Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH VƯƠNG THỊ THANH HIỀN Chuyên ngành : Lí luận văn học Mã số : 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐOÀN TRỌNG THIỀU Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới TS. Đoàn Trọng Thiều, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy c

pdf105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2797 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ô giáo trong tổ Lí luận văn học, ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, phòng Quản lí sau đại học, ban quản lí Thư viện – trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu. Tôi cũng xin được gửi lời cám ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu Trường Trung học phổ thông Dĩ An – Bình Dương, tới gia đình và những người bạn thân thiết đã khuyến khích, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt khoá học cũng như trong quá trình thực hiện luận văn. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 12 năm 2010. Học viên Vương Thị Thanh Hiền MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Văn hóa tồn tại song song với con người. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa, văn học là một hình thái đặc biệt, thuộc về văn hóa tinh thần. Vì vậy, việc vận dụng các quan điểm và thành tựu của văn hóa để nghiên cứu, lí giải văn học là một hướng tiếp cận được vận dụng khá phổ biến hiện nay. Nguyễn Huy Thiệp là một trong những tác giả xuất sắc, tiêu biểu của cao trào đổi mới văn học Việt Nam từ sau năm 1986. Ông viết ở nhiều lĩnh vực như kịch, tiểu thuyết, phê bình văn học, tiểu luận,... nhưng nhắc đến Nguyễn Huy Thiệp, trước hết phải với tư cách là một cây bút viết truyện ngắn rất thành công. Ngay từ khi vừa xuất hiện trên văn đàn, Nguyễn Huy Thiệp đã trở thành một “hiện tượng” văn học, có khả năng khuấy động đời sống văn học vốn đang khá yên ắng ở nước ta sau năm 1975. Không những thế, văn của Nguyễn Huy Thiệp như có “ma lực” thu hút rất nhiều độc giả với những ý kiến đánh giá, phê bình rất khác nhau, có ý kiến ca ngợi nức lời nhưng cũng có không ít ý kiến bài bác thẳng thừng. Tuy nhiên, sau hơn hai mươi năm kể từ ngày ra mắt độc giả, Nguyễn Huy Thiệp đã dần khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn. Những ý kiến đánh giá về truyện ngắn của ông đã phần nào ổn định. Quả thật, Nguyễn Huy Thiệp đang có một vị trí vinh dự trong dòng chảy cuồn cuộn không ngừng của biển cả văn học Việt Nam. Đến nay đã có khá nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Trong quá trình thu thập và tìm hiểu một số tài liệu ấy, chúng tôi nhận thấy đa phần các ý kiến tập trung đánh giá, khẳng định những đóng góp mới mẻ của ông trên phương diện nội dung tư tưởng và hình thức biểu hiện trong tác phẩm. Tuy nhiên theo chúng tôi, một trong những đặc điểm tạo nên sức hấp dẫn thẩm mĩ cho văn Nguyễn Huy Thiệp chính là yếu tố văn hóa dân gian trong truyện ngắn của ông. Qua tìm hiểu bước đầu, chúng tôi thấy đặc điểm này cũng đã có những bài viết đề cập đến song mới chỉ trong những hiện tượng đơn lẻ, chưa thành một hệ thống trọn vẹn. Đó cũng là lí do thôi thúc chúng tôi chọn đề tài: Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này. 2. Lịch sử vấn đề Đầu năm 1987, tập truyện ngắn đầu tay Những truyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp được khởi đăng trên báo Văn nghệ, nhưng chưa tạo được tiếng vang. Phải đến tháng 6 năm ấy, với sự xuất hiện của truyện ngắn Tướng về hưu, dư luận mới bắt đầu có những đánh giá luận bàn sôi nổi. Đặc biệt không lâu sau đó, bộ ba truyện ngắn “lịch sử giả” (chữ dùng của Đặng Anh Đào): Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết ra mắt độc giả đã thực sự tạo nên bầu không khí phê bình tranh luận văn học với nhiều ý kiến đối lập gay gắt, cực đoan hơn cả so các cuộc tranh luận văn học từ sau năm 1975. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên quả quyết: “Tôi dám chắc chưa có nhà văn nào vừa xuất hiện đã gây được dư luận, càng viết dư luận càng mạnh” khiến cho “văn đàn đổi mới đã khởi sắc, bỗng khởi sắc hẳn” [59, tr.6] như Nguyễn Huy Thiệp. Trong những cuộc tranh luận văn học ấy, người khen nhiều mà người chê cũng không ít. Nhìn chung các ý kiến tạo nên hai xu hướng chính: khẳng định và phủ định, trong đó xu hướng khẳng định giữ vai trò chủ đạo. Các bài viết này được giới thiệu trên các tạp chí nghiên cứu văn học khoảng những năm cuối thập niên 80 của thế kỉ trước, hiện nay đã được nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên sưu tầm khá đầy đủ trong cuốn Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, và một số bài viết được đăng tải trên các trang mạng Internet khoảng mười năm trở lại đây. Xoay quanh vấn đề về Nguyễn Huy Thiệp và các sáng tác của ông, chủ yếu tập trung ở mảng truyện ngắn, đến nay đã có nhiều bài nghiên cứu phê bình của các tác giả như: Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Đặng Anh Đào, Lê Đình Kỵ, Philimonova, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Đăng Điệp,…Mỗi bài viết là một cách nhìn, một quan điểm, một suy nghĩ và một cảm nhận riêng. Trong giới hạn nhất định, người viết tập trung vào các ý kiến nổi bật trong bài viết có liên quan đến mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã chọn. Trước hết, tiêu biểu cho những nhận xét cho rằng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có sự ảnh hưởng sâu sắc, đậm đà các yếu tố văn hóa dân gian, đặc biệt là từ cảm hứng huyền thoại, truyền thuyết là ý kiến đánh giá của nhà nghiên cứu văn học Philimonova. Nhà nghiên cứu người Nga này rất hứng thú khi nghiên cứu chất dân gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Trong bài viết “Những ngọn gió Hua Tát” của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu của các truyền thuyết văn học, Philimonova đã có những nhận xét mang ý nghĩa khái quát: “Yếu tố dân gian chiếm một vị trí to lớn trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp […]. Ngay lần đọc đầu tiên các tác phẩm của anh, đó thường là truyện ngắn, có một điểm khiến chúng ta chú ý ngay là việc anh rất hay sử dụng các tư liệu dân gian. Hầu như trong mỗi truyện ngắn của anh đều hiện diện vết tích của các huyền thoại, truyền thuyết, dân ca, tục ngữ” [59, tr.59]. Do đó có thể nói rằng: “Yếu tố dân gian trong các tác phẩm của anh là một đề tài độc lập rộng lớn” [59, tr.59-60]. Tuy nhiên trong bài viết này, Philimonova chỉ mới tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng của truyền thuyết trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát. Tác giả cho rằng những câu chuyện nhỏ trong Những ngọn gió Hua Tát là những “truyền thuyết văn học; một mặt, chúng lưu giữ được những đặc điểm thể loại của các truyền thuyết dân gian, mặt khác, chúng có sự xử lí văn học rõ ràng của tác giả” [59, tr.61]. Trong bài viết Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp, nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp nhận xét: Nguyễn Huy Thiệp đã “vận dụng rất khéo các yếu tố folklore vào văn học”. Tác giả bài viết nhận thấy rằng để phản ánh chiều sâu của hiện thực, Nguyễn Huy Thiệp “luôn luôn lật ngược vấn đề, thoát ra ngoài những chuẩn mực thông thường và xác định giá trị nhân thế bằng những tưởng tượng phong phú ken dày các huyền thoại, các biểu tượng, các yếu tố dân gian” [20]. Cùng với các ý kiến trên, Văn Tâm cũng đưa ra nhận định rằng một trong những nét phong cách đặc thù nhất của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là cảm hứng huyền thoại mạnh: “sương mù huyền thoại bao phủ hầu hết những trang sách Nguyễn Huy Thiệp, không những bao phủ dày đặc trong hai loại truyện huyền thoại (Con gái thủy thần) và cổ tích (Những ngọn gió Hua Tát) mà còn bập bềnh mờ mịt giữa khá nhiều dòng truyện lịch sử (Kiếm sắc, Phẩm tiết) và thế sự (Chảy đi sông ơi)” [59, tr.288]. Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào cũng khẳng định cảm hứng huyền thoại thể hiện rõ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt là khi nhà văn này xây dựng các nhân vật ngốc nghếch, mồ côi,…rất gần với nhân vật trong cổ tích và “đó là điểm gần gụi của truyện Nguyễn Huy Thiệp với cổ tích và một số truyện phổ cập ở dân gian” [59, tr.389]. Cảm hứng ấy một phần “nằm trong dòng chảy ngầm của tinh thần phạm thượng bắt nguồn từ dân gian. Những kẻ dị dạng này nhiều khi làm nên điểm sáng nhân hậu, trí tuệ anh minh của câu chuyện” [59, tr.391]. Song bên cạnh đó, tác giả bài viết Biển không có thủy thần lại thừa nhận ở các nhân vật kể trên luôn ẩn chứa một “nghịch lí phản cổ tích” [59, tr.390], đó là điểm sáng tạo mới mẻ trong nhiều thiên truyện của Nguyễn Huy Thiệp. Cùng với quan điểm của Đặng Anh Đào, trong bài viết Ảnh hưởng thần thoại và cổ tích trong cách xây dựng nhân vật văn xuôi hôm nay, Bùi Thanh Truyền nêu vấn đề: “Xây dựng nhân vật thần thoại, cổ tích, hầu hết các cây bút văn xuôi hôm nay đều lồng vào đó thế giới quan mới mẻ, cái nhìn ‘lạ hóa” của người hiện đai. Vì thế có thể xem đây là những truyện cổ tích, thần thoại đời mới” [104, tr.45]. Để làm rõ nhận định, tác giả bài viết đã đi sâu tìm hiểu nhân vật Trương Chi trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp. Từ đó, Bùi Thanh Truyền khẳng định: lấy cảm hứng từ nhân vật trong cổ tích dân gian nhưng Nguyễn Huy Thiệp không có cái nhìn nhất phiến về giai thoại cổ. Cho nên “nếu bi kịch của Trương Chi “bốn ngàn năm trước” là bi kịch tình yêu xuất phát từ sự mâu thuẫn giữa tài năng thiên phú và nhân diện xấu xí thì bi kịch của chàng Trương bốn ngàn năm sau chủ yếu là xung đột giữa hoàn cảnh xã hội và thân phận con sâu cái kiến của kiếp người” [104, tr.46]. Bài viết Đối thoại với văn học dân gian và bản lĩnh của người viết của Lê Đình Kỵ cũng đi sâu vào nghiên cứu sự sáng tạo trên cơ sở kế thừa tiếp nối truyện cổ dân gian trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhất là về phương diện xây dựng nhân vật. Trong truyện Trương Chi, Lê Đình Kỵ đánh giá Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp “không còn là một Trương Chi cam chịu, âm thầm nhận lấy số phận của mình” [44, tr.30]. Mặc dầu vậy: “Dù là Trương Chi truyền thống hay Trương Chi “hiện đại” thì đó cũng đều là lời nhắn gởi, là tiếng kêu khắc khoải sao cho nghệ thuật, cho tiếng hát và tình yêu không bị cách lìa, mà được hòa giải, hòa diệu vào nhau” [44, tr.31]. Bàn về thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhiều nhà nghiên cứu nhận thấy những nhân vật này thường toát lên vẻ đẹp trong trẻo, hồn hậu, mang vẻ đẹp mẫu tính vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến tỏ ra là người có những phát hiện trước nhất và mới mẻ hơn cả. Trong bài viết Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió, Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: “Những người đàn ông trong tập truyện của Nguyễn Huy Thiệp hầu hết là đốn mạt, chí ít là những kẻ bất đắc chí, vô tích sự, nói chung là không ra gì. Ngược lại, trong các nhân vật nữ có những con người ưu tú, nhiều người đáng gọi là liệt nữ. Nó là sự hiện thân của nguyên tắc tư tưởng tạo ra cảm hứng chủ đạo của tác giả, có thể gọi đó là nguyên tắc tính nữ hay thiên tính nữ” [59, tr.15-16]. Theo nhà nghiên cứu này thì “thiên tính nữ” trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “trước hết là tinh thần của cái đẹp và tất cả những nhân vật này đều đẹp, mỗi người một vẻ” [59, tr.16], không chỉ thế nó còn là “tinh thần vị tha và đức tính hi sinh” [59, tr.17]. Vẻ đẹp ấy tỏa ra ánh sáng dịu dàng, huyền diệu, lung linh trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Thiên tính nữ là điểm tựa quan trọng của tác giả. Thiếu nó, văn ông sẽ mất đi chiều sâu và chất trữ tình. Cũng cùng với quan điểm trên là ý kiến đánh giá sắc sảo của nhà nghiên cứu Văn Tâm: Nguyễn Huy Thiệp viết nhiều về cái xấu xa, cái ác nhưng “cảm hứng tích cực, tinh thần nhân bản… cũng bất giác được mã hóa qua một hiện tượng nổi bật: tuyệt đại đa số những nhân vật nữ đều có phẩm chất ưu mĩ tuyệt vời” [59, tr.301–302). Qủa thực, trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn luôn dành giọng điệu ngợi ca vẻ đẹp nữ tính của những nhân vật nữ. Những nhận xét, đánh giá trên phần nào đã cho ta thấy các nhà nghiên cứu có những phát hiện, khẳng định yếu tố trọng âm, trọng nữ trong tín ngưỡng của người Việt trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, các đánh giá này chỉ nêu vấn đề có tính chất gợi mở chứ chưa minh định cụ thể trên cả bề rộng lẫn bề sâu. Bàn về chất thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp, trong bài viết có nhan đề Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Philimonova cho rằng một trong những đặc điểm nổi bật của văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp là việc thường xuyên sử dụng thơ. Đặc biệt hơn hết là trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thường xuất hiện các đoạn kể bằng văn vần là các bài ca dao, đồng dao xen kẽ lời kể bằng văn xuôi. Philimonova lí giải sở dĩ có hiện tượng này là do Nguyễn Huy Thiệp “chịu ảnh hưởng văn xuôi cổ điển vùng Viễn Đông” và việc vận dụng thủ pháp cũ này khiến văn ông trở nên “rất đặc biệt, rất dễ nhận ra” [59, tr.168]. Nguyễn Vy Khanh cũng có cùng ý kiến trên khi cho rằng: “Nhờ thể huyền thoại, Nguyễn Huy Thiệp có những đoạn truyện như là thơ, một thứ thơ dân gian, xa chốn văn minh giả tạo và dối trá” [59, tr. 380]. Bùi Việt Thắng nhận xét: “Nguyễn Huy Thiệp đã đưa vào truyện ngắn các hình thức khác như đồng dao (Huyền thoại phố phường), hát dỗ em (Những người thợ xẻ), thơ dịch (Nguyễn Thị Lộ), thơ trữ tình (Những bài học nông thôn), chuyện thơ (Thương nhớ đồng quê)”. Từ đó, nhà nghiên cứu cho rằng: “việc đưa thơ vào truyện ngắn làm cho “sự kể chuyện” thêm linh hoạt, phong phú” [75, tr.386] này vốn đã có truyền thống trong văn học. Thành công của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là sự vận dụng, kế thừa văn học truyền thống, từ đó có những cách tân, sáng tạo nhưng vẫn không xa rời với truyền thống. Về nét mới trong cách dựng truyện, nhà thơ Diệp Minh Tuyền đánh giá: Nguyễn Huy Thiệp đã “kết hợp giữa hiện thực và huyền thoại” […]. Rõ ràng ở đây ta thấy dấu ấn của văn học hiện đại châu Mỹ la – tinh. Nhưng sự tiếp thu này ở Nguyễn Huy Thiệp không sống sượng bởi nhờ trước đó anh đã vốn có lối tư duy huyền thoại thuần thục biểu hiện trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát”, [59, tr.399]. Chính sự kết hợp này đã khiến cho văn ông vừa mới mẻ, hiện đại lại vừa gần gũi bởi chúng được bắt nguồn từ bề sâu truyền thống thẩm mĩ của người đọc Việt Nam. Về cách kể chuyện của Nguyễn Huy Thiệp, Đoàn Hương ví von ông là “Người kể chuyện cổ tích hiện đại”. Đoàn Hương nhận định truyện của Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn độc giả chính là ở “cái cách kể chuyện đơn giản bằng chính ngôn ngữ của nhân dân là một thi pháp đã có từ trong truyền thống như đã từng có trong truyện cổ tích Việt Nam” [33, tr.621]. Cũng theo nhà nghiên cứu Đoàn Hương, dấu ấn của truyện cổ dân gian trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp còn biểu hiện rõ qua cách thức mở đầu và kết thúc truyện. Đoàn Hương nhận thấy rằng nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “vốn ưa cấu trúc một cốt truyện đơn giản như chẳng có gì”. Bởi thế mà truyện của ông có những “cái kết thúc đẹp đẽ mang tính biểu tượng của một kết thúc có hậu của truyện cổ tích” [33, tr.622]. Còn theo Nguyễn Vy Khanh thì chính bởi một số truyện của Nguyễn Huy Thiệp sáng tạo từ thể huyền thoại dân gian nên nhà văn hay “úp mở, gợi tưởng tượng. Hay không thật sự kết thúc, vì không có kết; hay kết cũng huyền hoặc như dẫn đưa của đầu và thân truyện” [59, tr.386]. Từ đó, tác giả đi đến nhận xét truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường có những đoạn kết rất đặc biệt, tạo được sự hấp dẫn riêng. Bằng nhãn quan tinh tế và tấm lòng trân trọng, thấu hiểu tài năng của Nguyễn Huy Thiệp, Hoàng Ngọc Hiến đã có nhận xét rất sâu sắc: “Dẫu kể chuyện cổ tích, Nguyễn Huy Thiệp trước sau viết về cuộc sống ngày hôm nay. Và tác giả đã nhìn thẳng vào sự thật của đời sống thực tại. Tác giả đã không ngần ngại nêu lên những sự bê tha, nhếch nhác trong cuộc sống, kể cả những sự thật rùng rợn, khủng khiếp” [59, tr.9-10]. Đoàn Hương cũng cho rằng một số truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có thể gọi truyện cổ tích hiện đại vì cái chất “hiện đại” của nó. Nhưng, nhà nghiên cứu này khẳng định: “nó vẫn là cổ tích vì cái đẹp nhân bản của nó” [33, tr.626]. Nhà nghiên cứu văn học người Úc, Greg Lockhart, lí giải lí do vì sao ông đã chọn dịch tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp sang tiếng Anh. Ông ca ngợi: tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là “một đóng góp quan trọng cho văn học Việt Nam” và cũng là “đóng góp cho văn học thế giới hiện đại” vì tính chất nhân bản mà nhà văn nêu lên trong truyện là vấn đề lớn mang tầm nhân loại [59, tr.110-111]. Mở rộng hơn, một số nhà nghiên cứu còn nhận thấy dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả La Khắc Hòa khẳng định rằng có thể tìm thấy trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp những câu chuyện thể hiện tâm trạng và cảm quan hậu hiện đại. Xuyên suốt toàn bộ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là “câu chuyện về một thế giới vô nghĩa, vô hồn”. Đọc truyện ngắn của ông, ta thấy “có những dấu hiệu về một cuộc chia tay với nguyên tắc dụ ngôn cùng với những vị ngữ bất biến, quen thuộc của nó […]. Khi sự hồ nghi tồn tại đã thấm sâu vào cảm quan nghệ thuật, chắc chắn nhà văn sẽ tìm đến nguyên tắc lạ hoá làm nền tảng cấu trúc hình tượng”. Tuy nhiên, dù đổi mới sáng tạo đến đâu đi nữa thì “loại hình tư duy ấy gắn với những nguyên tắc kiến tạo hình tượng, tổ chức văn bản của đồng dao, câu đố có nguồn cội từ thời tiền văn học, trong sáng tác dân gian” [29]. Thêm vào đó, La Khắc Hòa còn nhận xét rất xác đáng rằng sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam nói chung, trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp nói riêng “chắc chắn không phải là hiện tượng vay mượn, ngoại nhập”, mà do những điều kiện lịch sử, xã hội trong vòng 30 năm nay đã làm nảy sinh tâm trạng, cảm quan và loại hình văn hoá hậu hiện đại trong văn học Việt Nam. Như vậy, theo các nhà nghiên cứu, mặc dù là nhà văn luôn có những cách tân táo bạo trong nghệ thuật xây dựng truyện ngắn trong giai đoạn văn học thời Đổi mới, nhưng sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp vẫn bắt nguồn từ truyền thống văn hóa - văn học dân gian đa dạng và phong phú của dân tộc. Tóm lại, từ trước đến nay, vấn đề về: Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và yếu tố văn hóa dân gian trong truyện ngắn của nhà văn vẫn luôn là vấn đề lý thú, không ngừng thu hút được sự quan tâm, tìm hiểu của đông đảo học giả, các nhà nghiên cứu, các giới phê bình văn học, độc giả trong và ngoài nước. Các bài nghiên cứu, phê bình mà chúng tôi có điều kiện tìm hiểu ở trên phần nào đã phân tích, đánh giá, khẳng định sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và có tính chất gợi mở cho người viết tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này. Tuy nhiên, do tính chất về đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu khác nhau nên sự quan tâm ở những bài viết trên mới chỉ dừng lại ở đôi lời nhận xét, nhận định khái quát; hoặc thu hẹp khi khảo sát trong một vài tác phẩm cụ thể hoặc khái quát khi tiến hành khảo sát trên toàn bộ sáng tác của nhà văn dưới góc nhìn phong cách học. Vì thế như một lẽ tất yếu, các bài viết chưa có điều kiện tập trung một cách sâu sắc và toàn diện về sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua luận văn này, người viết sẽ cố gắng đưa đến một cách hiểu, một cách nhìn nhận, đánh giá mang tính hệ thống và đầy đủ hơn về sự ảnh hưởng này trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. 3. Phạm vi nghiên cứu Giới hạn ở đề tài nghiên cứu, luận văn sẽ tiến hành khảo sát, nghiên cứu toàn bộ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, bao gồm 42 truyện. Người viết sử dụng văn bản sau để tiến hành nghiên cứu: Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn và hiệu đính, Nxb Văn hoá Sài Gòn. Về ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Tuy nhiên trong phạm vi điều kiện cho phép, luận văn chỉ đi vào khảo sát, phân tích, nhận định một số yếu tố của văn hóa dân gian như văn học dân gian, tín ngưỡng dân gian, ngôn ngữ dân gian ảnh hưởng đến việc xây dựng cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ, giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu Người viết rất hi vọng kết quả mà luận văn gặt hái được có thể là những đóng góp hữu ích như sau: - Góp phần khảo sát và lí giải một cách có hệ thống, khách quan, mới mẻ về sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua đó góp phần khẳng định cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa dân gian là một trong những hướng nghiên cứu cần thiết trong nghiên cứu văn học hiện nay. - Luận văn này cũng có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về tác giả Nguyễn Huy Thiệp nói riêng, và văn học Việt Nam hiện đại nói chung. 5. Phương pháp nghiên cứu Để triển khai đề tài Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi đã vận dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: 5.1. Phương pháp văn hóa học: Người viết sử dụng phương pháp này khi nghiên cứu luận văn nhằm vận dụng các quan điểm và thành tựu văn hóa nói chung, đặc biệt là văn hóa dân gian để tìm hiểu, lí giải truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên một số phương diện như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu. 5.2. Phương pháp hệ thống: Người viết sử dụng phương pháp này nhằm xem xét các yếu tố văn hóa dân gian biểu hiện qua nội dung và nghệ thuật làm nên diện mạo chung cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên tinh thần hệ thống. Từ đó phân tích sự kế thừa, sáng tạo các yếu tố ấy tạo nên sức hấp dẫn thẩm mĩ trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. 5.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp: Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết tiếp cận và khảo sát trực tiếp văn bản, từ đó phân tích để đưa ra những luận điểm tổng hợp, khái quát của luận văn về sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trên các phương diện như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu. Những phương pháp nghiên cứu này sẽ được người viết vận dụng một cách linh hoạt trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, để có cái nhìn toàn diện, khách quan khi đánh giá vấn đề, người viết còn sử dụng phối hợp các phương pháp khác như: phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp thống kê,…với chừng mực nhất định mà mục đích cuối cùng là làm rõ sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. 6. Cấu trúc luận văn Luận văn bao gồm 138 trang. Ngoài phần Mở đầu (12 trang), phần Kết luận (4 trang), phần Nội dung của luận văn (122 trang) được tổ chức thành ba chương: Chương 1: Những tiền đề lí luận và thực tiễn Chương 2: Cốt truyện và nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Chương 1 NHỮNG TIỀN ĐỀ LÍ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết Trước khi đi sâu tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết làm tiền đề lí luận cho việc nghiên cứu đề tài của luận văn, chúng ta cần tìm hiểu hai khái niệm văn hóa và văn hóa dân gian . 1.1.1. Khái niệm văn hóa Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sự kết tinh những quan hệ tốt đẹp nhất giữa người với người, với xã hội và với tự nhiên. Văn hóa là cái phân biệt con người với động vật, là đặc trưng của xã hội loài người nhưng không phải do sự kế thừa về mặt sinh học mà có được nhờ học tập, tích lũy. Nói một cách dễ hiểu nhất: văn hóa là tất cả những gì do con người sáng tạo ra (khu biệt với cái tự nhiên) trong quá trình ứng xử với tự nhiên và xã hội. Thuật ngữ văn hóa xuất hiện từ rất sớm. Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, theo nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng: ở phương Đông, từ văn hóa đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và hóa: Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ). Người sử dụng từ văn hóa sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 77-6 TCN) với nghĩa như một phương thức giáo hóa con người “văn trị giáo hóa” [107, tr.17-18]. 6 Ở phương Tây, vào thế kỉ thứ III – TCN, người La Mã được ghi nhận là người đầu tiên nói đến thuật ngữ văn hóa. Họ dùng từ “cultura” đồng nghĩa với “văn chương” hay “nhân văn”. Người La Mã sử dụng từ cultura và cultus để chỉ việc gieo trồng, animi cultura hoặc cultus nghĩa là gieo trồng tinh thần. Trên cơ sở đó, nhà hùng biện lỗi lạc người La Mã, Siserô Markơt Tuliut (106-43 TCN) đã định nghĩa “Triết học là sự gieo trồng tinh thần”. Vậy theo người La Mã, cultus là văn hóa với hai khía cạnh: trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và giáo dục, đào tạo một cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên, có phẩm chất tốt đẹp. Ở Việt Nam, từ văn hóa được hiểu: văn là tốt đẹp, hóa là biến cải. Văn hóa là biến cải để trở thành tốt đẹp. Văn hóa thường được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối sống; theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn; còn theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán,… Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra, có từ thuở bình minh của xã hội loài người nhưng phải đến những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, việc nghiên cứu về văn hóa mới được tiến hành một cách nghiêm túc và nhanh chóng thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Từ năm 1952, hai nhà văn hóa học Hoa Kì là A. Kroeber và C. Kluckholn đã thống kê được 150 định nghĩa, khái niệm khác nhau về văn hóa. Con số đó hiện nay đã tăng lên khoảng trên 300 định nghĩa [105, tr.11]. Qua đó, ta thấy quan niệm thế nào là văn hóa không phải là một vấn đề đơn giản và có thể giải quyết một cách rốt ráo. Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm văn hóa, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Liên quan đến phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi chỉ có điều kiện nêu ra một số định nghĩa sau: - Nhà nhân học văn hóa người Anh E. B. Taylor (1832-1917) là người đầu tiên đưa ra một quan niệm khá hoàn chỉnh về văn hóa. Trong công trình Primitive culture (Văn hóa nguyên thủy), ông viết: văn hóa là “một tổng thể phức hợp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục, và tất cả những khả năng và thói quen mà con người đạt được với tư cách là một thành viên trong xã hội” [9, tr.251]. - Trần Quốc Vượng quan niệm: “Văn hóa…là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người […] để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với hệ thống những chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm…tạo nên phong cách diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người” [107, tr.35-36] - Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [85, tr. 25]. - Cũng cùng với ý kiến trên của Trần Ngọc Thêm, nhưng Phùng Qúi Nhâm chú ý nhấn mạnh thêm tính dân tộc của văn hóa: “Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử và mang đậm bản sắc dân tộc” [65, tr. 249]. Trong quá trình tìm hiểu các khái niệm về văn hóa, chúng tôi nhận thấy quan niệm chính thức về văn hóa của Liên hợp quốc (Unesco) đưa ra từ năm 1982, trong Hội nghị quốc tế do Unesco chủ trì diễn ra tại Mexico, là khá bao quát: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân” [107, tr.23-24). Từ quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu văn hóa không phải là lĩnh vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa chính là nền tảng cho sự phát triển của xã hội loài người. Văn hóa là hiện tượng bao trùm mọi phương diện của đời sống con người, vì thế bất kì khái niệm nào cũng không thể bao quát đầy đủ nội dung của nó. Cũng bởi vậy mà số lượng các khái niệm về văn hóa mỗi ngày một nhiều song vẫn chưa phải là đáp án cuối cùng. Mỗi khái niệm chỉ có thể thâu tóm một vài phương diện nào đó của văn hóa. Sự phong phú của các khái niệm về văn hóa phản ánh những hướng quan tâm khác nhau. Vì vậy, theo nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên, từ nhiều khái niệm khác nhau có thể nêu lên bốn nét nghĩa chủ yếu, cơ bản sau: “* Văn hóa là một hoạt động sáng tạo chỉ riêng con người mới có. * Hoạt động sáng tạo đó bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống con người: đời sống vật chất, đời sống xã hội, đời sống tinh thần. * Thành tựu của những hoạt động sáng tạo ấy là các giá trị văn hóa; các giá trị văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng con đường giáo dục. * Văn hóa mỗi cộng đồng người có những đặc tính riêng hình thành trong lịch sử, phân biệt cộng đồng người này với cộng đồng người khác” [9, tr.252]. Trong phạm vi của đề tài nghiên cứu, chúng tôi chỉ giới hạn vấn đề ở phạm vi những giá trị văn hóa tinh thần, biểu hiện cụ thể trong bộ phận văn hóa dân gian với những thành tố đặc trưng. 1.1.2. Khái niệm văn hóa dân gian Văn hóa dân gian là cội nguồn của mọi nền văn hóa trên thế giới. Ở Việt Nam, văn hóa dân gian là cơ sở rất quan trọng của văn hóa dân tộc, chi phối đời sống trên mọi phương diện. Do vậy không thể hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, tri thức và tình cảm con người Việt Nam nếu như không hiểu văn hóa dân gian. Thuật ngữ dân gian hiểu theo nghĩa chiết tự Hán Việt: gian nghĩa là khoảng, khu vực rộng lớn, vùng; dân gian là trong khu vực, trong vùng của dân. Vậy, văn hóa dân gian là sáng tạo của dân, từ dân mà ra và phục vụ cho cuộc sống của dân. Văn hóa dân gian được thể hiện ở ._. mọi lĩnh vực, mọi không gian, mọi thời điểm. Để chỉ hiện tượng mà tiếng Việt gọi là văn hóa dân gian thì hiện nay trên thế giới và cả Việt Nam, thuật ngữ folklore (gốc tiếng Anh : folk là nhân dân, lore là trí tuệ, tri thức) được sử dụng rất phổ biến. Thuật ngữ này do William J.Thoms nêu ra trong tạp chí The Athemneum, London năm 1846. Dần dần được các nhà văn hóa chấp nhận và sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay. Ở nhiều nước phương Tây, khái niệm folklore được hiểu rất rộng. Từ điển bách khoa của Anh xác định: “Folklore là tên gọi chung, thống nhất của những tín ngưỡng, truyền thống, thiên kiến, đạo lí, nghi lễ, mê tín của dân gian. Những câu truyện cổ, những bản tình ca, dân ca và những câu tục ngữ đều nằm trong khái niệm này…, nó bao gồm cả những yếu tố văn hóa vật chất mà ban đầu nó không tính đến” [88, tr.20]. Ở Liên Xô, nội dung của folklore được hiểu theo hai xu hướng. Xu hướng thứ nhất hiểu folklore với nội dung rộng theo cách hiểu của đa số học giả phương Tây, xu hướng còn lại có xu hướng “ngữ văn hóa folklore” khi cho rằng về cơ bản folklore là “nghệ thuật ngôn từ”, là sáng tác thơ ca truyền miệng của đông đảo quần chúng. Theo họ, có thể đồng nhất folklore với văn học truyền miệng. Tiêu biểu là những ý kiến của các nhà folklore sau: - Xocolov Iu.M.: “Folklore trước hết là sáng tác nghệ thuật thi ca truyền miệng của quần chúng”, hay “Folklore – phần lớn là thơ ca truyền miệng” [88, tr.85] - Andreev N.P. : “Dưới tên gọi folklore, chúng ta có thể gọi phần lớn các tác phẩm nghệ thuật ngôn ngữ đã được phổ biến bằng truyền miệng” [88, tr.85]. - Kravtxov N.I. : “Khoa học Xô Viết hiểu thuật ngữ “folklore” không phải là biểu thị toàn bộ nền nghệ thuật dân gian mà chỉ là văn học dân gian truyền miệng” [88, tr.93] Trong những thập niên gần đây ngày càng có nhiều người vượt qua được quan niệm bó hẹp folklore trong nghệ thuật ngôn từ. Họ thấy rằng folklore bao gồm những yếu tố ngôn từ, diễn xướng, tạo hình, tín ngưỡng, phong tục,…và các yếu tố ấy gắn kết với nhau trong một chỉnh thể nguyên hợp. Tổng bách khoa toàn thư Xô Viết xuất bản năm 1974 quan niệm rằng: “Folklore là sáng tác dân gian, hoạt động nghệ thuật của nhân dân lao động. Đó là thơ ca, âm nhạc, sân khấu, múa dân tộc, kiến trúc, nghệ thuật trang trí thực hành, hội họa được nhân dân sáng tạo ra và sống trong nhân dân.” [88, tr.95]. Ở Việt Nam, thuật ngữ folklore được dùng tương đối muộn và thường được hiểu với những nội dung rộng hẹp khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thống nhất về nội dung khái niệm văn hóa dân gian. Nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị đã nêu nhận xét khái quát: “Trong ba quan niệm chính thống về folklore hiện lưu hành trong folklore học thế giới thì định nghĩa folklore là văn học dân gian, từ lâu đã đi vào sách giáo khoa ở Liên Xô và nhiều nước khác, trong khi đó ở một số nước khác (có cả các nước xã hội chủ nghĩa) người ta vẫn thừa nhận một cách phổ biến folklore là văn nghệ dân gian. Còn một số nước khác nữa, thuật ngữ folklore được gắn với một ý nghĩa rất rộng – folklore là văn hóa dân gian bao gồm không chỉ riêng nghệ thuật dân gian mà cả truyền thống dân gian” [88, tr.113-114]. Cả ba cách hiểu ấy đều tồn tại ở folklore Việt Nam. Đinh Gia Khánh, chuyên gia hàng đầu của folklore Việt Nam thì nêu quan niệm: văn hóa dân gian “bao gồm văn nghệ dân gian (ngữ văn, âm nhạc, vũ đạo, hội họa, điêu khắc, nghệ thuật trang trí,.v…v) và những hiện tượng cũng như vật phẩm mang tính chất thẩm mĩ nảy sinh từ sản xuất và chiến đấu”. Quan niệm trên đã được tóm gọn trong công thức : “folklore là folk culture được tiếp cận từ giác độ thẩm mĩ” [9, tr.220]. Tiếp đó, nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh đề xuất cách tiếp cận văn hóa dân gian như sau: văn hóa dân gian “là một loại “văn hóa nghệ thuật” biểu hiện chủ yếu thông qua các các hình tượng và các biểu tượng, thể hiện trình độ thẩm mĩ của con người ở mỗi thời kì lịch sử nhất định. Do vậy, góc độ tiếp cận loại hình văn hóa này là góc độ tiếp cận thẩm mĩ” [88, tr.35]. Như vậy, các ý kiến này mặc dù có nới rộng hơn về đối tượng khi cho rằng văn hóa dân gian bao gồm cả “hiện tượng”, “vật phẩm” nhưng vẫn bó hẹp ở cách tiếp cận dưới góc độ thẩm mĩ. Mở rộng cách hiểu về văn hóa dân gian hơn, Phạm Huy Thông cho rằng: “không phải chỉ làn ca, những điệu múa, mà cả những lễ nghi tôn giáo, những hội hè truyền thống cũng là những biểu hiện của văn hóa dân gian” [88, tr.119]. Đồng tình với quan niệm trên, Trần Quốc Vượng phát biểu: folklore Việt Nam là “tổng thể mọi sáng tạo, mọi thành tựu văn hóa dân gian ở mọi nơi, trong mọi thời và mọi thành phần dân tộc đang hiện tồn trên lãnh thổ Việt Nam”. Ông cũng có xu hướng mở rộng thành tố của văn hóa dân gian khi cho rằng: “Sáng tạo dân gian bao trùm mọi lĩnh vực đời sống từ đời sống làm ăn thường ngày (ăn, mặc, ở, đi lại) đến đời sống vui chơi buông xả (thể thao dân gian, võ vật, đánh cầu, đánh phết), hát hò (hát đò đưa, hát giã gạo, đúm, ví, xoan, ghẹo) đến đời sống tâm linh (giỗ, lễ tế, hội)” [88, tr.124]. Còn Chu Xuân Diên thì cho rằng để có thể đánh giá đầy đủ giá trị, đặc trưng của văn hóa dân gian, chúng ta cần xác định, phân loại những thành tố cơ bản nhất của nó. Cụ thể, folklore bao gồm những thành tố là những sáng tạo nghệ thuật có ý thức (các tác phẩm văn học dân gian), âm nhạc và múa dân gian, hội họa dân gian,.v.v…cả những thành tố là những sản phẩm vừa mang tính ích dụng vừa mang tính thẩm mĩ (kiếm trúc, đồ thủ công mĩ nghệ,…), và cả những thành tố là những giá trị văn hóa không bao hàm ý nghĩa thẩm mĩ hiểu theo nghĩa đích thực của nó (văn hóa ẩm thực, những tri thức về môi trường tự nhiên,…) [9, tr.231]. Như vậy, văn hóa dân gian theo phần đông các nhà nghiên cứu hiện nay bao gồm rất nhiều thành tố đặc trưng, biểu hiện trong nhiều lĩnh vực và là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học liên ngành, trong đó đặc biệt là ngành thi pháp folklore. Chúng tôi tán thành cách hiểu mở rộng của các nhà nghiên cứu này. Trong các thành tố cơ bản của văn hóa dân gian đã nêu ở trên, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu: ảnh hưởng của các thành tố như văn học dân gian, tín ngưỡng dân gian, ngôn ngữ dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Cách thức trình bày của luận văn là sẽ vận dụng một số tri thức lí luận của các thành tố văn hóa dân gian này vào phân tích, nhận định, đánh giá truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. 1.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết Trước khi đi vào tìm hiểu mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết, chúng tôi xin trình bày vài nét cơ bản về mối quan hệ có tính chất khái quát hơn, đó là mối quan hệ giữa văn hóa và văn học nói chung. Bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học không phải là một vấn đề mới, nhưng trong khoa học nói chung và khoa học văn học nói riêng, thiết nghĩ làm mới một vấn đề cũ cũng là một đóng góp mang tính lí luận và thực tiễn. Ở nước ta, trong quá trình vận động và phát triển, văn học luôn được đặt trong mối quan hệ mật thiết với các hình thái xã hội khác. Văn học lúc thì được so sánh với đạo đức, khi thì được đối chiếu với triết học, tôn giáo, chính trị,…Gần đây, các nhà nghiên cứu đã tập trung chú ý đến mối quan hệ giữa văn hóa và văn học. Mối quan hệ này ngày càng được quan tâm hơn và văn học thường được nghiên cứu dưới góc độ văn hóa. Trước đây, mối quan hệ giữa văn hóa và văn học được coi là quan hệ tương hỗ, là mối quan hệ của hai hình thái ý thức xã hội cùng thuộc thượng tầng kiến trúc, cùng phản ánh một cơ sở hạ tầng. Vì vậy, nghiên cứu văn hóa, người ta có thể lấy tư liệu từ văn học và ngược lại. Quan hệ này tuy nhiên chỉ là quan hệ bề ngoài, không bộc lộ bản chất của nhau. Trong những thập niên gần đây, Unesco đã phát động những thập kỉ phát triển văn hóa. Và cùng với sự thay đổi nhận thức của nhân loại khi cho rằng văn hóa là động lực của phát triển, quan hệ văn hóa và văn học đã được nhìn nhận ở góc độ khác hơn. Hiện nay, các nhà nghiên cứu thiên về xu hướng nhìn nhận văn hóa là nhân tố chi phối văn học bởi lẽ văn hóa là một tổng thể, bao gồm nhiều hệ thống, trong đó có văn học. Văn hóa chi phối văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố, toàn thể chi phối bộ phận. Như chúng ta đã biết, văn hóa là sản phẩm vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Những yếu tố nào gắn với giá trị văn hóa đều liên quan đến con người. Sự sáng tạo của nhà văn chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố trong đó có văn hóa. Cho nên có thể nói văn hóa chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn là một đặc điểm có tính quy luật. Một trong những người khởi xướng cho xu hướng tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa là giáo sư văn học người Nga, Mikhail M Bakhtin. M. Bakhtin cho rằng khoa nghiên cứu văn học phải đặc biệt chú ý đến tầm quan trọng của “lịch sử văn hóa”, đặc biệt là nghiên cứu thời đại văn hóa mà tác phẩm ra đời, vì văn học là một bộ phận không thể tách rời văn hóa: “Khoa nghiên cứu văn học phải gắn bó chặt chẽ với lịch sử văn hóa. Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch (kontest) nguyên vẹn của toàn bộ văn hóa một thời đại trong đó nó tồn tại” [2, tr.139]. Không chỉ thế, “Tác phẩm văn học không thể sống trong những thế kỉ tiếp, nếu nó không biết bằng cách nào đó thu hút vào mình những gì của các thế kỉ đã qua. Nếu nó chỉ nảy sinh bằng tất cả những yếu tố của ngày nay (tức của xã hội đương thời với nó) mà không tiếp tục quá khứ và không gắn bó với quá khứ một cách đáng kể, nó không thể tiếp tục sống trong tương lai” [2, tr.141]. “Quá khứ” trong cách nói của Bakhtin có thể hiểu một phần là nền văn hóa dân gian. Quả thực, từ lâu các nhà văn đã tự giác hoặc không tự giác, trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp thu, ảnh hưởng, lí giải vấn đề này hoặc vấn đề khác của văn hóa dân gian, đặc biệt là văn học dân gian. Thật vậy, từ bao đời nay văn hóa dân gian đã ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống, đặc biệt là đối với văn học. Hòa mình với quy luật bất biến ấy của nhân loại, trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam, quan hệ tác động, ảnh hưởng qua lại giữa văn hóa dân gian và văn học viết diễn ra hết sức độc đáo. Đó là mối quan hệ sáng tạo, có tính quy luật và cũng là cơ sở lí luận cốt yếu cho sự cắt nghĩa một số quá trình, hiện tượng văn học cụ thể. Văn học Việt Nam luôn tồn tại một bộ phận văn học chịu ảnh hưởng đậm nét từ nền văn hóa dân gian. Và như một sự ngẫu nhiên song lại rất hợp lí, trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc, nhà văn, nhà thơ nào chịu ảnh hưởng, tiếp thu, vận dụng chất liệu dân gian một cách nhuần nhuyễn đều gặt hái được những thành công nhất định. Những tác phẩm của họ thường có tiếng vang và được lưu truyền theo thời gian. Có thể kể ra đây một số tác giả tiêu biểu mà những tác phẩm của họ đã được thời gian thẩm định. Nguyễn Trãi là người mở đầu cho những sáng văn học bằng chữ Nôm. Là người có bút lực tinh tế, nhà thơ Nguyễn Trãi như con ong cần mẫn bay đi khắp bốn phương để hút những nhụy hoa về làm mật. Những giọt mật vàng óng, ngọt lịm ấy được tạo ra từ những bông hoa cội nguồn văn hóa dân gian dân tộc Việt vốn rất giàu truyền thống thi ca, nghệ thuật. Trong Quốc âm thi tập, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những lời ăn tiếng nói hàng ngày, những thành ngữ, tục ngữ, ca dao được tác giả vận dụng một cách nhuần nhuyễn, tự nhiên. Đại thi hào Nguyễn Du cũng ảnh hưởng rất nhiều từ thi liệu văn học dân gian khi sáng tác Truyện Kiều. “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương, Tú Xương,…sáng tác những bài thơ ken dày thi liệu dân gian. Sự ảnh hưởng, tác động ấy vẫn diễn ra sâu sắc kể cả khi văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa, văn học phương Tây, đặc biệt là văn hóa, văn học Pháp. Bên cạnh những nhà văn, nhà thơ có những cách tân táo bạo vẫn có những tác giả chịu ảnh hưởng sâu đậm từ nền văn hóa, văn học dân gian như Nguyễn Bính, Tố Hữu. Rõ ràng, tùy theo từng thời điểm, mặc dù phải trải qua nhiều biến cố, nhiều sự tiếp biến văn hóa ngoại lai do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau thì bộ phận văn học ảnh hưởng sâu đậm từ nguồn mạch văn hóa dân gian cho đến nay vẫn còn cuồn cuộn chảy với một sức sống mãnh liệt. Và Nguyễn Huy Thiệp là một trong những nhà văn đã kế thừa, tiếp nối xuất sắc truyền thống văn học đó. Như trên đã trình bày thì mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết là mối quan hệ mang tính chất quy luật, rộng khắp. Tuy nhiên đó không phải chỉ là mối quan hệ một chiều. Văn học là một thành tố quan trọng của văn hoá , vừa chịu sự tác động của văn hóa, vừa tác động đến sự phát triển của văn hoá dân tộc. Với tư cách chủ thể tiếp nhận văn hoá đồng thời là chủ thể sáng tạo, nhà văn chính là người lưu giữ qua văn chương mình những đặc trưng của văn hoá dân tộc. Trong bài viết Văn hóa – ngọn nguồn của văn học, nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Sĩ Vịnh đã nhận định rằng: văn hóa dân gian là ngọn nguồn của tiến trình lịch sử văn học,“là bầu sữa nuôi dưỡng nhiều tài năng văn học”[29, tr.220]. Song mối quan hệ ấy không diễn ra một chiều mà văn học luôn có “sự tác động trở lại của văn học đối với văn hóa” [29, tr.224]. Như chúng ta đã biết, văn hóa là một tổng thể, chi phối văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố. Đây là quan hệ bất khả kháng, tự thân nó, là chuyện hiển nhiên. Tuy nhiên, văn học so với các yếu tố khác trong văn hóa là một yếu tố mạnh và năng động. Văn học là sản phẩm sáng tạo của chủ quan của nhà văn. Văn học sử dụng ngôn từ, một phương tiện giao tiếp có tính phổ quát nên có sự ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Văn học không chỉ sáng tạo những giá trị mới cho bản thân nó mà còn cho cả hệ thống. Hơn thế, văn học có vai trò sáng tạo văn hóa. Trong một bài viết có nhan đề Văn học góp phần tạo nên những giá trị văn hóa hàng đầu của dân tộc, nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh đã nói rằng: “một trong những đóng góp quan trọng nhất của văn học đối với đời sống xã hội là góp phần tạo nên những giá trị văn hóa của dân tộc” [39]. Đồng thời qua văn học, những phạm trù có giá trị của văn hóa được bảo lưu và phát triển. Còn trong bài Vai trò sáng tạo văn hóa của văn học, theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, vai trò sáng tạo ấy thể hiện rõ nhất trên bốn phương diện: 1/ Lấy việc sáng tạo, biểu hiện con người làm đối tượng trung tâm, văn học trước hết phát huy vai trò sáng tạo những mô hình nhân cách; 2/ Văn học có vai trò “phê phán văn hóa”. Văn học có vẻ thích “nói ngược” nhưng chính nó giữ vai trò điều chỉnh văn hóa, có thể nhận ra cái cũ, cái thái quá, cái bất cập; 3/ Văn học có vai trò lựa chọn văn hóa. Văn học cung cấp một sự lựa chọn văn hóa từ phía đời sống từ nhu cầu làm giàu đời sống tâm hồn và trí tuệ, chứ không phải từ lập trường chính trị cho nên rất gần gũi và thiết thực đối với con người; 4/ Văn học có vai trò sáng tạo văn hóa. Văn học là bộ phận quan trọng của văn hóa, sự giàu có của nó về nội dung và hình thức trực tiếp làm giàu cho văn hóa. [76, tr.891-892-893-894]. Quả vậy, thực tế đời sống văn hóa, văn học đã minh chứng rằng nhiều sáng tác của các nhà văn đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn hóa dân gian. Các tác phẩm này đều hướng tới xây dựng những mô hình nhân cách văn hóa trọn vẹn, từ đó tác động tích cực đến đời sống văn hóa của xã hội. Trong văn học quá khứ, một số sáng tác là sản phẩm của văn học thành văn thuộc bộ phận văn hóa bác học, nhưng sự lưu truyền lại không chỉ trong tầng lớp quí tộc, những người có học thức mà có một số tác phẩm xuất chúng đã len lỏi đến tận thửa ruộng, luống cày, ăn sâu vào từng tâm hồn những người nông dân. Để rồi không biết từ bao giờ nó trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của quần chúng nhân dân. Tiêu biểu cho hiện tượng “dân gian hóa” vừa nêu không thể không kể đến Truyện Kiều. Nguyễn Du khi sáng tác Truyện Kiều, ngoài những tri thức bác học, ông còn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm tri thức văn hóa dân gian. Đóng góp lớn nhất của Nguyễn Du qua Truyện Kiều là đã góp phần đưa thể thơ lục bát của dân tộc đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Truyện Kiều còn được “dân gian hóa” thành những hiện tượng văn hóa phổ biến như tập Kiều, bói Kiều. Đó là chưa kể đến những truyện Nôm khuyết danh như Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa,…những tác phẩm do các nhà nho viết ra, nhưng vì được lưu truyền quá rộng rãi trong nhân dân, nên không còn có thể phân biệt được đâu là văn chương bình dân, đâu là văn chương bác học. Hiện tượng “dân gian hóa” ấy còn diễn ra ở nhiều tác phẩm văn học bác học khác như tác phẩm Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu), thơ lục bát của Tố Hữu, thơ Tú Mỡ, thơ Bút Tre. Tóm lại, mối quan hệ ảnh hưởng giữa văn hóa với văn học nói chung, văn hóa dân gian với văn học viết nói riêng là mối quan hệ mang tính quy luật tất yếu. Văn học chẳng những là một bộ phận quan trọng của văn hóa, chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ văn hóa mà còn là một trong những phương tiện tồn tại và bảo lưu văn hóa hữu hiệu nhất. Văn học vốn chịu sự chi phối ảnh hưởng từ truyền thống văn hóa và môi trường văn hóa của dân tộc. Là thành viên của cộng đồng văn hóa, như một hệ quả tất yếu, nhà văn tiếp nhận những giá trị văn hóa truyền thống, những lối tư duy, những mô thức ứng xử trong cộng đồng. Vì thế, dù nhà văn viết về vấn đề gì, dù sáng tạo đến đâu thì trong tác phẩm vẫn thể hiện tâm thái văn hóa của dân tộc mình. Bằng không những gì nhà văn viết ra sẽ hoàn toàn xa lạ với độc giả, với chính mình. Bởi như nhà văn Nga M. Gorki đã từng nói: “Nhà văn không bao giờ là ngẫu nhiên mà thường là tất yếu lịch sử, anh ta là một hiện tượng nảy sinh từ sản phẩm tinh thần của dân tộc, biện giải từ yêu cầu dân tộc để nhìn nhận cuộc sống thể hiện trong nghệ thuật…Anh ta nhiệt thành với những khát vọng, những lí tưởng và những hình thức mới. Những khát vọng đó được hình thành và thâm nhập vào thế giới. Bằng cách đó, mỗi tác phẩm nghệ thuật nảy sinh từ tinh thần và hi vọng của dân tộc, của xã hội. Nhà văn sáng tạo từ tài liệu vốn có, do lịch sử đưa lại cho anh ta, vì thế những tác phẩm sáng tạo của nhà văn là chứa đựng bản sắc dân tộc.” [65, tr.253]. Tất cả những gì thật sự mới mẻ trong văn học nghệ thuật nếu được nảy nở trên miếng đất tốt lành của truyền thống văn hóa thì sẽ trường tồn theo thời gian. Để từ đó, qua sự thẩm định của thời gian, những tác phẩm ưu tú lại trở thành những biểu tượng cho văn hóa dân tộc, có tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa của dân tộc mình. Nghiên cứu sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong sáng tác của một nhà văn cụ thể có thể thông qua việc “đo lường” (chữ dùng của nhà nghiên cứu Hà Công Tài) ảnh hưởng cụ thể của các thành tố văn hóa dân gian trong sáng tác của nhà văn như: những yếu tố có nguồn gốc từ văn học dân gian như cốt truyện, nhân vật,…hiện hữu trong tác phẩm. Tuy nhiên vấn đề ở đây không đơn thuần là việc chúng ta “đo lường” máy móc, đôi khi có phần gán ghép xem tác phẩm của một nhà văn nào đó đã ảnh hưởng bao nhiêu phần trăm từ văn hóa dân gian, mà quan trọng hơn là đánh giá đầy đủ tính dân gian của nó. Có như thế chúng ta mới tránh được tình trạng nghiên cứu so sánh một cách áp đặt máy móc một số hiện tượng văn học nghệ thuật. Đó cũng là quan điểm của chúng tôi khi tiến hành nghiên cứu đề tài luận văn này. 1.2. Quá trình tích lũy vốn sống của Nguyễn Huy Thiệp Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950 tại Thanh Trì, Hà Nội. Thuở nhỏ vì mưu sinh, ông phải theo gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Yên. Năm 1960, gia đình ông chuyển về quê, định cư ở xóm Cò, làng Khương Hạ, Hà Nội. Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa Sử, Trường Đại học sư phạm Hà Nội và lên dạy học tại Sơn La, một tỉnh thuộc vùng cao Tây Bắc. Mười năm sau, năm 1980, ông về lại Hà Nội, chuyển công tác về làm việc tại công ty Sách giáo khoa thuộc Sở giáo dục Hà Nội. Hiện nay, ông đã nghỉ hưu và sống cùng gia đình tại Hà Nội. Ngoài sáng tác văn chương, viết tiểu luận phê bình, Nguyễn Huy Thiệp còn vẽ tranh. Nguyễn Huy Thiệp luôn bày tỏ sự cần thiết về việc tích lũy vốn sống của một nhà văn trước khi anh ta cầm bút và muốn có một sáng tác thực sự có giá trị. Nhà văn vẫn hằng tâm niệm phải “có một chút muối rắc đâu đó trên từng trang viết” [89, tr.17]. Chất muối ấy là sự kết tinh của tài năng, tâm huyết, vốn sống, sự trải nghiệm của người cầm bút trước những trang sách cuộc đời. Ông đã dành hết tâm lực dấn thân vào sự nghiệp cầm bút, với khao khát đi tìm điều thiện tốt đẹp nhất cho con người. Hành trình của Nguyễn Huy Thiệp vì thế đã tạo được sự quan tâm đặc biệt của giới phê bình, độc giả trong và ngoài nước. Gần đây, trong một lần phỏng vấn, nhà báo Lê Thị Thái Hòa đã hỏi Nguyễn Huy Thiệp: “Từ khi nào ông bỗng nhiên muốn viết?”, Nguyễn Huy Thiệp trả lời rất thành thực: “Tôi muốn viết từ rất sớm. Khoảng 7 đến 10 tuổi tôi đã viết những đoạn văn ngắn rồi “chôn” xuống đất sau khi đọc những truyện của người khác viết” [92]. Thế nhưng phải đến tháng 1 năm 1987, bạn đọc cả nước mới được biết đến một Nguyễn Huy Thiệp với tư cách là “nhà văn trẻ” qua tập truyện ngắn đầu tay Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát được khởi đăng trên báo Văn nghệ. Song, tác phẩm này chưa gây được tiếng vang trong dư luận. Phải đến khi Tướng về hưu trình làng cũng trên báo Văn nghệ số 24 ra ngày 20 tháng 6 năm 1987, Nguyễn Huy Thiệp mới được dư luận tiếp nhận, tranh luận sôi nổi với nhiều xu hướng khác nhau. “Nhà văn trẻ” của chúng ta năm đó đã bước sang tuổi 37, nói như ông thì “khi đã sống được nửa đời người”. Đối với một nhà văn, từ năm lên 7 tuổi đã bắt đầu cầm bút, viết rồi lại “chôn xuống đất” khi đọc những truyện của người khác, điều này chứng tỏ với Nguyễn Huy Thiệp, viết văn chẳng phải là một việc dễ dàng gì. Phải chăng vì ông sớm ý thức rằng “Cái khó không phải là viết, cái khó là sống như thế nào để có cái gì mà viết” [92]. Nguyễn Huy Thiệp sinh ra và lớn lên ở đồng bằng Bắc Bộ, nằm giữa lưu vực hai con sông Hồng, sông Mã. “Trong các sắc thái phong phú và đa dạng của văn hóa Việt Nam, đồng bằng Bắc Bộ như là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc” [107, tr.235]. Bắc Bộ là cái nôi hình thành dân tộc Việt, cũng là nơi sinh ra các nền văn hóa lớn. Đặc trưng của vùng văn hóa này phải kể đến thái độ ứng xử với tự nhiên trên cơ sở chinh phục và sống hài hòa với tự nhiên. Đáng kể nhất là những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt Bắc Bộ. Mọi tín ngưỡng của cư dân trồng lúa nước như thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, sùng bái tự nhiên,…có mặt trên hầu hết các làng quê Bắc Bộ. Không chỉ thế, kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ có thể coi như một loại mỏ với nhiều khoáng sản qúi hiếm. Từ thần thoại đến truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, ca dao, tục ngữ, thể loại nào cũng phong phú. Có thể nói, đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi văn hóa dân gian lúa nước của cư dân Việt. Được bao bọc từ cái nôi văn hóa Bắc Bộ, Nguyễn Huy Thiệp lớn lên trên những cánh đồng lúa bạt ngàn, những dòng sông chở nặng phù sa…Thế giới tự nhiên trở thành người mẹ nuôi dưỡng, chở che, là người bạn thủy chung của con người. Có lẽ đấy là nguồn cảm hứng bất tận cho những sáng tác của ông, đặc biệt trong những tác phẩm nhà văn viết về thiên nhiên và con người nông thôn Bắc Bộ. Khi viết về đề tài nông thôn, Nguyễn Huy Thiệp thường dành cho nó những trang văn thấm đẫm chất thơ với nguồn cảm hứng trữ tình dạt dào, tha thiết. Ông đã có lần tự hào: “Tôi có may mắn là thời thơ ấu tôi gắn với nông thôn. Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ở nông thôn” [89, tr.10]. Thời thơ ấu, cậu bé Thiệp từng cùng gia đình lưu lạc khắp nhiều vùng nông thôn giàu truyền thống văn hóa dân gian của đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Từ đó, Nguyễn Huy Thiệp đã tích luỹ được rất nhiều hành trang quý báu để có thể viết nhiều, viết hay về những miền đất dung dị mà chân chất tình người này. Đọc truyện của Nguyễn Huy Thiệp, người đọc thấy gần như là một “nhà văn của đất đai” (nhận xét của Sean Tamis Rose) [59, tr.499]. Nếu trong những truyện viết về thành thị và lịch sử, Nguyễn Huy Thiệp gieo vào lòng độc giả cảm giác khá nặng nề, ngột ngạt thì đến với những truyện ngắn như: Chảy đi sông ơi, Con gái thuỷ thần, Những bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê, Chăn trâu cắt cỏ, Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt,… người đọc lại như được đắm mình trong suối nguồn yêu thương, với cảm giác êm đềm, da diết, được thấy lòng mình bồi hồi với những dư vị thật ngọt ngào, sâu lắng. Bên cạnh đó, Nguyễn Huy Thiệp lại có thời gian sống và gắn bó đến mười năm cùng với mảnh đất Tây Bắc thân thương. Đây cũng vùng văn hóa miền núi miền Bắc với những đặc điểm hết sức riêng biệt. Mỗi dân tộc Tây Bắc tuy có khác nhau về cách ăn mặc, thói quen sinh hoạt, nhưng đa phần giống nhau ở bản chất hiền lành, thuần phác, luôn sống lạc quan và giàu tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Các dân tộc ở Tây Bắc đều có tín ngưỡng “mọi vật có linh hồn”, có đủ các loại “hồn” và các loại thần như thần sông núi, suối khe, các lực lượng siêu nhiên như sấm, chớp,...Cũng như nhiều dân tộc khác, các dân tộc Tây Bắc có một kho tàng văn hóa, văn học nghệ thuật dân gian đa dạng, phong phú. Có thể nói, vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ, vùng cao Tây Bắc là những môi trường văn hóa dân gian màu mỡ, là nguồn cung cấp tư liệu đáng quí và cũng là nguồn cảm hứng mãnh liệt chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Để sáng tạo nên những tác phẩm độc đáo khi viết về thiên nhiên và cuộc sống con người miền núi, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã có quãng thời gian mười năm thâm nhập thực tế ở Tây Bắc. Đó là những tháng ngày thầy giáo Thiệp dạy học tại một bản heo hút ở Sơn La, nơi cách tỉnh lỵ một ngày đi bộ, với bao thiếu thốn vất vả mà sau này chính nhà văn thú nhận chỉ có sức mạnh của nhiệt huyết tuổi trẻ mới giúp ông vượt qua những năm tháng ấy. Có lẽ quãng thời gian sống và làm việc ở Tây Bắc, Nguyễn Huy Thiệp đã đọc những “trang sách đời” được viết ra từ chính cuộc sống hiện thực của người dân nơi đây. Đọc nhiều truyện của Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của thầy giáo Thiệp năm nào. Kí ức về những tháng ngày sống và làm việc ở Tây Băc sâu đậm đến nỗi không cần gợi nhắc, nó luôn thường trực, âm ỉ và nếu có dịp, nhà văn lại thổ lộ: “Ngày xưa, khi còn dạy học ở vùng núi Tây Bắc…”. Và rồi ông cứ để cho hoài niệm tràn về… Mở đầu truyện ngắn Những người muôn năm cũ, Nguyễn Huy Thiệp hồi tưởng: “Cách đây hơn ba mươi năm, tôi dạy học ở Bâm là một xóm núi khỉ ho cò gáy ở tỉnh N, cách thủ đô vài trăm cây số. Hồi ấy tôi 20 tuổi, vừa mới tốt nghiệp ra trường, tâm hồn còn rất ngây thơ” [94, tr.510]. Hay một đoạn trong Chuyện tình kể trong đêm mưa, tác giả kể: “Trường học miền núi nơi tôi ở nằm trên một quả đồi trọc gọi là đồi Thông […]. Khu nhà giáo viên kề ngay đó lợp ngói, vách trát “toocsi” nhưng khi mưa xuống dột còn nhiều hơn cả mái nhà lợp gianh” [94, tr.458]. Đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ta còn có thể bắt gặp khá nhiều những dòng tự sự chân thực như thế. Sau này khi đã trở về Hà Nội, nếm trải qua bao nhiêu thăng trầm, ngay cả khi đã khẳng định được tên tuổi trên văn đàn và đã có chỗ đứng khá vững chắc trong lòng độc giả, với Nguyễn Huy Thiệp, tháng ngày ở Tây Bắc vẫn là quãng thời gian đẹp đẽ và đáng nhớ nhất. Với ông, Tây Bắc mãi là “Mảnh đất tình yêu! Mảnh đất giữ người!” [94, tr.576]. Gần đây, trong truyện ngắn có nhan đề Quan âm chỉ lộ, Nguyễn Huy Thiệp bồi hồi nhớ lại: “ Những ngày dạy học gian khó ở trên miền núi Tây Bắc xa xôi, tôi chỉ là một thầy giáo tiểu học vô danh, tôi như viên sỏi vô danh ở trong lòng suối vô danh nhưng chẳng bao giờ tôi thấy cô đơn, trong lòng tôi lúc nào cũng như có một con chim chiền chiện líu la líu lo ca hát những lời vô nghĩa bất tận” [94, tr.587]. Điều đó còn là cơ sở để lí giải tại sao mảng truyện viết về miền núi chiếm số lượng đáng kể trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nguyễn Huy Thiệp không phải là người đầu tiên khai thác và thành công khi viết về mảng đề tài này. Trước ông đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ gặt hái được thành công khi tìm đến với con người và cuộc sống nơi đây. Tiêu biểu như Tố Hữu với tập thơ Việt Bắc; Nguyễn Huy Tưởng với Kí sự Cao Lạng; Tô Hoài với Truyện Tây Bắc, Miền Tây; Nguyễn Tuân với Nhật kí lên Mèo, Sông Đà; Rừng động của Mạc Phi; Kan Lịch của Hồ Phương; Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Vệ sĩ của quan Châu của Ma Văn Kháng,v.v…Tuy nhiên, mặc dù thuộc thế hệ đi sau và viết sau nhưng Nguyễn Huy Thiệp không bị chìm khuất trong số những tên tuổi tiêu biểu vừa kể trên, trái lại ông đã tìm cho mình một lối đi riêng để triển khai và chiếm lĩnh đề tài này tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo. Sử dụng yếu tố văn hóa dân gian một cách sáng tạo đã góp phần tạo ra cái riêng đó của Nguyễn Huy Thiệp. Tiêu biểu cho mảng đề tài viết về miền núi của ông có thể kể đến như Những ngọn gió Hua Tát, Muối của rừng, Sống dễ lắm, Những người thợ xẻ, Thổ cẩm, Những người muôn năm cũ, Chuyện tình kể trong đêm mưa. 1.3. Quan niệm văn chương của Nguyễn Huy Thiệp Trước khi đi sâu vào nghiên cứu những đặc trưng của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên cơ sở ảnh hưởng từ nền văn hóa dân gian của dân tộc, chúng tôi bước đầu tìm hiểu quan niệm văn chương của ông, trong đó lưu ý đến quan niệm của ông về mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học. Chúng như một sợi chỉ đỏ chi phối toàn bộ quá trình sáng tác của nhà văn. Những quan niệm này được Nguyễn Huy Thiệp gửi gắm trong một số truyện ngắn, qua các bài tiểu luận phê bình, hoặc bày tỏ qua một số lần trả lời phỏng vấn. Khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp có thể thấy hầu hết tác phẩm của ông đều chứa đựng một vài triết lí về văn chương. Quan niệm về văn chương của Nguyễn Huy Thiệp rất đa dạng. Phải luôn trăn trở về ý nghĩa của nó, ông mới có thể viết nên những trang văn chất đầy suy tư như thế. Điều này khiến ta liên tưởng đến sự tương đồng giữa Nguyễn Huy Thiệp và Nam Cao, một nhà văn nổi tiếng với những quan niệm văn chương đã trở thành những tuyên ngôn nghệ th._.ặt của phát ngôn, là sự phản đối, phủ định dưới hình thức tán dương, khẳng định” [74, tr.195]. Còn giễu cợt là “nêu thành trò cười nhằm chế nhạo, đả kích” những thói hư tật xấu trong xã hội [68, tr.401]. Mỉa mai, giễu cợt là những phương thức biểu cảm được Nguyễn Huy Thiệp sử dụng có hiệu quả trong nhiều thiên truyện. Dân gian có thói quen mỉa mai, giễu cợt nhằm phê phán những thói hư tật xấu của con người. Cách nói ấy thường biểu hiện qua những câu truyện trạng, truyện cười, ca dao trào phúng,…Mỉa mai, giễu cợt trong văn chương nghệ thuật không phải đến từ một "cõi lạ", không dính dáng đến hiện tại mà luôn gắn chặt với thực trạng muôn mặt của cuộc đời. Bởi tác phẩm dẫu nói về cái xấu, cái ác nhưng người viết vẫn hướng con người về phía cái đẹp, khơi gợi những tình cảm cao đẹp bởi “khi cười cái xấu, người ta đứng cao hơn nó” (Tsecnưsepxki). Đọc truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy phảng phất giọng điệu giễu cợt của dân gian. Giọng điệu này cũng là một cách để nhà văn tiếp cận và phản ánh hiện thực cuộc sống. Nhờ đó mà những phương diện đa dạng và phong phú trong dòng chảy của cuộc sống hôm nay được nhà văn soi chiếu một cách chân thực nhưng không kém phần tinh tế. Đối tượng mỉa mai, giễu cợt của nhà văn rất đa dạng. Giọng mỉa mai, giễu cợt thể hiện rõ khi Nguyễn Huy Thiệp phê phán sự suy đồi truyền thống đạo lí gia đình trong một bộ phận xã hội buổi giao thời. Điều đặc biệt là giọng văn này trong truyện của ông ít khi gắn với tiếng cười. Nếu có thì thường không phải là tiếng cười hả hê, vui vẻ. Ngược lại, nó ẩn chứa những nỗi đau, nỗi buồn về thế thái nhân tình của kiếp người. Tiếng cười đôi khi thực sự bi đát, nặng nề, đầy mai mỉa. Một ông tướng (Tướng về hưu) một thời từng xông pha anh dũng nơi chiến trường trận mạc, trớ trêu thay, ông lại trở nên thụ động giữa đời thường, thậm chí lạc lõng ngay trong gia đình mình. Làm chủ hôn cho đám cưới của đứa cháu họ, chứng kiến không khí “ô hợp láo nháo thản nhiên rất đời, thô thiển, thậm chí ô trọc nữa” ở đấy khiến ông “luống cuống, khổ sở” đến “kinh hãi, đau đớn” [94, tr.22]. Thấy cô con dâu làm bác sĩ sản khoa lấy xác thai nhi về nấu cho chó béc giê ăn, ông chỉ biết khóc. Đến khi đứa cháu gái “giễu”: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm phải không ông?”, ông cũng chỉ biết mắng: “Mẹ mày! Láo!” [94, tr.31]. Trong một gia đình khác, hãy xem bố con ông Kiền (Không có vua) nói chuyện với nhau, ta thấy rõ hơn về sự “bát nháo” đó. Lão Kiền thường nói với con những lời mỉa mai rất độc địa. Với Đoài: “Mày ấy à? Công chức gì mặt mày? Lười như hủi, chữ tác, chữ tộ không biết, chỉ giỏi đục khoét!”, với Cấn thì: “Hay thật, cái nghề cạo đầu ngoáy tai của mày, nhục thì nhục nhưng hái ra tiền!” [94, tr.47]. Cho nên người đọc cũng không quá bất ngờ và sẽ còn ám ảnh rất lâu bởi câu nói của Đoài. Bố bệnh nặng, Đoài bảo: “Tôi nghĩ bố già rồi, mổ cũng thế, cứ để chết là hơn”. Rồi không để ai kịp nói, Đoài thản nhiên đến tàn nhẫn, vô nhân tính: “Ai đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu quyết nhé” [94, tr.62]. Có cái gì đắng chát sau câu nói trơn tuột ấy của Đoài. Người ta những tưởng anh ta đang nói đến chuyện bầu bán gì đấy chứ không phải chuyện bệnh tình của bố mình. Đạo lí cha con trở nên vô nghĩa, bị con người ta đem ra làm trò đùa. Đời sống kinh tế thị trường đem đến sự thõa mãn nhu cầu vật chất cho con người, nhưng theo đó là sự tha hóa nhân tính trong một bộ phận xã hội lúc giao thời. Đồng tiền có sức mạnh phá hủy nhân tính thật ghê gớm. Cái hiện thực cay đắng ấy đã được nhà văn miêu tả một cách riết róng, qua giọng văn đầy mỉa mai. Khi viết về những hành động động ngớ ngẩn, vô nghĩa của con người, nhà văn thường viết bằng giọng mỉa mai, giễu cợt. Trong Những người thợ xẻ chi tiết nhân vật Ngọc ngăn không cho Bường hãm hiếp Quy, Bường giận dữ, thách đánh nhau với Ngọc: “Thế nào? Tiến lên đi chứ, công tử bột! Hãy mang chiến thắng về nộp dưới chân nàng Đuynxinê ở làng Tôbôdô” [94, tr.126] thật lố bịch. Hai người lao vào đánh nhau ác liệt mà chẳng vì cái gì cụ thể. Lời thách thức của tay “du thủ du thực” kia, mỉa mai thay, đã biến chàng cử nhân tương lai thành một anh chàng ngốc đi “đánh nhau với cối xay gió”. Giọng mỉa mai, giễu cợt còn được nhà văn dùng khi viết về những tình huống “dở khóc dở cười” khi con người phát hiện ra một điều gì đó. Người ta đắc chí với sự phát giác ấy mà không biết rằng mình đang trở thành một kẻ lố bịch hơn bao giờ hết. Ẩn sau câu chữ là những nỗi buồn tưởng bâng quơ nhưng rất thâm thúy. Để săn được con khỉ đầu đàn, ông Diểu (Muối của rừng) đã phải mất khẩu súng săn và cả bộ quần áo. Trên đường trở về, ông bực mình nghĩ: “chẳng lẽ lại nồng nỗng thế này về nhà thì thật là khả ố! Mình sẽ thành trò cười cho thiên hạ mất…”. Rồi ông bỗng bật cười: “Thì đã sao nào! Hỏi ai bắn được một con khỉ thế này? Phải yến rưỡi thịt…Lông vàng như nhuộm…Bắn được con vật như thế này thì dẫu mảnh giáp không còn cũng đáng!” [94, tr.73] Thực ra ông Diểu đã nhận ra sự lố lăng trong hành động của mình. Ông ta chỉ đang cố biện minh cho hành động ấy mà thôi. Cuộc sống đời thường với bao toan tính, mưu mô xảo quyệt. Truyền thuyết, huyền thoại vốn đẹp, thơ mộng lại trở thành trò cười trong thiên hạ. Huyền thoại Mẹ Cả đầy ắp trong kí ức tuổi thơ Chương (Con gái thủy thần). Trong trí tưởng tượng của anh, Mẹ Cả hiện lên thật đẹp và lộng lẫy. Cho đến một hôm có người chỉ cho Chương nấm đất gần kề gốc cây muỗm và bảo đấy là mộ của Mẹ Cả. Anh đào lên. Thì ra trong nấm đất ấy chỉ là “một khúc gỗ mục chẳng hình thù gì” [94, tr.86]. Chuyện Mẹ Cả rốt cùng chỉ là câu chuyện bịa đặt. Sự thật mà anh vừa trông thấy tận mắt quá phũ phàng so với huyền thoại mà người đời bấy lâu nay vẫn thêu dệt. Thật đau đớn và chua chát, Chương thấy mình bơ vơ, lạc lõng chính tại nơi mình đang sống. Anh quyết định đi ra biển, dẫu biết rằng “ngoài biển không có thủy thần” [94, tr.87], nhưng có thể nơi ấy sẽ không còn những trò lừa bịp ác tâm của con người. Cậu bé làng chài (Chảy đi sông ơi) cố nài nỉ những người đánh cá mòi đêm cho lên thuyền để có thể nhìn thấy sự thật về truyền thuyết con trâu đen. Nhưng truyền thuyết ấy chỉ là tin đồn thất thiệt của một kẻ rỗi hơi nào đấy. “Chuyện giết người cướp của có thực, ngoại tình có thực, cờ bạc có thực”, còn đau lòng thay: “chuyện trâu đen là giả”, vì đó chỉ là “chuyện đồn nhảm nhí” [94, tr.12]. Giọng mỉa mai, giễu cợt thể hiện qua những phát ngôn kiểu hô hào rỗng tuếch. Đây chính là điểm gặp gỡ giữa Nguyễn Huy Thiệp với Vũ Trọng Phụng. Trong Số đỏ, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã để cho nhân vật Xuân Tóc Đỏ nhiều lần nói những câu trịch thượng song lại vô nghĩa và buồn cười. “Hỡi quần chúng! Mi không hiểu gì, mi oán ta! Ta vẫn yêu quí mi mặc lòng mi chẳng rõ lòng ta!...Thôi giải tán đi, và cứ an cư lạc nghiệp trong hòa bình và trật tự! Ta không dám tự phụ là bậc anh hùng cứu quốc, nhưng ta đã tránh được cho mi họa chiến tranh rồi! Hòa bình vạn tuế! Hội Quốc liên vạn tuế!” [70, tr.234]. Mấy nghìn người bị một kẻ lưu manh, bụi đời gọi là “mi” không những chẳng tức giận, ngược lại còn rất xúc động, sốt sắng hoan hô: “Xuân Tóc Đỏ vạn tuế! Sư đại bại vạn tuế!” [tr. 235]. Tiếng cười châm biếm, mỉa mai từ đó vang lên thật sâu cay! Trong một số thiên truyện của Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật cũng có cách nói kiểu hô hào “thùng rỗng kêu to” như thế. Tiêu biểu là truyện Sang sông. Chuyện kể rằng trên chuyến đò sang bờ bên kia hôm ấy có rất nhiều hạng người và nhiều biến cố xảy ra. Một cậu bé vì nghịch ngợm đã kẹt tay vào cái bình của hai gã buôn đồ cổ. Trong lúc mọi người trên đò đang lúng túng chưa biết xử trí thế nào thì tên cướp có vẻ mặt hung tợn đã liều mình đập vỡ chiếc bình quý để cứu đứa bé thoát chết trong gang tấc. Chứng kiến hành động ấy, nhà giáo (trước đó run lẩy bẩy, đánh rơi cả kính) bỗng hoảng hốt thốt lên: “Trời! Anh dám đập vỡ bình! Thật đúng là một anh hùng! Một nhà cải cách! Một nhà cải cách!” [94, tr.369]. Thật nực cười! Nhà giáo cao đạo nói những lời sáo rỗng, ngây ngô, còn kẻ cướp giờ lại trở thành “anh hùng”, thành “nhà cải cách” vĩ đại. Khi để cho nhân vật thầy giáo nói những câu “khen ngợi” ấy, tác giả không hướng người đọc đến sự đánh giá về nhân vật tên cướp, mà chủ yếu nhằm phê phán sự hèn nhát, thói mọt sách của ông thầy giáo nọ nói riêng, và những kẻ sống theo kiểu “lí thuyết suông” không hiếm gặp trong đời thường nói chung. Câu chuyện vì thế toát lên thái độ mỉa mai, giễu cợt thâm thúy. Nhà văn còn mỉa mai, giễu cợt cái cách người ta đặt tên địa danh vùng miền bằng những cái tên nghe “rất kêu” nhưng thật kệch cỡm. Ví dụ như trong truyện Những người thợ xẻ, ông để nhân vật Bường nói mỉa: “Vùng ma thiêng nước độc thì tên là Tương Lai, Bình Minh, Tân Lập, Đoàn Kết, Tự Cường! Kêu cứ như chuông! Mấy thằng bán quán, khách vào thì chém cổ lại đặt tên là Bình Dân với Thanh Lịch! Còn mấy thằng bán thuốc nạo thai con gái lại đặt tên là Hồi Xuân với Cứu Thế!” [94, tr.110]. Giọng giễu cợt của Vũ Trọng Phụng là thái độ phủ định sâu sắc hết thảy cái xã hội thảm hại, lố lăng trước cách mạng. Giọng điệu ấy bộc lộ chủ yếu qua bút pháp trào lộng, châm biếm sâu cay. Vũ Trọng Phụng có những tác phẩm thuần túy với giọng giễu cợt. Còn giọng mỉa mai, giễu cợt trong văn Nguyễn Huy Thiệp chỉ nhằm vào một vài đối tượng cụ thể đan cài vào tác phẩm. Đôi khi cái nhìn giễu cợt xuất phát từ những tình huống tưởng chừng rất vụn vặt đời thường song lại ngầm chứa những giá trị nhân sinh sâu sắc. Ngay ở những thiên truyện “phản cổ tích” (được cho là có biểu hiện của giọng mỉa mai, giễu cợt) thì giọng khẳng định vẫn là giọng chính. Song không thể phủ nhận rằng thông qua giọng điệu mỉa mai, giễu cợt, Nguyễn Huy Thiệp đã cho chúng ta thấy được phần nào những mặt tiêu cực trong tư tưởng, nếp sống, đạo đức,…còn tồn tại trong xã hội để từ đó có ý thức sống tốt hơn. Tiểu kết: Có thể nói, ngôn ngữ và giọng điệu là những đặc điểm tạo nên sức hấp dẫn thẩm mĩ cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và góp phần khẳng định tài năng cũng như phong cách của tác giả. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được viết bởi thứ ngôn ngữ rất đời thường, vận dụng khá nhuần nhuyễn thành ngữ, tục ngữ nên gần gũi với ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày, mang đậm sắc thái ngôn ngữ của dân gian. Bên cạnh đó, nhà văn còn kể chuyện bằng lối kể rất quen thuộc trong cổ tích, trong thói quen giao tiếp của người Việt Nam, đó là lối kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần. Truyện của ông hấp dẫn, lôi cuốn độc giả chính là nhờ đã kết hợp được chất thơ và chất tự sự trong văn xuôi, góp phần tạo nên sự rậm rạp trên bề mặt và cả ở chiều sâu trong việc khám phá đời sống con người. Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn luôn có ý thức và cố gắng tạo nên giọng điệu văn chương riêng cho mình. Với sự nỗ lực tìm tòi không ngừng, ông đã khẳng định được văn phong riêng độc đáo không thể nhầm lẫn. Một trong những yếu tố góp phần tạo nên sự hấp dẫn của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là sắc thái dân gian trong giọng điệu trữ tình, thấm đẫm chất thơ và giọng điệu mỉa mai, giễu cợt. Chúng là những “dải băng ngôn từ” được nhà văn khéo léo chọn lựa, chắt lọc, đan cài tạo nên nhiều chất giọng trong tác phẩm. Văn của ông vừa có sự kế thừa cách diễn đạt truyền thống vừa có lối diễn đạt sắc lạnh, đầy suy tư của văn chương hiện đại. KẾT LUẬN 1. Nguyễn Huy Thiệp là một trong những nhà văn tiên phong của giai đoạn văn học thời kì Đổi mới, góp phần tạo nên diện mạo mới cho nền văn học đương đại Việt Nam. Với những tìm tòi, sáng tạo đầy nỗ lực, Nguyễn Huy Thiệp đã khẳng định tài năng, vị trí và tầm ảnh hưởng của mình trên văn đàn cũng như trong lòng độc giả. Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn của sự đổi mới, cách tân. Điều đó đã được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình, nhiều công trình khoa học phát hiện và minh chứng. Với mong muốn khám phá thêm chiều sâu trong những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, luận văn tiến hành tìm hiểu truyện ngắn của ông từ hướng tiếp cận văn hóa dân gian. Khảo sát riêng ở mảng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt soi rọi từ một số lí thuyết cơ bản của văn hóa dân gian dân tộc, luận văn nhằm đi đến kết luận: truyện ngắn của ông có sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức thể hiện. 2. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sự kết tinh những quan hệ tốt đẹp nhất giữa người với người, với xã hội và với tự nhiên. Trong đó, văn hóa dân gian là một bộ phận quan trọng của văn hóa. Mối quan hệ ảnh hưởng giữa văn hóa với văn học nói chung, văn hóa dân gian với văn học viết nói riêng là mối quan hệ mang tính quy luật tất yếu. Việc vận dụng các lí thuyết văn hóa dân gian vào nghiên cứu tác phẩm văn học cụ thể giúp chúng ta hiểu sâu hơn bản chất sáng tạo của nhà văn. Trước hết, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã chuyển tải thành công các quan niệm văn chương của nhà văn. Trong đó, Nguyễn Huy Thiệp đặc biệt chú ý đến mối quan hệ giữa văn hóa, văn học dân gian và nhà văn. Khi đi vào tìm hiểu ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, luận văn đã phân tích, chứng minh sự ảnh hưởng của một số thành tố văn hóa dân gian như văn học dân gian, tín ngưỡng dân gian, ngôn ngữ dân gian trên các phương diện cụ thể như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu. 3. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đa phần không có cốt truyện phức tạp, chứa đựng quá nhiều mâu thuẫn kịch tính. Để thể hiện cuộc sống với tất cả sự đa diện, đa chiều, Nguyễn Huy Thiệp thường xây dựng những cốt truyện mang màu sắc huyền ảo và môtíp cổ tích. Chúng tôi cũng đã chỉ ra sự ảnh hưởng của truyện dân gian đối với cách thức mở đầu và kết thúc trong cốt truyện truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Ở những kiểu cốt truyện này, để làm rõ sự kế thừa và sáng tạo độc đáo của Nguyễn Huy Thiệp, người viết đã tập trung đi sâu phân tích các yếu tố như sự kiện, chi tiết kì lạ, hoang đường; những tình huống truyện hư ảo; những nhân vật kì lạ; những giấc mơ bí ẩn, những môtíp cổ tích quen thuộc. Từ đó, người viết khẳng định việc sử dụng các yếu tố huyễn hoặc, các môtíp cũ không có nghĩa là Nguyễn Huy Thiệp lặp lại truyền thống mà đó là cách để nhà văn có thể đi sâu chiếm lĩnh, khám phá hiện thực đa chiều của cuộc sống thực tại. 4. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khá đa dạng và phong phú. Có ba kiểu nhân vật hiện lên khá toàn diện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là: nhân vật là những con người sống hòa hợp với tự nhiên, mang trong mình triết lí sống hài hòa, bình ổn; nhân vật là những người có đời sống tâm linh sâu sắc; nhân vật là những người phụ nữ mang vẻ đẹp của “thiên tính nữ”. Trong quá trình đi sâu phân tích hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, luận văn đã cố gắng chỉ ra rằng: khi xây dựng nhân vật, nhà văn chịu ảnh hưởng khá sâu sắc truyền thống văn hóa dân gian Việt Nam với triết lí sống hài hòa, bình ổn xuất phát từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, truyền thống trọng nữ, tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp lúa nước lâu đời truyền lại. Cho nên nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp tuy là những con người của cuộc sống hiện đại nhưng vẫn mang trong mình những phẩm chất truyền thống cao đẹp. 5. Chịu ảnh hưởng khá sâu sắc cách diễn đạt từ dân gian, ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mang những đặc điểm sau: sử dụng nhuần nhị ngôn ngữ đời thường, tục ngữ, thành ngữ; lời kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là thứ ngôn ngữ được chắt lọc từ đời sống, từ thói quen vận dụng tục ngữ, thành ngữ từ lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân. Lời kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp cũng khá độc đáo. Đó là lối kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần vốn đã quen thuộc từ truyện cổ dân gian. Chính việc vận dụng phối hợp khéo léo các dạng ngôn ngữ này mà truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã để lại ấn tượng sâu sắc hơn trong cảm nhận của độc giả. Nói đến truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, người ta cũng thường nói đến giọng điệu độc đáo trong văn ông. Tùy thuộc vào đối tượng thể hiện mà nhà văn thường chọn một chất giọng chủ đạo, qua đó bộc lộ thái độ, quan điểm của tác giả về con người và cuộc sống. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là một thế giới đa giọng điệu, ở đó có sự kết hợp, đan cài giữa chất giọng trữ tình, thấm đẫm chất thơ với chất giọng mỉa mai, giễu cợt. Truyện của Nguyễn Huy Thiệp gây ấn tượng đặc biệt cho độc giả bằng chất giọng trữ tình, thấm đẫm chất thơ. Giọng điệu ấy như “một cấu trúc nhịp nhàng, một giai điệu ẩn náu như bè trầm của văn bản” [75, tr.179]. Theo chúng tôi giọng điệu này có đươc một phần là do Nguyễn Huy Thiệp đã chịu ảnh hưởng từ lối văn giàu nhạc điệu của văn chương truyền miệng của dân tộc. Giọng mỉa mai, giễu cợt cũng là một trong những giọng chủ đạo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Thông qua phương thức biểu cảm mỉa mai, giễu cợt, với lối nói ngược hẳn với ý nghĩa bề mặt phát ngôn cùng với thái độ phê phán những mặt trái của xã hội qua cách nhìn giễu cợt, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã phản ánh hiện thực đa diện của cuộc sống hôm nay một cách thẳng thắn nhưng khá tinh tế. Khi tìm hiểu giọng điệu này, chúng tôi cũng cố gắng làm rõ sự tiếp thu của nhà văn từ lối nói mỉa, trào phúng quen thuộc trong đời sống dân gian. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng này theo chúng tôi cũng chưa được rõ nét lắm so với các phương diện khác mà luận văn đã nghiên cứu. 6. Bằng sự lao động miệt mài, khổ luyện trên “cánh đồng chữ nghĩa”, Nguyễn Huy Thiệp đã gặt hái được những thành công đáng kể trong sự nghiệp cầm bút, đặc biệt là ở mảng truyện ngắn. Quan trọng hơn, ông đã nhận được sự “đồng điệu” sâu sắc từ đông đảo độc giả trong và ngoài nước. Đến với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, người đọc không chỉ có thêm những khám phá thú vị từ cuộc sống muôn màu muôn vẻ, mà đáng quí hơn, họ còn được nhà văn khéo léo đưa trở về với cội nguồn của truyền thống văn hóa dân gian dân tộc. Những đóng góp ấy to lớn và có ý nghĩa biết nhường nào. Trong nhịp chảy hối hả của cuộc sống hiện đại hôm nay, chúng ta càng thấy trân trọng hơn những đóng góp của nhà văn. Cuộc sống dù phát triển đến đâu, con người đều rất cần có sự kế thừa, tiếp nối giữa quá khứ với hiện tại làm nền tảng vững chắc cho tương lai. Văn học cũng vậy. Và vì thế, những câu chuyện của Nguyễn Huy Thiệp sẽ vẫn có sức hấp dẫn, lôi cuốn riêng của nó. Nghiên cứu ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, luận văn không cho rằng đã có thể giải quyết đầy đủ, trọn vẹn mọi vấn đề. Nhưng tác giả luận văn hi vọng rằng đề tài nghiên cứu của mình đã mở ra một hướng tiếp cận mới đối với “hiện tượng” Nguyễn Huy Thiệp. Và cũng mong kết quả nghiên cứu của luận văn, về mặt khoa học, ít nhiều cũng góp một tiếng vào nỗ lực chung trong việc nghiên cứu về một tác giả tiêu biểu của văn học đương đại Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. M. Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch từ nguyên bản tiếng Nga, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 2. M. Bakhtin (1980), “Một số khía cạnh phương pháp luận cần lưu ý khi nghiên cứu văn học quá khứ”, Vương Trí Nhàn dịch, Tạp chí văn học (số 4). 3. Trần Lê Bảo (2009), “Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc (số 2). 4. Thụy Bình, Thiên lương trong “ Muối của rừng” www.evan.com.vn. 5. Nam Cao (1996), Truyện ngắn (chọn lọc), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 6. Nguyễn Minh Châu (1985), Tuyển tập truyện ngắn Bến Quê, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội. 7. Đoàn Văn Chức (2004), Văn hóa học, Nxb Lao động. 8. Nguyễn Văn Dân (2004), “Tiếp cận văn học bằng văn hóa học”, Tạp chí văn học (số 11). 9. Chu Xuân Diên (2004), Mấy vấn đề văn hóa và văn học dân gian Việt Nam, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh. 10. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh. 11. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội. 12. Phạm Đức Dương (2007), Việt Nam – Đông Nam Á – Ngôn ngữ và Văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 13. Nguyễn Đình Đăng, Nhà văn Việt Nam của tôi, www.evan.com.vn. 14. Đặng Anh Đào (1991), “Một hiện tượng mới trong hình thức kể chuyện hiện nay”, Tạp chí văn học (số 6). 15. Đặng Anh Đào, Vai trò của cái kì ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam, www.nhavan.com.vn. 16. Phan Cư Đệ (chủ biên), (2007), Truyện ngắn Việt Nam – Lịch sử - Thi pháp – Chân dung, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Tp Hồ Chí Minh. 18. Phong Điệp, Đánh giá thành tựu văn học Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới, www.vietnamnet.com.vn. 19. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội. 20. Nguyễn Đăng Điệp, Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp, www.phongdiep.net. 21. Hà Minh Đức (2008), Một nền văn hóa văn nghệ đậm bản sắc dân tộc với nhiều loại hình nghệ thuật phong phú, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 22. V. E. Guxev (1999), Mỹ học Folklor, Hoàng Ngọc Hiến dịch, Nxb Đà Nẵng. 23. Phùng Hữu Hải, Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại từ sau 1975, www.vienvanhoc.org.vn. 24. Nguyễn Văn Hạnh, Về khái niệm văn hóa – vài khía cạnh lý luận và thực tiễn, www.vienvanhoc.org.vn. 25. Nguyễn Văn Hạnh (2007), “Văn hóa như là nguồn mạch sáng tạo và khám phá văn chương”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 1). 26. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lí luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 27. Võ Thị Thu Hằng, Triết lí văn chương trên trang viết Nguyễn Huy Thiệp, www.evan.com.vn. 28. Lê Huy Hòa, Hoàng Đức Nhuận (tuyển chọn và giới thiệu), (2000), Văn hóa Việt Nam, truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 29. La Khắc Hòa, Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, www.vienvanhoc.org.vn. 30. Châu Minh Hùng, Tiếng nói của cái tục trong văn Nguyễn Huy Thiệp www.evan.com.vn. 33. Đoàn Hương (2004), Văn luận, Nxb Văn học, Hà Nội. 34. Đoàn Thị Đặng Hương (1996), “Thử giải mã văn học Việt Nam theo tinh thần văn hóa Việt Nam và văn hóa phương Đông”, Tạp chí văn học (số 3). 35. Lê Thị Hường (1995), “Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay”, Tạp chí văn học (số 4). 36. Nguyễn Văn Kha (2007), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện ngắn 1975 – 2000, Nxb Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh. 37. Đinh Gia Khánh (chủ biên), (1998), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 38. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 39. Đinh Gia Khánh (1998), “Văn học góp phần tạo nên những giá trị văn hóa hàng đầu của dân tộc”, Tạp chí văn học (số 6). 40. Đinh Gia Khánh (1992), “Tục thờ Mẫu và truyền thống văn hóa dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí văn học (số 5). 41. Vũ Ngọc Khánh (2007), Nghiên cứu văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 42. Ma Văn Kháng (2003), Tuyển tập truyện ngắn (4 tập), Nxb Công an Nhân dân. 43. Kim Khuyên, Đi săn hay là tìm lại thiên lương?, www.evan.com.vn. 44. Lê Đình Kỵ (1991), “Đối thoại với văn học dân gian và bản lĩnh của người viết”, Tạp chí văn học (số 5). 45. Cao Kim Lan, Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hậu hình thi pháp hậu hiện đại, www.vienvanhoc.org.vn. 46. Cao Kim Lan (2005), “Mấy vấn đề thi pháp cốt truyện”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 6). 47. Nguyễn Trường Lịch (1997), “Huyền thoại và sức sống của huyền thoại trong văn chương xưa và nay”, Tạp chí văn học (số 5). 48. Nguyễn Văn Long (2006), Nguyễn Văn Thìn (đồng chủ biên), Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 49. Trần Long, Góp phần làm rõ nguyên lí mẹ trong văn hóa Việt, www.vanhoahoc.com.vn. 50. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 51. Trần Nhật Lý, Đọc lại “Sang sông” của Nguyễn Huy Thiệp, www.evan.com.vn. 52. Sơn Nam (1999), Hương rừng Cà Mau, Nxb Trẻ. 53. Nguyên Ngọc, Văn xuôi Việt Nam hiện nay, lôgic quanh co của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng, www.vietnamnet.com.vn. 54. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa. 55. Phan Ngọc, Quan hệ giữa văn chương và văn hóa ở Việt Nam, www.vienvanhoc.org.vn. 56. Nguyễn Thị Ngọc (1996), Hồ Xuân Hương và nền văn hóa dân gian Việt Nam, Luận án P.TS, Thư viện Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh. 57. Mạc Ngôn (2004), “Ngọn nguồn văn hóa dân gian của sáng tác văn học”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 6). 58. Lã Nguyên, Nhìn lại các bước đi, lắng nghe những tiếng nói www.vietnamnet.com.vn. 59. Phạm Xuân Nguyên (sưu tầm và biên soạn), (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 60. Phùng Qúi Nhâm (2002), Văn học và văn hóa từ một góc nhìn, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh. 61. Vương Trí Nhàn (2006), “Giăng lưới bắt…lí luận”, Báo Thể thao và văn hoá, ra ngày 10 tháng 3. 62. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh. 63. Nhiều tác giả (2000), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 64. Nhiều tác giả (1989), Nguyễn Huy Thiệp, Tác Phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương + Nxb Trẻ. 65. Nhiều tác giả (2002), Bản sắc dân tộc trong văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh. 66. Hoàng Thị Oanh (2008), Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ, Thư viện Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh. 67. Lê Trường Phát (1987), “Về hiện tượng xen kẽ giữa văn vần và văn xuôi trong truyện kể dân gian”, Tạp chí văn học (số 4). 68. Hoàng Phê (chủ biên), (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội, Đà Nẵng. 69. Phạm Phú Phong (2002), “Giọng điệu văn chương Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí Sông Hương (số 155). 70. Vũ Trọng Phụng (2002), Số đỏ, Nxb Văn học, Hà Nội. 71. Huỳnh Như Phương (1991), “Văn xuôi Việt Nam những năm 80 và những vấn đề dân chủ mới của nền văn học”, Tạp chí văn học (số 4). 72. G.N Pospelov (chủ biên), (1993), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 73. Đặng Văn Sinh, Đọc lại “ Tướng về hưu” www.vietnamnet.com.vn. 74. Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục. 75. Trần Đình Sử (chủ biên) (2000), Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội. 76. Trần Đình Sử (2005), Trần Đình Sử tuyển tập, Nguyễn Đăng Điệp (tuyển chọn), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 77. Hà Công Tài (1989), “Để nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết”, Tạp chí văn học (số 5). 78. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi”, Tạp chí văn học (số 2). 79. Nguyễn Thị Minh Thái (2007), “Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: “Tôi sống ảo”, An ninh Thủ đô, ngày 9 tháng 9. 80. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. 81. Bùi Việt Thắng (2000), “Một bước đi của truyện ngắn”, Tạp chí Nhà văn (số1). 82. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 83. Bùi Việt Thắng (2004), “Truyện ngắn hôm nay”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 1). 84. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 85. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 86. Nguyễn Thành Thi (2010), “Ám ảnh hiện sinh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 5). 87. Trần Viết Thiện (2007), “Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp – Chiều tương tác độc đáo”, Tạp chí Sông Hương (số 216). 88. Ngô Đức Thịnh (chủ biên), (1991), Quan niệm về Folklore, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 89. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Giăng lưới bắt chim (Tạp văn, tiểu luận, phê bình, giới thiệu), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 90. Nguyễn Huy Thiệp (2006), “Giăng lưới bắt chim” là những đối thoại nội tâm”, Tiền phong chủ nhật, ngày 24 tháng 9. 91. Nguyễn Huy Thiệp (2002), “Tôi chỉ hướng tới tự nhiên”, Báo Tiền Phong (số 40). 92. Nguyễn Huy Thiệp (2008), “Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: “Thế giới đã an bài!”, Báo Thanh niên, ngày 10 tháng 3. 93. Nguyễn Huy Thiệp (2008), “Tổng nhuận bút của tôi khoảng 8000 USD”, Báo Người đương thời (số Xuân Mậu Tý). 94. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn và hiệu đính, Nxb Văn hoá Sài Gòn. 95. Đỗ Lai Thúy (1999), Hồ Xuân Hương – hoài niệm phồn thực, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 96. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội. 97. Đỗ Lai Thúy, Mối quan hệ văn hóa – văn học nhìn từ hệ thống lí thuyết, www.vienvanhoc.org.vn. 98. Phạm Thị Thùy Trang (2009), Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ, Thư viện Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh. 99. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của sáng tạo, thách thức của văn hóa, Nxb Thanh niên. 100. Lê Ngọc Trà (tập hợp và giới thiệu), (2001), Văn hóa Việt Nam – đặc trưng và cách tiếp cận, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 101. Lê Ngọc Trà, Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới, www.vienvanhoc.org.vn. 102. Đỗ Bình Trị (1989), “Mấy ý kiến về vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học với văn học dân gian”, Tạp chí văn học (số 1). 103. Bùi Thanh Truyền (2008), “Song đề truyền thống - hiện đại trong điểm nhìn nghệ thuật của truyện giả cổ tích và truyện cũ viết lại thời đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 2). 104. Bùi Thanh Truyền (2001), “Ảnh hưởng thần thoại và cổ tích trong cách xây dựng nhân vật văn xuôi hôm nay”, Tạp chí Văn hóa dân gian (số 5). 105. Phạm Thái Việt (chủ biên), (2004), Đại cương về văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 106. Trần Ngọc Vương, Tục hoá quay về để tiến tới, www.vienvanhoc.org.vn. 107. Trần Quốc Vượng (chủ biên), (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 108. Nguyễn Thị Thanh Xuân, Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam, www.vienvanhoc.org.vn. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5421.pdf
Tài liệu liên quan