1
LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứmg khoán (TTCK) ở các nước
trên thế giới, sự phát triển của TTCK là một tất yếu trong quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Và đó cũng là xu thế tất yếu khi Việt Nam chủ
động bước vào hội nhập với nền kinh tế quốc tế.
Xu thế “toàn cầu hóa” đòi hỏi các quyết định kinh tế, dù được đưa ra ở bất kỳ nơi
nào trên thế giới, đều phải tính tới các yếu tố quốc tế vì ngày nay nền kinh
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1642 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Áp dụng giao dịch quyền chọn cổ phiếu vào thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế thế giới
đang nhanh chóng chuyển thành một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thông qua
các mạng lưới công nghệ thông tin, “sự liên kết” này theo lập luận của một nhà báo lão
luyện của tờ The New York Times- Thomas L.Friedman- là một “thế giới phẳng”. Và
quan điểm “thế giới phẳng” sẽ là một cơ sở lý luận để cho chúng ta nhận thấy rằng sự
phát triển mạnh mẽ của một thị trường, công cụ tài chính nào được phổ biến và ưa
chuộng nhất trên thế giới hiện nay cũng sẽ là sự lựa chọn và định hướng phát triển tất
yếu của TTCK Việt Nam.
Thực tế cho thấy kể từ khi Trung tâm Giao dịch Chứng Khoán Thành phố Hồ Chí
Minh ra đời vào tháng 07 năm 2000, hoạt động của TTCK Việt Nam trở nên sôi động
và mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế. Trong suốt thời gian hai năm trở lại đây,
không ai có thể phủ nhận rằng TTCK Việt Nam đã có những bước phát triển rất tích
cực, ngày càng trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Nhưng từ
cuối năm 2007 đến nay, TTCK Việt Nam cũng đã mang lại cho các nhà đầu tư một bài
học đắt giá rằng đầu tư Chứng khoán không phải là một “Con heo vàng” chỉ luôn mang
lại lợi nhuận mà nó có cả những rủi ro rất cao và không thể dự đóan trước thậm chí
nằm ngoài cả sự dự đoán của các chuyên gia chứng khoán, sự sụt giảm như một “cơn
sóng thần” cuống phăng toàn bộ giá trị đầu tư nếu không xác định được lọai chứng
khoán đầu tư và giá trị thu hồi chấp nhận khi thị trường đi xuống.
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
2
Khi viết đề tài này tác giả đã luôn đặt ra câu hỏi “Liệu có biện pháp nào để phòng
ngừa rủi ro hay bảo vệ lợi nhuận cho các nhà đầu tư trước sự biến động không thể dự
đoán trước trên TTCK và các biện pháp hữu hiệu nào đã và đang được sử dụng ở các
nước trên thế giới ?“
Một trong những công cụ “bảo hiểm” giúp nhà đầu tư quản lý và hạn chế rủi ro
trong đầu tư chứng khoán hiện nay được ưa chuộng và phổ biến nhất trên thế giới là
Quyền chọn (Options). Và nếu theo luận điểm “thế giới phẳng” của Thomas
L.Friedman thì đây cũng sẽ là công cụ tài chính hữu hiệu “bảo hiểm” cho nhà đầu tư
trước sự biến động thất thường của TTCK Việt Nam.
TTCK Việt Nam với danh mục cổ phiếu đang niêm yết trên thị trường chưa có tiêu
chuẩn đánh giá xếp loại, số lượng công ty niêm yết còn hạn chế, tỉ lệ ảnh hưởng và độ
biến động của Vn-Index còn phụ thuộc vào một số nhóm cổ phiếu, trình độ của nhà
đầu tư chưa đạt đến tầm bao phủ toàn thị trường nên quyền chọn chỉ số chứng khoán
sẽ gặp nhiều khó khăn cho việc áp dụng và phát triển trong giai đoạn hiện nay. Trong
khi đó, quyền chọn trên từng cổ phiếu lại rất gần gũi và có nhiều điểm tương đồng với
việc mua bán một cổ phiếu riêng lẻ sẽ giúp cho nhà đầu tư từng bước làm quen và sử
dụng các loại quyền chọn để bảo vệ cho lợi nhuận và rủi ro của mình. Với quy mô thị
trường như trên cùng với xu hướng phát triển tất yếu của TTCK Việt Nam trong bước
đầu triển khai quyền chọn vào giao dịch chứng khoán thì quyền chọn cổ phiếu thương
mại đơn lẻ - quyền chọn cơ bản và được giao dịch đầu tiên trên thị trường thế giới – sẽ
là quyền chọn triển khai khả thi và thích hợp nhất.
Và đó là lý do mà tôi đã chọn đề tài “Áp dụng giao dịch quyền chọn cổ phiếu vào
Thị trường Chứng khoán Việt Nam” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
II. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, làm rõ một số khái niệm, vấn đề cơ bản về quyền chọn chứng khoán
nhằm thấy được sự hữu hiệu của công cụ tài chính này trong việc bảo vệ các nhà đầu tư
trước sự biến động thất thường của thị trường chứng khoán.
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
3
Nghiên cứu những kinh nghiệm thực tiễn về tổ chức sàn giao dịch quyền chọn
chứng khoán tại một số nước trên thế giới nhằm học hỏi và xây dựng được một mô
hình thích hợp cho việc triển khai và phát triển công cụ quyền chọn có hiệu quả với
tình hình thực tế của TTCK Việt Nam
Nghiên cứu thực tế của TTCK Việt Nam cho việc áp dụng giao quyền chọn từ đó
tập hợp và đề xuất một số giải pháp hỗ trợ cho việc triển khai giao dịch quyền chọn
chứng khoán tại Việt Nam đạt hiệu quả cao.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phần cơ sở lý luận về quyền chọn, đề tài sẽ đi vào định nghĩa và các đặc điểm cơ
bản của quyền chọn chứng khóan hiện có và đang được giao dịch trên thế giới, đồng
thời phân tích, giới thiệu các vấn đề liên quan đến quyền chọn chứng khoán mà nhà
đầu tư cần quan tâm và nắm vững để thực hiện giao dịch;
Phần Kinh nghiệm về tổ chức sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán tại một số
nước trên thế giới, đề tài sẽ đi vào phân tích kinh nghiệm của sản giao dịch Chicago,
Sàn giao dịch giao sau và Quyền chọn tài chính quốc tế London trực thuộc sàn giao
dịch quyền chọn Châu Âu, Sàn giao dịch Tokyo của Nhật Bản;
Phần áp dụng các giao dịch quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam, đề tài
sẽ giới thiệu sơ lược TTCK Việt Nam sau đó đi vào phân tích sự cần thiết, tiền đề và
những khó khăn của TTCK Việt Nam và từ đó đề xuất một số giải pháp và khả năng
ứng dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán tại TTCK Việt Nam;
Ngoài ra do có sự giới hạn nên trong khuôn khổ của đề tài nghiên cứu, đề tài này
không đi sâu vào phân tích những vấn đề như: Các mô hình và kỹ thuật định giá quyền
chọn, các chiến lược mua bán quyền chọn theo phân tích kỹ thuật và các khoản chi phí
và thuế liên quan khi thực hiện quyền chọn.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
4
Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như thống kê – mô tả, phân
tích – tổng hợp, so sánh – đối chiếu, diễn dịch – quy nạp và phương pháp quan sát từ
thực tiễn để khái quát bản chất của các vấn đề cần nghiên cứu. Đề tài này được tác giả
dựa vào cơ sở lý thuyết chuyên ngành tài chính doanh nghiệp, cùng với sự quan sát và
rút tỉa kinh nghiệm tham gia trên TTCK của chính tác giả từ năm 2000 đến nay đồng
thời kết hợp với nguồn dữ liệu thông tin do tác giả sưu tầm, tập hợp từ các sách báo,
tạp chí và các website có liên quan…
V. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Thị trường chứng khoán vốn chẳng bao giờ dễ dự đóan, điều đó càng đúng với một
thị trường chứng khoán Việt Nam còn non trẻ và chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn như
hiện nay. Trong buổi thuyết trình của giáo sư – tiến sĩ Stanley Pliska đến từ Đại học
Illinois, Chicago, Mỹ về nghiệp vụ hợp đồng tương lai và quyền chọn diễn ra ngày
10/03/2008, ông đã đưa ra nhận định “ Hiện nay, không chỉ các thị trường toàn cầu
nói chung và thị trường Việt Nam nói riêng, mọi người đều lo ngại về vấn đề quản lý
rủi ro, và đây cũng là thời điểm tốt để một thị trường non trẻ, với nhiều biến động về
giá trong thời gian qua như Việt Nam có thể xem xét đến việc áp dụng những hình
thức giao dịch tương lai và quyền chọn này”.
Xét về quy mô thị trường cũng như môi trường đầu tư hiện tại, việc nghiên cứu đưa
vào áp dụng các công cụ đầu tư là hết sức cần thiết. Quyền chọn - một sản phẩm đặc
trưng cho công cụ phái sinh- sẽ nâng cao đáng kể tính thanh khoản cho TTCK nếu
được đưa vào áp dụng và mang đến cho thị trường nhiều nhà đầu tư hơn với nhiều mức
chấp nhận rủi ro khác nhau, bảo vệ được lợi nhuận cho nhà đầu tư và tránh được tình
trạng sụt giảm liên tục trong thời gian dài của TTCK.
Hơn nữa, theo kế hoạch phát triển thị trường năm 2008, Ủy Ban Chứng Khoán Nhà
Nước (“UBCKNN”) sẽ nghiên cứu và triển khai từng bước việc mở tài khoản ký quỹ,
tập trung nghiên cứu các sản phẩm phái sinh. Theo ông Vũ Bằng – Chủ tịch UBCKNN,
có khả năng sản phẩm quyền chọn (Option) sẽ áp dụng trước và triển khai dần các công
cụ phái sinh khác khi có sự đồng bộ về các yếu tố thanh toán.
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
5
Do đó, việc nghiên cứu công cụ quyền chọn chứng khóan là việc làm hết sức cần
thiết và cấp bách trong lúc này. Đây không phải là công việc của riêng Nhà nước mà tất
cả những ý kiến đóng góp từ các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và những ai quan tâm
đến nghiệp vụ này đều rất hữu ích và đáng được trân trọng.
Do hạn chế về thời gian, trình độ và kinh nghiệm, đề tài không thể đi sâu tìm hiểu,
khảo sát và phân tích hết các khía cạnh có liên quan đến quyền chọn. Mong rằng đề tài
này sẽ được tiếp tục nghiên cứu, khảo sát, kiểm chứng đầy đủ hơn và trên cơ sở đó có
thể củng cố hoặc bổ sung thêm các giải pháp, đề xuất nhằm cho việc triển khai áp dụng
quyền chọn chứng khoán trên TTCK Việt Nam đạt được hiệu quả cao hơn, giúp các
nhà đầu tư có thêm công cụ tài chính cần thiết để bảo hiểm, đa dạng hóa cách thức đầu
tư, giảm thiểu rủi ro và mở ra các cơ hội mới tìm kiếm lợi nhuận cho chính họ và cũng
là góp phần cho sự tăng trưởng kinh tế quốc gia được ổn định và bền vững.
VI. Kết cấu của đề tài
Với phạm vi nghiên cứu như trên, nội dung chính của đề tài bao gồm 03 chương
Chương I: Cơ sở lý luận về quyền chọn cổ phiếu
Chưong II: Những kinh nghiệm về tổ chức sàn giao dịch quyền chọn cổ phiếu
tại một số nước trên thế giới
Chương III: Áp dụng các giao dịch quyền chọn cổ phiếu tại TTCK Việt Nam
Ngòai ra đề tài còn có các phần: Lời cam đoan, Lời cảm ơn, Danh mục các từ viết tắt,
Danh mục các bảng biểu và hình vẽ, Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham
khảo.
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
6
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU
1.1 SƠ LƯỢC VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN
Những giao dịch đầu tiên của quyền chọn mua và quyền chọn bán trên thế giới
được cho là đã xuất hiện từ đầu thế kỷ 18 ở Châu Âu.
Vào đầu những năm 1900, một nhóm Công ty gọi là “Hiệp hội những nhà môi
giới và kinh doanh quyền chọn mua và quyền chọn bán” đã thành lập thị trường các
quyền chọn. Nếu một người nào đó muốn mua quyền chọn, một thành viên của hiệp
hội sẽ này sẽ tìm một người bán sẵn sàng muốn ký hợp đồng bán quyền chọn. Nếu
công ty thành viên không thể tìm ra được người bán, tự công ty sẽ bán quyền chọn với
giá cả thích hợp. Vì vậy, một công ty thành viên có thể vừa là nhà môi giới vừa là nhà
kinh doanh. Thị trường hoạt động theo cách này gọi là thị trường phi tập trung OTC
(over-the-counter).
Tháng 4 năm 1973, Uỷ ban thương mại Chicago (Chicago Board of Trade- CBO)
thành lập sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán Chicago (Chicago Board Options
Exchange – CBOE), đặc biệt dành cho trao đổi quyền chọn về cổ phiếu. TTCK
Philadelphia (Philadelphia Exchange – PHLX) bắt đầu thực hiện giao dịch quyền chọn
vào năm 1975, TTCK Pacific (Pacific Stock Exchange – PSE) thực hiện vào năm
1976 và TTCK New York ( New York Stock Exchage – NYSE) thực hiện vào năm
1985.
Việc mua bán quyền chọn trở nên phổ biến đầu tiên ở Chicago Board of Options
Exchange. Vào thời kỳ đó chủ yếu trao đổi các cổ phiếu thương mại đơn lẻ. Năm
1992, quyền chọn bắt đầu giao dịch trên các hợp đồng tương lai với trái phiếu chính
phủ, và loại giao dịch này phát triển rất nhanh. Giao dịch trên thị trường đấu giá mở,
việc mua bán quyền chọn cung cấp rất nhiều công cụ để đầu cơ và phòng hộ giá cho
cộng đồng thương mại.
Khi xã hội ngày càng phát triển, giao dịch quyền chọn ngày càng trở nên phổ biến
hơn, lan rộng sang Anh, Brazil, Đức, Pháp, Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông và
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
7
Australia. Việc toàn cầu hoá thị trường thế giới đã tạo ra nhu cầu liên kết điện tử và
thương mại 24/24 trong ngày. Thị trường Mỹ đã đáp ứng nhu cầu này bằng cách tạo ra
những sản phẩm giao dịch quốc tế, mở rộng giờ giao dịch và triển khai một sàn giao
dịch điện tử.
Những hệ thống đáng chú ý nhất là GLOBEX (được CME phát triển) và Project A
(được CBOT phát triển). Ở Đức, Deustche Terminborse Exchange đã bỏ kiểu giao
dịch đấu giá mở, thay vào đó vận hành sàn giao dịch điện tử. Trên hệ thống GLOBEX,
các nhà đầu tư cá thể có thể giao dịch dựa trên chỉ số S&P 500, S&P 500 mini và
NASDAQ 100 và các hợp đồng con. Các nhà đầu tư còn có thể mua bán ngoại hối trên
GLOBEX. Trên hệ thống Project A ( hiện tại là hệ thống Eurex- tháng 8/2000 CBOT
xây dựng Eurex, tất cả giao dịch trên Project A đều được thực hiện tại Eurex). Các nhà
đầu tư cá thể có thể mua bán trái phếu T-bonds và tín phiếu, quyền chọn và tất cả các
sản phẩm ngũ cốc trên CBOT.
1.2 QUYỀN CHỌN VÀ QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU:
1.2.1 Định nghĩa
Quyền chọn là một hợp đồng ký kết giữa một bên là “người ký phát”
(Writer/Seller) và một bên là người mua hợp đồng (Buyer) trong đó, cho phép người
mua hợp đồng được quyền mua hoặc bán cho người ký phát hợp đồng một số lượng tài
sản với một giá cả nhất định và trong một thời hạn quy định của tương lai. Hợp đồng
quyền chọn cung cấp quyền cho người sở hữu nó chứ không phải là nghĩa vụ mua hoặc
bán. Vì vậy người chủ quyền chọn có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền trong
thời gian hiệu lực của hợp đồng quyền chọn.
Các hàng hoá trong giao dịch quyền chọn có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái
phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, tiền tệ hay hợp đồng tương lai…
Một quyền chọn phổ biến nhất trên thế giới hiện nay trong lĩnh vực tài chính và có
nhiều điểm tương đồng với giao dịch cổ phiếu là quyền chọn cổ phiếu.
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
8
Quyền chọn cổ phiếu là một công cụ giao dịch linh hoạt nhất đã được tìm ra trong
lĩnh vực kinh doanh – tài chính. Do chi phí cho quyền chọn thấp hơn giao dịch cổ
phiếu, quyền chọn cung cấp một đòn bẩy tài chính cao với một mức thiệt hại giới hạn
cụ thể trong việc giao dịch và đồng thời làm tăng thêm thu nhập cho nhà đầu tư. Người
mua quyền chọn có quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ bắt buộc, mua hoặc bán các
chứng khoán cơ sở (underlying stock) tại mức giá thực hiện đã thoả thuận trước (strike
price/ exercise price) vào trước hoặc tại ngày đã định trước(expiry date). Các quyền
chọn này tồn tại đối với hàng ngàn cổ phiếu riêng lẻ, mặc dù khối lượng giao dịch có
thể thấp đối với quyền chọn của một số loại cổ phiếu nhất định.
Tất cả các quyền chọn niêm yết có quyền thực hiện cho tháng hiện tại hoặc các
tháng quy định trong tương lai (ở Mỹ thường là vào ngày thứ sáu của tuần thứ ba trong
tháng đáo hạn). Mỗi cổ phiếu sẽ có một chu kỳ thích hợp đối vói quyền chọn. Tại Sàn
giao dịch Chứng khoán Chicago của Mỹ, có ba chu kỳ đáo hạn cố định được quy định
cho quyền chọn, mỗi chu kỳ thường cách nhau đều đặn là bốn tháng: Chu kỳ thứ nhất
bắt đầu từ tháng Giêng, tháng tư, tháng bảy và tháng mười; Chu kỳ thứ hai bắt đầu từ
tháng hai, tháng năm, tháng tám và tháng mười một; Chu kỳ thứ ba bắt đầu từ tháng ba,
tháng sáu, tháng chín và tháng mười hai.
Mỗi quyền chọn luôn có vài mức giá thực hiện (strike price) cao hơn hoặc thấp hơn
giá giao dịch hiện hành của chứng khoán cơ sở trên thị trường và tăng giảm theo một
biên độ nhất định, giá thực hiện được niêm yết giá với biên độ là 21/2, 5 và 10 điểm tuỳ
thuộc vào giá thị trường của chứng khoán cơ sở và chỉ có vài giá thực hiện ở trên hoặc
dưới giá hiện hành mới được giao dịch. Giá quyền chọn được xác định do cung cầu
trên cơ sở đấu giá công bằng, công khai và cạnh tranh của sàn giao dịch. Ngoài ra, giá
đóng cửa của quyền chọn luôn được đăng báo phổ biến hàng ngày.
Người nắm giữ quyền chọn có ba phương pháp để hiện thực hoá lợi nhuận hoặc
giảm thiếu phần thua lỗ bằng cách: hoặc bán lại quyền chọn; hoặc thoát khỏi giao dịch
bằng cách giao dịch ngược lại với quyền chọn đang nắm giữ (offseting); hoặc để quyền
chọn tự động đáo hạn không giá trị .
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
9
Với đặc tính của Quyền chọn cổ phiếu đã nêu trên có nhiều điểm tương đồng với
việc giao dịch cổ phiếu như: thứ nhất, việc giá giao dịch mua bán hình thành và thực
hiện theo phương thức đấu giá mở; thứ hai, giao dịch quyền chọn cổ phiếu được thực
hiện theo qui mô hợp đồng - tuỳ theo quy định cụ thể của từng sàn giao dịch, nhưng
thông thường là 100 cổ phần/hợp đồng quyền chọn- tương tự hình thức giao dịch theo
lô đối với cổ phiếu tại TTCK Việt Nam; thứ ba, nhà đầu tư quyền chọn còn có thể theo
dõi xu hướng giá, khối lượng giao dịch và thông tin liên quan mỗi ngày, thậm chí mỗi
phút của chứng khoán cơ sở giống như các nhà đầu tư cổ phiếu và nhanh chóng biết
được mức giá nào nên thực hiện hợp đồng Quyền chọn của mình.
Vì vậy, trong đề tài này tôi chỉ tập trung đề cập đến việc áp dụng Quyền chọn cổ
phiếu vào TTCKVN và những khái niệm về Quyền chọn chứng khoán xuất hiện trong
đề tài này cũng chỉ hàm ý đến Quyền chọn cổ phiếu
1.2.2 Các loại quyền Chọn
1.2.2.1 Quyền chọn Mua ( Call Options )
Quyền chọn mua cho người mua có quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, mua
chứng khoán cơ sở tại một mức giá thực hiện đến khi đáo hạn. Có rất nhiều giá thực
hiện có sẵn tuỳ thuộc vào giá giao dịch hiện thời của chứng khoán cơ sở. Thời gian đáo
hạn có thể từ một tháng đến hơn một năm (Quyền chọn dài hạn LEAPS – Longterm
Equity Anticipation Securities). Tuỳ thuộc vào trạng thái thị trường mà người mua
quyền chọn có thể mua (go long a Call option) hoặc bán ( go short a Call option) một
quyền chọn mua. Người mua quyền chọn mua có kỳ vọng về xu hướng tăng giá của cổ
phiếu.
Một quyền chọn mua mà giá chứng khoán cao hơn giá thực hiện được gọi là cao
giá ITM (quyền chọn mua có lãi); Nếu giá chứng khoán thấp hơn giá thực hiện, quyền
chọn mua được gọi là kiệt giá OTM (quyền chọn mua bị lỗ); Nếu giá chứng khoán
bằng với giá thực hiện, quyền chọn là ngang giá ATM ( quyền chọn mua hoà vốn).
Hình 1.1(a) mô tả thành quả của người mua quyền chọn mua với lợi nhuận tiềm
năng là vô hạn khi giá của chứng khoán cơ sở tăng trong tương lai. Ngược lại, nếu giá
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
10
chứng khoán giảm so với giá thực hiện, người mua quyền chỉ lỗ với mức lỗ tối đa bằng
với phí mua quyền chọn
Hình 1.1: Vị thế của Quyền chọn Mua
Vùng Lãi
Giá tài sản tăng
Giá thực hiện
Điểm hoà vốnLãi
Lỗ
Phí
0
Hình 1.1(b) mô tả thành quả của người bán quyền chọn mua, người bán quyền
chọn mua chỉ kiếm lời bằng khoản phí nhận được từ người mua quyền chọn và sẽ bị
thua lỗ vô hạn khi giá tài sản tăng so với giá thực hiện.
(a)- Thành quả của người mua quyền chọn mua
1.2.2.2 Quyền chọn Bán (Put Options)
Giá thực hiện
Điểm hoà vốn
Giá tài sản tăng
Vùng Lỗ
(b)- Thành quả của người bán quyền chọn mua
Lãi
Lỗ
Phí
0
Quyền chọn bán cho người mua có quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, bán
chứng khoán cơ sở tại một mức giá thực hiện đến khi đáo hạn. Có rất nhiều giá thực
hiện có sẵn tuỳ thuộc vào giá giao dịch hiện thời của chứng khoán cơ sở. Thời gian đáo
hạn có thể từ một tháng đến hơn một năm (Quyền chọn dài hạn LEAPS). Tuỳ thuộc
vào trạng thái thị trường mà người mua quyền chọn có thể mua (go long a Put option)
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
11
hoặc bán ( go short a Put option) một quyền chọn bán. Người mua quyền chọn bán kỳ
vọng cổ phiếu có xu hướng giảm giá.
Nếu giá cổ phiếu thấp hơn giá thực hiện, quyền chọn bán được xem là cao giá ITM
(quyền chọn bán có lãi); Nếu giá cổ phiếu cao hơn giá thực hiện, quyền chọn bán được
xem là kiệt giá OTM (quyền chọn bán bị lỗ); Nếu giá cổ phiếu bằng với giá thực hiện,
quyền chọn bán là ngang giá ATM (quyền chọn bán hoà vốn).
Vị thế người mua, người bán và phí quyền chọn bán được mô tả bằng hình sau:
Hình 1.2(a) Mô tả thành quả của người mua quyền chọn bán với lợi nhuận tiềm
năng là vô hạn khi giá của tài sản giảm trong tương lai. Ngược lại, nếu giá chứng
khoán tăng so với giá thực hiện thì người mua quyền chỉ lỗ với mức tối đa bằng với phí
mua quyền chọn.
Hình 1.2: Vị thế của Quyền chọn Bán
Vùng lãi Giá tài sản tăng
Giá thực hiện
Điểm hoà vốn
Lỗ
Lãi
Phí
0
Hình 1.2(b) mô tả thành quả của người bán quyền chọn bán, người bán quyền
chọn bán chỉ kiếm lời bằng khoản phí nhận được từ người mua quyền chọn và sẽ bị
thua lỗ vô hạn khi giá tài sản giảm so với giá thực hiện.
(a) – Thành quả của người mua Quyền chọn Bán
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
12
Vùng lỗ Giá tài sản tăng
Giá thực hiện
Điểm hoà vốnLỗ
Lãi
Phí
0
(b) – Thành quả của người bán Quyền chọn bán
Tóm lại, nhà đầu tư nắm giữ tài sản cơ sở mua quyền chọn bán khi họ dự đoán
trong tương lai tài sản giảm giá để bảo hiểm cho tài sản của mình hoặc cũng có thể đầu
cơ thu lợi trước dự đoán đó. Và ngược lại, khi nhà đầu tư kỳ vọng tài sản đó sẽ tăng lên
trong tương lai thì họ sẽ phòng ngừa rủi ro bằng cách mua một quyền chọn mua.
Nói như vậy, không có nghĩa là người bán quyền chọn mua và quyền chọn bán là
những kẻ liều lĩnh hay thích đùa, thích đánh đổi một lợi nhuận rất nhỏ (phí quyền
chọn) với những rủi ro vô hạn như 2 mô hình trên. Trên thị trường các nhà đầu tư khác
nhau sẽ có những cảm nhận, nhận định và đánh giá khác nhau về xu hướng thay đổi
của thị trường và các loại cổ phiếu nhất định nào đó – đây còn được gọi là thuyết đầu
tư “phi lý” nhưng lại rất phổ biến theo các nhà nghiên cứu thuyết tài chính hành vi - vì
vậy họ sẽ tin và hành động theo nhận định, phân tích và dự báo của mình với “khẩu vị”
rủi ro và mục tiêu lợi nhuận của riêng mình. Trong suốt quá trình đầu tư, họ không
ngừng tiến hành bù trừ các vị thế rủi ro hay tự bảo vệ mình khỏi thua lỗ bằng cách kết
hợp các chiến lược mua bán khôn khéo và độc đáo, do đó, các khả năng đạt được lợi
nhuận đa dạng đến nỗi gần như bất kỳ một nhà đầu tư nào cũng có thể tìm được một
chiến lược đáp ứng mức rủi ro ưa thích của mình mà vẫn phù hợp với dự báo của thị
trường.
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
13
1.2.3 Các kiểu thực hiện Quyền Chọn
Có ba kiểu thực hiện Quyền chọn: Quyền chọn Kiểu Mỹ ( American Style Option),
Quyền chọn Kiểu Châu Âu ( European Style Option) và Quyền chọn Giá Trần (Capped
Option)
Quyền chọn Kiểu Mỹ ( American Style Option): Cho phép người nắm giữ Quyền
chọn có quyền thực hiện hợp đồng quyền chọn vào bất kỳ ngày nào trước khi đáo hạn
của Quyền chọn. Nếu không thực hiện, Quyền chọn sẽ không còn giá trị khi đến ngày
đáo hạn và tồn tại như là một công cụ tài chính. Hiện nay, tất cả các giao dịch quyền
chọn chứng khoán thường là Quyền chọn Kiểu Mỹ.
Quyền chọn Kiểu Châu Âu ( European Style Option): chỉ cho phép người nắm giữ
Quyền chọn thực hiện hợp đồng quyền chọn vào ngày đáo hạn. Do đặc tính này nên
việc phân tích quyền chọn kiểu Châu Âu dễ hơn quyền chọn kiểu Mỹ.
Quyền chọn Giá Trần (Capped Option): là một hợp đồng Quyền chọn với một
mức lợi nhuận trần hoặc giá trần được xác định trước. Giá trần được tính bằng giá thực
hiện cộng với biên độ giá trần (interval cap) đối với hợp đồng Quyền chọn mua và
bằng giá thực hiện trừ đi biên độ giá trần đối với hợp đồng Quyền chọn bán. Hợp đồng
Quyền chọn giá trần tự động sẽ được thực hiện khi chứng khoán cơ sở đóng cửa tại
mức giá cao hơn ( đối với Quyền chọn Mua) và thấp hơn (đối với Quyền chọn Bán )
mức giá trần đã thoả thuận trong hợp đồng. Ngược lại, nếu không đạt được giá trần đã
thoả thuận, Hợp đồng Quyền chọn giá trần chỉ cho phép người nắm giữ Quyền chọn
thực hiện quyền chọn vào ngày đáo hạn.
1.3 QUI TRÌNH CƠ BẢN GIAO DỊCH QUYỀN CHỌN
1.3.1 Các chủ thể tham gia thị trường Quyền chọn
1.3.1.1 Chủ thể phát hành ( Writer/ Seller)
Chủ thể phát hành là những chủ thể mà họ sẽ cung quyền lựa chọn cho thị trường.
Chủ thế phát hành có thể là cá nhân, tổ chức và cũng có thể là các nhà tạo lập thị
trường.
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
14
Chủ thể phát hành còn là các nhà tạo lập thị trường, họ chịu trách nhiệm đáp ứng
nhu cầu của công chúng đối với Quyền chọn. Khi một công chúng nào đó muốn mua
(bán) một quyền chọn và không có thành viên nào trong công chúng muốn bán (mua)
quyền chọn đó, nhà tạo lập thị trường sẽ thực hiện giao dịch đó. Hệ thống này đảm bảo
rằng nếu một nhà đầu tư tư nhân muốn mua một quyền chọn cụ thể, sẽ có người sẵn
sàng chào bán, và nếu một người mua quyền chọn và sau đó muốn bán nó đi, sẽ có
người sẵn sàng mua. Nhà tạo lập thị trường cung cấp cho công chúng tiện ích về thực
hiện giao dịch ngay lập tức.
1.3.1.2 Chủ thể trung gian
Các môi giới và môi giới trên sàn giao dịch (Broker): Nếu một người nào đó muốn
mua hoặc bán một quyền chọn, cá nhân người đó phải thiết lập một tài khoản tại công
ty môi giới. Công ty này phải thuê một nhà môi giới trên sàn hoặc có hợp đồng hợp tác
với hoặc là một nhà môi giới độc lập trên sàn giao dịch hoặc là nhà môi giới sàn giao
dịch của một công ty đối thủ. Nhà môi giới trên sàn thực hiện các lệnh của những
người không phải là thành viên và hoặc là nhận một mức lương thuần hoặc là nhận hoa
hồng trên mỗi lệnh thực hiện được.
Trung tâm thanh toán bù trừ - Công ty thanh toán bù trừ quyền chọn (OCC): là
một công ty độc lập, đảm bảo cho việc thực hiện của người bán quyền chọn. OCC là
một trung gian thanh toán trong mỗi giao dịch. Người mua Quyền chọn khi thực hiện
quyền không hướng vào người bán quyền chọn mà hướng vào Công ty thanh toán bù
trừ quyền chọn và người bán quyền chọn cũng thực hiện chi trả hoặc giao chứng khoán
cho Công ty thanh toán bù trừ quyền chọn. Mỗi thành viên của OCC được gọi là công
ty thanh toán, có mở một tài khoản với OCC. Sự tham gia của OCC đảm bảo cho quy
trình thực hiện các hợp đồng Quyền chọn diễn ra thông suốt và hạn chế rủi ro phá vỡ
hợp đồng từ các bên nhờ thế mà quyền lợi của người mua ngày càng được đảm bảo.
1.3.1.3 Chủ thể đầu tư ( Taker/ Buyer)
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
15
Chủ thể đầu tư là những chủ thể có nhu cầu quyền chọn trên thị trường quyền chọn.
Chủ thể này tham gia thị trường quyền chọn nhằm mục đích kiếm lợi.
Thế giới tài chính bao gồm một số lượng khổng lồ các định chế ở đủ mọi qui mô,
mà rất nhiều trong số này tham gia giao dịch quyền chọn. Một số các định chế này là
công ty môi giới thực hiện lệnh cho công chúng, các công ty này tìm kiếm các quyền
chọn bị định giá không đúng, giao dịch chúng và nhờ vậy tạo thêm lợi nhuận cho công
ty. Nhiều nhà đầu tư có tổ chức lớn, như quỹ hưu bổng, quỹ uỷ thác và quỹ hỗ tương
cũng giao dịch quyền chọn. Trong hầu hết các trường hợp, các nhà đầu tư dạng này ký
kết quyền chọn đối với cổ phiếu trong danh mục của mình. Số lượng các tổ chức nước
ngoài giao dịch quyền chọn cũng tăng lên. Ngoài các nhà đầu tư có tổ chức lớn, dĩ
nhiên cũng có nhiều cá nhân – giàu có hoặc không giàu có – mua bán quyền chọn.
1.3.2 Quy trình cơ bản giao dịch Quyền chọn hiện nay
Một cá nhân muốn giao dịch quyền chọn đầu tiên phải mở một tài khoản ở công ty
môi giới. Khách hàng xác định quyền chọn, lệnh và quyết định số lượng hợp đồng
muốn giao dịch … và thông báo cho môi giới của mình, công ty môi giới gởi lệnh đến
cho người môi giới sàn giao dịch của công ty trên sàn giao dịch quyền chọn và thông
báo cho công ty thanh toán, công ty đã xử lý giao dịch ban đầu. Công ty thanh toán sau
đó đặt lệnh thực hiện cho OCC, OCC chọn ngẫu nhiên một công ty thanh toán mà
thông qua đó có một khách hàng vừa bán một hợp đồng giống như vậy. Các thành viên
của Trung tâm thanh toán bù trừ sẽ tự động thực hiện các giao dịch có cung – cầu gặp
nhau và thông tin giao dịch thành công cho khách hàng và đưa thông tin lên sàn giao
dịch hoặc gởi thông tin cho các thành viên trong hệ thống giao dịch để làm cơ sở cho
giao dịch tiếp theo, thực hiện thanh toán chuyển đổi tiền và chứng khoán cho khách
hàng theo thời gian quy định, thông báo cho khách hàng sự thay đổi trong tài khoản
giao dịch.
1.4 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
16
Hiện nay, các mô hình định giá quyền chọn như mô hình Black-Scholes và mô hình
nhị phân có thể giúp nhà đầu tư xác định giá tham khảo hợp lý (fair value) của quyền
chọn theo một công thức toán học. Có nhiều yếu tố tạo nên giá trị của quyền chọn và
ảnh hưởng đến phí quyền chọn khi giao dịch như:
Giá chứng khoán cơ sở (Underlying Stock Price): Giá trị của một quyền chọn
tuỳ thuộc chủ yếu vào giá của chứng khoán cơ sở. Trong trường hợp quyền chọn cao
giá ITM, sự chênh lệch giữa giá thực hiện hợp đồng quyền chọn và giá cổ phiếu trên
thị trường được xem là giá trị nội tại của quyền chọn (Intrinsic value).
Trong trường hợp quyền chọn ngang giá ATM hoặc kiệt giá OTM thì quyền chọn
đó không có giá trị nội tại nhưng các yếu tố khác sẽ tạo ra giá trị cho quyền chọn và
cùng nhau ảnh hưởng đến giá trị giao dịch của phí quyền chọn, được gọi là giá trị thời
gian (Time value) – được xác định bằng chênh lệch giữa phí quyền chọn và giá trị nội
tại. Các thành phần chính tạo ra giá trị thời gian của quyền chọn là Thời gian đến lúc
đáo hạn, độ biến động, cổ tức và lãi suất.
Như vậy, phí quyền chọn được xác định bởi giá trị nội tại của quyền chọn và giá trị
thời gian, trong trạng thái ngang giá ATM và trạng thái kiệt giá OTM thì giá trị thời
gian cũng chính là phí quyền chọn.
Thời gian đến lúc đáo hạn (Time Remaining Until Expiration): Thông thường,
thời gian đến lúc đáo hạn càng dài thì phí quyền chọn càng cao vì trong thời gian đó có
nhiều cơ hội để giá cổ phiếu cơ sở thay đổi và làm cho quyền chọn có lãi. Giá trị thời
gian sẽ rớt rất nhanh trong vài tuần cuối trước khi đáo hạn quyền chọn.
Độ biến động(Volatility): Độ biến động của giá chứng khoán cơ sở sẽ ảnh hưởng
đến phí quyền chọn. Độ biến động giá chứng khoán càng cao thì phí quyền chọn càng
cao do sẽ có một khả năng lớn là giá chứng khoán thay đổi và làm cho quyền chọn có
lãi.
Cổ tức: Thực tế cổ tức được trả cho người nắm giữ cổ phiếu, do đó cổ tức tiền
mặt sẽ ảnh hưởng đến phí quyền chọn thông qua sự tác động của nó đến giá của chứng
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
17
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
khoán cơ sở. Cổ tức làm cho giá cổ phiếu giảm xuống trong ngày giao dịch không
hưởng quyền, cổ t._.ức có tương quan ngược chiều với giá quyền chọn mua và tương
quan cùng chiều với giá quyền chọn bán.
Tỉ lệ lãi suất: Thông thường thì lãi suất càng cao sẽ có khuynh hướng làm giá
quyền chọn mua cao hơn và giá quyền chọn bán thấp hơn.
Tuy nhiên, giá giao dịch của một quyền chọn không nhất thiết phải bằng với giá
tham khảo (fair value), bởi vì các trông đợi khác nhau vào độ biến động và cổ tức sẽ có
nhiều kết quả giá tham khảo tương ứng. Trong thực tế, cung và cầu sẽ quyết định giá
quyền chọn là bao nhiêu. Các nhà đầu tư sẽ tính toán giá tham khảo của một hợp đồng
quyền chọn và có sự chỉ dẫn khi nào là giá thị trường đang cao hơn hoặc thấp hơn giá
tham khảo (fair value), và họ sẽ có quyết định mua hoặc bán quyền chọn và góp phần
hình thành mức giá thị trường của chính quyền chọn đó.
1.5 CÁC CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CƠ BẢN CỦA QUYỀN CHỌN
Hiệu quả của Quyền chọn được quyết định bởi các chiến lược riêng của mỗi nhà
đầu tư. Có một số chiến lược cơ bản mà chúng ta sẽ xem xét dưới đây, với giả định bỏ
qua một số yếu tố khách quan có thể ảnh hưởng đến kết quả của quyền chọn (1)
1.5.1 Mua Quyền chọn Mua ( Buying Calls/ Long Call)
1.5.1.1 Mua quyền chọn mua khi giá có khuynh hướng tăng lên
Mua quyền chọn mua cổ phiếu XYZ July 50, là quyền mua 100 cổ phiếu XYZ với
giá $50 cho mỗi cổ phiếu tại bất cứ thời điểm nào trước khi quyền chọn đáo hạn vào
tháng bảy. Giả định rằng phí quyền chọn phải trả là 3.5 (hay là $350 cho hợp đồng
này).
Nếu giá của cổ phiếu XYZ tăng lên $55 trước khi quyền chọn đáo hạn và phí quyền
chọn lúc này tăng lên 5.5 nhà đầu tư có thể quyết định:
1 Các yếu tố như hoa hồng phí, phí giao dịch, thuế sẽ được bỏ qua trong các chiến lược nêu trên để thuận lợi cho việc phân tích. giả định Giả
định rằng các quyền chọn thực hiện là quyền chọn kiểu Mỹ và qui mô hợp đồng quyền chọn cổ phiếu là 100 cổ phiếu.
18
Thực hiện quyền mua với tổng giá trị là $5.350 (bao gồm cả phí quyền chọn)
đồng thời bán lại số cổ phiếu này trên thị trường thu về $5.500 ($55x100),
lợi nhuận ròng đạt được là $150;
Hoặc bán quyền chọn với giá $550 ($5.5x100), thu chênh lệch của việc mua
bán phí quyền chọn là $200 ($550-$350), đạt 57% (200/350) cao hơn tỉ lệ lợi
nhuận thu được so với đầu tư trực tiếp 100 cổ phiếu là 10% ($55/$50).
Ngược lại, nếu giá cổ phiếu rớt còn $45 và phí quyền chọn giảm là 0,9 thì nhà đầu
tư có thể bán lại quyền chọn thu $90 (0.9x100) hoặc để cho quyền chọn đáo hạn không
giá trị và bạn sẽ mất toàn bộ phí mua quyền $350. Như vậy, mức lỗ do đầu tư quyền
chọn tối đa chỉ bằng phí quyền chọn hoặc ít hơn nếu bán lại quyền chọn và đặc biệt
phần thiệt hại sẽ thường là ít hơn lỗ do đầu tư cổ phiếu trực tiếp $500 [(50-45)x100].
Chiến lược mua quyền chọn mua cung cấp lợi nhuận tiềm năng vô hạn (bởi việc
bán lại quyền chọn để đạt lợi nhuận hoặc bán cổ phiếu và hưởng chênh lệch giá với giá
thị trường) và mức rủi ro xác định (phí quyền chọn). Đây là chiến lược tốt nhất được sử
dụng trong thị trường giá lên vì mức tăng giá của cổ phiếu cơ sở sẽ nằm trên mức hoà
vốn ( như phần minh hoạ ở Hình 1.1).
1.5.1.2 Mua quyền chọn mua là một phần của kế hoạch đầu tư an toàn
Một cách sử dụng quyền chọn phổ biến được biết đến là “ chiến lược 90/10” bao
gồm đầu tư 10% vào việc mua quyền chọn mua và 90% vào đầu tư vào công cụ tiền tệ
của thị trường (vi dụ như Tín phiếu kho bạc/ Trái phiếu ngắn hạn của Chính phủ T-
Bills) và nắm giữ cho đến khi đáo hạn quyền chọn.
Giả định rằng, cổ phiếu XYZ đang giao dịch tại mức giá $60, để mua 100 cổ phiếu
thì tổng giá trị cần đầu tư là $6.000, khi giá cổ phiếu giảm toàn bộ số tiền đầu tư này sẽ
bị rủi ro. Nếu áp dụng chiến lược đầu tư 90/10, nhà đầu tư sẽ dành ra 10% tổng giá trị
vốn hiện có đầu tư mua một quyền chọn mua sáu tháng cổ phiếu XYZ tại mức giá $60
(six-month XYZ 60 Call), với phí quyền chọn giả định là $6; 90% tổng giá trị vốn còn
lại là $5.400 sẽ đầu tư vào T-bills trong sáu tháng với lãi suất 10% và T-bills sẽ được
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
19
nắm giữ cho đến khi đáo hạn, thu lãi $270 trong sáu tháng và được bù đắp vào chí phí
mua quyền chọn đã bỏ ra. Giá vốn quyền chọn lúc này chỉ còn $330 ($600-$270).
Nếu giá cổ phiếu XYZ tăng hơn $3.3 mỗi cổ phiếu thì quyền chọn mua cao giá
ITM, ví dụ giá cổ phiếu tăng lên $65 và phí quyền chọn tăng lên $8, người nắm giữ
quyền chọn sẽ quyết định: thực hiện quyền mua 100 cổ phiếu với mức giá $60 và bán
lại trên thị trường với mức giá $65, tổng lợi nhuận thu về là $170 ; Hoặc bán lại quyền
chọn trên thị trường để hưởng chênh lệch $470.
Nếu giá cổ phiếu XYZ giảm hơn $3.3, phần thiệt hại sẽ giới hạn bằng với phí
quyền chọn đã trả ($600) và còn được bù đắp một phần bằng lãi suất do đầu tư T-Bills
mang lại cộng thêm với phần phí thu hồi nếu bạn quyết định bán lại quyền chọn vào
thời điểm đó.
Chiến lược này vừa cung cấp đòn bẩy tài chính (từ quyền chọn) vừa giới hạn được rủi
ro (từ T-Bills), cho phép nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận từ sự tăng giá của cổ phiếu vừa
hạn chế được rủi ro và bù đắp được một phần phí quyền chọn do lợi suất đầu tư trái
phiếu mang lại.
1.5.1.3 Mua Quyền chọn mua để chốt giá mua chứng khoán cơ sở
Một nhà đầu tư nhận thấy giá cổ phiếu đang rẻ nhưng hiện tại không đủ tiền mặt để
mua thì có thể sử dụng Quyền chọn mua để mua được cổ phiếu đó trong thời gian có
thể kéo dài đến 8 tháng.
Giả định rằng XYZ đang được giao dịch với giá $55 và nhà đầu tư muốn sở hữu
100 cổ phiếu XYZ tại mức giá đó, theo tính toán thì nhà đầu tư sẽ có được số tiền cần
để mua cổ phiếu trong 6 tháng tới và họ đoán rằng giá cổ phiếu sẽ tăng. Một giải pháp
dành cho nhà đầu tư này là mua quyền chọn mua 6 tháng cổ phiếu XYZ tại mức giá 55,
và đó là mức giá tối đa nhà đầu tư phải trả để mua cổ phiếu XYZ với mức phí 4.25.
Nếu trong 6 tháng, giá cổ phiếu tăng lên $70 và nguồn tiền dự kiến đã có đủ, nhà
đầu tư thực hiện quyền và sở hữu được 100 cổ phiếu XYZ với giá $55 với tổng chi phí
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
20
$5.925 (bao gồm cả phí quyền chọn) thay vì mất $7.000 để mua cổ phiếu trên thị
trường. Ngược lại, nếu giá cổ phiếu giảm còn $50, nhà đầu tư sẽ không thực hiện
quyền và để quyền chọn mua tự động đáo hạn không giá trị hoặc bán lại quyền chọn để
bù đắp một phần phí đã bỏ ra. Thiệt hại tối đa trong chiến lược này chỉ bằng đúng phí
quyền chọn đã bỏ ra.
1.5.1.4 Mua quyền chọn mua để bảo hộ việc bán khống cổ phiếu
Việc bán khống chứng khoán luôn yêu cần một tài khoản margin (tài khoản vay
tiền để mua chứng khoán) và ký quỹ đảm bảo vị thế của quyền chọn mua (margin
Calls) để nhà đầu tư đảm bảo việc thực hiện mua lại cổ phiếu một cách nhanh chóng.
Nhà đầu tư thực hiện bán khống cổ phiếu thực hiện mua quyền chọn mua để giới hạn
mức rủi ro của mình.
Giả định rằng nhà đầu tư bán khống 100 cổ phiếu XYZ giá $40 cho mỗi cổ phiếu và
đồng thời mua một quyền chọn mua cổ phiếu XYZ giá 40 và phí quyền chọn là 3.5.
Nếu giá trên thị trường tăng lên bán khống sẽ bị lỗ và nhờ vào việc thực hiện quyền
mua mà nhà đầu tư có thể bảo hộ được vị thế bán khống cổ phiếu của mình. Ví dụ, giá
cổ phiếu tăng lên $50, lúc này nhà đầu tư có thể thực hiện quyền chọn và mua cổ phiếu
tại mức giá $40 để đảm bảo cho vị thế bán khống của mình với chi phí là $350 thay vì
phải mất đi $1.000 để mua lại cổ phiếu nhằm bảo hộ cho vị thế bán khống.
Phần thiệt hại tối đa trong chiến lược này được giới hạn bằng chi phí mua quyền
chọn mua với cộng thêm phần chênh lệch (nếu có) giữa mức giá thực hiện của quyền
chọn và giá bán khống. Mặc dù quyền chọn mua được sử dụng để khử đi rủi ro giá tăng
cho Bán khống, nhưng nó không giúp cho người nắm giữ quyền chọn khỏi việc ký quỹ
thực hiện bán khống hoặc việc bổ sung phí và duy trì mức ký quỹ theo qui định.
1.5.2 Mua Quyền chọn Bán ( Buying Puts/ Long Put)
1.5.2.1 Mua quyền chọn bán khi thị trường có khuynh hướng giảm giá
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
21
Mua Quyền chọn Bán là một phương pháp hiệu quả hơn cả phương pháp bán khống
đối với việc tìm kiếm lợi nhuận khi giá chứng khoán đi xuống, thông qua việc mua
quyền chọn bán nhà đầu tư sẽ xác định được các mức rủi ro. Thông thường mức rủi ro
tối đa chính là phí mua quyền chọn, trong khi nếu thực hiện bán khống thì mức rủi ro là
không giới hạn. Mặt khác để thực hiện mua quyền chọn bán nhà đầu tư chỉ cần thanh
toán phí mua quyền chọn bán một lần, trong khi với hoạt động bán khống chứng khoán
nhà đầu tư phải luôn đảm bảo vị thế của mình bằng cách bổ sung và duy trì mức ký quỹ
theo qui định sau mỗi ngày giao dịch.
Quyền bán cổ phiếu tại một mức giá xác định sẽ có giá trị cao hơn khi giá của
chứng khoán đó giảm xuống như phần minh hoạ trong Hình 1.2 ở trên
Ví dụ, mua quyền chọn bán cổ phiếu XYZ July 50, là quyền bán 100 cổ phiếu XYZ
với giá $50 cho mỗi cổ phiếu tại bất cứ thời điểm nào trước khi quyền chọn đáo hạn
vào tháng bảy. Giả định rằng phí quyền chọn là 4 (hay là $400 cho hợp đồng này).
Nếu giá của XYZ giảm còn $45 trước tháng bảy và phí quyền chọn bán tăng lên $6,
nhà đầu tư có 2 lựa chọn: hoặc là mua 100 cổ phiếu XYZ với giá $45 và đồng thời thực
hiện quyền bán cổ phiếu XYZ với giá $50, lợi nhuận ròng đạt được là $100 ( $500 lợi
nhuận từ bán cổ phiếu trừ đi phí mua quyền chọn $400); Hoặc có thể bán quyền chọn
để lấy chênh lệch giá mua bán quyền chọn là $200.
Nếu giá cổ phiếu XYZ tăng lên $55 trước khi đáo hạn và phí quyền chọn giảm còn
$1.5, nhà đầu tư có thể bán lại quyền chọn với giá $150, thu hồi lại một phần chi phí đã
bỏ ra.
1.5.2.2 Mua quyền chọn bán để bảo vệ việc nắm giữ cổ phiếu (long stock
position)
Nhà đầu tư có thể giới hạn rủi ro cho cổ phiếu đang sở hữu bằng cách đồng thời
mua vào một quyền chọn bán của chứng khoán đó, một chiến lược bảo hộ thường được
biết đến dưới cách gọi quyền chọn bán bảo vệ - “married put”. Chiến lược này thiết
lập một mức giá tối thiểu cho việc bán cổ phiếu trong suốt thời gian còn hiệu lực của
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
22
quyền chọn bán và giới hạn mức lỗ tối đa chỉ bằng chi phí mua quyền chọn bán cộng
thêm các chi phí khác (nếu có) giữa giá giao dịch cổ phiếu và giá thực hiện của quyền
chọn.
Trong trường hợp cổ phiếu giảm giá, nhà đầu tư có thể thực hiện quyền bán cổ
phiếu với giá đã xác định giảm thiểu mức rủi ro phải gánh chịu bằng quyền chọn hoặc
bán lại quyền chọn (lúc này quyền chọn bán cao giá) lấy lợi nhuận từ việc bán quyền
chọn bù đắp cho phần lỗ do vị thế nắm giữ cổ phiếu tạo ra. Ngược lại khi giá cổ phiếu
tăng, việc nắm giữ cổ phiếu đã đạt được vị thế mong đợi, quyền chọn bán bị kiệt giá,
lúc này nhà đầu tư có thể để quyền chọn tự động đáo hạn hoặc bán lại quyền chọn bù
đắp một phần chi phí đã bỏ ra mua quyền, mức rủi ro tối đa chỉ bằng phí mua quyền
chọn và mức rủi ro này có thể chấp nhận được đối với mức sinh lời mong đợi của cổ
phiếu đem lại.
Chiến lược này chủ yếu nhằm để bảo hộ vị thế nắm giữ cổ phiếu (long stock
position) với mức rủi ro tối đa chấp nhận là phí quyền chọn hơn là quan tâm đến mức
lợi nhuận trần của quyền chọn khi giá giảm.
1.5.2.3 Mua quyền chọn bán để bảo vệ lợi nhuận tối thiểu cho cổ phiếu đầu tư
Nếu nhà đầu tư đã thiết lập một mức lợi nhuận cho cổ phiếu nắm giữ, họ có thể mua
quyền chọn bán để bảo vệ vị thế này chống lại các sự giảm giá ngắn hạn của cổ phiếu.
Nếu giá cổ phiếu giảm nhiều hơn chi phí quyền chọn bán, quyền chọn bán có thể được
bán hoặc thực hiện quyền chọn để bù đắp thiệt hại do sự giảm giá này.
Ví dụ nhà đầu tư đã mua cổ phiếu XYZ với giá $60 và giá hiện nay tăng lên $75.
Nhà đầu tư vẫn tiếp tục muốn nắm giữ cổ phiếu và muốn có được mức lợi nhuận đảm
bảo trên giá bán tối thiểu là $70 cho mỗi cổ phiếu, họ sẽ thực hiện mua quyền chọn
bán với giá thực hiện là $70 với phí quyền chọn là 1.5, đảm bảo việc bán cổ phiếu với
giá $70 trong thời gian hiệu lực của quyền chọn. Dĩ nhiên, lợi nhuận sẽ bị giảm đi $150
cho phí quyền chọn và cũng là thiệt hại tối đa trong chiến lược này.
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
23
Ví dụ, nếu giá cổ phiếu bị giảm xuống còn $65 và phí quyền chọn tăng lên $6, nhà
đầu tư có thể thực hiện quyền chọn và bán cổ phiếu XYZ với giá $70, phần lợi nhuận
$1.000 do vị thế cổ phiếu đã bị bù đắp một phần cho chi phí quyền chọn và kết quả đạt
dược là $850 ($1.000 -$150). Nếu nhà đầu tư mong muốn duy trì vị thế cổ phiếu, bạn
có thể bán quyền chọn bán đang có lời (ITM) với giá $600 và hưởng chênh lệch quyền
chọn bán là $450, có thể bù đắp một phần hoặc tất cả các thiệt hại trong giá trị cổ
phiếu.
Nếu giá cổ phiếu tăng lên, sẽ không có sự giới hạn trong lợi nhuận tiềm năng từ
việc tăng giá cổ phiếu. Lợi nhuận thu được từ cổ phiếu sẽ trừ đi phần phí quyền chọn
đã mua, hay mức chi phí cơ hội cao nhất chính là phí quyền chọn đã mua. ($150)
1.5.3 Bán Quyền Chọn Mua
1.5.3.1 Bán quyền chọn mua được phòng ngừa (Covered calls writing)
Trong giao dịch bán quyền chọn mua được phòng ngừa, nghĩa là mua chứng khoán
cơ sở và bán quyền chọn mua dựa trên chứng khoán đó. Đây là một chiến lược bổ sung
tốt nhất trong thị trường giá lên và ổn định với việc tăng giá chậm của chứng khoán cơ
sở đã được dự đoán trước. Thành công của một quyền chọn mua được phòng ngừa dựa
trên việc tìm ra sự ổn định của thị trường và một quyền chọn mua kiệt giá nhẹ (OTM)
với thời gian đáo hạn còn lại ít hơn 45 ngày, phí quyền chọn đủ để tạo ra giao dịch có
giá trị khi giá cổ phiếu cơ sở tăng thấp hơn giá thực hiện quyền chọn. Rủi ro cho giao
dịch này cao nhưng được đền bù lại một lợi nhuận trần do giá thực hiện của việc bán
quyền mua ngắn hạn.
Ví dụ mua 100 cổ phiếu Wall-Mart Stores, Inc ( WMT) với giá 43.88 và bán một
quyền chọn mua WMT với giá 45, thời gian đáo hạn còn lại là 2 tháng, phí quyền chọn
là 0.95. Lợi nhuận tối đa cho giao dịch này là phí quyền chọn nhận được từ việc bán
quyền chọn mua cộng với lợi nhuận từ cổ phiếu nắm giữ nếu giá cổ phiếu vào ngày đáo
hạn bằng với giá thực hiện trong hợp đồng quyền chọn. Phần thu về tối đa từ quyền
chọn là $95 và từ cổ phiếu là $112 [45-43.88) x 100]. Tổng lợi nhuận thu về từ chiến
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
24
lược bán quyền chọn mua được phòng ngừa này là $207 ( 95+112). Mức rủi ro tối đa
thì được giới hạn khi giá cổ phiếu WMT rớt qua khỏi mức hoà vốn là $42.93 (được xác
định bằng giá chứng khoán mua lúc đầu trừ đi phí quyền chọn, 43.88 – 0.95) đến 0.
Quyền chọn này không cần tài khoản ký quỹ đặt lệnh vì việc bán quyền chọn mua được
bảo hộ bởi chính cổ phiếu cơ sở nắm giữ.
Quyền chọn mua được phòng ngừa là chiến lược phổ biến nhất được sử dụng hiện
nay. Nếu người kinh doanh muốn tìm kiếm thêm lợi nhuận từ cổ phiếu đang nắm giữ,
họ có thể bán một quyền chọn mua kiệt giá nhẹ mỗi tháng. Rủi ro trên chiến lược này
là khả năng hạn chế trong việc bảo vệ chứng khoán cơ sở khỏi xu hướng giảm giá chủ
đạo và phần thiệt hại có thể của lợi nhuận trong tương lai khi giá chứng khoán lên cao
hơn mức giá thực hiện. Để tăng cường bảo vệ, quyền chọn mua được phòng ngừa có
thể kết hợp với việc mua dài hạn một quyền chọn bán ( trên 6 tháng). Quyền chọn mua
có thể bán mỗi tháng với sự bảo vệ hỗ trợ của việc thực hiện quyền chọn bán.
Lợi nhuận tiềm năng và thiệt hại của một người bán quyền chọn mua bị ảnh hưởng
bởi giá thực hiện của quyền chọn mua. Trong các trường hợp, lợi nhuận ròng đạt được
tối đa của người bán quyền chọn mua sẽ được xác định nếu giá cổ phiếu cao hơn hoặc
ngang bằng với giá thực hiện của quyền chọn lúc đáo hạn hoặc lúc thoả thuận. Giả định
rằng giá mua cổ phiếu thì bằng với giá hiện hành của cổ phiếu, nếu người bán quyền
chọn bán một quyền chọn mua ngang giá ATM thì lợi nhuận ròng chính là phí quyền
chọn mà anh ta bán; nếu là một quyền chọn mua cao giá ITM thì lợi nhuận ròng sẽ
bằng phí quyền chọn trừ đi các chi phí chênh lệnh giữa giá mua cổ phiếu và giá thực
hiện; nếu là một quyền chọn mua kiệt giá OTM, thì lợi nhuận ròng tối đa sẽ là phí
quyền chọn cộng với chi phí chênh lệch giữa giá thực hiện và giá mua cổ phiếu.
1.5.3.2 Bán quyền chọn mua không được phòng ngừa (Uncovered call writing)
Người bán quyền chọn mua không được phòng ngừa là người không nắm giữ
chứng khoán cơ sở để thực hiện hợp đồng quyền chọn, hợp đồng này còn gọi là hợp
đồng khống (naked). Người bán quyền chọn mua không được phòng ngừa bắt buộc
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
25
phải ký quỹ và duy trì tỉ lệ đủ để mua chứng khoán trong thị trường tự do nếu như
người mua quyền chọn thực hiện hợp đồng. Rủi ro của hợp đồng khống là không có
giới hạn. Tuy nhiên người bán quyền chọn mua không được phòng ngừa có thể đạt
được lợi nhuận trong suốt chu kỳ giảm giá hoặc đứng yên của giá chứng khoán. Hai rủi
ro chính mà nhà đầu tư cần quan tâm trong chiến lược này là: Nếu giá cổ phiếu tăng
nhanh, quyền mua sẽ được thực hiện. Người bán phải thực hiện nghĩa vụ chuyển giao
chứng khoán, và bắt buộc phải mua chứng khoán từ thị trường bên ngoài với giá cao
hơn hợp đồng. Hoặc Rủi ro của việc bán quyền chọn mua không được phòng ngừa thì
giống như bán khống chứng khoán, mặc dù người bán quyền chọn nhận được phí
quyền chọn bù đắp một phần rủi ro đó.
Giả định rằng bán một quyền mua cổ phiếu XYZ giá 65 đáo hạn tháng 7, phí quyền
chọn là 6. Nếu giá chứng khoán thấp hơn hoặc bằng 65 thì quyền chọn đó không có chỉ
định thực hiện và do không có cổ phiếu nên việc giảm giá cổ phiếu không ảnh hưởng
đến phần lợi nhuận do việc bán quyền chọn đem lại ($600). Mặt khác, nếu giá cổ phiếu
tăng lên $75, quyền chọn sẽ được chỉ định thực hiện và mức lỗ ròng lúc này là $400
($1000 - $600), phần thiệt hại của người đầu tư sẽ tiếp tục gia tăng khi giá cổ phiếu
tăng lên.
Để huỷ bỏ nghĩa vụ thực hiện giao dịch quyền chon này trước khi được chỉ định
thực hiện, người bán quyền chọn mua không được phòng ngừa phải thực hiện mua
chấm dứt giao dịch (closing purchase).
1.5.4 Bán Quyền Chọn Bán
1.5.4.1 Quyền chọn bán được phòng ngừa (Covered put writing)
Một người bán quyền chọn bán được xem là có phòng ngừa khi anh ta có cổ phiếu
tương ứng đảm bảo cho việc thực hiện quyền và bán quyền chọn trên chứng khoán đó
hoặc chứng khoán cơ sở còn được hiểu là tiền mặt của người phát hành quyền chọn ký
gởi trong tài khoản cho người môi giới đảm bảo đủ để thực hiện quyền chọn.
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
26
Chiến lược này là công cụ tốt nhất trong thị trường đi xuống và sự rớt giá của
chứng khoán cơ sở diễn ra chậm đã được dự đoán trước. Lợi nhuận tiềm năng của một
người phát hành quyền chọn bán được phòng ngừa sẽ tối đa bằng phí quyền chọn nhận
được cộng thêm chênh lệch giá giữa giá thực hiện quyền chọn bán và giá bán chứng
khoán cơ sở. Mức rủi ro của chiến lược này là vô hạn nếu giá cổ phiếu tăng mạnh, lúc
này, việc bán cổ phiếu sẽ làm tăng thêm lỗ trong khi mức bù đắp từ lợi nhuận bán
quyền chọn chỉ giới hạn ở mức phí thu được.
1.5.4.2 Quyền chọn bán không được phòng ngừa (Uncovered put writing)
Một người phát hành quyền chọn bán không được phòng ngừa là người không có
cổ phiếu tương đương đảm bảo thực hiện quyền chọn hoặc không có đủ tiền ký quỹ
bằng với giá trị thực hiện quyền chọn bán. Giống như việc phát hành quyền chọn mua
không được phòng ngừa, quyền chọn bán không được phòng ngừa có mức thu giới hạn
( phí quyền chọn nhận được) và mức rủi ro tiềm năng rất lớn (nếu giá giảm và bị chỉ
định thực hiện).
Nếu giá cổ phiếu giảm dưới giá thực hiện của hợp đồng quyền chọn bán thì quyền
chọn bán sẽ được thực hiện, người phát hành quyền chọn có nghĩa vụ phải mua lại cổ
phiếu với giá đã thoả thuận. Phần thiệt hại do cổ phiếu giảm giá sẽ được bù đắp một
phần hoặc toàn bộ bằng mức phí quyền chọn đã nhận được. Ngược lại, nếu giá cổ
phiếu tăng , quyền chọn bán sẽ tự động đáo hạn và người phát hành quyền chọn được
hưởng phần phí đã thu cùng với lợi nhuận do bán cổ phiếu.
1.6 LỢI ÍCH VÀ RỦI RO CỦA GIAO DỊCH QUYỀN CHỌN CHỨNG KHOÁN:
Với những đặc điểm linh hoạt trong sử dụng có tác dụng chính trong việc quản lý
rủi ro, cung cấp đòn bẩy tài chính cao trong việc đầu tư, quyền chọn còn cho nhà đầu
tư thời gian để quyết định đầu tư, đồng thời tạo thêm công cụ đầu cơ khi thị trường lên
hoặc xuống, đa dạng hoá danh mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro và tăng thêm thu nhập
đầu tư.
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
27
Bên cạnh những ưu điểm nói trên, nhà đầu tư quyền chọn phải đối mặt với những
rủi ro của quyền chọn như rủi ro khách quan của thị trường làm ảnh hưởng đến giá
quyền chọn, quyền chọn trở thành vô dụng với đặc điểm chu kỳ sống giới hạn của nó
và làm tăng thêm các khoản phí liên quan trong đầu tư (margin calls) và có thể dẫn đến
những rủi ro không giới hạn.
Tuy nhiên, nếu mọi nhà đầu tư đều hoạt động theo đúng các nguyên tắc đầu tư của
các chiến lược đầu tư nêu trên và khi thị trường có dấu hiệu tốt cho một chiến lược cụ
thể, thì ai cũng muốn đạt lợi nhuận tối đa trên danh mục đầu tư của mình hoặc khi có
những dấu hiệu thị trường xấu cho quyền chọn theo nguyên tắc của các chiến lược ban
đầu, họ sẽ mua hoặc bán đồng loạt làm cung cầu thị trường mất cân đối nặng nề, lúc đó
các chiến lược trên lý thuyết là rất hiệu quả trong việc phòng ngừa rủi ro nhưng thực tế
lại không thực hiện được, dẫn đến thị trường sẽ bị khủng hoảng ngày càng trầm trọng.
Vậy, liệu có còn nhà đầu tư nào dám tham gia đầu tư khi thị trường khủng hoảng và có
nguy cơ sụp đổ? Và tại sao thị trường giao dịch quyền chọn mặc dù có lúc tăng, giảm
nhưng nói chung vẫn có xu hướng tăng và ngày càng phát triển mạnh mẽ trên thế giới
cả về số lượng hợp đồng và giá trị giao dịch như hiện nay? Phải chăng mối quan hệ
cung cầu trên thị trường giao dịch quyền chọn luôn được cân bằng và đâu là nơi điều
tiết sự lưu thông và tạo ra nguồn cung mới tốt hơn trên thị trường đó?
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
28
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Chương I trình bày một công cụ tài chính rất phổ biến trên thế giới ngày nay là quyền
chọn Cổ phiếu. Chương này trình bày phần giới thiệu về sự phát triển của thị trường
quyền chọn, các khái niệm về quyền chọn và các yếu tố liên quan đến quyền chọn mà
nhà đầu tư cần nắm bắt, quy trình vận hành và thực hiện một quyền chọn cũng như
tham khảo các các chiến lược cơ bản để sử dụng quyền chọn trong việc hạn chế rủi ro
của các nhà đầu tư.
Đồng thời, thông qua tìm hiểu thị trường giao dịch quyền chọn, các chiến lược đầu tư
cơ bản quyền chọn hiện nay, có một vấn đề cần lưu tâm là sự lưu thông của thị trường
giao dịch quyền chọn và vai trò quan trọng của nhà tạo lập thị trường trong việc điều
chỉnh sự cân bằng cung cầu trên thị trường quyền chọn, đây cũng là vấn đề mấu chốt
để chuẩn bị và xây dựng các cơ sở tiền đề nhằm đem đến hiệu quả cao trong việc áp
dụng quyền chọn vào TTCK Việt Nam.
Mục tiêu của Chương I là cung cấp phần lý luận cơ bản để làm nền tảng cho việc
nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm tổ chức sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán tại một
số nước trên thế giới cũng như các tiền đề cần nghiên cứu, chuẩn bị cho áp dụng các
giao dịch quyền chọn cổ phiếu vào TTCK Việt Nam trong các Chương II và Chương
III tiếp theo.
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
29
CHƯƠNG II: KINH NGHIỆM VỀ TỔ CHỨC SÀN GIAO DỊCH QUYỀN
CHỌN CHỨNG KHOÁN TẠI MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
2.1 MÔ HÌNH MỸ
2.1.1 TTCK Mỹ
Nét quan trọng trong cơ cấu thị trường tài chính Mỹ là việc tách rời hoạt động của
ngành ngân hàng và ngành chứng khoán. Rất ít nước trên thế giới theo mô hình của
Mỹ. Trên thực tế, việc tách rời hoạt động của hai ngành chứng khoán và ngân hàng là
sự khác biệt nổi bật trong các quy định về hoạt động của ngành chứng khoán tại Mỹ và
các nước khác.
Thị trường chứng khoán Mỹ có lịch sử phát triển lâu dài và đã đạt đến trình độ cao
về mọi mặt, từ hệ thống thống luật chứng khoán đến hệ thống giao dịch chứng khoán
và đặc biệt đã xây dựng được cơ quan quản lý nhà nước mạnh. Chính vì vậy, mô hình
thị trường chứng khoán Mỹ đã được nhiều nước học tập, áp dụng và sửa đổi cho phù
hợp với thực trạng, điều kiện kinh tế của từng nước. Thị trường chứng khoán Mỹ xuất
hiện từ năm 1792 và đến năm 1800 đánh dấu sự ra đời của Sở Giao dịch chứng khoán
đầu tiên và sau đó là hàng loạt các sở giao dịch chứng khoán được hình thành trên khắp
nước Mỹ.
Sự bùng nổ chưa từng thấy trong thị trường chứng khoán cùng với việc đầu tư thoải
mái vào cổ phiếu làm gia tăng rất nhanh sự tham gia của công chúng vào thị trường
chứng khoán trong suốt những năm 1990. Khối lượng mua bán hàng năm trên Sở giao
dịch chứng khoán New York, hay “Hội đồng lớn”, tăng vọt từ 11.400 triệu cổ phiếu
năm 1980 lên 169.000 triệu cổ phiếu năm 1998 và tiếp tục tăng trên 350.000 triệu cổ
phiếu năm 2000, tổng giá trị giao dịch trong năm 2000 đạt 11,1 nghìn tỷ USD . Trong
khoảng từ năm 1989 đến năm 1995, tỷ lệ số hộ gia đình Mỹ sở hữu cổ phiếu, trực tiếp
hoặc thông qua trung gian như các quỹ trợ cấp, tăng từ 31% lên tới 41%.
Các tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán tại Mỹ bao gồm các ngân
hàng đầu tư, các công ty môi giới, các quỹ tín dụng đầu tư:
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
30
- Các ngân hàng đầu tư ( Investment bank): khi một công ty muốn phát hành vay
vốn, công ty thường thuê các dịch vụ của một ngân hàng đầu tư để giúp việc
chào bán chứng khoán. Mặc dù tên gọi là ngân hàng nhưng các ngân hàng đầu
tư không phải là một tổ chức tài chính trung gian đứng ra nhận tiền gởi và cho
vay mà hoạt động gần giống như một công ty chứng khoán tại Việt Nam. Những
ngân hàng đầu tư nổi tiếng tại Mỹ gồm có Morgan Stanley, Merrill Lynch,
Saiomon Brothers, First Boston Corporation và Goldman Sachs đã rất thành
công trong lĩnh vực bảo lãnh phát hành không những tại Mỹ mà cả các thị
trường ngoài Mỹ.
- Các công ty môi giới: các công ty môi giới ở Mỹ có thể thành lập dưới bất kỳ
hình thức nào: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh.
Có rất nhiều loại môi giới và tự doanh chứng khoán. Có nhà môi giới và tự
doanh nhỏ chỉ chuyên cung cấp một loại dịch vụ, cũng có những công ty môi
giới và tự doanh lớn cung cấp nhiều dịch vụ tài chính đa dạng như môi giới, cho
khách hàng vay tiền mua chứng khoán, quản lý tiền cho khách hàng… . Công ty
môi giới lớn nhất của Mỹ là Merrill Lynch, ngoài ra còn có các công ty khác
như Paine-Webber, Dean Witter Reynolds và Smith Barney.
- Các Quỹ tín dụng đầu tư chứng khoán: các quỹ này nhận tiền từ các cá nhân và
thay mặt họ đầu tư vào những danh mục đầu tư chứng khoán khác nhau. Các
quỹ tín dụng này tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhỏ, những người cảm thấy
không có khả năng hoặc thời gian để chọn trong số hàng ngàn cổ phiếu riêng,
đầu tư tiền của mình thông qua các nhà chuyên nghiệp. Và do các quỹ tín dụng
sở hữu các nhóm cổ phiếu rất đa dạng nên họ bảo vệ cho các nhà đầu tư phần
nào khi xuất hiện những dao động mạnh đối với giá trị của các cổ phiếu riêng
biệt. Bị hấp dẫn bởi thu nhập ổn định và một phạm vi rất rộng các khả năng lựa
chọn nên người Mỹ đã đầu tư một khối lượng tiền rất lớn vào các quỹ tín dụng
trong suốt những năm 1980 và 1990. Vào cuối những năm 1990, họ đã có 5,4
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
31
nghìn tỷ USD trong các quỹ tín dụng, và tỷ lệ số gia đình Mỹ giữ cổ phần trong
quỹ tín dụng đã lên tới 37% năm 1997 so với 6% năm 1979.
Cổ phiếu niêm yết chủ yếu được giao dịch ở 2 sàn giao dịch chứng khoán của Mỹ là
Sàn giao dịch chứng khoán New York (NYSE) và Sàn giao dịch chứng khoán Hoa Kỳ
(AMEX). Các thành phố lớn khác của Mỹ cũng có những sở giao dịch chứng khoán địa
phương nhỏ hơn. Tuy nhiên, số lượng mua bán lớn nhất các loại cổ phiếu và trái phiếu
khác nhau được giao dịch trên Hệ thống niêm yết giá tự động của Hiệp hội giao dịch
chứng khoán quốc gia, viết tắt là NASDAQ. Hoạt động được gọi là giao dịch ngoài
luồng này, tiến hành mua bán khoảng 5.240 loại cổ phiếu, không được đặt cố định tại
một địa điểm nào; đúng hơn, nó là một hệ thống mạng máy tính và điện thoại theo mô
hình của thị trường toàn cầu của các nhà giao dịch cổ phiếu và trái phiếu. Hiệp hội giao
dịch chứng khoán quốc gia, cơ quan giám sát thị trường giao dịch NASDAQ, có quyền
trục xuất các công ty và nhà giao dịch nào bị xác định là gian lận hoặc không trả được
nợ. Vì nhiều chứng khoán được giao dịch ở thị trường này thường là các công ty nhỏ
và ít ổn định nên NASDAQ được xem là thị trường có nhiều rủi ro hơn hai sở giao dịch
lớn nói trên.
Năm 1973, thị trường quyền chọn ra đời với việc thành lập Sàn giao dịch quyền
chọn chứng khoán Chicago (Chicago Board Options Exchange - CBOE), đặc biệt dành
cho trao đổi quyền chọn về cổ phiếu. Với sự phát triển mạnh mẽ của công cụ tài chính
phái sinh này, hiện nay tại Mỹ các sàn giao dịch quyền chọn có thể kể đến như AMEX,
CBOE, Sàn giao dịch chứng khoán quốc tế ( International Securities Exchanges –ISE),
sàn giao dịch chứng khoán Thái Bình (the Pacific Exchange, Inc. – PCX) và Sở giao
dịch chứng khoán Philadelphia ( The Philadelphia Stock Exchange, Inc. – PHLX).
Giống như giao dịch cổ phiếu, giao dịch quyền chọn được giám sát bởi Uỷ Ban Chứng
khoán và Hối phiếu ( Securities and Exchange Commission – SEC)
2.1.2 Sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán Chicago (CBOE)
2.1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
32
Thời gian Sự kiện
1973 - CBOE được thành lập
- Ngày giao dịch đầu tiên (26/04/1973) có 911 hợp đồng mua bán được
ký kết.
1975 - Hệ thống báo giá tự động được giới thiệu
- Trung tâm thanh toán các giao dịch quyền chọn được thành lập
- Mô hình Black-Scholes được áp dụng trong việc định giá quyền chọn
1977._.goài nước trên thị trường quyền chọn.
3.4.4 Thông tin cho thị trường chưa thật sự hiệu quả, minh bạch và công khai
Hiện nay, các công ty niêm yết được quy định cung cấp các thông tin định kỳ như
báo cáo tài chính tháng, báo cáo Quý, báo cáo thường niên và báo cáo kiểm toán và các
thông tin bất thường trong vòng 24h, 72h … cho UBCKNN và SGDCK/TTGDCK.
Tuy nhiên, việc công bố thông tin không được đặt đúng tầm quan trọng của nó, các
công ty niêm yết công bố chiếu lệ, qua loa, không cung cấp đúng và đầy đủ nội dung,
các website của một số công ty niêm yết vẫn chưa thực hiện việc công bố thông tin
theo định. Cơ quan phụ trách đưa thông tin ra công chúng chỉ có UBCKNN và
SGDCK/TTGDCK thông qua website của mình, còn lại các công ty chứng khoán thành
viên thì cập nhật một cách tự phát. Gần đây có một số phương tiện thông tin đại chúng
đã thực hiện truyền tải các thông tin chứng khoán cho nhà đầu tư nhưng chưa được phổ
biến và chủ yếu là theo đơn đặt hàng quảng cáo của công ty niêm yết.
Vừa qua, nhà đầu tư tại Việt Nam đã bị hoang mang với báo cáo tài chính được
kiểm toán của Công ty Cổ phần Bông Bạch Tuyết, kiểm toán hai lần từ lãi thành lỗ?
Vậy tính hiệu quả và trung thực của các báo cáo của các công ty niêm yết tại Việt Nam
có đáng được tin cậy không? Tuy nhiên, cơ quan chức năng hầu như không phát hiện
ra những sai phạm này mà chỉ đơn thuần tiếp nhận báo cáo và công bố trên website.
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
73
Trong khi các nhà đầu tư đã mua và lựa chọn đầu tư cổ phiếu dựa trên các thông tin mà
họ công bố trên thị trường.
3.4.5 Khả năng phân tích của nhà đầu tư Việt Nam còn nhiều hạn chế
Điểm qua tình hình TTCK Việt Nam từ ngày đầu thành lập đến nay, xu hướng của
thị trường luôn vận động gần như một đường thẳng: lần thứ nhất, tăng từ 100 điểm đến
571,04 điểm vào phiên giao dịch thứ 137 (ngày 25/06/2001) với tổng khối lượng khớp
lệnh là 2,68 triệu cổ phiếu, giá trị tương đương 23,57 tỷ đồng và sau đó giảm không
phanh từ tháng 7/2001 đến tháng 10/2001 và kéo dài đến tháng 10/2005 với phiên giao
dịch thứ 652, tổng giá trị giao dịch chỉ đạt 1,78 tỷ đồng; lần thứ hai xảy ra vào những
tháng đầu năm 2006, Vn-Index từ hơn 300 điểm đã tăng liên tục đến 623,69 điểm ở
phiên giao dịch thứ 1.276 ngày 25/04/2006 với 37,76 triệu cổ phiếu được giao dịch
tương đương 314,23 tỷ đồng và rồi lại giảm nhanh chóng xuống còn 399 điểm vào
ngày 01/08/2006; lần thứ ba với thông tin Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150
của tổ chức thương mại quốc tế (WTO) vào tháng 11/2006 cùng với sự đầu tư mạnh
mẽ từ các nhà đầu tư nước ngoài đã tác động mạnh mẽ lên tâm lý của nhà đầu tư trong
nước đã đẩy chỉ số Vn-Index lên mức kỷ lục vào phiên giao dịch thứ 1.495 ngày
12/03/2007 đạt 1.170, 67 điểm, khối lượng cổ phiếu giao dịch trong phiên này là 13,34
triệu cổ phần tương đương giá trị 1.180,99 tỷ đồng, tuy nhiên khi nhận được thông tin
không tốt từ nhà đầu tư nước ngoài thì cuộc tháo chạy của thị trường càng nặng nề hơn
hai lần trước, Vn-Index tuột dốc không phanh xuống đến mức 364,71 điểm vào ngày
20/06/2008 với tổng giá trị giao dịch còn 69,76 tỷ đồng. Mặc dù Chính phủ cũng như
UBCKNN đã có nhiều biện pháp vực dậy thị trường, đồng thời nền kinh tế vĩ mô cũng
dần ổn định nhưng dường như cũng không còn hiệu quả, các đợt chỉ số tăng rồi nhanh
chóng sụt giảm do các nhà đầu tư ào ạt bán ra theo tâm lý bày đàn mà không có sự
phân tích và chiến lược đầu tư cụ thể nào, khi thị trường lên hầu như mọi cổ phiếu đều
tăng trần và không có người bán và khi thị trường xuống thì hầu hết mọi cổ phiếu đều
giảm sàn và không có người mua.
3.4.6 Các công ty niêm yết trên TTCK có quy mô nhỏ và chưa hiệu quả
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
74
Quyền chọn cổ phiếu là một công cụ chứng khoán phái sinh, sự tồn tại của quyền
chọn phụ thuộc tương đối vào các chứng khoán trên thị trường. Để ứng dụng giao dịch
quyền chọn, trước tiên phải có các chứng khoán có chất lượng, thu hút được các nhà
đầu tư tham gia thì quyền chọn cổ phiếu mới có cơ hội phát triển và mở rộng. Tính đến
ngày 01/09/2008 số lượng doanh nghiệp niêm yết là 309 doanh nghiệp, trong đó có 161
doanh nghiệp niêm yết tại SGDCK Tp.HCM và 148 doanh nghiệp niêm yết tại
TTGDCK Hà Nội, tuy nhiên số lượng công ty lớn và đảm bảo tiêu chuẩn để trở thành
cổ phiếu “blue chip” thì hầu như chỉ khoảng vài chục công ty. So sánh với thị trường
quyền chọn của các nước với số lượng công ty niêm yết lên đến hàng ngàn công ty thì
số lượng cổ phiếu cơ sở cho quyền chọn cần phải được tăng cường về số lượng và chất
lượng đáp ứng nguồn cung hàng hoá cơ sở cho việc áp dụng quyền chọn cổ phiếu vào
TTCK Việt Nam.
3.5 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ ỨNG DỤNG GIAO DỊCH QUYỀN CHỌN CHỨNG
KHOÁN VÀO TTCK VIỆT NAM
Theo quan điểm của tác giả, Việt Nam nên học hỏi kinh nghiệm, áp dụng và cải tiến
mô hình tổ chức sàn giao dịch quyền chọn của Nhật Bản vì có những sự tương thích
trong cơ cấu tổ chức, quản lý, giám sát và cả sự thận trọng của chính phủ Nhật trong
việc mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán. Tuy
nhiên, để đạt được thành công trong việc áp dụng quyền chọn cổ phiếu vào TTCK Việt
Nam, chúng ta cần phải thực hiện một số nhóm giải pháp chính như sau:
3.5.1 Nhóm giải pháp vĩ mô
Luật Chứng Khoán số 70/2006/QH11 đã được Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/06/2006. Đây là văn bản
pháp luật cao nhất về chứng khoán và TTCK Việt Nam. Do đó, Luật giao dịch quyền
chọn cổ phiếu phải dựa trên nền tảng Luật Chứng khoán, các hoạt động trên thị trường
quyền chọn phải đồng thời tuân thủ các quy định chung của TTCK vừa có những quy
định riêng phù hợp với đặc tính của quyền chọn. Luật quyền chọn sẽ điều chỉnh các
vấn đề quản lý thị trường, hoạt động chào bán, niêm yết, quy chế công bố thông tin,
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
75
quy định thành viên tham gia, cá phương thức giao dịch, kinh doanh, giới hạn thực hiện
đối với các thành viên, tổ chức đầu tư có quy mô lớn, các hành vi bị cấm, chế tài cho
từng trường hợp vi phạm cụ thể … nhằm đảm bảo sự công bằng và hiệu quả của thị
trường. Và để tránh việc ban hành Luật quá chậm khi triển khai ( như đối với TTCK,
sau khi hoạt động 7 năm mới có Luật Chứng khoán làm cơ sở điều chỉnh), thiết nghĩ
Bộ Tài Chính và UBCKNN là bộ phận quản lý trực tiếp nên tiến hành xây dựng các cơ
sở luật thích hợp đệ trình lên Chính phủ trong thời gian sớm nhất trước khi thực hiện
triển khai áp dụng quyền chọn vào TTCK Việt Nam.
3.5.2 Nhóm giải pháp vi mô
3.5.2.1 Nâng cao vai trò và trách nhiệm của một số cơ quan chức năng có liên
quan
Với vai trò là cơ quan chủ quản, Bộ Tài Chính cần phải xem xét các chính sách sẽ
ảnh hưởng đến việc hoàn thiện các môi trường đầu tư trong TTCK nói chung và thị
trường quyền chọn nói riêng, đảm bảo sự hài hoà, đồng bộ giữa các chính sách thuế áp
dụng; tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các ngành kinh tế, loại hình doanh
nghiệp,; các chính sách quản lý kiểm soát rủi ro đầu tư của hệ thống ngân hàng; chính
sách tỉ lệ lãi suất cơ bản, tỉ giá trao đổi; đồng thời đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các
tổng công ty có kết quả hoạt động tốt để cung cấp thêm nguồn hàng hoá cho TTCK;
xây dựng các chính sách điều tiết, ổn định môi trường đầu tư có liên quan; xây dựng
một định chế tài chính đóng vai trò như một nhà tạo lập thị trường và trung tâm thanh
toán –bù trừ, đảm bảo sự lưu thông trên thị trường và khả năng thanh toán khi có biến
động. Ngoài ra, nên phân định rõ tiêu chuẩn giữa cổ phiếu hạng nhất (blue-chips) và
các cổ phiếu hạng hai cũng như cổ phiếu rủi ro đồng thời có các chính sách bảo hộ
tương ứng từ Bộ Tài Chính khi thị trường có sự sụt giảm nghiêm trọng.
UBCKNN là cơ quan quản lý trực tiếp việc vận hành của TTCK nói chung và thị
trường quyền chọn nói riêng cần có sự nâng cấp và chuyên sâu trong các hệ thống
phòng ban chuyên sâu trong từng lĩnh vực, để có thể cung cấp các giải pháp nhạy bén
và linh hoạt cho thị trường. Đào tạo và bồi dưỡng nhân lực chuyên sâu là một yêu cầu
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
76
cấp thiết và cần tiến hành trên diện rộng thông qua các Trung tâm Đào tạo, tạp chí
Chứng khoán. Ngoài ra, nên tổ chức các ban điều hành, ban bổ nhiệm, ban kiểm toán,
ban tư vấn có sự tham gia của các chuyên gia từ các lĩnh vực liên quan, các công ty
niêm yết để đạt được sự phát triển khách quan, toàn diện và phù hợp với thị
trường…Đồng thời, nâng cao công tác quản lý, giám sát các hoạt động sai phạm, tổ
chức lại hệ thống các trung tâm, phòng ban chuyên môn cũng như các tiêu chí cần
giám sát để phát hiện sớm các giao dịch bất thường, giao dịch nội gián, thao túng và
lũng đoạn thị trường đảm bảo một thị trường lành mạnh và hiệu quả. Xây dựng định
hướng phát triển các sàn giao dịch đối với quyền chọn tương ứng với thị trường chứng
khoán cơ sở và lộ trình thực hiện chi tiết và cụ thể từ 2008 đến 2012.
SGDCK/ TTGDCK, Trung tâm Lưu ký là các cơ quan tổ chức và vận hành hoạt
động của TTCK, trước hết phải thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại đáp
ứng được quy mô thị trường ngày càng lớn; sớm chuyển sang hình thức công ty cổ
phần mà các tổ chức thành viên của SGDCK/TTGDCK sẽ là các cổ đông góp vốn, tạo
sự gắn kết giữa lợi ích của các công ty chứng khoán, các tổ chức tài chính thành viên
với lợi ích của thị trường nhằm hạn chế sự liên kết đầu cơ lũng đoạn thị trường; xây
dựng chính sách lương bổng đãi ngộ tương xứng và chính sách đào tạo nguồn nhân lực
có trình độ chuyên môn cao và chuyên sâu trong từng lĩnh vực, đảm bảo nguồn nhân sự
trong việc quản lý, giám sát hoạt động ngày càng phức tạp của thị trường; xây dựng các
quy định, quy trình thống nhất và đồng bộ tránh mỗi nơi mỗi kiểu như hiện nay gây
khó khăn cho nhà đầu tư cũng như các tổ chức tham gia trên thị trường.
3.5.2.2 Xây dựng mô hình thị trường quyền chọn khoa học, hiệu quả và phù
hợp với thực tế của Việt Nam
Theo quan điểm của tác giả nên áp dụng mô hình quyền chọn Nhật Bản cho thị
trường quyền chọn Việt Nam. Tuy nhiên, với xu hướng liên thông, liên kết và đi đến
sáp nhập giữa các sàn giao dịch chứng khoán trên thế giới hiện nay, Việt Nam cần
chuẩn bị và có định hướng trong việc xây dựng các mô hình TTCK nói chung và thị
trường quyền chọn nói riêng. Để TTCK Việt Nam đảm bảo vừa có thể học hỏi kinh
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
77
nghiệm tổ chức của Nhật Bản nhưng vẫn tiếp nhận các kỹ thuật mới và cải tiến các
phương thức tổ chức hiện đại, tiên tiến nhằm đảm bảo sự phù hợp với thông lệ quốc tế
và không mất đi bản sắc riêng của TTCK Việt Nam.
Cơ chế vận hành và quản lý khoa học tối thiểu phải xây dựng được các tiêu chuẩn
về chứng khoán cơ sở; tiêu chuẩn về hợp đồng quyền chọn; hệ thống giao dịch, giám
sát, công bố thông tin, hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ, các nhà tạo lập thị trường; tổ
chức giám sát hoạt động giao dịch; tổ chức cung cấp thông tin và các mô hình định giá
kỹ thuật đại chúng cho nhà đầu tư; các hoạt động chế tài cụ thể … giúp thị trường có
đủ năng lực để xử lý nhanh, chính xác các giao dịch trên thị trường, giúp tăng tốc độ
luân chuyển vốn, tránh các hiện tượng đầu cơ gây lũng đoạn trên thị trường.
3.5.3 Nhóm giải pháp về phát triển thị trường
3.5.3.1 Thực hiện chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia
TTCK
Khuyến khích các định chế đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, chứng khoán, bảo
hiểm…) tham gia đầu tư trên thị trường theo quy định của pháp luật.
Xem xét loại chứng khoán nào cần hạn chế sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài sẽ
cho niêm yết bảng riêng hoặc không cấp phép cho giao dịch quyền chọn cổ phiếu hạn
chế. Thực hiện lộ trình mở cửa đối với các nhà đầu tư chuyên nghiệp nước ngoài vào
thị trường Việt Nam theo lộ trình đã cam kết;
Đa dạng hoá các loại hình quỹ đầu tư; tạo điều kiện cho phép Bảo hiểm xã hội Việt
Nam, Tiết kiệm bưu điện… tham gia đầu tư trên thị trường vốn; từng bước phát triển,
đa dạng hoá các quỹ hưu trí để thu hút các vốn dân cư tham gia đầu tư; khuyến khích
việc thành lập các quỹ đầu tư ở nước ngoài đầu tư dài hạn vào thị trường Việt Nam.
3.5.3.2 Nâng cao hiệu quả cung cấp thông tin
Thông tin trên TTCK Việt Nam hiện nay chủ yếu do UBCKNN và các
SGDCK/TTGDCK quản lý và công bố trên website. Hiện nay, UBCKNN đã luôn kịp
thời công bố các thông tin phát hành, chia cổ tức, cấp phép, xử phạt các vi phạm của
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
78
các công ty niêm yết, so với thời gian trước đây, nhà đầu tư chỉ nghe được tin đồn, khi
được công bố chính thức ra thị trường thì giá cổ phiếu đã tăng rất nhiều phiên. Hiện
nay, với quy định chi tiết hơn về nội dung công bố thông tin, thời gian phải báo cáo
cho UBCKNN khi có sự thay đổi hợp lý, đã làm thông tin nội gián giảm đi rất nhiều.
Điều này cho thấy quyết tâm nâng cao hiệu quả cung cấp thông tin trên TTCK của
UBCKNN.
Tuy nhiên, để tránh trường hợp như công ty Bông Bạch Tuyết, ngoài công tác tiếp
nhận và công bố thông tin đơn thuần, cần xây dựng các tiêu chuẩn cao cho việc minh
bạch, công bằng và đáng tin cậy cho người đầu tư. Muốn vậy, các SGDCK, TTGDCK
là cơ quan tiếp nhận trực tiếp nên có những nhân sự có kinh nghiệm, trình độ chuyên
môn trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán để đánh giá khách quan các báo cáo tài chính từ
các công ty niêm yết. Tăng cường và phát triển hệ thống công bố thông tin nhằm đảm
bảo thông tin công bố kịp thời. Giám sát việc công bố thông tin của các thành viên thị
trường đảm bảo tính minh bạch, đầy đủ.
Ngoài ra, cơ chế nộp thông tin để công bố cho cơ quan quản lý vẫn còn nặng tính
hình thức, đối với các thông tin nóng phải công bố trong vòng 24 tiếng đồng hồ, các
công ty niêm yết không thể có hình thức thông báo khác ngoài văn bản đóng dấu bản
chính, thay vì nhận bằng fax, mail và các phương tiện thông tin hiện đại khác.
Hiện nay, các trang web của hầu hết các doanh nghiệp niêm yết đều chưa có đầy đủ
thông tin theo quy định và phía cơ quan quản lý cũng chưa có biện pháp giám sát, xử lý
vi phạm đảm bảo cho thông tin được cung cấp đầy đủ và kịp thời.
Bên cạnh đó, các thông tin phải được công bố theo phương pháp song ngữ Việt –
Anh và phản ánh đầy đủ thông tin, các văn bản pháp luật hướng dẫn có liên quan cũng
nên nhanh chóng có bản tiếng Anh để tiện cho việc tham khảo của nhà đầu tư nước
ngoài, giúp nhà đầu tư quốc tế hiểu rõ hơn về các quy định và vận hành và từ đó có sự
tin tưởng vào sự phát triển ổn định của TTCK Việt Nam.
3.5.3.3 Hoàn thiện quy trình và trang bị hệ thống kỹ thuật giao dịch hiện đại
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
79
Nâng cấp đồng bộ hạ tầng kỹ thuật của thị trường, đảm bảo khả năng liên kết với
thị trường các nước trong khu vực; Xây dựng hệ thống Công nghệ thông tin hiện đại
đáp ứng yêu cầu của thị trường và theo tiêu chuẩn quốc tế; Đồng thời tiếp tục triển khai
và hoàn tất thực hiện việc giao dịch từ xa từ các Thành viên đến Sở, tiến tới việc giao
dịch không sàn trong tương lai.
Tiếp tục ký biên bản hợp tác với các SGDCK trên thế giới; Đồng thời tổ chức và
thực hiện các nội dung trong các Biên bản hợp tác đã ký, đặc biệt phối hợp với các
SGDCK tổ chức thực việc niêm yết chéo giữa các thị trường. Qua đó, hoàn thiện và
ban hành quy trình thống nhất giữa các cơ quan quản lý, các sàn giao dịch cho chứng
khoán và quyền chọn tại TTCK Việt Nam.
3.5.3.4 Phát triển các tổ chức tài chính trung gian, các cơ sở thanh toán bù trừ
thống nhất phục vụ cho việc giao dịch quyền chọn
Tăng số lượng hợp lý, nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực tài chính cho các
công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán,.... Đa dạng hoá
các loại hình dịch vụ cung cấp trên thị trường, nâng cao tính chuyên nghiệp và chất
lượng các dịch vụ; đảm bảo tính công khai, minh bạch và bình đẳng trên thị trường;
Mở rộng phạm vi hoạt động Trung tâm Lưu ký chứng khoán, tự động hoá hệ thống
lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán, tăng cường các dịch vụ cung cấp cho các
chứng khoán chưa niêm yết, áp dụng các chuẩn mực lưu ký quốc tế, thực hiện liên kết
giao dịch thanh toán giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ;
Từng bước hình thành Viện nghiên cứu định mức tín nhiệm ở Việt Nam. Cho phép
thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm đủ điều kiện tại Việt Nam và cho phép một
số tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín của nước ngoài thực hiện hoạt động định mức
tín nhiệm ở Việt Nam.
3.5.4 Các nhóm giải pháp khác
3.5.4.1 Khuyến khích nghiên cứu và thành lập các Công ty định giá chuyên
nghiệp và độc lập cho thị trường
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
80
Để áp dụng được quyền chọn vào TTCK Việt Nam, UBCKNN nên chuẩn bị tổ
chức một bộ phận chuyên trách hỗ trợ cho nhà đầu tư trong việc phân tích, nghiên cứu
xây dựng các mô hình toán học định giá quyền chọn và cung cấp các kỹ thuật định giá
quyền chọn nếu cần.
Đồng thời phối hợp với tạp chí Chứng khoán hoặc Bản tin của SGDCK/TTGDCK
để đưa ra các giá quyền chọn tham khảo mỗi ngày cho nhà đầu tư.
Tại các nước đã phát triển thị trường quyền chọn, Công ty định giá chiếm vai trò rất
quan trọng đối với các nhà đầu tư, việc tổng hợp thông tin, xây dựng mô hình định giá,
cung cấp kỹ thuật định giá, hệ thống công bố mức giá tham khảo tự động mỗi ngày là
một loại dịch vụ tiên tiến góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường và giúp
nhà đầu tư có được các thông tin và quyết định đúng đắn trong đầu tư.
3.5.4.2 Có kế hoạch tuyên truyền và công bố rộng rãi các ưu việt của giao dịch
quyền chọn
Sự quan tâm và hiểu biết của công chúng là một yếu tố chính quyết định thành công
trong việc đưa ra một công cụ tài chính mới áp dụng trên TTCK, để thu hút nhiều nhà
đầu tư tham gia thì Chính phủ, các Bộ, ban ngành liên quan phải có chính sách tuyên
truyền, đào tạo và phổ biến kiến thức về giao dịch quyền chọn cho công chúng. Thông
qua các cuộc hội thảo, phương tiện truyền thông đại chúng, tổ chức các khoá học
chứng chỉ tại Trung tâm đào tạo của UBCKNN và các trường Đại học nhằm trang bị
kiến thức cho tầng lớp tri thức.
Thực hiện hỗ trợ tổng hợp, biên dịch, cung cấp các tài liệu liên quan đến quyền
chọn đặt tại một chuyên mục trong các website của các cơ quan quản lý và tiến hành
quảng cáo theo phương pháp phát tờ rơi tại các Công ty chứng khoán, quỹ đầu tư để
phổ cập thông tin cho người hành nghề cũng như các nhà đầu tư đang tham gia đầu tư
trên thị trường chứng khoán.
Hướng đến việc xây dựng, thành lập Viện hoặc Trung tâm công nghệ quyền chọn
chuyên biệt với nhiệm vụ mở rộng việc đào tạo cho những nhà đầu tư và cung cấp các
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
81
dịch vụ tư vấn chiến lược đầu tư, chiến lược quản lý, giám sát thị trường cho cả cơ
quan quản lý và các nhà đầu tư trên thị trường.
3.5.4.3 Có chính sách kiểm soát và xử lý tốt hiện tượng đầu cơ làm lũng đoạn
thị trường và xây dựng chính sách phí giao dịch hợp lý
Sự xuất hiện của nhà đầu cơ trên thị trường chứng khoán là một nhu cầu khách
quan. Nếu không có các nhà đầu cơ, mà chỉ có các nhà phát hành là các công ty cần
bán chứng khoán để huy động vốn và các nhà đầu tư là những người muốn mua chứng
khoán với mục tiêu đầu tư dài hạn, thị trường lúc đó mới dừng ở bước sơ khai, được
gọi là thị trường sơ cấp, không có thương nhân. Khi ấy, hoạt động mua bán sẽ ít, tẻ
nhạt, rời rạc. Nhưng quan trọng hơn là tính thanh khoản của chứng khoán sẽ rất thấp,
bởi vì không phải lúc nào cũng có những công ty muốn bán chứng khoán và sẵn sàng
mua lại chứng khoán của mình. Tuy nhiên, nếu sự đầu cơ lại mang tính tiêu cực và có
sự thoả hiệp, bắt tay từ những cá nhân, tổ chức lớn làm lũng đoạn thị trường thì cần
phải có biện pháp kiềm chế và xử lý thích đáng hướng đến sự công bằng, công khai,
minh bạch của thị trường.
Muốn vậy, các cơ quan quản lý phải tăng cường công tác giám sát thị trường bằng
việc hoàn thiện phần mềm giám sát để theo dõi, phát hiện giao dịch nội gián, thao túng,
lũng đoạn thị trường. Tăng cường công tác thu thập thông tin tin đồn. Đồng thời,
nghiên cứu các hiện tượng đầu cơ đã được phát hiện trên thị trường quyền chọn ở các
nước trên thế giới để xây dựng các chính sách, quy chế kiểm soát, ngăn chặn kịp thời.
Cùng với việc khuyến khích các định chế tài chính trở thành các nhà tạo lập thị
trường – hay là các nhà đầu cơ có tổ chức – các cơ quản lý phải xây dựng các quy chế
cam kết, ký quỹ, phát hành quyền chọn và các biện pháp xử lý vi phạm hiệu quả, chế
tài thích đáng đảm bảo ngăn chặn được hiện tượng đầu cơ có tổ chức, quy mô lớn gây
lũng đoạn thị trường.
Tránh các tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” như tổ chức sàn giao dịch QCV.
Đồng thời cũng lưu ý các chính sách phí giao dịch hợp lý để khuyến khích phát triển áp
dụng Quyền chọn.
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
82
3.5.4.4 Luôn luôn cập nhật và rút ra các bài học kinh nghiệm về TTCK của các
nước trên thế giới
Đây là giải pháp cực kỳ quan trọng trong việc ứng dụng các giao dịch quyền chọn ở
Việt Nam, mặc dù chúng ta có thể đã học hỏi và áp dụng những kinh nghiệm của các
nước tiên tiến về việc tổ chức sàn giao dịch, nguyên tắc, cơ chế vận hành, quản lý quy
trình giao dịch, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ phần mềm … Tuy nhiên, thị trường
thế giới luôn biến đổi hàng ngày, nếu không liên tục cập nhật và học hỏi kinh nghiệm
thì chúng ta dễ bị lạc hậu, dẫn đến đầu tư lãng phí nhân lực và vật lực của quốc gia và
tổ chức thị trường không hiệu quả.
3.6 NHẬN ĐỊNH VỀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG GIAO DỊCH QUYỀN CHỌN CỔ
PHIẾU TẠI TTCK VIỆT NAM
Từ những phân tích về TTCK Việt Nam trong giai đoạn vừa qua cho thấy sự cần
thiết phải áp dụng giao dịch quyền chọn cổ phiếu vào TTCK Việt Nam để tạo ra công
cụ bảo vệ cho nhà đầu tư nhỏ lẻ, thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước, tác động
gián tiếp đến sự phát triển của các công ty niêm yết đồng thời thúc đẩy sự phát triển
của TTCK và nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, việc áp dụng quyền chọn cổ phiếu vào
TTCK Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại cần sự nỗ lực khắc phục và giải
quyết theo một lộ trình khoa học và cụ thể.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần phải thực hiện đồng bộ nhóm giải pháp vĩ
mô, nhóm giải pháp vi mô và các nhóm giải pháp khác để xây dựng một thị trường
quyền chọn hiệu quả và tiên tiến. Đồng thời, Việt Nam cần lập ra một kế hoạch triển
khai theo từng giai đoạn cụ thể như: giai đoạn cho công tác chuẩn bị, giai đoạn vận
hành thử nghiệm, giai đoạn đánh giá, bổ sung sửa đổi và rút kinh nghiệm thực tiễn đến
khi đáp ứng tương đối đầy đủ yêu cầu của thị trường. Thời gian cho 3 giai đoạn tối
thiểu từ 3 đến 4 năm, giai đoạn vận hành thử nghiệm phải đảm bảo thời gian ít nhất
trên 1 năm để việc đánh giá được chính xác, từ đó, giúp cho giai đoạn bổ sung sửa đổi
được hoàn thiện nhanh chóng hơn và có hiệu quả cao hơn.
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
83
Tuy nhiên, với qui mô thị trường hiện nay, cùng với nỗ lực của UBCKNN và các tổ
chức quản lý trong việc phát triển cơ sở hạ tầng, công bố thông tin, xây dựng các quy
trình đồng bộ trong năm 2008, cũng như quyết tâm của Chính Phủ trong định hướng
phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010, Việt Nam có thể rút ngắn thời gian hoàn
thiện các cơ sở pháp lý, hạ tầng kỹ thuật, cơ chế giám sát và xây dựng mô hình quyền
chọn trong năm 2010 như việc xây dựng các văn bản Luật hướng dẫn giao dịch quyền
chọn, thành lập Trung tâm thanh toán – bù trừ quyền chọn và trung tâm định giá quyền
chọn, xây dựng hệ thống báo giá tự động, hệ thống mạng giao dịch, công bố thông tin,
cơ quan quản lý và giám sát …theo đúng kế hoạch đã xây dựng.
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
84
KẾT LUẬN CHƯƠNG III
Chương III là sự tiếp nối của việc nghiên cứu Chương I- Cơ sở lý luận về quyền
chọn cổ phiếu và Chương II – Kinh nghiệm tổ chức sàn giao dịch quyền chọn chứng
khoán tại một số nước trên thế giới. Trong Chương III, tác giả đã đi vào trình bày sơ
lược lịch sử hình thành TTCK Việt Nam cũng như giới thiệu về hệ thống cơ quan quản
lý và chức năng cụ thể của từng bộ phận, thực trạng áp dụng Quyền chọn tài chính
khác như Quyền chọn tiền tệ, Quyền chọn vàng ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua,
sự cần thiết phải áp dụng quyền chọn và các khó khăn, trở ngại cần vượt qua để xây
dựng một thị trường quyền chọn hiệu quả. Từ đó nêu ra các nhóm giải pháp cần triển
khai và xây dựng để làm tiền đề cho việc áp dụng quyền chọn vào TTCK Việt Nam
năm 2010 và dần hoàn chỉnh vào năm 2011.
Tính thanh khoản và cân bằng cung cầu trên thị trường quyền chọn là một yếu tố
cần quan tâm hàng đầu khi xây dựng các cơ sở pháp luật, hệ thống giám sát, quy trình
giao dịch thanh toán đảm bảo tạo được sức cầu hấp dẫn trên thị trường, tạo tính thanh
khoản và lưu thông cho quyền chọn nhưng vẫn kiểm soát được các mức độ đầu cơ và
có biện pháp ngăn chặn, xử lý khi có hiện tượng gây lũng đoạn hoặc tiêu cực cho thị
trường.
Các nhóm giải pháp được thực hiện đồng bộ và đan xen lẫn nhau với mục tiêu xây
dựng một TTCK nói chung và thị trường quyền chọn nói riêng có tính thanh khoản cao
cho các quyền chọn chứng khoán giao dịch, cung cấp đầy đủ thông tin cho nhà đầu tư
và các đối tượng tham gia thị trường; Xây dựng quy trình giao dịch liên kết giữa các
đối tượng tham gia trên thị trường, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, phần mềm hệ thống
giao dịch, tiên tiến, phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực thế giới, qua đó hình thành
nên giá chứng khoán và quyền chọn chứng khoán một cách hợp lý nhất, tạo được niềm
tin của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước vào thị trường chứng khoán góp phần
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
85
KẾT LUẬN ĐỀ TÀI
Sau khi nghiên cứu đề tài về Quyền chọn cổ phiếu và áp dụng Quyền chọn cổ phiếu
vào TTCK Việt Nam, có thể rút ra một số kế luận sau đây:
- Thứ nhất, việc áp dụng Quyền chọn vào TTCK Việt Nam là một xu thế tất yếu
trong việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới nói chung và thị trường tài chính
quốc tế nói riêng;
- Thứ hai, do cơ sở hạ tầng chưa được chú trọng đầu tư, quy mô thị trường nhỏ bé
cả về số lượng và giá trị giao dịch, trình độ phân tích của nhà đầu tư hạn chế, chỉ
số chứng khoán chủ yếu chịu sự tác động từ một nhóm cổ phiếu riêng biệt, sự
kiểm soát chặt chẽ trong thanh toán bù trừ cổ phiếu và tiền mặt … vì vậy, việc
áp dụng Quyền chọn cổ phiếu là một lựa chọn khả thi, để làm cơ sở tiến đến áp
dụng tất cả các loại quyền chọn đang phổ biến trên thế giới;
- Thứ ba, Quyền chọn có thể được kết hợp với cổ phiếu, trái phiếu hoặc một
quyền chọn khác để tạo ra nhiều chiến lược đa dạng. Việc kết hợp các chiến
lược với nhau như thế nào là tuỳ thuộc vào khẩu vị rủi ro và mục tiêu lợi nhuận
của nhà đầu tư. Quyền chọn là một công cụ “bảo hiểm” rủi ro trước sự biến
động thất thường của TTCK và là một công cụ quản lý rủi ro, cung cấp đòn bẩy
tài chính cao, giúp đa dạng hoá danh mục đầu tư và bảo vệ được lợi nhuận cho
nhà đầu tư. Tuy nhiên, Quyền chọn có thể mang lại những rủi ro không giới hạn
nếu không có biện pháp quản lý, giám sát và điều chỉnh hợp lý của các cơ quan,
tổ chức quản lý thị trường.
- Thứ tư, việc lựa chọn một mô hình phù hợp với thực tế của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay đóng vai trò quyết định trong việc áp dụng và triển khai giao dịch
quyền chọn vào TTCK Việt Nam. Theo quan điểm của tác giả, Việt Nam nên
học hỏi mô hình tổ chức, quản lý thận trọng và chặt chẽ của Nhật Bản đồng thời
phải luôn học hỏi kinh nghiệm, tiếp nhận và cải tiến các phương pháp quản lý,
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
86
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
tổ chức tiên tiến khác trên thế giới nhưng vẫn đảm bảo bản sắc riêng của TTCK
Việt Nam.
- Thứ năm, các nhóm giải pháp để áp dụng thành công quyền chọn cổ phiếu vào
TTCK Việt Nam bao gồm các nhóm: nhóm giải pháp vĩ mô, nhóm giải pháp vi
mô, nhóm giải pháp phát triển thị trường và nhóm các giải pháp khác. Các nhóm
giải pháp này phải được tiến hành đồng bộ và đan xen lẫn nhau để đảm bảo xây
dựng một thị trường quyền chọn công bằng, minh bạch, hiệu quả và hiện đại
trong thời gian tối thiểu từ 3- 4 năm. Các việc cấp thiết cần chuẩn bị là hoàn
chỉnh khung pháp lý, các tổ chức định mức tín nhiệm chuyên nghiệp, các công
ty định giá quyền chọn, hệ thống báo giá tự động, quy trình giao dịch thanh toán
bù trừ tự động, nhân sự có chuyên môn cao và hệ thống công bố thông tin hiệu
quả… Nếu đẩy nhanh tiến độ các công việc trên trong thời gian 2 năm thì Việt
Nam có khả năng triển khai giao dịch quyền chọn vào TTCK trong năm 2010
như kế hoạch đã đề ra.
- Thứ sáu, trong các giải pháp đưa ra, tác giả đặc biệt quan tâm đến vai trò của
nhà tạo lập thị trường nhằm đảm bảo sự lưu thông và điều tiết cân bằng cung
cầu của thị trường giao dịch quyền chọn. Tác giả đề xuất các cơ quan quản lý
nên sớm xây dựng một định chế tài chính đóng vai trò là người tạo lập thị
trường và đảm bảo khả năng thanh toán cổ phiếu và tiền khi thị trường có biến
động mạnh nhằm hướng đến sự phát triển ổn định và bền vững của thị trường
quyền chọn nói riêng và TTCK Việt Nam nói chung.
Đề tài này được viết theo quan điểm và góc nhìn cá nhân của tác giả, cùng với sự hạn
chế về kinh nghiệm, kiến thức và thời gian nghiên cứu nên không thể tránh được sự
thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ dẫn, đóng góp của Quý Thầy Cô, đồng
nghiệp, các nhà nghiên cứu và những người quan tâm … nhằm hoàn thiện đề tài và trở
thành một tài liệu hữu ích cho việc nghiên cứu chuyên sâu về Quyền chọn trên TTCK
Việt Nam.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA0009.pdf