mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
ở Việt Nam những tư tưởng triết học Phật giáo, đặc biệt nhân sinh quan Phật giáo, là một trong những nhân tố cấu thành nền văn hóa dân tộc cũng như nhân cách, đạo đức của mỗi người dân. Từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo luôn tỏ rõ vai trò quan trọng, có ảnh hưởng sâu rộng và toàn diện trong đời sống xã hội Việt Nam.
Những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo luôn biến đổi trải qua những bước thăng trầm trong lịch sử. Đặc biệt, từ khi công cuộc đổi m
94 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1724 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam và sự biến đổi của nó trong quá trình đổi mới hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra trên đất nước ta, thì sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam càng diễn ra khá rõ nét và có những biểu hiện mới.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước hiện nay, xu hướng biến đổi ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam sẽ như thế nào? Cần đánh giá những biến đổi đó theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực? Những nhân tố nào cần phát huy trong điều kiện mới và bằng cách nào để có thể phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam là vấn đề đang đặt ra và cần làm sáng tỏ.
2. Tình hình nghiên liên quan đến cứu đề tài
Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của con người Việt Nam là đề tài rộng lớn. Đã có nhiều công trình nghiên cứu và đạt được những kết quả đáng trân trọng. Có thể kể ra một số công trình sau đây:
Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam của Viện Triết học, Hà Nội, 1986; Lịch sử Phật giáo Việt Nam của PGS Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Viện Triết học, Hà Nội, 1991; Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, 1993 ; Thiền học Trần Thái Tông của Nguyễn Đăng Thục, Nxb Văn hóa Thông tin, 1996; Tôn giáo tín ngưỡng hiện nay, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết, Trung tâm Thông tin tư liệu - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996; Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ của Nguyễn Thị Bảy, Nxb Văn hóa thông tin 1997; ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 1997; Tư tưởng triết của học Thiền phái Trúc Lâm đời Trần của Trương Văn Chung, Nxb Chính trị quốc gia, 1998; ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam của Lê Hữu Tuấn, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1998; Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999 ; Phật Giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy, Nxb Hà Nội, 1999; Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập I của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002 v.v...
Có thể nhận xét một cách khái quát, những công trình nghiên cứu trên đều thống nhất ở một số điểm: Phật giáo có ảnh hưởng nhất định trong đời sống xã hội Việt Nam, đặc biệt là đời sống tinh thần. Những triết lý đầy tính nhân sinh của Phật giáo kết hợp với văn hóa truyền thống đã tạo nên sự phong phú của đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Những công trình nghiên cứu nói trên, trực tiếp hoặc gián tiếp, ở các mức độ và khía cạnh khác nhau, đã thể hiện tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội Việt Nam. Do đó, việc đánh giá những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của Phật giáo, mà trước hết là nhân sinh quan Phật giáo, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng triết học này trong đời sống xã hội Việt Nam lâu nay, là việc làm hết sức có ý nghĩa. Tuy nhiên, việc làm sáng tỏ sự biến đổi ảnh hưởng của Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng đối với đời sống tinh thần của con người Việt Nam dưới tác động mạnh mẽ của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay thì hãy còn chưa nhiều. Vì vậy, luận văn có nhiệm vụ là: trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những kết quả nghiên cứu của những công trình đi trước để khảo sát đánh giá sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
a) Mục đích
Luận văn làm rõ sự biến đổi ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Nêu ra một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay.
b) Nhiệm vụ
Một là, khái quát nội dung nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần truyền thống của con người Việt Nam.
Hai là, tìm hiểu sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay, bao gồm: Phân tích những nhân tố tác động đến sự biến đổi đó; nêu lên một số xu hướng biến đổi của nhân sinh quan Phật giáo.
Ba là, đề ra một số phương hướng, giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng
- ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của người dân Việt Nam
b) Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
a) Cơ sở lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng.
b) Cơ sở thực tiễn
Sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
c) Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp; sự thống nhất giữa lôgíc và lịch sử; điều tra phỏng vấn và kết hợp các phương pháp khái quát hóa, trừu tượng hóa v.v...
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan sinh Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn bước đầu nêu lên một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới.
7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy tôn giáo ở các trường Đại học, Cao đẳng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần người Việt Nam
1.1. Nhân sinh quan Phật giáo
1.1.1. Vị trí nhân sinh quan Phật giáo trong tư tưởng triết học Phật giáo
Ph.Ăngghen đã nói: "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế" [17, tr. 73].
Điều đó có nghĩa là, tôn giáo do con người sáng tạo ra, tôn giáo không sáng tạo ra con người song lại có ảnh hưởng lớn tới đời sống của con người trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Phật giáo - một trong mười tôn giáo lớn trên thế giới - ra đời đã hơn 2500 năm nay, đã được truyền bá và ảnh hưởng tới nhiều nước trên thế giới như: Xrilanca, Xiry, Ai Cập, Mianma, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc và một phần Anh, Đức, Pháp … và nhanh chóng trở thành tôn giáo mang tính thế giới. Trong quá trình du nhập trải qua các thời kỳ lịch sử, Phật giáo lại phụ thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia mà đã biến đổi ít nhiều. Sự ảnh hưởng của phật giáo đến ngoại bang diễn ra rất sớm và rất nhanh chóng. Ngày nay trên phạm vi quốc tế, Phật giáo đang chiếm vị trí sâu rộng trong đời sống tinh thần của con người, trong đó có Việt Nam.
Người sáng lập ra Phật giáo là Hoàng tử Tất Đạt Đa - con vua Tịnh Phạn. Ông sinh năm 563 mất năm 483 trước công nguyên ở ấn Độ. Sau khi tu hành đắc đạo có danh hiệu Thích Ca Mâu Ni. Tương truyền, Hoàng tử Tất Đạt Đa từ khi mới sinh ra đã được vua cha hết đỗi chiều chuộng, "nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa". Hoàng tử, vốn là con độc nhất, được sống trong nhung lụa, được chăm sóc, giáo dục rất đầy đủ, toàn diện. Chẳng bao lâu Hoàng tử đã trở thành người văn võ song toàn. Hoàng tử được vua cha cưới vợ năm 17 tuổi, về sau có một người con trai tên là La Hầu La. Vua không muốn cho Hoàng tử phải chứng kiến quy luật của cuộc sống là sinh - lão - bệnh - tử. Mặc dù vậy, sau những lần dạo chơi ở cổng thành Hoàng tử đã chứng kiến nỗi khổ của con người về sinh - lão - bệnh - tử; thấy được cuộc sống cơ cực của người dân trong xã hội ấn Độ cổ đại lúc bấy giờ, vốn có sự phân chia đẳng cấp nghiệt ngã. Hoàng tử lại là người có tấm lòng từ bi, bác ái vô hạn, sống gần gũi với con người, đầy tình người và trí tuệ.
Cái tâm đức Phật thật là từ bi
Còn trong Thái tử thời kỳ
Xem người cày ruộng mới đi ra ngoài
Thấy cò cứ mổ sâu hoài
Động lòng thương xót mọi loài chúng sinh.
(Từ bi)
Chứng kiến đời sống khổ cực và sự bất lực của con người trong xã hội đương thời, đã khiến Hoàng tử Tất Đạt Đa có ý định từ bỏ cuộc sống giàu sang để đi tìm đạo lý cứu đời. Năm 29 tuổi, nhân lúc vua cha, vợ con đang ngủ say, Tất Đạt Đa rời bỏ Hoàng cung ra đi trở thành người tu tập thiền định và bắt đầu cuộc sống khổ hạnh. Qua một thời gian học đạo, Người nhận thấy, cuộc sống giàu sang về vật chất, thỏa mãn dục vọng và cả cuộc sống tu hành khổ hạnh ép xác đều là con đường sai lầm. Người cho rằng, cuộc sống dù giàu sang đến đâu cũng chỉ là tầm thường, còn cuộc đời tu hành khổ hạnh thì tăm tối, mà chỉ có con đường trung đạo mới là con đường đúng đắn. Người nói: "Ta tu khổ hạnh mà như thế này, mà không thấy rõ đạo thì cái tu của ta vẫn chưa phải. Ta nên theo con đường giữa, cứ ăn uống như thường, không say mê việc đời nào vẫn không khắc khổ hại thân rồi mới thành đạo được" [14, tr. 42].
Sau khi tự mình đào sâu suy nghĩ tìm con đường giác ngộ chân lý mới, Tất Đạt Đa quyết định từ bỏ cuộc sống tu hành khổ hạnh để đi vào tư duy trí tuệ. Qua nhiều lần tu tập, sau 49 ngày ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ đề, với những suy tư sâu thẳm, Người đã giác ngộ được chân lý. Tất Đạt Đa đã lý giải được nguồn gốc nỗi khổ của con người, cũng như phương pháp giải thoát diệt khổ. Là một tôn giáo, Phật giáo ra đời nhằm xoa dịu nỗi khổ của con người trong xã hội có sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội ấn Độ cổ đại.
Sinh thời, Đức Phật không viết sách, mà chỉ thuyết giảng cho các học trò của mình bằng lời nói. Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, các đệ tử đã tập hợp, phát triển tư tưởng của người để xây dựng một học thuyết tôn giáo hoàn chỉnh (kinh, luật và luận tạng). Về sau Phật giáo chia thành Tiểu thừa và Đại thừa với nhiều tông phái khác nhau, du nhập và phát triển ra nhiều nước trên thế giới. Dù đã trải qua lịch sử thăng trầm hơn 2500 năm, với nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau, nhưng Phật giáo, mà trước hết là triết lý nhân sinh của nó giàu lòng vị tha, thương người, rất gần gũi với con người và mang nặng tính nhân sinh hơn các tôn giáo khác.
Giáo lý Phật giáo bao gồm hệ thống quan niệm về nhận thức luận, thế giới quan và nhân sinh quan có kết cấu chặt chẽ. Mỗi yếu tố chứa đựng những nội dung với chức năng riêng là tiền đề và hệ quả của nhau. Nhân sinh quan Phật giáo được bắt nguồn từ thế giới quan. Tuy nhiên, mục đích chủ yếu của Phật giáo là thoát khổ, là giải phóng con người, mang giá trị nhân sinh sâu sắc. Thích Ca Mâu Ni đã nhìn thấy rõ sự đau khổ ở đời sống con người mà sáng lập ra Phật giáo để giải thoát con người khỏi nỗi khổ đau.
Triết học phương Đông nghiêng về việc nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, đặc biệt là vấn đề con người hơn là việc tìm hiểu giới tự nhiên. Triết học phương Đông nghiên cứu thế giới để làm sáng tỏ con người, vạch ra nguyên tắc ứng xử, giải quyết các mối quan hệ giữa người với người, chú ý đến đời sống tâm linh mà ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người. Mục đích nhận thức thế giới của triết học đều nhằm phục vụ cho đời sống của con người và xã hội. Còn triết học phương Tây chú trọng nghiên cứu thế giới, tìm hiểu giới tự nhiên, xây dựng nên các học thuyết, các phạm trù v.v... Cũng như nhiều trào lưu tư tưởng triết học phương Đông, Phật giáo đề cao và nhấn mạnh vấn đề nhân sinh. Đây cũng là một trong những đặc điểm cơ bản khác biệt của triết học phương Đông so với phương Tây. Điều này góp phần vào việc lý giải vì sao mặt vũ trụ quan của thế giới quan của Phật giáo, nhất là Phật giáo nguyên thủy, hơi mờ nhạt, trong khi nội dung nhân sinh quan lại khá rõ ràng và mang tính nổi trội. Mục đích cuối cùng của Phật giáo là giải thoát con người khỏi nỗi khổ trần thế thông qua con đường tu tập về mặt tâm linh. Do đó, Phật giáo hầu như không đề cập và không có chủ trương giải quyết những vấn đề có tính chất siêu hình, như chính lời của Đức Phật thuyết giảng:
Giống hệt như người bị thương vì một mũi tên thuốc độc, bạn bè thân thích đưa một ông thầy giải phẫu nhưng anh ta nói: Ta sẽ không để cho rút mũi tên này ra trước khi biết ai làm ta bị thương, hắn ở đẳng cấp nào, tên họ hắn là gì, hắn ta to bé hay trung bình, hắn ta từ đâu tới. Ta sẽ không cho rút mũi tên này trước khi biết nó là loại cung nào, dây cung và mũi tên được làm bằng gì, đầu nhọn mũi tên được làm như thế nào? Con người này sẽ chết đi mà không biết điều đó chúng là vô ích không dẫn ta đến giải thoát. Việc cấp bách là cứu khổ giống như việc lấy mũi tên thuốc độc ra khỏi thân thể con người [12, tr. 266].
Khi các đệ tử hỏi Đức Phật về vấn đề siêu hình trừu tượng như vũ trụ có vĩnh hằng không? Nó vô hạn hay hữu hạn, linh hồn và thể xác là một hay khác nhau, Như Lai sau khi chết có tồn tại hay không?... thì người im lặng vì mục đích chủ yếu là cứu khổ cho con người.
Như vậy, qua việc nghiên cứu những nội dung trên cho thấy, đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Phật giáo là con người, là giá trị nhân sinh. Qua việc phải chứng kiến nỗi khổ của con người ở đời sống trần thế mà Thích Ca Mâu Ni đã xây dựng học thuyết mang đậm giá trị nhân sinh để giải thoát, cứu khổ cho con người khỏi khổ nạn. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở ấn Độ, với sự thống trị của tư tưởng duy tâm tôn giáo Bà la môn và chế độ phân biệt đẳng cấp khắt khe, Phật giáo ra đời là tiếng nói trong làn sóng phủ nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo Bà la môn, tố cáo chế độ xã hội bất công, đòi tự do tư tưởng và sự bình đẳng xã hội, xóa bỏ nỗi khổ trong đời sống của người dân ấn Độ. Đây là sự thể hiện tinh thần phản kháng của quần chúng nhân dân đối với chế độ xã hội đương thời: Đức Phật tuyên bố: Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn, con người sinh ra không phải đã mang sẵn trong bào thai dây chuyền ở cổ hay dấu tin ca (dấu hiệu quý phái của dòng Bà la môn) trên trán. Qua đó thể hiện mặt tích cực của nhân sinh quan Phật giáo trong lĩnh vực sinh hoạt xã hội. Nguyện vọng cứu khổ của Đức Phật mang tính nhân văn sâu sắc, còn có cứu được khổ hay không lại là chuyện khác. Do vậy, Phật giáo rất gần gũi với con người. ở Việt Nam, từ thuở xa xưa, Phật chính là "Bụt". Bụt ở đây là cách dịch âm khác của "Buddha" có nghĩa là Phật, là giác ngộ. Hình ảnh ông Bụt hiện lên trong nhiều câu chuyện cổ tích như truyện Tấm Cám… luôn là người đem lại niềm vui, hạnh phúc cho những người tốt bụng mà gặp điều không may, đồng thời Bụt cũng là người trừng phạt cái xấu, kẻ ác.
1.1.2. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo
Triết lý nhân sinh Phật giáo bắt nguồn từ thế giới quan, do thế giới quan Phật giáo chi phối. Mặt khác, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, nhân sinh quan Phật giáo chịu sự qui định của tồn tại xã hội và tác động của các hình thái ý thức xã hội khác. Điều này giải thích tại sao trong lịch sử tồn tại và phát triển, nhân sinh quan Phật giáo có sự biến đổi, không còn giữ nguyên như ở Phật giáo nguyên thủy. Nghiên cứu chi tiết, cho thấy các phái Phật giáo có những quan niệm khác nhau về nhân sinh. Phật giáo Tiểu thừa coi trọng "xuất gia khổ hạnh", chủ trương "ngã không pháp hữu", đề cao sự giải thoát chính mình với mục đích cuối cùng là chứng đắc La Hán. Tư tưởng chủ yếu của Phật giáo Tiểu thừa là "tịnh độ" và "xuất thế gian", nhấn mạnh cuộc đời là bể khổ mà nguyên nhân là do "Thập nhị nhân duyên". Mục đích thoát khổ là phải xuất thế gian, xa rời cuộc sống phàm tục, diệt dục mới có thể rũ bỏ bụi trần để đạt tới cảnh giới Niết bàn. Còn Phật giáo Đại thừa không quá đề cao xuất gia khổ hạnh, chủ trương"ngã pháp đều không", tự giác ngộ và giác ngộ người khác, mục đích tu tập trở thành Phật. Giới luật của Đại thừa cũng có nhiều biến đổi khác với giới luật của Tiểu thừa ở sự tôn nghiêm cũng như nội dung. Nếu giới luật của Tiểu thừa tập trung vào việc đạt quả phúc cho mình, thì giới luật của Đại thừa lại thường hướng đến lợi ích cho người khác... Phật giáo Đại thừa về sau phát triển và lại chia thành nhiều bộ phái khác nhau, xuất phát từ ấn Độ và truyền bá ra các nước xung quanh, triết lý Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng đã biến đổi, phát triển ngày càng đa dạng phong phú để thích nghi với truyền thống của mỗi quốc gia, dân tộc trong những thời kỳ lịch sử nhất định.
Vì khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ là có hạn, nên tác giả luận văn chỉ nghiên cứu ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam và sự biến đổi của nó trong quá trình đổi mới hiện nay trong thuyết tứ đế của Phật giáo.
Nhân sinh quan Phật giáo là một hệ thống gồm các quan điểm về con người, đời sống của con người.
Về con người
Phật giáo tập trung ở học thuyết cấu tạo con người, học thuyết về sự xuất hiện và tái sinh.
Theo Phật con người được cấu tạo từ những yếu tố thể hiện trong thuyết Danh sắc và thuyết Lục đại.
Thuyết Danh sắc: Con người được cấu tạo từ hai yếu tố vật chất và tinh thần.
Thuyết Lục đại: Con người được cấu tạo từ sáu yếu tố:
Địa : Nghĩa là đất, xương thịt.
Thủy : Nước, máu, chất lỏng.
Hỏa : Lửa, nhiệt khí.
Phong : Gió, hô hấp
Không : Các lỗ trống trong cơ thể
Thức : ý thức tinh thần.
Trong 6 yếu tố này thì 5 yếu tố đầu thuộc về vật chất, chỉ có yếu tố cuối cùng thuộc về tinh thần. So với thuyết Danh sắc thì thuyết lục đại xét cấu tạo con người nghiêng nặng về vật chất còn thuyết kia gần như có sự cân bằng, hài hòa về hai lĩnh vực vật chất, tinh thần.
Thuyết Ngũ ẩn : Xem con người được cấu tạo từ năm yếu tố.
Sắc : Vật chất bao gồm địa, thủy, hỏa, phong.
Thụ : Tình cảm, cảm giác con người.
Tưởng : Tưởng tượng, tri giác, ký ức.
Hành : ý thức, những yếu tố khiến tâm hoạt động.
Thức : ý thức theo nghĩa rộng gồm cả thụ, tưởng, hành.
Trong các thuyết về cấu tạo con người của Phật giáo, thì thuyết Ngũ uẩn là phổ biến hơn cả. Như vậy, Phật giáo cho rằng, con người không có thực thể là "không", gọi là "nhân vô ngã" (nhân không). Con người được tạo thành từ Ngũ uẩn cho nên không có chủ thể hằng thường tự tại. Con người là sản vật, tự nhiên không có hình thái cố định của tính vật chất nhưng vì đã ăn vật chất trên thế giới nên dần hình thành khối vật chất thô kệch có sự phân biệt tính cách, màu da. Có bốn loại thực:
Đoạn thực : Thức ăn là động, thực vật, thức ăn vật chất, là cơm ăn nước uống hàng ngày.
Xúc thực : Thức ăn là những cảm xúc, cảm giác.
Tư thực : Thức ăn là sự suy tư, nghĩ ngợi.
Thức thực : Thức ăn là tinh thần, là thức ăn ở cõi vô sắc, sống bằng tinh thần thanh cao.
Phật giáo quan niệm sự vật đều luôn vận động biến đổi, không có cái gì là thường hằng, bất biến. Xuất phát từ duyên khởi luận, Phật giáo cho rằng thế gian hết thảy đều biến hóa, vô ngã, vô thường. Theo Phật giáo, có hai loại vô thường. Đó là sát na vô thường và tương tục vô thường. Trong đó, sát na vô thường chỉ sự biến hóa trong khoảng thời gian cực ngắn. Còn tương tục vô thường chỉ trong một chu kỳ nối tiếp nhau đều có sinh - trụ - dị - diệt (đối với sinh vật), hay thành - trụ - hoại - không (đối với sự vật), đối với con người là sinh - lão - bệnh- tử.
Quan niệm của nhà Phật cho rằng, con người là sự kết hợp động của những yếu tố động, cho nên là giả tạm, suy cho cùng là vô ngã. Với cách nhìn như thế, Phật giáo cho rằng, mọi sự vật hiện tượng là giả danh không có thực, con người chỉ là giả hợp của Ngũ uẩn tùy duyên giả hợp mà thành, cho nên là hư vọng huyễn hóa. Đủ nhân duyên hợp lại thì gọi là sống, hết nhân duyên tan ra gọi là chết. Sống, chết là giả hợp tan của Ngũ uẩn. Do mê lầm, mà vô thường con người tưởng là thường, vô ngã mà tưởng có ngã. Thân xác con người là nguồn gốc của mọi khổ đau. Mọi đau khổ như đói khát, sinh, lão, bệnh, tử, nóng, giận, dâm dục v.v... đều có gốc từ con người mà ra. Điều này cho thấy, Phật giáo nhìn nhận cuộc đời con người là khổ.
Nếu quan niệm chết là hết là chưa hiểu đúng Phật giáo, mà theo Phật giáo, chết là điều kiện để có cái sinh mới sắp tới. Phật giáo giải thích sự chết của con người bằng thuyết luân hồi nghiệp báo… Khi con người hình thành thì mọi suy nghĩ, hành động được ghi lại ở một nơi là Alaya, cứ thế tích tụ thành Karma - Luật vô hình đặc trưng của người. Khi con người chết luật vô hình quay lại gặp điều kiện thuận lợi tạo thành sinh linh mới chịu quả ở kiếp trước và nhân ở kiếp sau cứ thế luân hồi. Cuộc đời con người là một mắt xích trong chuỗi dài vô tận, chỉ là một gợn sóng trên mặt biển bao la. Cuộc sống của con người trên trần thế không thay đổi được, nó do nghiệp cũ quy định theo luật nhân quả; mọi việc làm của con người đều là nhân của sự kết hợp Ngũ uẩn tiếp theo.
Học thuyết nhân quả của Phật giáo cho rằng, con người gieo nhân nào hưởng quả ấy, ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão.
Đời này ra sức học tập thì đời sau thông minh sáng suốt; đời này lười biếng thì đời sau ngu đần dốt nát; đời này sát sinh thì đời sau chết yểu; đời này phóng sinh thì đời sau sống lâu; đời này làm khổ chúng sinh thì đời sau đau khổ; đời này có tâm vỗ về an ủi người khác thì đời sau hạnh phúc; đời này giận dữ cáu kỉnh thì đời sau tướng mạo xấu xí... Đức Phật có nói: "Những kẻ tạo nghiệp ác dù có lên trời, xuống biển hay vào hang núi cũng không nơi nào có thể trốn thoát" [12, tr. 275].
Có thể nói, Phật giáo quan niệm mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ phổ biến và chi phối tất cả. Phật giáo nguyên thủy cho thế giới này không có nguyên nhân đầu tiên cũng như cuối cùng, thế giới không do một đấng tối cao nào sáng tạo ra; từ đó đi đến bác bỏ mọi quan niệm cho rằng Thượng đế hay linh hồn là lực lượng đầu tiên sáng tạo ra muôn vật. Tuy nhiên, quan niệm về mối liên hệ nhân quả mà Phật giáo đề cập và nhấn mạnh thuộc lĩnh vực đạo đức, tinh thần, tâm lý cá nhân.
Theo quan niệm của Phật giáo, xét đến cùng muôn vật trong vũ trụ là hệ thống nhân duyên của nhau, cứ thế sinh sinh diệt diệt mãi nối tiếp nhau vô cùng tận; thế giới là vô thủy vô chung, không có cái gì là trường tồn bất biến. Mọi cái đều biến đổi vận động không ngừng, không có cái vĩnh hằng; mọi vật đều tuân theo quy luật sinh, trụ, dị, diệt. Con người cũng thuộc về thế giới hiện tượng. Thân xác con người được đề cập trong các thuyết Danh sắc, thuyết Lục đại, thuyết Ngũ uẩn của Phật giáo. Theo luật nhân quả của Phật giáo, những việc làm của con người là nguyên nhân tạo ra sự ngũ uẩn tiếp theo. Bản thân nghiệp này do kiếp trước quy định; cứ thế con người ở trong vòng luân hồi sinh tử không ngừng từ đời này sang đời khác. Điều đó ít nhiều mang tính biện chứng. Tuy nhiên, do tuyệt đối hóa sự vận động và gắn sự vận động với tính giả tạm vô thường của sự vật, cho nên Phật giáo không có được quan niệm đúng đắn về sự thống nhất biện chứng giữa vận động và đứng im tương đối, không thấy được sự vận động bao giờ cũng gắn với sự phát triển.
Về cuộc đời con người
Triết học Phật giáo bác bỏ Brahma và Atman, nhưng lại tiếp thu tư tưởng luân hồi Samsara và nghiệp Karma của Upanisad cho rằng, mọi vật mất đi ở chỗ này là để sinh ra ở chỗ khác, trong quá trình biểu hiện sinh tử theo nghiệp nhân quả luân hồi.
Để giải thoát chúng sinh khỏi nghiệp nhân quả luân hồi sinh - tử; tử - sinh, Đức Phật nêu ra Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên. Tứ diệu đế là bốn chân lý giải thoát tuyệt diệu, thiêng liêng mà mọi người đều phải nhận thức được đó là: Khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
Khổ đế
Triết lý nhân sinh Phật giáo cho rằng, bản chất cuộc đời con người là khổ: "Đời là bể khổ, đời là cả những chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn phương đều là bể khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển, vị mặn của máu và nước mắt chúng sinh mặn hơn nước biển" [16, tr. 12].
Khổ đế nói lên bản chất của nhân sinh. Quan niệm nhân sinh trong triết học Phật giáo mang tính tiêu cực yếm thế, coi đời chỉ là ảo hóa tạm bợ. Do vô minh, con người không nhận thức được điều đó, do đó cứ lặn lội mãi trong biển sinh tử, luân hồi. Cuộc đời con người đầy rẫy những nỗi khổ, nhưng không ai nhìn thấy tường tận và rõ ràng. Đức Phật chỉ rõ: "Ba giới không chút nào yên như là lò lửa, nỗi khổ đầy rẫy trong đó, thật là đáng sợ" (Kinh Pháp Hoa); "ta thấy các chúng sinh đắm chìm trong bể khổ" (Kinh Pháp Hoa, Thọ Lượng Phẩm).
Nỗi khổ của thế gian là khôn cùng, song có thể chia làm ba loại khổ hay tám thứ khổ.
Ba loại khổ (Tam khổ) là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
Khổ khổ: Muốn nói tới cái khổ chồng chất nối tiếp cái khổ. Mỗi chúng sinh là nạn nhân của bao cái khổ. Cái khổ có ở ngay thể xác như bệnh tật hiểm nghèo… lại có cái khổ khác bên ngoài thể xác như thiên tai, chiến tranh... Tất cả những cái khổ đó liên tiếp dồn dập đến với con người.
Hoại khổ: Do sự thay đổi tạo nên tuân theo luật vô thường - không có cái vĩnh hằng. Ca dao có câu "nước chảy đá mòn", để nói một sự vật vững chắc, cứng rắn như đá nhưng cùng với thời gian chịu tác động của ngoại cảnh cũng phải thay đổi rồi bị hủy diệt tan biến. Con người cũng vậy, không thể nằm ngoài quy luật chung đó.
Hành khổ: Những nỗi khổ về tinh thần con người, do không làm chủ được mình bị lôi kéo vào những dục vọng làm cho tâm bị dằn vặt sinh ra buồn vui, giận hờn, yêu ghét…
Tám thứ khổ (Bát khổ): Đức phật tóm tắt thành tám thứ khổ trong cuộc đời của một con người gồm: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn khổ.
Tám thứ khổ này là sự cụ thể hóa, tỉ mỉ hơn về các nỗi khổ của chúng sinh ở trần thế, song nội dung thì được bao hàm bởi ba khổ trên. Sinh khổ: con người khi sinh ra đã cất tiếng khóc chào đời; trước đó còn ở trong bụng mẹ thì chật chội tăm tối; người mẹ mang thai con thì vất vả mệt nhọc, kém ăn, mất ngủ, chịu bao cái khác thường so với người khác.
Trong cuộc sống hàng ngày, con người muốn tồn tại được thì trước hết phải ăn, uống, mặc ở, sinh hoạt, đi lại… Muốn vậy, con người phải lao động hết sức vất vả, cực khổ, tất bật trong công việc. Đó là về mặt vật chất, còn những nỗi khổ về tinh thần dày vò con người cũng không kém nỗi khổ về vật chất, nó làm con người suy kiệt, ốm yếu,... (lão khổ). Con người đến lúc già, tuổi cao, thân thể hao mòn già yếu các giác quan, hoạt động kém; mắt mờ, chân chậm, tai điếc... dễ sinh bệnh gây đau ốm cho người bệnh và người thân xung quanh.
Tử: đến một thời điểm nhất định con người phải chết, xa lìa trần thế để lại nỗi xót thương vô hạn cho người thân, bè bạn. Ai cũng vậy, sợ phải xa lìa người thân, bè bạn, bởi cuộc sống biết bao điều thú vị.
ái biệt ly: nỗi khổ khi phải xa cách chia ly người mình mến thương như vợ chồng, cha mẹ, anh em… Nỗi khổ này bao gồm cả nỗi khổ sinh tử biệt ly: Sống phải xa nhau đã khổ, nhưng người ở lại người đi vào thế giới khác thì đó là nỗi khổ tình thương, tuyệt vọng biết nhường nào.
Oán tăng hội khổ: nỗi khổ vì phải sống cùng với người mà mình không hề yêu thích; ở chung với những người như vậy giống như gai đâm vào mắt mà không làm gì được.
Sở cầu bắt đắc khổ: là những nỗi khổ do con người mong muốn, ước ao mà không được, con người phải lao tâm khổ tứ biết bao, mong có được ngày thành đạt; nếu điều đó không thành thì nỗi khổ ấy thật khủng khiếp dày vò con người, khiến con người tuyệt vọng…
Ngũ thụ uẩn khổ gây ra bởi sắc, thọ, tưởng, hành, thức làm cho thân tâm phải chịu hết thảy những nỗi khổ. Thích Ca nói với chúng sinh: già là khổ, bệnh khổ, chết khổ, cái gì của ta mà phải xa rời là khổ, cái gì không ưa thích mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ. Tóm lại là triền miên trong ngũ trọc giả hợp.
Học thuyết khổ đế đã chỉ ra những nỗi khổ lớn nhất trong cuộc đời con người. Với lòng từ bi thương người của mình, Đức Phật muốn chúng sinh biết hết mọi nỗi khổ có ở đời để khi gặp phải không làm cho tinh thần hoảng loạn, mà phải biết bình tĩnh suy xét tìm cách giải khổ, làm chủ được bản thân, vượt lên trên số phận. Điều này cho thấy, Phật giáo không hề trốn tránh cuộc sống trần gian, cũng như không tô hồng nó, mà đã dũng cảm nhìn vào hiện thực cuộc đời con người.
Tập đế
Tập đế nói lên sự tập hợp, tích chứa những nguyên nhân đưa tới cái khổ. Đức Phật cho rằng, mọi cái khổ đều có nguyên nhân của nó (Thập nhị nhân duyên). Phật Thích Ca thuyết pháp cho môn đệ phép màu nhiệm về nguyên nhân sự khổ. Đó là lòng tham sống mà luân hồi sinh tử: càng tham, càng muốn, càng được lại càng tham. Con người tham sống, tham sướng, tham mạnh v.v... Nguyên nhân của lòng tham là vô minh, nghĩa là không sáng suốt, không nhận thức được thế giới, không thấy mọi sự vật đều là ảo giả, mà cứ cho là thực; không nhận thức được ngay chính bản thân mình, cả thế giới khách quan lẫn bản thể chủ quan đều chỉ là vô thường vô ngã trong vòng luân hồi trôi chảy bất tận, chính cái này dẫn đến lòng tham sống ở trong con người. Phật giáo nói đến đau khổ chủ yếu là chỉ tinh thần bức bách.
Trong 12 nguyên nhân đưa ra thì Đức Phật cho rằng, vô minh và ái dục là hai nguyên nhân chủ yếu đưa đến đau khổ cho con người. Sự kết hợp giữa ái dục và vô minh xuất phát từ nguồn gốc của ba thứ mà phật gọi là tam độc: tham, sân, si.
Tham: Biểu hiện sự tham lam của con người làm xúi dục con người hành động để thỏa mãn lòng tham của mình. Lòng tham của con người không có giới hạn, đây là nguyên nhân gây bao nỗi thống khổ cho con người như chém giết, xâm hại lẫn nhau.
Sân: Sự cáu gắt, bực tức, nóng giận khi con người không hài lòng về điều gì đó, làm cho con người không kiểm soát hết hành động của mình (giận quá mất khôn); như thế cũng đem lại những điều khổ đau, không hay cho con người. Sách Phật ghi rằng, một đốm lửa giận có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức và một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn, cửa nghiệp chướng mở.
Si: Sự si mê, lú lẫn, làm cho con người không phân biệt điều hay dở; điều đó gây bao tội lỗi, đau khổ cho mọi người. Nếu tham sân nổi lên mà có trí sáng suốt sẽ ngăn chặn được tham, sân.
Tiếp đến Đức Phật trình bày những nguyên nhâ._.n của 12 nỗi khổ (Thập nhị nhân duyên).
Duyên hành: là hành động có ý thức; ở đây đã có sự dao động của tâm, có mầm mống của nghiệp.
Duyên thức: Tâm thức từ chỗ cân bằng trong sáng đến dần dần mất cân bằng, tùy theo nghiệp mà tâm thức tìm đến các nhân duyên để hình thành cuộc đời khác.
Duyên danh sắc: là sự tụ hợp của các yếu tố vật chất tinh thần ;với các loài hữu tình thì sự hội nhập của danh sắc sinh ra các cơ quan cảm giác, trầm sức, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Duyên lục nhập: Quá trình tiếp xúc với thế giới khách quan, lục căn tiếp xúc với lục trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp
Duyên xúc: Là sự tiếp xúc phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức xúc, là quả của lục nhập, là nguyên nhân của thụ.
Duyên thụ: Là cảm giác do tiếp xúc với thế giới bên ngoài mà sinh ra yêu,ghét,buồn, vui.
Duyên ái: Là yêu nảy sinh dục vọng, mong muốn.
Duyên thủ: Có ái thì có thủ, đã yêu thì muốn chiếm lấy, giữ lấy cho mình
Duyên hữu: Tiến tới xác định chủ thể chiếm hữu (cái ta); từ đây chứng tỏ có nguyên nhân chứa đựng nguyên nhân.
Duyên sinh: Đã có tạo nghiệp là nhân tất yếu sẽ sinh ra quả; là hiện hữu là tu sinh ra ở thế giới để làm người, hay súc sinh.
Duyên lão tử: Đã có sinh tất yếu có già và có chết. Sinh - lão - bệnh - tử là kết thúc một chu kỳ, đồng thời là nguyên nhân của một chu kỳ tiếp theo, bắt đầu một vòng luân hồi mới. Cứ như thế tiếp diễn ở trong vòng đau khổ sinh tử.
Diệt đế
Đức Phật khẳng định, cái khổ có thể tiêu diệt được, chấm dứt được luân hồi. Đức Phật đã giảng cho môn đệ về vấn đề này ở thành Ba Nại Na: "Này các Thầy xa môn đến đạo diệt khổ, diệt lòng tham sinh hợp với thích thú và nhục dục tìm thích thú ở chỗ này chỗ khác nhất là tham dục, tham sinh, tham vô minh, diệt hết những dục vọng ấy sẽ khỏi khổ".
Vì vậy, mỗi chúng sinh phải tu dưỡng thân tâm, đoạn trừ "vô minh", để cho Phật tính bừng sáng, nó sẽ là ngọn đèn pha dẫn bước chúng sinh đến cõi Niết bàn. Muốn diệt trừ "vô minh" phải có trí tuệ vì: "Có trí tuệ thì hết đam mê, luôn luôn tự thức tỉnh và tự dò xét, không để lầm lỗi có thể có được, trí tuệ chân thật là chiếc thuyền chắc chắn nhất vượt bể sinh, lão, bệnh, tử. Là ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám vô minh... là búa sắt chặt cây phiền não" [27. tr 36-37]
Diệt đế nói lên thế giới của sự giải thoát, thế giới không còn khổ đau.
Đạo đế
Sau khi chỉ ra các nỗi khổ ở cuộc đời con người cũng như nguyên nhân gây nên các nỗi khổ ấy. Đức Phật khẳng định, có thể tiêu diệt được khổ, tiêu diệt nỗi khổ nhân sinh bằng trải qua tu luyện để thoát khổ đạt đến cõi Niết bàn tuyệt đối tịch tịnh sung sướng, an lạc và tốt đẹp nhất. Cuối cùng ngài đưa ra con đường để thoát khổ thực chất là diệt trừ vô minh, con đường đó là bát chính đạo. Đây là con đường tương đối phổ biến, là môn pháp chính được đề cập đến nhiều nhất đến nỗi có người lầm tưởng đạo đế và bát chính đạo là một, đồng nhất.
Chính kiến: Là sự hiểu biết đúng đắn, nhận thức rõ về tứ diệu đế, hiểu đúng sự vật khách quan. Người có chính kiến sẽ biết phân biệt đúng sai, chi phối mọi hành động, tâm trí sáng suốt.
Chính tư duy: Sự suy nghĩ phán xét đúng với lẽ phải. Người tu hành theo chính tư duy biết suy xét vô minh là nguyên nhân của khổ đau, tìm ra phương pháp tu luyện để thoát khổ cho mình và mọi người; đó là diệt trừ vô minh, tam độc.
Chính ngữ: Lời nói ngay thẳng, là đưa chính tư duy vào thực hành trong lời nói cụ thể: không nói dối, không tạo ra sự bất hòa giữa mọi người, không nói lời ác dữ, không thừa lời vô ích. Người tu hành trước khi nói năng phải suy nghĩ người nghe, nói lời đoàn kết dịu hiền.
Chính nghiệp: Đức Phật dạy chúng sinh rằng:
Nếu là tà nghiệp như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, thì phải cải tạo, cải tà quy chính, làm điều thiện tránh điều ác. Còn nếu là chính nghiệp việc làm hợp với lẽ phải, có ích cho mọi người thì phải giữ gìn. Trong chính nghiệp lại có thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp.
Thân nghiệp: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm.
Khẩu nghiệp: Không nói dối, không nói ác, không nói hai lưỡi, không nói thêu dệt.
ý nghiệp: Không tham dục, không nóng giận, không tà kiến.
Chính mệnh: Lối sống trong sạch, lương thiện, ngay thẳng của con người; không tham lam gian ác, ăn bám kẻ khác, không gian dối bất chính; sống chân chính bằng nghề nghiệp chính đáng. Có thể nói đây là phong cách sinh hoạt lành mạnh giúp cho con người luôn thoải mái nhẹ nhàng; như thế giúp cho sức khỏe - vốn là cái quí giá nhất ở con người để họ làm việc có hiệu quả.
Chính tinh tiến: Đức Phật dạy con người cố gắng làm điều thiện, tránh điều ác; không quên lý tưởng tu đạo, luôn cảnh giác tỉnh táo trong từng việc làm; phải chủ động tích cực trong việc tìm kiếm truyền bá chân lý nhà Phật.
Chính niệm: Trong đầu con người luôn có ý niệm trong sạch ngay thẳng, ghi nhớ những đạo lý chân chính, điều hay lẽ phải ở đời, chăm lo thường xuyên niệm Phật.
Chính định: Sự tập trung tư tưởng vào một việc chính đáng, đúng chân lý, tĩnh lặng suy tư về tứ diệu đế của vô ngã vô thường về nỗi khổ của con người, là cơ sở cho chính kiến, chính tư duy ở trình độ cao.
Với việc tu tập theo bát chính đạo mà Đức Phật đã chỉ ra, con người sẽ thu được lợi ích thiết thực cho cả mình và xã hội; họ sẽ tự ý thức, sửa mình từ bỏ mọi tội lỗi, tu thân tích đức như thế con người sẽ đạt tới sự hoàn thiện. Đây có thể coi là cơ sở, động lực để tạo ra sự yên bình, hạnh phúc không những trong xã hội hiện tại mà cả xã hội tương lai, bởi nhân nào quả ấy. Một lần nữa cho thấy, những giá trị nhân sinh sâu sắc của Phật giáo được khẳng định. Đức Phật đã rung động trước nỗi khổ của chúng sinh, nói như thế không phải Đức Phật tỏ ra bi quan trách đời mà phải thấy rằng Đức Phật đã dũng cảm chỉ ra thực tế, đoán định thế gian là chỉ có đau khổ. Từ đó mà đi tìm phương thuốc cứu giúp cho chúng sinh, tìm ra lối đi của sự tự do tuyệt đích, của hạnh phúc yên bình chính là con đường diệt khổ.
Đức Phật lấy việc giải thoát đau khổ làm trọng tâm tư tưởng trong giáo lý của mình. Đức Phật thuyết giảng: "Đạo của ta đây chỉ có một vị là giải thoát như nước ngoài khơi chỉ có một vị mặn". Tinh thần triết lý nhân sinh mà Đức Phật dạy chúng sinh đòi hỏi trách nhiệm về đạo đức làm người, không được làm ngơ trước những nỗi khổ của người khác, phải toàn tâm toàn ý cứu khổ cho mọi người... Đó cũng là yêu cầu đối với chính mình, mình có thực hiện tốt thì mới hy vọng thoát khổ. Đức Phật tự nhận: "Thường trong bể khổ sinh tử, làm chiếc thuyền lớn cứu vớt chúng sinh". (Kinh Tâm Địa Quán).
Phật giáo không lấy giáo lý làm trọng, mà chỉ coi đó là phương tiện để đạt đến chân lý cuối cùng. Cái cốt tủy của nó là sự thực hành của mỗi cá nhân đạt đến sự giác ngộ, tu thành đạo quả, chứ không phải nghe, giảng để hiểu đạo.
Phật giáo là một tôn giáo rất quan tâm đến con người và cuộc đời con người. Các tôn giáo khác cũng có cách nhìn nhận về con người. Song sự khác biệt căn bản của giáo lý Phật giáo với các tôn giáo khác như Thiên chúa giáo, Đạo giáo, Nho giáo... là ở chỗ, Phật giáo đã chỉ ra cho chúng sinh con đường thoát khỏi khổ đau, thoát khỏi bể khổ trầm luân để đạt đến cõi Niết bàn. Đó là con đường tu học, trau dồi trí tuệ, phá vỡ vô minh. Đức Phật dạy rằng: "Giáo lý của chúng ta như chiếc bè để qua sông, như ngón tay chỉ mặt trăng, đừng lấy ngón tay làm mặt trăng, các bậc Như Lai chỉ làm cái việc là chỉ đường thôi, mỗi người phải tự mình đi đến chứ không ai đi thế cho ai cả" (Pháp cú - Phamnopada).
Còn trong kinh Trường Ahàm, Phật dạy: "Hãy xem ta là người chỉ đường và hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp với ngọn đuốc của chính mình đừng thắp ngọn đuốc của người khác" [24, tr. 31].
Triết học Mác - Lênin cũng nghiên cứu con người, lấy đó làm điểm xuất phát đồng thời cũng là mục đích cuối cùng để phục vụ đời sống con người. Nhưng con người trong triết học Mác là con người hiện thực sống trong một xã hội nhất định, với các quan hệ xã hội cụ thể. Còn con người trong Phật giáo là con người nô lệ của các sở cầu tham vọng của mình. Tuy vậy nó vẫn thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc - đó cũng là giá trị lớn nhất trong triết học Phật giáo. Mục đích của triết học mácxít là xây dựng con người phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ; còn Phật giáo với mục đích giải thoát cứu vớt con người khỏi bể khổ trở về với Phật tính của mình. Phật cho rằng, mọi chúng sinh đều có thể giác ngộ và giải thoát vì Phật và chúng sinh đều có Phật tính. Đức Phật tuyên bố: "Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành" [25, tr. 21].
1.2. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam
1.2.1. Quá trình ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam
Phật giáo ra đời ở xã hội ấn độ cổ đại cách đây hơn 2500 năm và được truyền bá ra nhiều nước trên thế giới. ở mỗi nước, khi được du nhập vào, Phật giáo lại có sự cải biến cho phù hợp với tập tục của từng địa phương, từng dân tộc và mang những sắc thái khác nhau. Với tính cách là một trong những hình thái ý thức xã hội, ý thức tôn giáo trong đó có Phật giáo phụ thuộc vào tồn tại xã hội. ở ấn độ hiện nay Phật giáo tuy không còn chiếm số đông, nhưng những người có kiến thức đều tự hào về giáo lý nhà phật chính là ở tính triết lý sâu sắc. Trên thế giới cũng vậy, khi đã nói đến lý thuyết sâu sắc của xã hội ấn độ thì người ta không thể không nói đến Phật giáo.
ở Việt Nam hơn 2000 năm nay, Phật giáo tuy có lúc thịnh suy, nhưng trên thực tế đã luôn gắn bó với truyền thống dân tộc. Phật giáo phát triển qua các thời kỳ Đinh, Lê, hưng thịnh và đạt đến đỉnh cao dưới thời Lý, Trần, đã góp phần ổn định, bảo vệ chế độ phong kiến tập quyền và đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn hóa Việt Nam. Nhân sinh quan Phật giáo, nhất là đức từ - bi - hỷ - xả ngày càng thấm sâu vào đời sống tâm linh, hướng con người vào con đường thiện nghiệp, tu dưỡng đạo đức. Hiện nay, tuy không còn là quốc giáo, song Phật giáo vẫn có ảnh hưởng rất lớn đến sống tinh thần của người Việt Nam.
"Phật giáo đến Việt Nam, gặp bối cảnh khác, nên suy tư và vận dụng giáo lý của thiền sư cũng khác. Nếu không biết đổi khác, chỉ sống y khuôn với giáo lý nguyên thủy, chắc chắn chúng ta sẽ không có những trang sử đẹp được mệnh danh là thời kỳ vàng son của Phật giáo Lý Trần " [28, tr. 138].
Trong các tôn giáo được du nhập vào Việt Nam thì Phật giáo được truyền bá vào rất sớm sau Nho giáo. Ngay từ năm đầu công nguyên - thế kỷ I người Giao Châu đã tiếp xúc với Phật giáo từ Tây Vực truyền sang - thời kỳ này nước ta đang nằm dưới ách thống trị của nhà Hán. Các nhà nghiên cứu đều có chung ý kiến thống nhất cho rằng, Phật giáo được truyền vào Việt Nam bằng hai con đường. Thứ nhất, từ ấn Độ sang theo đường biển; thứ hai, từ Trung Quốc vào bằng đường bộ. Các tài liệu nghiên cứu cho thấy, thế kỷ thứ II cuối triều Hán Linh Đế (168 - 188) xuất hiện hai vị tăng ấn Độ sang Việt Nam truyền đạo là Ma Ha Kỳ Vực và Khưu Đà La, hình thành trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta - Trung tâm Phật giáo Luy Lâu (ngày nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Cũng trong thế kỷ này, Mâu Tử là người Trung Quốc đến Việt Nam viết sách về Phật giáo Việt Nam "Lý hoặc luận". ở Giao Châu có nhiều người tu Phật và hình thành tầng lớp tăng sĩ trong xã hội. Một số tăng sĩ Việt Nam dịch kinh Phật từ tiếng ấn Độ sang tiếng Hán. Phật giáo Việt Nam phát triển chủ yếu dưới sự ảnh hưởng của Phật giáo ấn Độ. Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu từ phía Bắc mang tư tưởng Đại thừa sau đó lan ra cả nước hay còn gọi Phật giáo Đại thừa, Phật giáo Bắc tông. Phật giáo được truyền từ phương Nam mang tư tưởng Tiểu thừa còn gọi là Phật giáo Tiểu thừa hay phật giáo Nam tông.
Việt Nam giáp với biển Đông có đường biển dài nằm trên con đường thủy thông thương giữa Đông và Tây, giữa Bắc và Nam, giữa hai cái nôi của nền văn minh lớn ở phương Đông là Trung Hoa và ấn Độ, là nơi xuất phát về phía Nam của nhiều nhà buôn sứ giả Trung Hoa. Vị trí thuận lợi ấy khiến Phật giáo du nhập vào Việt Nam sớm. Nhà nghiên cứu Phật học -Minh Chi cho rằng, Việt Nam ngay từ thời rất xưa đã được các cao tăng ấn Độ đến truyền giáo trực tiếp và thời điểm đó có thể là xưa hơn thời điểm Phật giáo vào miền Nam Trung Hoa khá nhiều. Trung tâm Phật giáo quan trọng đó là Luy Lâu. Đó là nơi có nhiều đường thủy, đường bộ quan trọng của Việt Nam lúc bấy giờ. Với vị trí giao thông thuận lợi như vậy, đã khiến Luy Lâu trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa sầm uất. Luy Lâu trở thành nơi hội tụ các luồng văn hóa và rất thuận lợi cho việc truyền bá đạo Phật vào Việt Nam. Tuy nhiên, Phật giáo Luy Lâu không giống hoàn toàn với Phật giáo ấn Độ. Phật giáo Luy Lâu đã có nhiều biến đổi nhằm thích nghi với phong tục tập quán, cũng như điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam vào lúc bấy giờ. Trước hết, đó là sự kết hợp hai dòng tín ngưỡng: Tín ngưỡng bản địa và tín ngưỡng Phật giáo ấn Độ.
Từ thế kỷ thứ VI, ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc đối với Việt Nam dần dần chiếm ưu thế, trong khi đó ảnh hưởng của Phật giáo ấn Độ có xu hướng giảm dần. Trong đó, đáng chú ý là có một số dòng thiền Trung Quốc du nhập vào Việt Nam. Dòng thiền thứ nhất do Tỳ Ni Đa Lưu Chi - tổ thứ ba của phái Thiền tông Trung Quốc đã sang Việt Nam cuối thế kỷ VI (580), tu tại chùa Pháp Vân (Bắc Ninh), trở thành vị sư tổ của phái thiền mang tên ông ở Việt Nam. Dòng thiền này truyền được cả thảy 19 thế hệ. Pháp Hiền là người nối pháp của Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Người cuối cùng của dòng Thiền này là Thiền sư Y Sơn. Lưu Chi đã góp phần đào tạo nên các thế hệ nhà sư Việt Nam có quan niệm mới về đạo Phật cùng phương pháp tu tập cũng có khác trước. Đặc trưng nổi bật của dòng thiền này là quan niệm mới về tâm Phật là cái không có trong thực tế, khó hình dung trong tư duy, khó nắm bắt trong nhận thức, một cái gì đó gần với cảnh giới Niết bàn. Phật giáo đã vắng bóng thần linh. Phương pháp tu tập cũng có những nét mới như chủ trương nghiêng về tu tập thiền định làm cho trí tuệ bừng sáng để đạt đến cảnh giới giác ngộ.
Năm 820, một phái Thiền khác do thiền sư Vô Ngôn Thông (Bất Ngữ Thông) truyền bá vào nước ta. Dòng Thiền này tồn tại và phát triển cho đến thời Trần. Tư tưởng chủ yếu của phái này là không dựa vào văn tự, thuyết giáo, gạt bỏ sự tu khổ hạnh lâu ngày v.v... theo truyền thống "Bất lập văn tự; Giáo ngoại biệt truyền; Trực chỉ nhân tâm; Kiến tính thành Phật" của Thiền tông Trung Quốc.
Dưới thời kỳ Bắc thuộc, hai phái thiền Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông cùng tồn tại và phát triển song song và về cơ bản vẫn là hai phái thiền riêng biệt, chưa chịu ảnh hưởng lẫn nhau như các thời kỳ sau này.
Phái thiền thứ ba được truyền vào nước ta là Thảo Đường. Lý Thánh Tông là sư tổ thứ hai của phái thiền này. Đây là dòng thiền riêng của đời Lý và có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam đến đầu thế kỷ XIII.
Đến thời Lý (1010 - 1225) - Trần (1225 - 1400), Phật giáo Thiền Tông phát triển hưng thịnh, đạt đến đỉnh cao rực rỡ và trở thành quốc giáo, chiếm ưu thế trong đời sống tinh thần của người Việt Nam.
Lý, Trần trong khoảng hai đời.
Nhà nhà niệm Phật, người người tụng kinh.
Sang đời Lê, vai trò tư tưởng Phật giáo dần suy giảm để nhường chỗ cho tư tưởng chiếm vị trí chủ đạo của Nho giáo.
ở Việt Nam Phật giáo được truyền vào là Phật giáo Đại thừa với các tông phái như Thiền tông, Mật tông, Tịnh độ tông.
Thiền tông quan niệm Phật tính là bình đẳng, có ở khắp mọi nơi và ai cũng có thể tu tập kiến tính thành Phật (Phật không chia Nam Bắc). Quan niệm này đã đem lại hy vọng giải thoát cho các tín đồ vốn là những con người đau khổ trong ách thống trị kìm kẹp nặng nề, hà khắc của chế độ phong kiến với hệ tư tưởng của Nho giáo.
ở Việt Nam, cùng với Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông cũng được truyền vào. Tông phái này sử dụng những phép tu huyền bí như thuật bùa phép, yểm huyệt, trấn tà, chữa bệnh cho con người… đã thỏa mãn phần nào nhu cầu tín ngưỡng, tâm lý con người, trong đó một bộ phận là quần chúng lao động nghèo khổ.
Tịnh độ tông với chủ trương Adiđà, tôn thờ phật Quan Thế âm cùng với các nghi thức tương đối đơn giản như dâng hương, rước tượng Phật, niệm Phật ghi nhớ những điều Đức Phật dạy và những lời răn dạy sống từ, bi, hỷ, xả, nhân từ, độ lượng... để được lên cảnh giới Phật. Điều này tỏ ra thích hợp với nhu cầu tâm linh của đông đảo các tín đồ, vốn những người bình dân. Tịnh độ tông kết hợp với các tông phái Phật giáo khác, có sức lôi cuốn hấp dẫn đối với nhiều người dân Việt Nam. Do vậy mà nó tồn tại và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.
Cuối thế kỷ XIV đầu XV Phật giáo bị hạn chế, suy yếu dần và đi vào dân gian. Nhiều người Việt Nam trong giới thượng lưu từ bỏ Phật giáo. Mặc dù vậy ở nông thôn, làng xã Phật giáo vẫn được duy trì tồn tại. Vì muốn đưa Nho giáo lên vị trí thống trị, triều đình Nhà Lê đã đề ra và thực hiện nhiều chính sách kiềm chế Phật giáo. Chẳng hạn, sư sãi trong chùa phải thi đỗ mới được làm tăng đạo, việc xây dựng chùa chiền bị hạn chế. Cuối 1461 vua Lê Thánh Tông ra lệnh cấm xây dựng thêm chùa quán, hay như việc tạc tượng đúc chuông mới phải xin phép chính quyền. Năm 1463, ông lại ra lệnh cấm những người Đạo thích trong nước ra vào trò chuyện trong hoàng cung v.v... Phật giáo cung đình không còn tồn tại, mà dần dần truyền bá vào dân gian.
Dưới thời Nhà Mạc - thế kỷ XVI, Phật giáo lại hưng khởi, các chùa mới được mọc lên nhiều. Nhiều chùa cũ được xây dựng từ thời Lý - Trần được trùng tu to đẹp hơn. Thế kỷ XVIII, vua Quang Trung có quan tâm đến việc chấn hưng đạo Phật. Thời kỳ này Phật giáo được coi trọng, được triều đình quan tâm chú ý, thần dân tôn thờ. Vua xuống chiếu chỉnh đốn việc cất chùa, chọn lựa các tăng nhân có đạo đức, có học thức để trông coi chùa, song việc làm này ít thu được kết quả vì vua mất sớm. ở vùng đồng bằng sông Hồng làng nào cũng có chùa, làng lớn thì có đến hai ba chùa, các thương nhân Việt Nam tin vào Phật giáo hơn Nho giáo. ở đàng trong, Phật giáo cũng được phổ biến rộng rãi.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX phong trào chấn hưng Phật giáo được dấy lên bắt đầu từ các đô thị miền Nam. Sở dĩ có tình trạng này là do sự giao lưu với văn hóa bên ngoài thúc đẩy. Các giáo hội Phật giáo miền Nam, Trung, Bắc ra đời và Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống tinh thần con người Việt Nam. Số tín đồ Phật giáo đông đảo hơn cả so với các tôn giáo khác. Phật giáo đã gắn bó, gần gũi với người dân Việt Nam trong suốt hơn 20 thế kỷ qua; những triết lý nhân sinh sâu sắc của nó được coi như sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử hình thành nền văn hóa, đời sống của dân tộc. Phải khẳng định rằng, Phật giáo rất gần gũi thân thiết với nhiều người dân Việt Nam.
Có thể thấy rằng, sự khác biệt của Nho giáo và Phật giáo trong quá trình ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam là ở chỗ: Nho giáo (là ý thức hệ tư tưởng của giai cấp thống trị-giai cấp phong kiến Trung Quốc), là một học thuyết chính trị - xã hội - triết học, với hệ thống "tam cương", "ngũ thường". Nho giáo phải thông qua học vấn, qua giáo dục nhà trường, thông qua các thiết chế xã hội để đi vào đời sống của con người, chủ trương tổ chức và xây dựng một xã hội cụ thể. Còn Phật giáo thông qua sinh hoạt tôn giáo trong giới tăng ni, phật tử và trong cả những sinh hoạt gia đình của con người Việt Nam. Đó là: "Nhờ biết ứng dụng phương tiện một cách linh động toàn hảo, trải qua bao thăng trầm đổi thay của lịch sử, Phật giáo Việt Nam vẫn tồn tại sáng ngời với thời gian" [28, tr. 139].
1.2.2. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến một số lĩnh vực trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam
1.2.2.1. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức
Hơn 20 thế kỷ qua Phật giáo đã cùng chung sống với dân tộc ta. Triết lý nhân sinh của Phật giáo đã thẩm thấu vào tinh thần dân tộc và có ảnh hưởng sâu sắc đến nhân sinh quan con người Việt Nam, góp phần đắc lực vào việc tạo nên nhân cách của nhiều người dân Việt Nam. Phật giáo đề cập rất nhiều đến thuyết nhân duyên, đến quan hệ nhân quả, nhìn sự vật từ kết quả để tìm nguyên nhân và từ kết quả này lại là nguyên nhân của quả khác trong mối liên hệ khác. Luân hồi nghiệp báo là giáo lý Phật giáo dựa trên luật nhân quả. Luật nhân quả của Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành phát triển nhân sinh quan và đạo đức trong nhân dân ta.
Nho giáo có tư tưởng thiên mệnh. Theo Nho giáo, con người sinh ra phục tùng tuân theo quy luật tự nhiên như một định mệnh, chịu sự chi phối của lực lượng siêu nhiên là mệnh trời. Khổng Tử ví con người trong tự nhiên giống con cá bơi lội trong dòng nước, dù có ngược xuôi như thế nào cũng phải tuân theo sự trôi chảy của dòng nước. Tư tưởng Nho giáo cũng ảnh hưởng mạnh đến nhân sinh quan con người Việt Nam. Nếu hệ tư tưởng Nho giáo làm cho con người tin tuyệt đối vào số mệnh, con người tuân thủ một cách nghiêm ngặt định mệnh của mình, như thế không thôi thúc con người hành động vươn lên mà trông chờ, ỷ lại vào số phận… thì luật nhân quả cho con người thấy được bản thân ta phải tu tập. Mệnh trời trong tư tưởng Nho giáo đã kết hợp hài hòa với triết lý nhân quả. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
"Cho hay muôn sự tại trời
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta
Những người bạc ác tinh ma
Mình làm mình chịu kêu mà ai thương".
Những câu thơ của Nguyễn Du cho thấy, triết lý ác giả ác báo của Phật giáo được đề cập vần xoay hại nhân nhân hại xưa nay lẽ thường ảnh hưởng thấm sâu vào nhân sinh quan con người Việt Nam. Tác phẩm của Nguyễn Du gián tiếp thể hiện triết lý nhân sinh, mang đậm màu sắc Phật giáo; cách thử nghiệm lý giải cuộc đời đau khổ cũng như phương pháp thoát khổ. Phật giáo nêu cao thiện tâm, bình đẳng cho mọi người như là những tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của đời sống xã hội.
Những quan niệm ở hiền gặp lành, gieo gió phải gặt bão, nhân nào quả đấy, cha mẹ hiền lành để đức cho con, bản chất từ hy hỷ xả trong triết lý nhân sinh Phật giáo thấm sâu vào đời sống tinh thần dân tộc hướng mọi tầng lớp nhân dân vào con đường thiện nghiệp tu dưỡng đạo đức vì dân vì nước. Có tác giả đã nhận xét: Cái sống đời đời trong đạo đức Phật giáo là từ bi và cứu khổ cứu nạn. Nó vượt thời gian, không gian, bởi vì nó nhằm bảo vệ, phát huy, duy trì nhân bản "làm điều lành", "hướng về điều lành" hoặc ít nhất "đừng làm ác", "đừng hướng về cái ác".
Luật nhân quả theo Phật giáo đề cập đến dòng biến động, sinh diệt nối tiếp nhau, đã chỉ cho các tín đồ điều kiện để đạt đến đỉnh cao của trí tuệ, thì người tu hành phải có đức độ, lòng từ bi mà không ỷ lại hay tự ty với chính mình. Tư tưởng này là nguồn động lực thôi thúc con người hành động, vững tin vào cuộc sống. Luật nhân quả còn khẳng định khi chúng ta gieo nhân tức là đã gây nghiệp, gây nghiệp lành được quả lành, gây nghiệp dữ bị quả dữ. Vì vậy đã hướng con người vào việc thiện, xa lánh điều ác. Nếu chúng ta gạt bỏ yếu tố thần bí về kiếp người trong luật nhân quả, sẽ thấy được tinh thần nhân bản trong việc giáo dục con người sống lành mạnh, làm việc tốt, từ đó góp phần vào việc xây dựng xã hội yên lành và có nhân tính hơn. Ngoài ý nghĩa tích cực trong việc giáo dục và xây dựng một gia đình tốt, một xã hội yên bình, Phật giáo nhấn mạnh sự nỗ lực là yếu tố quyết định của mỗi con người trong quá trình tu tập đi đến giác ngộ. Giáo lý nhân quả của Phật giáo không ra lệnh cũng không trừng phạt, mà đưa con người về vị trí thực sự của họ, không tách khỏi ý thức trách nhiệm vai trò vị trí của mình trong gia đình và xã hội, không ngừng tự giáo dục theo các chuẩn mực đạo đức, đạt đến sự hoàn thiện của bản thân
Triết lý về luật nhân quả của Phật giáo còn góp phần trong việc phòng ngừa ý định, hành vi phạm pháp luật của con người khi còn chưa bộc lộ. Con người, trước nguy cơ trở thành tội phạm, thì lương tâm thường hay cắn rứt, dày vò. Trong suy nghĩ ban đầu của họ luôn có sự đắn đo, đấu tranh tư tưởng... Do đó, nếu như họ sợ bị quả báo trừng phạt, quả báo có thể ứng ngay với bản thân mình thậm chí còn chịu hậu quả lâu dài về sau (đời cha ăn mặn đời con khát nước), thì họ sẽ ăn năn hối cải, từ đó có hành động tích cực để chuộc lỗi lầm cải tạo nghiệp.
Phật dạy chỉ có chính ta mới là chủ nhân thực sự cuộc sống của ta, nên ta phải gắng sức rèn luyện để trở thành người tốt, mà không trông chờ ở một thế lực siêu tự nhiên nào ngoài bản thân mình. Đức Phật dạy rằng: "Hãy tự mình là ngọn đèn soi sáng cho mình, hãy tự tạo cho mình một chỗ nương tựa và đừng nương tựa vào ai khác ngoài bản thân mình" [25, tr. 22].
Phật giáo với một hệ thống triết lý sâu sắc ít mang tính siêu hình, mà trái lại có tính thực tiễn cao. Đó là con đường giúp con người thoát khổ (giải thoát). Phật giáo có ảnh hưởng tác động sâu sắc đến nền tảng đạo đức, sự hình thành nhân cách con người Việt Nam - bản sắc độc đáo ở mỗi con người. Hiện nay có những quan niệm khác nhau về nhân cách và trong cuộc sống đời thường có người quan niệm sai lầm đồng nhất nhân cách với đạo đức. Triết học Mác - Lênin quan niệm, nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong mỗi cá nhân. Nhân cách là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa các các nhân. Với nhân cách riêng, mỗi cá nhân có khả năng tự ý thức về mình, làm chủ cuộc sống của mình, tự lựa chọn chức năng, niềm vui, trách nhiệm hoạt động cụ thể trong xã hội. Trong đó, đạo đức là thành phần quan trọng nhất, là gốc của nhân cách. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức là toàn bộ những quy tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Truyền thống đạo đức của dân tộc ta chịu ảnh hưởng sâu sắc của đạo đức Phật giáo. Dân tộc Việt Nam từ khi được hình thành đến nay đã trải qua bao thăng trầm lịch sử, những thuận lợi cũng như khó khăn thử thách đã hun đúc làm nên tinh thần dân tộc bền vững. Trong đó tiêu biểu nhất là lòng yêu nước nồng nàn, là cốt lõi của nhân phẩm. Phật giáo vừa là một hệ thống triết học tôn giáo, vừa là một học thuyết có giá trị đạo đức rất cao, mà mục đích duy nhất của nó là cứu khổ độ sinh. Theo Đức Phật, một đời sống hạnh phúc là một đời sống có đạo đức. Ngay từ khi được du nhập vào nước ta, Phật giáo đã tham gia vào nền đạo đức dân tộc một cách hòa bình, thẩm thấu vào truyền thống yêu nước trong suốt chiều dài lịch sử truyền thống dân tộc. Đạo đức Phật giáo thâm nhập vào đạo đức dân tộc theo truyền thống vì nghĩa, vì nước. Điều này có thể coi là sự hóa thân của Phật giáo vào truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử, đạo đức Phật giáo đã thích ứng với hoàn cảnh Việt Nam, biến thái từ một nền đạo đức tiêu cực, từ bi sang tinh thần dũng cảm, anh dũng đấu tranh vì dân vì nước. Trần Nhân Tông, vị Sư tổ khai sáng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử - dòng thiền lớn nhất của Việt Nam thời Trần - ông là người đã có công trong việc đưa chính pháp vào đời sống đạo đức xã hội Việt Nam thời kỳ này. Nhân Tông là vị vua yêu nước, đã lãnh đạo toàn dân chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông 1285 - 1288, giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc. Ông còn là vị vua có lòng nhân từ, thân dân nhất. Dưới thời Trần Nhân Tông, nước Đại Việt đã làm nên những kì tích trong lịch sử của mình. Suốt triều đại Lý - Trần, lý tưởng vô ngã, vị tha được xếp là chuẩn mực của nếp sống đạo đức Phật giáo, mà nhờ đó đã có ảnh hưởng sâu đậm tới đời sống đạo đức của nhân dân ta.
Không phải chỉ khi Phật giáo trở thành quốc giáo mà ngay cả khi nó đã nhường chỗ cho Nho giáo (đầu thế kỷ XV), thì sự ảnh hưởng của nó đến đời sống đạo đức của nhân dân ta vẫn đậm nét. Ví như tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi rất gần gũi và tương đồng với đạo đức Phật giáo. Nhân sinh quan Phật giáo đã hòa đồng với các tôn giáo khác, cũng như tập quán tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đạo lý từ - bi - hỉ - xả, bình đẳng, của Phật giáo đã ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tinh thần người Việt, là một trong những yếu tố tham gia vào quá trình hình thành giá trị văn hóa dân tộc. Đạo đức xã hội coi trọng chữ tâm là gốc để tạo nên sức mạnh và là động lực cho sự phát triển xã hội. Tư tưởng, hành vi đạo đức Phật giáo phù hợp với truyền thống nhân đạo, thương người như thể thương thân của đạo lý người Việt Nam.
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Trong gia đình, việc thờ cúng tổ tiên là truyền thống của con người Việt Nam. Truyền thống đó được cộng hưởng bởi đạo đức Phật giáo. Cho đến tận ngày nay, trong mỗi gia đình người Việt Nam, thậm chí ở cả nước ngoài, khi mở đầu bài khấn lễ gia tiên, hay trước khi tiến hành các thủ tục tế lế thì bao giờ cũng được mở đầu bằng câu "Nam mô a di đà phật".
ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đã trở thành một bộ phận hợp thành đạo đức của xã hội Việt Nam từ thuở xa xưa. Thời kỳ Lý - Trần, Phật giáo chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, thì có thể nói, đạo đức Phật giáo gần như đồng nhất với đạo đức xã hội. Ngay cả khi Phật giáo lui vào dân gian thì ảnh hưởng của nó vẫn không hề mất đi. Nhiều giá trị đạo đức của Phật giáo nói riêng và tôn giáo nói chung có tính phổ quát. Chính vì vậy, khi đánh giá vai trò của tôn giáo, Kant - nhà triết học người Đức (1724-1804) - cho rằng, chức năng cơ bản của tôn giáo là chức năng đạo đức.
Cũng như các tôn giáo khác, Phật giáo là niềm an ủi cho con người bằng một sự đền bù hư ảo, hay là đem lại sự thỏa mãn nhu cầu tâm linh một cách ảo tưởng, coi sự giải thoát khỏi thế giới trần tục làm cứu cánh cho cuộc đời đau khổ của mình. C. Mác đã từng nói: "Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân" [17, tr. 8]. V.I. Lênin coi: "Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Tôn giáo là thứ rượu tinh thần" [17, tr. 226]. Như vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen xem tôn giáo như một thứ thuốc an thần ở đó quần chúng nhân dân tìm thấy sự an ủi, con đường giải thoát cho mình. Phật giáo đem đến cho con người sự thanh thản, niềm hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp ở cõi Niết bàn. Con người tin và theo đạo Phật và nhờ đó nhu cầu tâm linh của họ được an ủi, đền đáp. Nhưng Phật giáo là một tôn giáo bởi nó có nghi lễ, cúng lễ, cầu nguyện và khi gặp khó khăn được Phật tổ cứu giúp. Với người phật tử, Đức Phật hay Ông Bụt đều là hình tượng của sự sáng suốt, lòng nhân từ bao dung độ lượng luôn cứu vớt và ba._.hưởng tích cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam sẽ có tác động tích cực trở lại, góp phần thực hiện tốt đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, bởi theo lý luận chủ nghĩa Mác là ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. Vì vậy cần có cơ chế, chính sách phát huy nội lực của nhân dân, tạo ra phong trào quần chúng mạnh mẽ, rộng khắp và thường xuyên tham gia phát triển văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh, bảo vệ nền văn hóa dân tộc cũng như bồi đắp cá tính con người Việt Nam.
2.3.2. Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo, tổ chức phật tử trong đời sống kinh tế - xã hội
Sự tồn tại và phát triển của tôn giáo nói chung và Phật giáo ở nước ta hiện nay đã cho thấy, Phật giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Phật giáo vẫn tồn tại và ảnh hưởng đến đời sống tinh thần con người Việt Nam với cả những mặt tích cực và mặt tiêu cực. Phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo - đặc biệt nhân sinh quan Phật giáo, là yêu cầu khách quan trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Cùng với những giải pháp khác thì việc phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo trong đời sống kinh tế - xã hội là điều kiện để thực hiện thắng lợi yêu cầu khách quan trên đây.
Thực tế ở nước ta trong mấy năm gần đây đã xuất hiện những giáo phái mới (Thanh Hải Vô Thượng Sư, Long Thọ Bồ Tát, Long Hoa Di Lặc…), những hoạt động mê tín dị đoan diễn ra khắp nơi, trong mọi lứa tuổi và trong mọi tầng lớp dân cư. Thực trạng này đòi hỏi công tác quản lý tôn giáo của Đảng, Nhà nước phải được tăng cường hơn nữa. Trong đó việc tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, xây dựng phát huy vai trò các tổ chức tôn giáo là việc làm bức thiết. Để phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo sẽ giúp Phật giáo phát triển đúng hướng, phù hợp với đời sống hiện đại; thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chú trọng giải quyết những lợi ích thiết thân kể cả quyền tự do tín ngưỡng của các Phật tử. Qua đó đã giúp đỡ đồng bào nâng cao trình độ về mọi mặt có nhiều đóng góp tích cực và lớn lao vào sự nghiệp cách mạng của nước ta.
Tư tưởng đại đoàn kết các dân tộc, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra ngay từ khi khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã trở thành chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, thực chất là sự tôn trọng quần chúng nhân dân và đời sống tâm linh của họ. Trong cổ vũ động viên cũng như trong chỉ đạo thực tiễn phong trào cách mạng Hồ Chủ tịch và Đảng ta luôn quan tâm đến niềm tin tôn giáo của đồng bào theo đạo. Hồ Chủ Tịch mong muốn mỗi giáo dân vừa là người chân chính yêu nước, vừa là chân chính tín đồ. Quan điểm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, quyền bình đẳng giữa các tín ngưỡng tôn giáo của Đảng và Nhà nước được biểu hiện trên nhiều khía cạnh. Đại biểu của các tín đồ tôn giáo, trong đó có giới tăng ni, phật tử có mặt trong thành phần quốc hội, tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Giới tăng ni, phật tử đang là bộ phận hữu cơ trong khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó chứng tỏ Phật giáo ngày càng gắn bó với dân tộc.
Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo góp phần đảm bảo cơ cấu trong các tổ chức Phật giáo đưa hoạt động của giáo hội Phật giáo đi đúng hướng, không trái với mục tiêu của Đảng và Nhà nước, duy trì sự ổn định xã hội, đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc để cùng nhau xây dựng, phát triển đất nước trong công cuộc đổi mới toàn diện. Nhà nước căn cứ vào luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tín đồ và các tổ chức Phật giáo, đồng thời tạo điều kiện cho tổ chức này gìn giữ và phát triển các giá trị văn hóa đạo đức truyền thống, từ đó phát huy những mặt tích cực của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống xã hội.
Trong việc phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong các hoạt động của Phật giáo thì các vị chức sắc, lãnh đạo giáo hội, giáo đoàn có vai trò rất lớn. Họ có ảnh hưởng rất lớn trong việc ngăn chặn kịp thời các hành vi vượt ra khỏi khuôn khổ của giáo luật cũng như luật pháp của số tín đồ lợi dụng chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng để gây rối làm mất an ninh, trật tự xã hội, ngăn chặn thế lực phản động bên ngoài, lợi dụng Phật giáo trong chiến lược diễn biến hòa bình. Mặt khác, các vị chức sắc, nhà tu hành cũng phải tuân theo nghĩa vụ của người công dân. Họ cũng bị pháp luật xử lý nếu tham gia các hoạt động gây rối, gây mất trật tự ổn định xã hội, chống phá sự nghiệp đổi mới, đi ngược lại với lợi ích của dân tộc. Công việc này đòi hỏi chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều người, nhiều cấp, nhiều ngành, của cả hệ thống chính trị. Trong công tác quản lý các hoạt động tôn giáo, chúng ta phải hết sức cẩn trọng để tránh có sự hiểu lầm, không để kẻ xấu lợi dụng và bảo vệ sự vững chắc khối đại đoàn dân tộc.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề tôn giáo, Đảng và Nhà nước vẫn xác định tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân, ở một mức độ nhất định nó vẫn phát huy tác dụng và hướng dẫn hoạt động của con người. Trong tình hình hiện nay, trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta phải biết đánh giá, phát huy những giá trị tích cực của nhân sinh quan Phật giáo trong giai đoạn hiện nay, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống xã hội.
Quá trình hội nhập với các quốc gia trong khu vực và thế giới đã mở ra cho đất nước nhiều điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng và đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, quá trình đó cũng đặt dân tộc ta đứng trước nhiều thách thức mới. Đảng và nhà nước ta đã động viên toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước bằng ý chí tự lực tự cường, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của các nước trên thế giới. Các chính sách về tôn giáo mà Đảng ta đưa ra nhằm phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, phát nhân tố con người, vì con người... phải động viên được khoảng mười triệu tín đồ Phật tử cố kết trong hàng ngũ của toàn dân theo tinh thần đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu để cùng nhau xây dựng và phát triển đất nước. Trong xã hội ta hiện nay, giới tăng ni, phật tử và những người có cảm tình với Phật giáo chiếm số lượng khá đông. Đây là lực lượng xã hội to lớn có thể phát huy năng lực sáng tạo trong lao động sản xuất cũng như trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại đại đoàn kết dân tộc, chống chế độ.
Vì vậy, việc đoàn kết những người có tín ngưỡng và tôn giáo khác nhau, củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng quần chúng nhân dân quanh Đảng nhằm góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đi đến thắng lợi là việc làm rất cần thiết và cấp bách.
Trong không khí hòa bình, cả nước đang đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi các tín đồ, nhà tu hành, các vị chức sắc phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình. Họ không chỉ dừng lại ở việc tổ chức và hành đạo theo tín ngưỡng mà còn phải vì sự nghiệp chung của dân tộc, hòa mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế họ không thể tách rời khỏi các hoạt động chung của xã hội, trong đó có việc thực hiện tốt các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phải gắn đạo với đời. Hiện nay trong thành phần đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng nhân dân các cấp bao gồm cả các đại biểu đại diện cho các tôn giáo, trong đó có Phật giáo. Điều này thể hiện một cách nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng. Giới tăng ni, phật tử Việt Nam hiện đang thực sự là bộ phận hữu cơ trong khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để cùng nhau xây dựng và phát triển đất nước.
Hiện nay, trong các hoạt động truyền bá Phật pháp, thì việc đào tạo các tăng ni, phật tử cũng rất được chú trọng. Điều này đã tạo điều kiện để cho các tín đồ Phật giáo được tiếp xúc nghiên cứu, nắm vững nâng cao hiểu biết của mình về kiến thức Phật giáo. Trên cơ sở đó, các Phật tử sẽ phân biệt được tín ngưỡng Phật giáo với tín ngưỡng của các tôn giáo khác. Nếu làm tốt điều này, sẽ hạn chế việc các tín đồ bị lôi cuốn vào các hoạt động mê tín dị đoan, mà nhiều người lợi dụng dưới danh nghĩa hoạt động để tiến hành, đang được coi là vấn đề bức xúc trong xã hội. Việc hiểu và nắm chắc giáo lý đạo Phật, các tín đồ sẽ là bộ lọc giúp cho người Phật tử tự giác, không dễ bị mua chuộc, lôi kéo hay vô tình vi phạm đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về tôn giáo.
Để phát huy tốt vai trò của các tổ chức phật tử, chúng ta cần phải thực hiện tốt đường lối, chủ trương và các chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Trong đó, có việc loại trừ mọi mặc cảm thành kiến trong đồng bào cố đạo, không có đạo, tăng cường khối đoàn kết trong cộng đồng dân cư, đồng thời tạo ra các điều kiện để người tu hành có thể tham gia tốt hơn vào công tác quốc kế dân sinh. Đảng và Nhà nước cần tạo ra những điều kiện để giới tăng ni, phật tử được tham gia vào hoạt động lao động sản xuất, hoạt động chính trị xã hội, hoạt động văn hóa tư tưởng. Thông qua những hoạt động ấy đã gắn họ vào hoạt động thực tiễn cùng với các tầng lớp nhân dân khác trong cả nước để họ hiểu hơn về cuộc sống thực tại, khơi dậy ở họ tình yêu quê hương, làm chủ đất nước để ra sức đóng góp sức lực của mình trong công cuộc đổi mới của đất nước. Hiện nay chúng ta thấy có những cơ sở sản xuất, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi... là do những tu sĩ và phật tử đảm nhiệm. Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích động viên và tạo điều kiện thực hiện theo quy định của pháp luật cho các cá nhân tín đồ, các vị chức sắc, nhà tu hành tham gia việc xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, giáo dục với tư cách là công dân. Sự hi sinh hết mình, tận tụy cứu khổ cho mọi người đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều người dân Việt Nam. Đó là những tấm gương sáng cho mọi người để cùng nhau phát huy tinh thần tương thân tương ái trong xã hội.
ở nước ta hiện nay, việc phát huy những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo thông qua việc thực hiện tốt trách nhiệm nghĩa vụ của người tín đồ trên cương vị của người công dân trong giới tăng ni, phật tử.
Một điểm nữa cần chú ý, đó là Nhà nước quan tâm, chú ý, tạo điều kiện, có kế hoạch giúp đỡ về đời sống của người tu hành, nhất là đối với những tăng ni già yếu, đời sống của họ gặp khó khăn... theo truyền thống "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng" của con người Việt Nam.
Trong các biện pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong các hoạt động của Phật giáo, thì việc gây dựng dư luận phê phán mạnh mẽ các hủ tục mê tín dị đoan v.v... trong quần chúng nhân dân cũng là điều cần thiết, không kém phần hiệu quả. Cần vạch mặt những kẻ buôn thần, bán thánh. Toàn Đảng, toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác không để kẻ xấu lợi dụng, bảo vệ sự trong sạch của lòng tin đúng với ý nghĩa tâm linh. Làm tròn nhiệm vụ của người công dân cũng như của Phật tử. Đạo với đời toàn vẹn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.3.3 Đấu tranh chống những hiện tượng lợi dụng Phật giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng của nước ta
Công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay đã làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội. Kinh tế đang trên đà phát triển mạnh, đời sống tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện nâng cao. Hiện nay việc mở cửa, giao lưu và hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới đã mở ra cho đất nước ta nhiều cơ hội và thời cơ mới cho sự phát triển, nhưng cũng đưa lại không ít nguy cơ và thách thức mới. Các tôn giáo nước ta chịu ảnh hưởng lớn hơn, mạnh hơn từ phía bên ngoài. Một trong số đó là nguy cơ "diễn biến hòa bình", trong đó có vấn đề lợi dụng hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và Phật giáo nói riêng để hòng phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, gây rối, tạo cớ can thiệp, chống phá sự nghiệp đổi mới, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta.
Đấu tranh chống các hiện tượng lợi dụng, xuyên tạc hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng Phật giáo là yêu cầu bức thiết đối với việc chống lại nguy cơ diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta tiến lên giành những thành tựu to lớn hơn. Muốn vậy chúng ta phải không ngừng nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt cho quần chúng nhân dân. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải được thực hiện thường xuyên lâu dài, mà trọng tâm là công tác giáo dục và đào tạo của nước ta. Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ sự cần thiết phải tạo ra được bước chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo: "Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" [7, tr. 108].
Phát triển giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao trình độ nhận thức khoa học cho nhân dân là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của cả xã hội, của mỗi gia đình và mỗi công dân, sự cần thiết phải có sự phối hợp tốt giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập. Cần phải chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn dân. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao. Thực tế những năm qua cho thấy, công tác giáo dục thế giới quan duy vật của chúng ta còn có những hạn chế nhất định, chưa đạt được kết quả như mong muốn. Chúng ta phải xác định nhiệm vụ này rất phức tạp và khó khăn, nhất là trong điều kiện hiện nay khi chủ nghĩa xã hội thế giới đang lâm vào thoái trào. Chính vì vậy mà việc nâng cao dân trí, nâng cao trình độ nhận thực khoa học và chủ nghĩa vô thần cho quần chúng nhân dân là rất quan trọng. Vấn đề giáo dục tri thức tôn giáo trong nhà trường có ý nghĩa hết sức lớn lao. Qua đó đã giúp con người nhìn nhận, có thái độ đúng đắn với tôn giáo, thấy được cái tiến bộ cũng như cái hạn chế của nó.
Trong điều kiện hiện nay, để công tác giáo dục thế giới quan duy vật có hiệu quả thiết thực thì cần phải có sự đổi mới và nâng cao chất lượng dạy và học các môn khoa học nói chung, trong đó có các môn học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, cần sử dụng tổng hợp các hình thức, phương tiện giáo dục khác nhau như thông qua phát thanh, truyền hình, sách báo, học tập qua mạng v.v... cùng với đa dạng hóa loại hình đào tạo sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng đào tạo. Để nâng cao từng bước chất lượng dạy và học các môn học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, thì trước tiên chúng ta phải không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ giảng viên trong hệ thống nhà trường của cả nước. Muốn vậy, Nhà nước phải có chính sách động viên, khuyến khích đội ngũ giảng viên học tập nâng cao trình độ, tạo điều kiện cho họ được đi tham quan thực tế để tích lũy kinh nghiệm phục vụ cho hoạt động giảng dạy. Bên cạnh đó, cần phải tạo ra không khí học tập tích cực, lôi cuốn sinh viên vào quá trình học tập tích cực và chủ động. Trong vài năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động thi Ôlympíc các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nhiều hoạt động khác nhằm khuyến khích động viên hơn nữa sinh viên đi vào tìm hiểu, nghiên cứu sâu rộng các môn học này. Qua đó sẽ góp phần trang bị thế giới quan duy vật, bản lĩnh chính trị cho thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước ngăn chặn và đẩy lùi những ảnh hưởng tiêu cực trong xã hội nói chung và của hoạt động Phật giáo nói riêng.
Khi con người đã được trang bị thế giới quan duy vật, phương pháp luận biện chứng, nhận thức được những điều kiện và tiền đề để giải phóng thực sự con người thoát khỏi sự áp bức về mọi mặt, hướng tới sự phát triển một cách toàn diện, thì họ sẽ có khả năng phân biệt những hoạt động tín ngưỡng Phật giáo lành mạnh với việc lợi dụng chính sách tự do tôn giáo của Đảng và Nhà nước, đội lốt hoạt động tôn giáo nhằm chống phá cách mạng nước ta. Từ đó họ sẽ góp phần vào việc ngăn chặn những hoạt động sai trái nói trên, có khả năng chống lại ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, Phật giáo.
Cùng với việc nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt cho quần chúng nhân dân, đồng thời chúng ta cần nghiêm khắc trừng trị những kẻ lợi dụng tôn giáo để truyền đạo trái phép, chống Đảng, chia rẽ tôn giáo này với tôn giáo khác, chia rẽ đồng bào có đạo và không có đạo, làm tổn hại đến lợi ích của tổ quốc, của chế độ chủ nghĩa xã hội. Một mặt, Đảng, Nhà nước chủ trương nâng cao dân trí, chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân giúp họ tìm thấy thiên đường ở cuộc sống thực tại; mặt khác, Đảng cũng chủ trương: "Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia" [7, tr. 128]. Chủ trương đó sẽ từng bước được Đảng và Nhà nước ta cụ thể hóa và hoàn thiện thông qua hệ thống luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo theo tinh thần của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX: "Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo" [7, tr. 128].
kết luận
Phật giáo đã đến với dân tộc ta đã hơn 2500 năm nay, trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam đã trải qua nhiều biến đổi thịnh - suy, thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc. Phật giáo đã từng vươn lên chiếm lĩnh vị trí tư tưởng ở các triều đại Đinh, Lê. Phật giáo, với sự hưng thịnh đạt tới đỉnh cao dưới thời Lý, Trần, đã từng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, được xem là quốc giáo dưới thời kỳ này. Phật giáo đã ảnh hưởng rất sâu đậm trong đời sống tinh thần của nhân dân ta trên nhiều lĩnh vực như đạo đức, lối sống, văn hóa... Kể từ khi du nhập, Phật giáo đã hòa đồng với tín ngưỡng, phong tục tập quán của của người Việt, đã trở thành Phật giáo Việt Nam với bản sắc riêng. Một trong những nét sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam là điểm tương đồng với tín ngưỡng bản địa. Phật giáo hóa tín ngưỡng cùng với tín ngưỡng hóa Phật giáo để mang đặc điểm riêng của Phật giáo Việt Nam. Đây là sự tổng hợp, chắt lọc những tư tưởng tinh túy của các tông phái Phật giáo kết hợp hài hòa với văn minh bản địa tạo thành tư tưởng vừa từ - bi - hỷ - xả vừa kết hợp với truyền thống văn hóa, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cố kết cộng đồng... trong quá trình dựng nước và giữ nước của con người Việt Nam. Phật giáo đã gắn bó với tâm lý truyền thống của dân tộc, đi vào đời sống của nhân dân và truyền qua các thế hệ, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người dân Việt Nam, góp phần tạo nên bản sắc, cốt cách văn hóa của dân tộc ta.
Hiện nay, Phật giáo là tôn giáo lớn nhất ở nước ta. Phật giáo đứng vững và có sức sống lâu bền trong đời sống tinh thần của nhân dân ta. Sự tồn tại và phát triển lâu dài của Phật giáo với tính cách là một trong những thành tố của cấu trúc văn hóa dân tộc, những tư tưởng triết lý của Phật giáo, đặc biệt nhân sinh quan của nó có giá trị nhân sinh sâu sắc như giàu lòng vị tha, yêu thương và yêu chuộng hòa bình... Giáo lý nhà Phật có nguồn gốc từ cuộc sống khổ đau của con người trong xã hội ấn Độ cổ đại, từ ước nguyện lớn lao muốn mang lại cho chúng sinh cuộc sống an vui hạnh phúc thực sự, thoát khỏi bể khổ trầm luân. Những quan niệm triết lý nhân sinh của Phật giáo là sự hội tụ, kết tinh của những yếu tố nhân bản, thể hiện sự thông cảm, thương xót vô hạn của Đức Phật, yêu thương chúng sinh, thắm thiết tình người và đặc biệt đã khơi dậy nguồn sức mạnh trong con người... đã góp phần tạo dựng, bồi đắp nên những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống của con người Việt Nam.
Những quan niệm về nhân sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực đến đời sống xã hội Việt Nam. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, nhân sinh quan Phật giáo chịu sự quy định và biến đối cùng với tồn tại xã hội, mà trước hết là sự biến đổi của kinh tế-xã hội, của đất nước và của thời đại. Hiện nay, trong bối cảnh mới Phật giáo đã có sự cải biến, đổi mới cả về giáo lý, lễ nghi và biện pháp hoằng pháp hóa đạo để thích nghi với hoàn cảnh mới, điều kiện mới.
Sự biến đổi đó dẫn tới nhiều hệ quả khác nhau, trong đó có sự biến đổi rõ nét của sự ảnh hưởng của nhân sinh quan đối với các tín đồ Phật giáo. Hiện nay, sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo diễn ra ở cả hai chiều trái ngược nhau. Một mặt, sự biến đổi đó diễn ra theo chiều hướng tích cực. Đó là xu hướng đạo gắn với đời, việc tu tập của người tín đồ không xa lánh trần tục, không thoát ly sự nghiệp đổi mới của đất nước, người tín đồ ngoài việc lo hành đạo còn phải thực hiện tốt trách nhiệm và nghĩa vụ của người công dân v.v... Mặt khác, trong xu hướng nhập thế, cũng nảy sinh không ít hiện tượng một số người lợi dụng chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng và nhà nước, vô tình hay hữu ý tiếp tay cho các thế lực thù địch ở bên ngoài có những hành vi gây rối, chia rẽ âm mưu phá hoại khối đoàn kết dân tộc, cản trở công cuộc xây dựng và phát triển đất nước v.v... Điều đó đòi hỏi chúng ta là phải tìm ra các giải pháp để phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế và đẩy lùi ảnh hưởng tiêu cực mà sự biến đổi nhân sinh quan Phật giáo gây ra. Trên cơ sở nắm vững nội dung nguyên lý cơ bản của Phật giáo để phát huy những giá trị của nó trong đời sống xã hội, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hiện nay, đa số các tín đồ, tăng ni và các vị chức sắc có nhiều đóng góp tích cực cho công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, với chủ trương đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đã được Đảng, Nhà nước nhân dân ghi nhận và đánh giá cao. Thời đại ngày nay, sự biến đổi mạnh mẽ của khoa học - công nghệ đã đưa loài người bước vào nền văn minh tin học. ở nước ta sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những mặt trái của nó, quá trình mở cửa hội nhập quốc tế v.v... đã có tác động rất lớn đối với các tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. Vì vậy, trong công tác tôn giáo, nói riêng đối với Phật giáo, chúng ta phải có thái độ khách quan, khoa học nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo để xây dựng nền văn hóa tiến bộ. Để công tác tôn giáo đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội cũng như của mỗi người. Trước hết, chúng ta phải không ngừng học tập nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ năng lực công tác, quán triệt, vận dụng đúng đắn và sáng tạo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo ở địa phương, ngành mình công tác.
Danh mục tài liệu tham khảo
Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2003), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Thị Bảy (1997), Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ, Nxb Thông tin, Hà Nội.
Minh Chi (2001), "Về xu thế thế tục hóa và dân tộc hóa", Nghiên cứu tôn giáo, (3).
Doãn Chính (chủ biên) (2003), Kinh văn của các trường phái triết học ấn Độ, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đại học quốc gia Hà Nội, Trung tâm bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh (2002), Quán triệt vận dụng Nghị quyết Đại hội IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Giáo trình triết học Mác - Lênin (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Văn Giàu (1993), Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Hùng Hậu (1996), Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Bùi Biên Hòa (1998), Đạo Phật và thế gian, Nxb Hà Nội.
Mai Xuân Hợi (1996), Thế giới quan, nhân sinh quan đạo Phật và sự ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội Việt Nam, Luận văn cử nhân, Trường Đại học Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Thanh Hương (1949), Trí - Tuệ - Phật, Tân Việt ấn hành, Hà Nội.
Trần Khang và Lê Cự Lộc (dịch), (2001), C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin, Bàn về tôn giáo và chủ nghĩa vô thần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Vũ Ngọc Khánh (1986), Phật giáo và văn hóa dân gian Việt Nam - Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội.
Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, II, Nxb Văn học, Hà Nội.
C. Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1985), Toàn tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Thích Thánh Nghiêm (1991), Học Phật quần nghi, Phân viện Nghiên cứu Phật học, Hà Nội.
Tâm Nguyên (dịch) (1973), Khuyên phát tâm bồ đề, Hương Sen ấn tống Phật lịch 2517.
Phân viện Nghiên cứu Phật học, Phật giáo và văn hóa dân tộc, Thư viện Phật học xuất bản.
Phòng thông tin tư liệu, Ban Tôn giáo Chính phủ, Một số tôn giáo ở Việt Nam.
Lê Văn Quán (1998), "Bước đầu tìm hiểu giá trị nhân sinh của Phật giáo", Nghiên cứu Phật học, (2).
Thích Trí Quang (dịch) (1973), Kinh di giáo, Hương Sen ấn tống Phật lịch 2517.
Thích Trí Quảng (1999), Lược giải kinh Pháp Hoa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm Văn Sinh (1995), Về vai trò của Phật giáo ở Việt Nam (qua triều đại nhà Lý), Luận án tiến sĩ triết học, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Nguyễn Đức Sự (chủ biên), (2001), C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin, bàn về tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
Thích Chơn Thiện, (1999), Phật học khái luận, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Hoàng Thơ (2002), "Đạo đức Phật giáo với kinh tế thị trường", Triết học, (7).
Nguyễn Tài Thư (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Tài Thư (1996), Phật giáo Việt Nam, những vấn đề đặt ra hiện nay, tôn giáo tín ngưỡng hiện nay - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết, Thông tin chuyên đề, Hà Nội.
Nguyễn Tài Thư (1997), "Cơ sở tín ngưỡng Phật giáo của người Việt Nam hiện nay", Thông tin lý luận.
Trần Văn Trình (1999), "Tìm hiểu những khía cạnh xã hội của tình hình phát triển Phật giáo Hà Nội thời kỳ đổi mới", Nghiên cứu Phật học, (2).
Trần Văn Trình (1999), "Tìm hiểu vấn đề đặc trưng của Phật giáo trong quá trình hội nhập với văn hóa Việt Nam", Nghiên cứu Phật học, (6).
Lê Hữu Tuấn (1998), ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Vũ Minh Tuyên (2000), Điều kiện tồn tại của Phật giáo Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh (1996), Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội hiện nay.
Nguyễn Hữu Vui (1995), "Cắt nghĩa hiện tượng gia tăng của tôn giáo hiện nay", Đại học Quốc gia Hà Nội, (1).
Trần Quốc Vượng (1990), Phật giáo và văn học Việt Nam, Phật giáo và văn hóa dân tộc, Thư viện Phật học.
Phạm Thị Xê (1996), ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo trong lối sống của người Huế hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Hoàng Tâm Xuyên (1999), Mười tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Walpola Rahula (1999), Lời giáo huấn của Phật đà, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
mở đầu 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên liên quan đến cứu đề tài 1
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 4
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn 4
7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn 5
8. Kết cấu của luận văn 5
Chương 1 6
nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần người Việt Nam 6
1.1. Nhân sinh quan Phật giáo 6
1.1.1. Vị trí nhân sinh quan Phật giáo trong tư tưởng triết học Phật giáo 6
1.1.2. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo 11
1.2. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam 24
1.2.1. Quá trình ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam 24
1.2.2. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến một số lĩnh vực trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam 30
1.2.2.1. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức 30
1.2.2.2. ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống 37
1.2.2.3. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến văn hóa 42
Chương 2 48
Sự biến đổi của những ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo ở Việt Nam hiện nay- xu hướng và giải pháp 48
2.1. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo ở nước ta hiện nay 48
2.1.1. Nhân tố kinh tế 48
2.1.2. Sự giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới 54
2.1.3. Những hiện tượng lợi dụng tôn giáo để chống phá đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước 56
2.1.4. Quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước về tôn giáo và chính sách đối với tôn giáo 59
2.2. Sự biến đổi ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay 63
2.2.1 Thực trạng 63
2.2.2. Xu hướng biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo 68
2.3. Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo ở nước ta hiện nay 74
2.3.1. Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển kinh tế thị trường, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh 74
2.3.2. Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo, tổ chức phật tử trong đời sống kinh tế - xã hội 77
2.3.3 Đấu tranh chống những hiện tượng lợi dụng Phật giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng của nước ta 82
kết luận 86
Danh mục tài liệu tham khảo 89
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2701.DOC