trọng-thời gian càng dài thì độ chính xác càng cao-ít nhất phải là một tháng và có thể kéo dài nhiều tháng.
Trong mô hình hay đáy khi hình thành đáy thứ nhất khối lượng giao dịch tăng, khi hình thành đáy thứ hai thì khối lượng giảm đi và khối lượng giao dịch tăng lên khi thị trường đi qua mức giá nằm giữa hai đáy đó.
Chiến lược kinh doanh đối với hình mẫu này.
Đóng các vị thế bán hoặc thực hiện các vị thế mua vào thời điểm thị trường trượt qua ngưỡng cận trên tại đỉnh nằm giữa hai đáy, đặt lệnh dừng để tránh thiệt hại với mức giá ngay dưới mức cận dưới thấp nhất của hai đáy. Thực hiện giao dịch mua tại điểm đảo chiều của thị trường hoặc dấu hiệu đảo chiều tương tự nếu giá cả quay lại ngưỡng cận trên bị phá vỡ, đặt lệnh dừng để tránh thiệt hại tại mức giá ngay dưới điểm ngưỡng cận trên bị phát vỡ.
Double top (Mô hình hai đỉnh)
Mô hình hai đỉnh hình thành khi đường biểu diễn sự biến động của giá chứng khoán hình thành hai đỉnh trên biểu đồ. Mô hình này chỉ hoàn thiện khi giá chứng khoán rơi xuống dưới mức sàn đáy (điểm dưới cùng của đáy) của toàn mô hình. Mô hình hai dỉnh là mô hình thể hiện sự đảo ngược của xu hướng tăng giá chứng khoán – nó đánh dấu quá trình chuẩn bị cho xu hướng đi xuống của xu hướng tăng giá trong hiện tại (nó báo hiệu cho một thị trường giảm giá). Vì đây là mô hình rất hay thường gặp và rất dễ nhận ra nên khi nhận định về thị trường chúng ta nên xem xét một cách cẩn then. Bolkowski ước tính mức thất bại của mô hình này là 65% nếu nhà đầu tư đợi đến mức đột biến giá (Breakout) mới tiến hành giao dịch thì mức rủi ro giảm xuống còn 17%.
Trong mô hình hai đỉnh khi hình thành đỉnh thứ nhất khối lượng giao dịch tăng, khi hình thành đỉnh thứ hai thì khối lượng giảm đi và khối lượng giao dịch tăng lên khi thị trường đi qua mức giá nằm giữa hai đỉnh đó.
Chiến lược kinh doanh đối với hình mẫu này.
Đóng các vị thế mua hoặc thực hiện các vị thế bán vào thời điểm thị trường trượt qua ngưỡng cận trên tại đáy nằm giữa hai đỉnh, đặt lệnh dừng để tránh thiệt hại với mức giá ngay dưới mức cận trên cao nhất của hai đỉnh. Thực hiện giao dịch bán tại điểm đảo chiều của thị trường hoặc dấu hiệu đảo chiều tương tự nếu giá cả quay lại ngưỡng cận dưới bị phá vỡ, đặt lệnh dừng để tránh thiệt hại tại mức giá ngay dưới điểm ngưỡng cận dưới bị phát vỡ.
Falling wedge (Mô hình cái nêm hướng xuống):
Mô hình Falling wedge là một hình mẫu kỹ thuật dạng bullish (chỉ báo thị trường tăng giá), mô hình bắt đầu thì biên khoảng cách giữa hai đường xu thế rộng sau đó độ rộng giảm dần khi giá chứng khoán giảm. Sự biến động của giá hình thành một hình chóp nón hướng xuống dưới do các đỉnh và đáy dần hội tụ. Hình mẫu kỹ thuật Falling wedge trượt hướng xuống phía dưới và có dấu hiệu bullish (chỉ báo thị trường tăng giá), tuy nhiên dấu hiệu bullish (chỉ báo thị trường tăng giá) này sẽ không thể được nhận ra cho đến khi có "breakout" (đảo chiều xu thế ) khỏi đường kháng cự. Khi mô hình mang tính continuation (tiếp tục xu thế của thị trường), thì Falling wedge vẫn sẽ hướng xuống dưới và xu hướng này ngược với xu thế của thị trường hiện tại. Khi nó mang tính reversal (đảo ngược với xu thế của thị trường), thì Falling wedge hướng trượt xuống dưới cùng với xu thế của thị trường. Nhưng cho dù Falling wedge thuộc loại nào thì nó vẫn là hình mẫu kỹ thuật báo hiệu sự tăng giá!
Head and shoulders top (hình mẫu kỹ thuật đỉnh đầu vai)
Đỉnh đầu vai là một hình mẫu kỹ thuật hết sức phổ biến đối với những nhà đầu tư vì nó là một hình mẫu kỹ thuật đáng tin cậy nhất trong tất cả những hình mẫu kỹ thuật được trình bày trong đề tài nghiên cứu này, đồng thời nó cũng thường được nhận ra một cách dễ dàng. Những nhà phân tích kỹ thuật ít kinh nghiệm thường mắc lỗi đối với hình mẫu kỹ thuật này vì họ nhận thấy nó xuất hiện khá phổ biến trên biểu đồ. Những nhà phân tích kỹ thuật chuyên nghiệp thường nhận biết hình mẫu kỹ thuật này thông qua những biến cố thực sự. Đỉnh đầu vai là loại hình mẫu kỹ thuật đảo ngược xu thế của thị trường. Nó là dấu hiệu quan trọng đánh dấu sự đảo chiều của xu thế biến động giá chứng khoán từ xu thế tăng giá chuyển thành xu thế giảm giá.
Hình mẫu kỹ thuật đỉnh đầu vai thực ra là sự mô phỏng theo hình dáng đầu và hai vai của con người, hình mẫu gồm ba đỉnh cao nhọn được tạo bởi ba điểm khôi phục - tăng giá trở lại sau khi giá giảm trong sự biến động của giá chứng khoán. Đỉnh đầu tiên – vai trái – xuấn hiện khi giá chứng khoán tăng đạt tới đỉnh của nó và sau đó giảm xuống. Đỉnh thứ hai – cái đầu- xảy ra khi giá chứng khoán tăng lên đến một đỉnh cao mới cao hơn đỉnh của vai trái rồi sau đó lại giảm xuống. Đỉnh thứ ba – vai phải – xuất hiện khi giá chứng khoán tăng một lần nữa nhưng không cao bằng đỉnh thứ hai, rồi lại giảm xuống sau khi đã đạt được đỉnh của nó. Đỉnh của hai “vai” chắc chắn sẽ thấp hơn đỉnh của “đầu”. Trong mô hình phân tích cổ điển thì hai đỉnh của hai vai phải cân bằng với nhau nhưng điều quan trọng nhất quyết định của mô hình này đó chính là đường nối hai đáy của hai vai gọi là đường “vòng cổ” – neckline – mô hình sẽ bị phá vỡ khi đường vòng cổ bị xuyên chéo bởi giá chứng khoán và giá chứng khoán tiếp tục giảm xuống dưới đường “vòng cổ” – neckline – các chuyên viên Phân tích kỹ thuật cho rằng mô hình không được khẳng định là đúng cho tới khi giá chứng khoán giảm xuống dưới đường “vòng cổ” – neckline.
Những dấu hiệu về khối lượng giao dịch
Khối lượng giao dịch ngày càng lớn trong suốt quá trình hình thành đỉnh đầu tiên
Khối lượng giao dịch thu hẹp vào thời điểm thị trường điều chỉnh giá xuống mức thấp hơn sau đỉnh đầu tiên.
Khối lượng giao dịch mở rộng trong quá trình hình thành đỉnh cao nhất, nhưng thường không lớn bằng khối lượng giao dịch khi thị trường tiến đến “vai trái” trước đó.
Khối lượng giao dịch thu hẹp khi thị trường lại điều chỉnh xuống mức giá thấp hơn sau khi đã lên đến đỉnh “đầu”
Khối lượng giao dịch trong quá trình hình thành đỉnh thấp hơn tiếp theo đó giảm nhẹ và ít hơn khối lượng giao dịch tại đỉnh “đầu”
Chiến lược kinh doanh
Đóng các vị thế mua hoặc thực hiện các vị thế bán vào đúng thời điểm thị trường vượt qua “chân cổ”, đồng thời với việc sử dụng lệnh chống thiệt hại để thực hiện giao dịch bán với mức giá ngay trên đỉnh “vai phải”. Thực hiện giao dịch bán ngay khi đợt tăng giá kế tiếp điểm trượt qua đường “chân cổ” tạo ra một điểm đổi chiều hoặc một dấu hiệu đổi chiều phía dưới “chân cổ”. Giao dịch với lệnh chống thiệt hại cần được thực hiện với mức giá ngay trên “chân cổ”.
Triple bottom (hình mẫu kỹ thuật ba đáy)
Mô hình ba đáy được hình thành bởi ba đáy phụ riêng biệt với mức xấp xỉ bằng nhau. Mô hình ba đáy được xem như là mô hình cải tiến của mô hình đỉnh đầu vai ngược, mô hình ba đáy là hình mẫu dạng đảo ngược xu thế biến động của thị trường. Thứ duy nhất để phân biệt giữa mô hình ba đáy và mô hình đỉnh đầu vai ngược đó chính là đỉnh - “đầu” – nằm giữa hai “vai”. Mô hình ba đáy biểu diễn xu thế giảm xút trong quá trình nó trở thành một xu thế tăng giá. như vậy nó chỉ còn hợp lệ khi nó vẫn trong quá trình giảm xút so với hai đỉnh ở giữa hay là nó chưa đi xuyên chéo qua đường vòng cổ – neckline – vượt qua mức kháng cự của mô hình. Bởi vì hình mẫu kỹ thuật này rất dễ nhầm lẫn với nhiều hình mẫu kỹ thuật khác cho nên cach chuyên viên phân tích khuyên rằng để ứng dụng mô hình này một cách có hiệu quả cao nhất trong quá trình đầu tư, chúng ta nên chờ đợi một dấu hiệu "breakout" một cách rõ ràng thông qua sự xuyên chéo của đường biểu diễn giá chứng khoán với đường kháng cự của mô hình – neckline – trước khi nhận định đây có phải thực sự là hình mẫu kỹ thuật dạng “ba đáy” hay không
Dấu hiệu về khối lượng giao dịch
Khối lượng giao dịch trong quá trình hình thành đáy thứ 2 tăng ít hơn khố._. trung vào những ngày mà khối lượng tăng so với ngày hôm trước. Giả thuyết là tâm lý đám đông đang chiếm vị trí vào những ngày khi mà khối lượng tăng.
Diễn giải
Sự diễn giải của PVI cho rằng vào những ngày khi mà khối lượng tăng, những nhà đầu tư không có thông tin đầy đủ và theo tâm lý đám đông. Một cách trái ngược, vào những ngày cùng với khối lượng giảm, lượng tiền thông minh đang lặng lẽ đổ vào. Do vậy, PVI diễn tả những đồng tiền không thông minh lắm đang làm gì. Ghi chú, tuy vậy PVI không phải là một chỉ số trái ngược. Mặc dù PVI đươc cho rằng miêu tả những đồng tiền không thông minh, nó vẫn có xu hướng cùng với xu hướng của giá.
Bảng dưới đây tóm tắt dữ liệu của PVI và NVI từ năm 1941 đến năm 1975….
Table 11
Indicator
Indicator Relative to One-Year Moving Average
Probability that Bull market is in Progress
Probability that Bear market is in Progress
NVI
Above
96%
4%
PVI
Above
79%
21%
NVI
Below
47%
53%
PVI
Below
33%
67%
Như các bạn có thể thấy, NVI xuất sắc trong việc nhận dạng thị trường mạnh(nghĩa là khi NVI ở phía trên trung bình động ) và PVI khá tốt trông việc nhận dạng thị trường mạnh ( khi mà PVI ở phía trên trung bình động) và thị trường yếu ( khi mà PVI ở phía dưới trung bình động)
Nếu khối lượng ngày hôm nay lớn hơn khối lượng ngày hôm qua:
Nếu khối lượng ngày hôm nay nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng ngày hôm qua:
Do giá tăng thường là liên quan đến khối lượng tăng, xu hướng PVI thông thường là tăng.
1.8.13. Negative Volume Index
Tổng quan
Chỉ số khối lượng âm(NVI) tập trung vào những ngày mà khối lượng giảm so với ngày hôm trước. Giả thuyết rắng tiền thông minh đang chiếm vị trí khi khối lượng giảm.
Diễn giải
Diễn giải của NVI với điều kiện giả sử rằng khi khối lượng tăng, những nhà đầu tư theo phong trào và thiếu thông tin đầy rẫy trên thị trường. Một cách trái ngược, vào những ngày cùng với khối lượng giảm, lượng tiền thông minh đang lặng lẽ đổ vào thị trường. Do vậy, NVI đang diễn tả hành động của những đồng tiền thông minh.
Trong Logic thị trường chứng khoán, Norman Fosback chỉ ra rằng điểm lạ của thị trường mạnh là 95 trên 100 khi NVI tăng trên mức trung bình động năm. Những điểm lạ của thị trường mạnh là khoảng 50/50 khi mà NVI ở dưới mức trung bình năm. Do vậy, NVI hữu dụng như là một chỉ số của thị trường mạnh.
Cách tính
Nếu khối lượng ngày hôm nay ít hơn khối lượng ngày hôm qua
Nếu khối lượng ngày hôm nay nhiều hơn hoặc bằng khối lượng ngày hôm qua
Do giá giảm thường là liên quan đến khối lượng giảm, xu hướng NVI thông thường là giảm.
1.8.14. Average Directional Index (ADX)
Giới thiệu
J. Welles Wilder đã phát triển ADX để đánh giá sức mạnh của xu hướng hiện tại, lên hoặc xuống. Điều quan trọng là xác định liệu rằng thị trường đang có xu hướng hay chỉ là những khoản giao động giá bởi vì những chỉ số nhất định cho kết quả tốt hơn phụ thuộc và việc thị trường đang ở trạng thái nào..
ADX là sự giao động trong khoảng 0 và 100. Dù phạm vi từ 0 tới 100, nhưng chỉ số trên 60 là tương đối hiếm. Những chỉ số thấp hơn, dưới 20, thể hiện xu hướng yếu và chỉ số cao trên 40 thể hiện 1 xu hướng mạnh. Chỉ số không thể hiện xu hướng giá cổ phiếu tăng hay giảm mà chỉ đơn thuần là đô lường sức mạnh của xu hướng hiện tại. Chỉ số trên 40 thể hiện 1 xu hướng đi xuống và cũng có thể là đi lên mạnh mẽ.
ADX cũng được sử dụng để nhận ra những thay đổi tiềm tàng trong thị trường. Khi ADX bắt đầu mạnh lên từ mức 20, đó là dấu hiệu cho thấy phạm vi giao dịch đang kết thúc và 1 xu hướng đang mạnh lên.
Khi ADX bắt đầu giảm xuống dưới 40, đó là dấu hiệu cho thấy xu hướng hiện tại đang yếu dần và phạm vi giao dịch có thể sẽ tăng lên.
Positive/Negative Directional Indicators
ADX có nguồn gốc từ 2 chỉ số cũng được phát triển bởi Wilder, được gọi là Positive Directional Indicator (đôi khi được viết là +DI) và Negative Directional Indicator (-DI)
Khi chỉ số ADX được chọn, đồ thị thể hiện ADX, -DI, +DI. Với màu đỏ, trắng, xanh lá cây trên đồ thị, ADX là đường màu đen ít giao động hơn, +DI màu xanh và –DI màu đỏ. +DI thể hiện sự đi lên và –DI thể hiện sự đi xuống của các nhân tố qua 1 khoảng thời gian nhất định. Mặc định là 14 khoảng kỳ, nhưng người sử dụng được khuyến cáo là nên thay đổi theo nhu cầu riêng của cá nhân.
Trong mẫu cơ bản, dấu hiệu mua và bán có thể được tạo nên bởi sự giao nhau giữa +DI và –DI. Dấu hiệu mua xảy ra khi +DI di chuyển lên trên –DI và bán khi –DI di chuyển lên trên +DI. Phải thận trọng, mặc dù khi 1 chưng khoán trong phạm vi giao dịch, hệ thống này cũng có thể tạo ra rất nhiều dấu hiệu sai lầm. Như với phần lớn những chỉ số kĩ thuật, +DI/-DI nên được sử dụng cùng với các phân tích kĩ thuật khác.
ADX kết hợp +DI và –DI, và làm trơn dãy số liệu với đường trung bình động để đưa ra sự đo lường sức mạnh của xu hướng. Vì nó sử dụng cả +DI và –DI., ADX không thể hiện bất cứ hướng của xu hướng mà chỉ thể hiện độ lớn. Nói chung, khi chỉ số lên trên 40, nó ám chỉ 1 xu hướng mạnh và xuống dưới 20 để ám chỉ 1 xu hướng yếu. Ngược lại, ADX giảm từ trên 40 xuống có thể là dấu hiệu cho thấy xu hướng hiện tại đang yếu đi và phạm vi giao dịch đang tăng lên.
1.8.15. Average True Range (ATR)
Giới thiệu
Được phát triển bởi J. Welles và được giới thiệu trong cuốn sách của ông: New Concepts in Technical Trading Systems (1978), the Average True Range (ATR) chỉ số đo lường tính không ổn định của chứn khoán. Chỉ số không chỉ ra xu hướng hay thời gian của giá mà chỉ đơn giản là cấp độ của sự thay đổi và tính không ổn định của giá.
Như với phần lớn các chỉ số của ông, Wilder dùng ATR với hàng hóa và giá hàng ngày. Vào năm 1978, hàng hóa thường hay thay đổi hơn chứng khoán. Chúng đã và đang gặp phải những khoảng trống và những biến động có giới hạn trong các giao. Để phản ánh chính xác tính không ổn định của hàng hóa, Wilder tìm cách tính khoảng trống, các biến động có giới hạn và các khoảng cao thấp trong các phép tính của ông, Công thức tính sự không ổn định chỉ dựa trên the khoảng cao thấp không thể thể hiện được chính xác sự không ổn định được gây bởi khoảng trống và biến động có giới hạn..
Wilder bắt đầu với 1 khái niệm được gọi là True Range (TR) . được xác định dựa trên:
Các đỉnh hiện tại ít hơn đáy hiện tại.
Giá trị tuyệt đối của đỉnh hiện tại nhỏ hơn giá đóng của trước đó.
Giá trị tuyệt đối của đáy hiện tại nhỏ hơn giá đóng của trước đó.
Nếu high-low range hiện tại lớn, những thay đổi đó là: nó sẽ được dùng như là: True Range.. Nếu high-low range nhỏ, nó được coi là 1 trong 2 phương pháp được dùng để tính True Range. 2 điều có thể xảy ra cuối cùng khi giá đóng cửa trước đó lớn hơn đỉnh hiện tại (là dấu hiệu của khoảng trống đi xuống và biến động trong giới hạn) hoặc giá đóng cửa trước đó thấp hơn đáy hiện tại (là dấu hiệu của khoảng trống đi lên hoặc biến động trong giới hạn). Để chắc chắn các con số dều dương, giá trị tuyệt đối cần được áp dụng cho mọi trường hợp.
1. high/low range nhỏ được hình thành sau 1 khoảng trống đi lên. True Range được tìm bằng cách tính trị tuyệt đối cảu các giá trị khác nhau giữa đỉnh hiện tại và giá đóng cửa trước đó.
2 high/low range nhỏ được hình thành sau khoảng trống đi lên. True Range được tìm bằng cách tính giá trị tuyệt đối của các giá trị giữa đáy hiện tại và giá đóng cửa trước đớ
3. Cho dù giá đóng cửa hiện tại nằm trong high/low range trước , high/low range hiện tại khá nhỏ. Thực tế, nó nhỏ hơn giá trị tuyệt đối của các giá trị nằm giữa đỉnh hiện tại và giá đóng cửa trước đó, những giá trị được sử dụng để tính True Range.
Lưu ý: vì ATR thể hiện sự không ổn định như 1 mức độ tuyệt đối, cổ phiếu giá thấp sẽ có cấp độ ATR thấp hơn là các cổ phiếu giá cao. Ví dụ. 1 chứng khoán 10$ có mức độ ATR thấp hơn nhiều so với 1 chứng khoán 200$. Vì điều này, đọc ATR có thể rất khó để so sánh chéo các chúng khoán. Thậm chí đối với 1 chứng khoán đơn lẻ, sự giao động lớn của giá, chẳng hạn như giảm từ 70 xuống 20, có tạo ra sự khó khăn cho việc so sánh ATR trong dài hạn.
Sự tính toán
Nói chung, ATR được dựa trên 14 giai đoạn và có thể được tính hàng ngày, tuần, tháng, Ví dụ, ATR có thể được giựa trên dữ liệu hàng ngày. Giá trị True Range đầu tiên trong chuỗi đơn giản là đỉnh trừ đi đáy, và 14-day ATR đầu tiên là trung bình của các giá trị ATR hàng ngày trong suốt 14 ngày vừa qua. Sau đó, Wilder tìm cách xử lí bộ số liệu, bằng cách sáp nhập những giá trị ATR của giai đoạn trước. Giá trị của 14-day ATR thứ 2 và những tiếp sau đó sẽ được tính theo các bước sau:
Nhân giá trị của 14-day ATR trước đó với 13
Cộng thêm giá trị True Range của ngày gần đây nhất vào
Chia cho 14
1 vài bình luận:
Luôn có 1 sự khởi đầu, và nhũng phép tính đầu tiên có thể không chính xác theo công thức. Giá trị ô đầu tiên đơn giản là High trừ đi Low, và giá trị ATR đầu tiên là trung bình của 14 giá trị True Range đầu tiện
Nhiều chỉ số liên quan đến nhau trong quá trình tính toán. Chẳng hạn như giá trị ATR hiện tại sử dụng ATR trước đó.
Độ lớn của bộ dữ liệu ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng.
1.8.16. Bollinger Bands
Giới thiệu
Được phát triển bởi John Bollinger, Bollinger Bands là chỉ số cho phép người sử dụng so sánh tính hay thay đổi và giá tương đối theo thời gian. Chỉ số bao gồm 3 dải được tạo nên bởi giá hoạt động của chứng khoán
Một đường trung bình động giản đơn ở trung tâm.
Dải phía trên ( SMA cộng thêm 2 độ lệch chuẩn)
Dải phía dưới ( SMA trừ đi 2 độ lệch chuẩn)
Chênh lệch chuẩn là việc thống kê các dữ liệu đo lường để cung cấp sự đánh giá chính xác sự không ổn định của giá. Sử dụng chênh lệch chuẩn đảm bảo rằng các bands sẽ phản ứng nhanh chóng với sự thay đổi của giá và phản ánh thời gian cao và thấp của tính không ổn định. Sự tăng (giảm) đột ngột cuả giá, và do đó tính không ổn định sẽ dẫn đến sự mở rộng của các bands
Tính toán
Dải ở giữa là một đường trung bình động giản đơn. Dải bên trên được tính bằng đường trung bình động ở trung tâm cộng thêm 2 độ lệch chuẩn. Còn dải bên dưới được tính bằng đường trung bình động ở trung tâm trừ đi 2 độ lệch chuẩn..
Thiết lập
Giá đóng cửa phần lớn được sử dụng để tính Bollinger Bands. Các biến khác, bao gồm typical and weighted prices, cũng có thể được sử dụng.
Typical Price = (high + low + close)/3
Weighted Price = (high + low + close + close)/4
Độ dài của đường trung bình động và số độ lệch chuẩn có thể được điều chỉnh để phù hợp với mục đích cá nhân và đặc điểm của của chứng khoán.
Phương pháp thử và sai là 1 phương pháp để xác định độ dài của đường trung bình động thích hợp. Sự đánh giá trực quan cũng có thể được sử dụng để xác định số lượng các giai đoạn thích hợp. Bollinger Bands nên bao gồm phần lớn giá hoạt động, nhưng không phải là tất cả.
Sử dụng
Thêm vào việc xác định mức độ giá tương đối và tính không ổn định, Bollinger Bands có thể kết hợp với giá hoạt động và nhũng chỉ số khác để chỉ ra dấu hiệu và dự báo của nhũng thay đổi quan trọng.
Double bottom Buy: Dấu hiệu Double Bottom Buy được đưa ra khi giá chạm vào dải thấp hơn ở bên trên dải thấp hơn. Điều quan trọng là đáy thứ hai vẫn ở trên dải thấp hơn. Việc tăng giá cổ phiếu được xác nhận khi giá di chuyển lên trên dải trung tâm hoặc đường trung bình động
Double Top Sell: A dấu hiệu Double Top Sell xuất hiện khi đỉnh của giá cao hơn dải cao hơn và sau đó đỉnh phá vỡ và ở bên trên dải thấp hơn. Sự giảm giá của cổ phiếu được xác nhận khi các mức giá giảm xuống dưới đường trung tâm.
Sự thay đổi đột ngột của giá xảy ra sau khi dải thắt chặt lại và sự không ổn định là thấp. Nhiều chứng khoán qua giai đoạn mà tính không ổn định cao ngay sau giai đoạn tính khồng ổn định thấp. sử dụng Bollinger Bands, các khoảng thời gian có thể dễ dàng được xác định bằng sự đánh giá trực quan. Dải chặt thể hiện tính không ổn định thấp và dải rộng thể hiện tính không ổn định cao.
Tính không ổn định có thể là lựa chọn quan trọng cho sự thắt chặt dải trước khi có sự thay đổi lớn.
1.8.17. Bollinger Band Width
Giới thiệu
Bollinger Bands đo sự không ổn định bằng cách thay bằng các dải giao dịch xung quanh đường trung bình động. Các dải này được tạo nên bởi thêm bớt 2 độ lệch chuẩn từ đường trung bình động, nên với những thay đổi trung bình, giá trị của hai độ lệch chuẩn cũng thay đổi. Giá trị này là Bollinger Band Width, nó thể hiện sự mở rộng và thu hẹp của các band dựa trên những sự không ổn định gần đây.
Trong khoảng thời gian có sự tăng lên của tính không ổn định của giá, khoảng cách giữa 2 dải sẽ được mở rộng (BB Width sẽ tăng lên). Ngược lại, trong suốt thời gian mà giá của thị trường không ổn định, khoảng cách giữa 2 dải sẽ thu hẹp (BB Wildth sẽ giảm xuống).
Ở đây có xu hướng các dải có thể sẽ mở rộng hoặc thu hẹp lại. Các dải thường không ở quá xa nhau, điều này thường là dấu hiệu cho thấy xu hướng hiện tại có thể đang kết thúc. Khi khoảng cách giữa 2 dải quá hẹp, đó thường là dấu hiệu cho thấy thị trường có thể sắp khởi đầu 1 xu hướng mới..
1.8.18.Chaikin Money Flow (CMF)
Giới thiệu
Được phát triển bởi Marc Chaikin, the Chaikin Money Flow được tính toán từ những số liệu hàng ngày của Accumulation/Distribution Line. Tiền đề cơ bản đằng sau Accumulation/Distribution Line là: cấp độ của áp lực mua hoặc bán có thể được xác định bằng giá đóng cửa có liên quan tới High và Low đối với thời gian tương ứng(Closing Location Value). Có áp lực mua khi chúng khoán đóng ở nửa trên của khoảng thời gian và áp lực bán khi chứng khoán đóng ở nửa dưới của khoảng thời gian giao dịch.
Phương pháp luận
Biểu đồ CIENA (CIEN) nêu chi tiết sự tách ra của Accumulation/Distribution Values hàng ngày và chúng liên hệ thế nào với Chaikin Money Flow. Công thức cho Chaikin Money Flow là sự tích lũy của tất cả Accumulation/Distribution Values trong 21 giai đoạn được chia bởi tổng khối lượng tích lũy 21 thời kỳ
Nói chung, Chaikin Money Flow có chiều hướng tăng giá khi nó dương và giảm giá khi nó âm. Yếu tố tiếp theo để đánh giá là phạm vi, độ dài của thời gian Chaikin Money Flow vẫn âm hoặc dương. Thậm chí sự khác nhau không phải là 1 phần chiến lược dăng sau Chaikin Money Flow, mức tuyệt đối vaf hướng nói chung của sự giao động là rất quan trọng.
Accumulation Indications
Sự giao động của Chaikin Money Flow tạo ra dấu hiệu tăng giá bằng cách thể hiện rằng chứng khoán đang được tích tụ. Có nhữn nhan tố xác định liệu chúng khoán có đang tích lũy hay không. Chúng cũng xác định độ lớn của sự tích lũy.
1.Thứ nhất và nhân tố rõ ràng nhát là liệu giá trị Chaikin Money Flow có lớn hơn 0 không? Đó là dấu hiệu của áp lực mua và sự cộng dồn khi chỉ số dương.
2. Nhân tố thư 2 là khoảng thời gian của chỉ số, dao động cùng chiều trong bao lâu. Khi dao động vẫn ở trên đường zero, có nhiều bằng chứng hơn cho thấy chứng khoán đang tích tụ. Thời gian được kéo dài của tích tụ và áp lực mua là việc giá tăng, chúng chỉ rằng giá chứng khoán vẫn cùng chiều.
3. Nhân tố thứ 3 là độ lớn của dao động. Không chỉ dao động vẫn phải lớn hơn 0 mà nó cũng phải đang tăng và đạt đến 1 mức nhất định. Càng nhiều chỉ số dương, càng thể hiện rõ áp lực mua và sự tích tụ. Nếu chỉ số này trên10 là đảm bảo cho dấu hiệu của sự tăng giá. Nếu chỉ số lớn hơn 25 sẽ biểu thị cho 1 áp lực mua lớn. bạn nên cân nhắc các mức trước của chỉ số để chắc chắn.
Distribution Indications
Những giao động CMF cho thấy những dấu hiệu giảm giá thông qua chỉ báo về áp lực trong việc bán chứng chứng khoán. Cũng giống với dấu hiệu tăng giá, có 3 điểm được sử dụng để xác định khi nào chứng khoán có áp lực về cung và nhận ra nó như thế nào.
Thứ nhất và nhân tố rõ ràng nhất là khi nào giá trị Chaikin Money Flow âm. Chỉ báo âm thể hiện áp lực bán ra của chứng khoán đó.
Thứ hai dấu hiệu giảm giá là khoảng thời gian của chỉ báo âm. Dao động âm càng dài thì bằng chứng cho áp lực tiếp tục bán càng lớn. Độ dài của khoảng thời gian có thể được đo bằng tỷ lệ phần trăm thời gian mà chỉ báo ở dưới đường zero. Nếu CML âm khoảng từ 3 đến 4 tuần, thì áp lực bán là khoảng 75% khoảng thời gian.
Dấu hiệu thứ 3 về sự giảm giá là nhận ra áp lực bán. Nó có thể được xác định bằng mức giao động tuyệt đối. Khi chỉ báo dịch chuyển xuống dưới -0.1 áp lực bán bắng đầu đưa ra cảnh báo về dấu hiệu giảm giá. Marc Chaikin cho rằng khi chỉ báo nào dưới -0.25 là áp lực bán mạnh.
Kết luận chương 1
Như vậy sau khi tìm hiểu chương một chúng ta đã biết thêm được phần nào tổng quan về phân tích kỹ thuật, nắm được các lý thuyết, những giả định khái niệm, biết được các mô hình, chỉ báo thường được sử dụng trong phân tích kỹ thuật....... tất cả những điều này sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong việc ứng dụng phân tích kỹ thuật vào phân tích và đầu tư cổ phiếu.
CHƯƠNG 2: ỨNG DỤNG PHÂN TÍCH KỸ THUẬT ĐỂ PHÂN TÍCH CỔ PHIẾU CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN TRUNG TÂM GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN HỒ CHÍ MINH
2.1. Phân tích cổ phiếu Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (REE)
REE là một trong những công ty đầu tiên niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, vì vậy dữ liệu về giá và khối lượng giao dịch quá khứ trong thời kỳ đầu phát triển cũng như thời kỳ hiện tại của thị trường chứng khoán Việt Nam là khá đầy đủ. Hơn nữa REE cũng là một công ty lớn vì vậy qua việc phân tích cổ phiếu REE ta cũng có thể thấy một phần nào sự biến đổi của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Sự biến động giá và khối lượng của cổ phiếu REE qua gần 7 năm vừa qua.
Biểu đồ 2.1.
Ở đây em thực hiện phân tích cổ phiếu REE từ tháng 11 năm 2005 đến hiện tại, tức là khi thị trường bắt đầu bước vào đợt tăng trưởng cao.
Giữa tháng 8 năm 2005 giá cổ phiếu REE có xu hướng tăng trong vòng vài tuần. Tuy nhiên đến giữa tháng 11 khi mà công ty công bố kết quả kinh doanh tháng 10, giá cổ phiếu đã chững lại và có giảm nhẹ đôi chút sau đó đi ngang. Lý do là bản báo cáo này chưa làm nhà đầu tư hài lòng. Tổng doanh thu lũy kế 10 tháng mới chỉ đạt hơn 66%.
Biểu đồ 2.2.
Bước vào thời điểm tháng 1 năm 2006 giá cổ phiếu REE bắt đầu tăng.
Thời điểm 23 – 1 – 2006 Đường MA 21 ngày cắt đường MA 50 ngày từ dưới lên và nằm dưới đường giá. Điều này có thể cho thấy một xu hướng tăng bắt đầu. Nhưng rõ ràng sự đặc điểm này trên đồ thị chưa khẳng định được xu hướng một cách chính xác.
Tuy nhiên hầu hết các chỉ báo đều cho thấy một xu hướng tăng là có thể xảy ra.
Biểu đồ 2.3.
Đường MACD cắt đường tín hiệu và đường zero từ dưới lên. Đường Momentum cắt đường 100 từ dưới lên. Tuy nhiên bên cạnh đó RSI lại vượt cắt và vượt lên trên đường 70. Điều này nói giá cổ phiếu REE đã quá nóng. Nhưng RSI là một chỉ số đo cường độ giao động. Nếu trong một thị trường có xu hướng hiệu quả của việc sử dụng đường này không hẳn là tốt nhất. Vì vậy RSI lớn hơn 70 chưa nói lên điều gì.
Hơn nữa trong tháng 1 báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006 của REE đã được công bố. Và so với năm 2005 lợi nhuận sau thuế của công ty đã tăng gấp 1,5 lần. Điều này tác động không nhỏ tới giá cổ phiếu của REE. Và kỳ vọng về một xu hướng giá tăng của REE trong vài tuần là có thể xảy ra.
Biểu đồ 2.4.
Sau khoảng thời gian giữa tháng 1 ta nhìn trên đồ thị thấy đường MA 21 ngày và MA 50 ngày càng tách xa nhau hơn nữa giá vẫn có xu hướng tăng, có thể nói một xu hướng đang tăng giá được hình thành. Điều này càng được củng cố khi ta nhìn vào khối lượng giao dịch của REE ở trong khoảng thời gian này. Khối lượng giao dịch khá lớn và giá tăng. Hơn nữa, trong quý một các thông tin về cổ phiếu REE đều tốt. Ngày 3 – 4 – 2006 REE thành lập công ty bất động sản, Báo cáo tài chính quý 1 công bố cho thấy mức kế hoạch năm 2006 hoàn toàn có thể hoàn thành. Một xu hướng tăng chắc chắn được hình thành.
Xu hướng tăng giá ở đây dự báo có thể là xu hướng tăng giá cấp 2, và trong xu hướng tăng giá cấp 2 này sự biến động giá hàng ngày vẫn diễn ra. Tuy nhiên với sự lựa chọn MA 21 ngày và MA 50 ngày dao động giá hằng ngày được loại bỏ.
Đến cuối tháng 4 đầu tháng 5, xu hướng tăng giá đã chấm dứt, thị trường có xu hướng đảo chiều.
Biểu đồ 2.5.
Trên hình vẽ ta có thể nhìn thấy những nét của hình mẫu ba đỉnh, hình mẫu có xu hướng ngược chiều. Giá có xu hướng tăng sau đó tạo thành các đỉnh và đi xuống. Đến lúc này đường MA 21 ngày đã cắt đường giá từ dưới lên, các chỉ báo khác cũng tương tự như vậy. Trong thời kỳ này thông tin về REE cũng rất tốt. Quý 2 công ty lãi hơn 34 tỷ, lũy kế 2 quý đã vượt kế hoạch cả năm. Ngày 7 – 7 – 2006 REE trúng thầu công trình xây dựng trung tâm truyền hình Việt Nam. Tuy nhiên với những thông tin rất tốt này giá của REE chỉ tăng được trong một vài phiên ngắn ngủi còn xu hướng chúng là vẫn giảm. Ở đây có lẽ làm giảm theo xu hướng chung của thị trường. Sau một thời gian tăng quá nóng, giá cổ phiếu giảm cũng có thể là hợp lý.
Biểu đồ 2.6.
Đến tháng 8, sau chu kỳ giảm, giá lại có xu hướng phục hồi. Trên hình vẽ ta có thể thấy hình mẫu đỉnh và hai vai ngược. Trước khi tạo thành vai thứ nhất giá có xu hướng giảm, sau khi hình thành vai thứ nhất và tiến tới hình thành đỉnh và vai thứ 2 giá lại bắt đầu tăng. Nếu chỉ dựa vào hình mẫu này ta có thể là thị trường đã đổi chiều, giá có xu hướng tăng trở lại.
Trong thời điểm này, tin tốt về REE được công bố rất nhiều. Các quỹ đầu tư nước ngoài tăng cường mua cổ phiếu này, báo cáo kết quả kinh doanh hàng tháng đều tốt, và thời điểm này sau 13 năm hoạt động vốn điều lệ của REE đã tăng 18 lần lên 282 tỷ, các ngành nghề được mở rộng. Cùng thời điểm này REE được phép phát hành thêm cổ phiếu. Ở thời điểm thị trường tăng nóng như vậy việc được phát hành thêm cổ phiếu chính là một yếu tố tác động mạnh tới cầu chứng khoán. Chính vì thế giá của cổ phiếu REE liên tục tăng và tạo những đỉnh mới, xu hướng tăng này đã được chứng minh sau đó.
Biểu đồ 2.7.
Mức hỗ trợ được hình thành ngày 1 – 8 – 2006 và mức kháng cự cũ kể từ năm 2005 trở
lại đã bị phá vỡ ( mức kháng cự cũ là 102000 đ/cp vào ngày 25 – 4 – 2006 ) vào ngày 22 – 11 – 2006 với giá đóng của là 103000 đ/cp
Một xu thế tăng mạnh hình thành
Biểu đồ 2.8.
Cùng với các thông tin tốt như báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006 có lãi trước thuế gấp đôi so với kế hoạch, trả cổ tức, góp vốn thành lập công ty mới, sức hút của thị trường chứng khoán đã tác động một phần lớn tới giá của cổ phiếu REE cũng như các cổ phiếu khác trong thời gian cuối năm 2006 đầu năm 2007.
Tuy nhiên đến tháng 3 năm 2007 giá cổ phiếu REE đã dần có xu hướng giảm.
Biểu đồ 2.9.
Thời điểm này hầu hết các cổ phiếu đều giảm, có lẽ sự giảm giá này của cổ phiếu REE là giảm theo thị trường chung. Sau đợt tăng quá nóng sự điều chỉnh lại giá cổ phiếu cũng không có gì là đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên sự giảm giá của cổ phiếu này cũng có một điểm khá kỳ lạ so với thông thường.
Đó là thời điểm công bố nghị quyết của đại hội cổ đông. Những điều được công bố là khá tốt, thời điểm đó cũng không có một thông tin xấu nào đối với cổ phiếu này. Tuy nhiên, sau khi thông tin được công bố, giá cổ phiếu REE vẫn giảm và mức giảm này là khá lớn. Nó trái ngược hẳn với thời kỳ thị trường nói chung và giá cổ phiếu REE tăng. Điều này cũng có thể giải thích bởi nhiều lý do.
Có thể là giá cổ phiếu thời điểm đó khá cao.
Có thể là thời điểm đó việc tăng vốn hay phát hành thêm không còn hấp dẫn nhà đầu tư nữa.
Có thể là do thời điểm tăng vốn là chưa được quyết định.
Hiện tại sau khi đã công bố ngày giao dịch không hưởng quyền, giá của cổ phiếu REE cũng chỉ nhích lên đôi chút.
Hy vọng trong thời gian tới giá của REE cũng như các cổ phiếu khác có được những phục hồi và có những sự tăng trưởng vững chắc.
2.2. Phân tích cổ phiếu Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (STB)
Sacombank có thể nói là một cổ phiếu xuất hiện muộn trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Lên sàn vào tháng 7 năm 2006, khá muộn so với các cổ phiếu khác như REE, SAM, hay GMD. Mặc dù lên sàn khá muộn nhưng ảnh hưởng của STB đến thị trường chứng khoán Việt Nam mà cụ thể là VN index là không nhỏ.
Ở đây em sẽ phân tích cổ phiếu STB từ khi lên sàn cho tới thời điểm hiện tại.
Biểu đồ 2.10.
Vừa chào sàn với giá 78000 đ/cp, dường như ngay sau đó giá cổ phiếu STB đi xuống liên tục. Thời điểm này có rất nhiều cách để lý giải cho việc đi xuống của giá STB, nhưng nguyên nhân chính có lẽ là việc phát hành cổ phiếu ra công chúng của STB không thu hút được quan tâm của nhà đầu tư, đem lại lợi ích quá ít đối với các cổ đông cũ. Có lẽ chính điều này đã khiến cho giá của STB giảm trong thời gian đầu. Hơn nữa thời kỳ này thị trường cũng đang có xu hướng xuống, đây có phải là một nguyên nhân chăng ?
Mặc dù sau đó phương án phát hành cổ phiếu ra công chúng đã có những thay đổi đáng kể, các thông tin tốt về STB cũng được công bố như STB là ngân hàng “Thực hiện xuất sắc thanh toán quốc tế với tỷ lệ đạt chuẩn cao năm 2005”, hay báo cáo tài chính quý 2 năm 2006 đều tốt nhưng giá của STB vẫn dao động quanh mức giá 70000 đ/cp, có khi còn tụt xuống hơn trên 60000 đ/cp.
Với kiểu biến động giá của STB thời kỳ đầu lên sàn có thể thấy giá cổ phiếu này biến động không theo một xu hướng nào cả, mà chỉ biến động trong một khoảng dao động giá (trading range).
Điều này cũng thật khó lý giải, vì trong thời gian này các thông tin tốt về STB liên tục được công bố, phải chăng cổ phiếu STB bị thao túng ?
Với kiểu biến động giá không có xu hướng của STB các chỉ báo đo đà dao động là khá hữu ích.
Biểu đồ 2.11.
Nhìn trên đồ thị ta thấy thời điểm 12 tháng 10 năm 2006 đường MACD cắt đường tín hiệu từ trên xuống và có dấu hiệu cắt và đi xuống dưới đường zero.
Biểu đồ 2.12.
Ngày 12 tháng 10 năm 2006 đường momentum cũng cắt đường zero từ trên xuống báo hiệu giá giảm.
Biểu đồ 2.13.
Đường RSI cũng có chiều hướng đi xuống đường 30 ở thời điểm 12 tháng 10 năm 2006. Điều này càng chứng tỏ rằng có một sự giảm giá ở cổ phiếu STB
Biểu đồ 2.14.
Và đúng như vậy, những ngày tiếp theo giá của STB tiếp tục giảm và có những thời điểm tưởng chừng như giá của STB có thể phá vỡ mức hỗ trợ cũ. Trong khoảng thời gian này giá STB xuống thấp nhất là 59500 đ/cp chỉ trên mức hỗ trợ 1000 đ.
Cuối năm 2006 đầu năm 2007 một loạt các thông tin tốt đến với các nhà đầu tư về cổ phiếu STB : STB tăng vốn điều lệ từ 1899 tỷ đồng lên 2089 tỷ đồng, chia cổ phiếu bằng cổ tức, có các hợp đồng mới, mở rộng thêm chi nhánh.....
Có lẽ chính những tin tốt này đã đem lại một thời kỳ tăng giá mới cho STB. Thời điểm này, thị trường cũng trở nên nóng bỏng, các nguồn vốn đều đổ vào thị trường chứng khoán. Có thể nói ảnh hưởng của thị trường tới việc tăng giá của các cổ phiếu nói chung và của STB nói riêng là không nhỏ.
Biểu đồ 2.15.
Thời kỳ này giá cổ phiếu STB tăng liên tục và đạt đỉnh cao nhất là 169000 đ/cp. Nhìn trên đồ thị ta thấy rõ một xu hướng tăng được hình thành thông qua đường thẳng màu xanh.
Biểu đồ 2.16.
Nhìn trên đồ thị ta thấy rõ được là thời điểm giữa tháng 1 dài Bollinger màu đỏ rất hẹp, điều này giúp ta có thể dự đoán trong tương lại sẽ có một đợt biến động giá lớn. Và thực tế đã chứng minh như vậy. Một xu hướng tăng được thiết lập.
Thời điểm hiện tại giá của STB có xu hướng đi ngang. Cùng với sự giảm giá trung của thị trường, giá STB có giảm nhưng có lẽ vì là một cổ phiếu có tính thanh khoản cao nên sự giảm giá của STB là không quá lớn.
Thông tin về ngân hàng Sacombank được NHNN cho phép tăng vốn đã được công bố. Đây là một tin khá tốt đối với Sacombank. Việc các nhà đầu tư được quyền mua theo tỷ lệ 1 : 1 với giá 15000 đ/cp là một điều khá hấp dẫn. Có lẽ khi ngày giao dịch không hưởng quyền được công bố, giá của STB sẽ còn có những biến đổi tích cực nữa.
Kết Luận chương 2
Như vậy thông qua việc phân tích 2 cổ phiếu trên ta có thể thấy được tác dụng của phân tích kỹ thuật đối với việc đầu tư và kinh doanh chứng khoán. Có thể việc áp dụng phân tích kỹ thuật không hoàn toàn chính xác, tuy nhiên không thể phủ nhận các tác động tích cực của phân tích kỹ thuật đến quá trình đầu tư.
Ở Việt Nam tâm lý còn ảnh hưởng nhiều tới đầu tư, hơn nữa các điều kiện để sử dụng tốt nhất đối với phân tích kỹ thuật cũng chưa đầy đủ. Vì vậy các kết quả của phân tích kỹ thuật đưa ra sai sót cũng không có gì là đáng ngạc nhiên. Kể cả các thị trường phát triển toàn diện như Mỹ, phân tích kỹ thuật không phải lúc nào cũng chính xác.
Vì vậy việc kết hợp giữa phân tích kỹ thuật, phân tích cơ bản cũng như nắm bắt các luồng thông tin là hết sức cần thiết đối với thị trường Việt Nam hiện tại cũng như tương lai. Việc kết hợp tốt các phương pháp trên có thể đem đến những kết quả tốt trong đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
KẾT LUẬN
Sau 7 năm vận hành, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được những thành tựu không nhỏ, lượng vốn thu hút vào thị trường ngày một lớn. Thị trường chứng khoán ngày càng chiếm một vị trí quan trọng đối với ngành tài chính nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam có thể nói là còn rất sơ khai nếu chúng ta so sánh với các thị trường chứng khoán nước ngoài có lịch sử rất lâu đời. Vì vậy, thị trường chứng khoán Việt Nam cũng có những đặc điểm của một thị trường chứng khoán mới nồi. Và để thị trường ngày càng phát triển hoàn thiện hơn, việc hoàn thiện pháp lý, bộ máy hoạt động cũng như nâng cao kiến thức là rất quan trọng.
Trong chuyên đề của mình em đã trình bày các phấn đề liên quan đến phân tích kỹ thuật, một phương pháp phân tích có thể coi là khá mới ở Việt Nam.. Những kiến thức nền tảng cũng như việc ứng dụng phân tích kỹ thuật trong đầu tư chứng khoán đều được trình bày trong chuyên đề.
Việc nắm bắt và sử dụng thành thạo phân tích kỹ thuật, cũng như việc kết hợp với phân tích cơ bản và thông tin có thể đem lại những kết quả tốt cho hoạt động đầu tư.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I- Tiếng Việt
1. PGS.TS. Nguyễn Văn Nam, PGS.TS. Vương Trọng Nghĩa - Giáo trình Thị trường chứng khoán - NXB Tài chính 2002
2. Uỷ ban chứng khoán - Giáo trình Phân tích và đầu tư chứng khoán (2002)
3. Hiệp hội kinh doanh chứng khoán - Tài liệu phân tích kỹ thuật
II- Tiếng Anh
1. Robert D Edwards and John Mayer - Technical Analysis of Stock Trends
2. John Murphy - Technical Analysis of Financial Market
III- Website
1. www.bsc.com.vn
2. www.vcbs.com.vn
3. www.stockcharts.com
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 81
Biểu đồ 2.2 82
Biểu đồ 2.3 83
Biểu đồ 2.4 84
Biểu đồ 2.5 85
Biểu đồ 2.6 86
Biểu đồ 2.7 87
Biểu đồ 2.8 88
Biểu đồ 2.9 88
Biểu đồ 2.10 90
Biểu đồ 2.11 91
Biểu đồ 2.12 91
Biểu đồ 2.13 92
Biểu đồ 2.14 92
Biểu đồ 2.15 93
Biểu đồ 2.16 94
MỤC LỤC
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36679.doc