BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
VƯƠNG THỊ THANH HIỀN
Chuyên ngành : Lí luận văn học
Mã số : 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐOÀN TRỌNG THIỀU
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới TS. Đoàn Trọng Thiều, người đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành luận
văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy c
105 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2801 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ô giáo trong tổ Lí luận văn
học, ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, phòng Quản lí sau đại học, ban quản lí Thư viện –
trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi
học tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin được gửi lời cám ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu Trường Trung học phổ
thông Dĩ An – Bình Dương, tới gia đình và những người bạn thân thiết đã khuyến
khích, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt khoá học cũng như
trong quá trình thực hiện luận văn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 12 năm 2010.
Học viên
Vương Thị Thanh Hiền
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn hóa tồn tại song song với con người. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Là một bộ phận không thể tách rời
của văn hóa, văn học là một hình thái đặc biệt, thuộc về văn hóa tinh thần. Vì vậy, việc vận
dụng các quan điểm và thành tựu của văn hóa để nghiên cứu, lí giải văn học là một hướng tiếp
cận được vận dụng khá phổ biến hiện nay.
Nguyễn Huy Thiệp là một trong những tác giả xuất sắc, tiêu biểu của cao trào đổi mới văn
học Việt Nam từ sau năm 1986. Ông viết ở nhiều lĩnh vực như kịch, tiểu thuyết, phê bình văn
học, tiểu luận,... nhưng nhắc đến Nguyễn Huy Thiệp, trước hết phải với tư cách là một cây bút
viết truyện ngắn rất thành công. Ngay từ khi vừa xuất hiện trên văn đàn, Nguyễn Huy Thiệp đã
trở thành một “hiện tượng” văn học, có khả năng khuấy động đời sống văn học vốn đang khá
yên ắng ở nước ta sau năm 1975. Không những thế, văn của Nguyễn Huy Thiệp như có “ma
lực” thu hút rất nhiều độc giả với những ý kiến đánh giá, phê bình rất khác nhau, có ý kiến ca
ngợi nức lời nhưng cũng có không ít ý kiến bài bác thẳng thừng. Tuy nhiên, sau hơn hai mươi
năm kể từ ngày ra mắt độc giả, Nguyễn Huy Thiệp đã dần khẳng định được vị trí của mình trên
văn đàn. Những ý kiến đánh giá về truyện ngắn của ông đã phần nào ổn định. Quả thật, Nguyễn
Huy Thiệp đang có một vị trí vinh dự trong dòng chảy cuồn cuộn không ngừng của biển cả văn
học Việt Nam.
Đến nay đã có khá nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp. Trong quá trình thu thập và tìm hiểu một số tài liệu ấy, chúng tôi nhận thấy đa phần các
ý kiến tập trung đánh giá, khẳng định những đóng góp mới mẻ của ông trên phương diện nội
dung tư tưởng và hình thức biểu hiện trong tác phẩm. Tuy nhiên theo chúng tôi, một trong
những đặc điểm tạo nên sức hấp dẫn thẩm mĩ cho văn Nguyễn Huy Thiệp chính là yếu tố văn
hóa dân gian trong truyện ngắn của ông. Qua tìm hiểu bước đầu, chúng tôi thấy đặc điểm này
cũng đã có những bài viết đề cập đến song mới chỉ trong những hiện tượng đơn lẻ, chưa thành
một hệ thống trọn vẹn.
Đó cũng là lí do thôi thúc chúng tôi chọn đề tài: Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.
2. Lịch sử vấn đề
Đầu năm 1987, tập truyện ngắn đầu tay Những truyện kể bất tận của thung lũng Hua
Tát của Nguyễn Huy Thiệp được khởi đăng trên báo Văn nghệ, nhưng chưa tạo được tiếng
vang. Phải đến tháng 6 năm ấy, với sự xuất hiện của truyện ngắn Tướng về hưu, dư luận mới
bắt đầu có những đánh giá luận bàn sôi nổi. Đặc biệt không lâu sau đó, bộ ba truyện ngắn “lịch
sử giả” (chữ dùng của Đặng Anh Đào): Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết ra mắt độc giả đã
thực sự tạo nên bầu không khí phê bình tranh luận văn học với nhiều ý kiến đối lập gay gắt, cực
đoan hơn cả so các cuộc tranh luận văn học từ sau năm 1975. Nhà phê bình Phạm Xuân
Nguyên quả quyết: “Tôi dám chắc chưa có nhà văn nào vừa xuất hiện đã gây được dư luận,
càng viết dư luận càng mạnh” khiến cho “văn đàn đổi mới đã khởi sắc, bỗng khởi sắc hẳn”
[59, tr.6] như Nguyễn Huy Thiệp. Trong những cuộc tranh luận văn học ấy, người khen nhiều
mà người chê cũng không ít. Nhìn chung các ý kiến tạo nên hai xu hướng chính: khẳng định và
phủ định, trong đó xu hướng khẳng định giữ vai trò chủ đạo. Các bài viết này được giới thiệu
trên các tạp chí nghiên cứu văn học khoảng những năm cuối thập niên 80 của thế kỉ trước, hiện
nay đã được nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên sưu tầm khá đầy đủ trong cuốn Đi tìm
Nguyễn Huy Thiệp, và một số bài viết được đăng tải trên các trang mạng Internet khoảng mười
năm trở lại đây.
Xoay quanh vấn đề về Nguyễn Huy Thiệp và các sáng tác của ông, chủ yếu tập trung ở
mảng truyện ngắn, đến nay đã có nhiều bài nghiên cứu phê bình của các tác giả như: Hoàng
Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Đặng Anh Đào, Lê Đình Kỵ, Philimonova, Phạm Xuân Nguyên,
Nguyễn Đăng Điệp,…Mỗi bài viết là một cách nhìn, một quan điểm, một suy nghĩ và một cảm
nhận riêng. Trong giới hạn nhất định, người viết tập trung vào các ý kiến nổi bật trong bài viết có
liên quan đến mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã chọn.
Trước hết, tiêu biểu cho những nhận xét cho rằng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có sự
ảnh hưởng sâu sắc, đậm đà các yếu tố văn hóa dân gian, đặc biệt là từ cảm hứng huyền thoại,
truyền thuyết là ý kiến đánh giá của nhà nghiên cứu văn học Philimonova. Nhà nghiên cứu
người Nga này rất hứng thú khi nghiên cứu chất dân gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp. Trong bài viết “Những ngọn gió Hua Tát” của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu của
các truyền thuyết văn học, Philimonova đã có những nhận xét mang ý nghĩa khái quát: “Yếu tố
dân gian chiếm một vị trí to lớn trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp […]. Ngay lần đọc đầu
tiên các tác phẩm của anh, đó thường là truyện ngắn, có một điểm khiến chúng ta chú ý ngay là
việc anh rất hay sử dụng các tư liệu dân gian. Hầu như trong mỗi truyện ngắn của anh đều
hiện diện vết tích của các huyền thoại, truyền thuyết, dân ca, tục ngữ” [59, tr.59]. Do đó có thể
nói rằng: “Yếu tố dân gian trong các tác phẩm của anh là một đề tài độc lập rộng lớn” [59,
tr.59-60]. Tuy nhiên trong bài viết này, Philimonova chỉ mới tập trung nghiên cứu sự ảnh
hưởng của truyền thuyết trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát. Tác giả cho rằng những
câu chuyện nhỏ trong Những ngọn gió Hua Tát là những “truyền thuyết văn học; một mặt,
chúng lưu giữ được những đặc điểm thể loại của các truyền thuyết dân gian, mặt khác, chúng
có sự xử lí văn học rõ ràng của tác giả” [59, tr.61].
Trong bài viết Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp, nhà phê bình Nguyễn Đăng
Điệp nhận xét: Nguyễn Huy Thiệp đã “vận dụng rất khéo các yếu tố folklore vào văn học”. Tác
giả bài viết nhận thấy rằng để phản ánh chiều sâu của hiện thực, Nguyễn Huy Thiệp “luôn luôn
lật ngược vấn đề, thoát ra ngoài những chuẩn mực thông thường và xác định giá trị nhân thế
bằng những tưởng tượng phong phú ken dày các huyền thoại, các biểu tượng, các yếu tố dân
gian” [20].
Cùng với các ý kiến trên, Văn Tâm cũng đưa ra nhận định rằng một trong những nét
phong cách đặc thù nhất của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là cảm hứng huyền thoại mạnh:
“sương mù huyền thoại bao phủ hầu hết những trang sách Nguyễn Huy Thiệp, không những
bao phủ dày đặc trong hai loại truyện huyền thoại (Con gái thủy thần) và cổ tích (Những
ngọn gió Hua Tát) mà còn bập bềnh mờ mịt giữa khá nhiều dòng truyện lịch sử (Kiếm sắc,
Phẩm tiết) và thế sự (Chảy đi sông ơi)” [59, tr.288].
Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào cũng khẳng định cảm hứng huyền thoại thể hiện rõ trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt là khi nhà văn này xây dựng các nhân vật ngốc
nghếch, mồ côi,…rất gần với nhân vật trong cổ tích và “đó là điểm gần gụi của truyện Nguyễn
Huy Thiệp với cổ tích và một số truyện phổ cập ở dân gian” [59, tr.389]. Cảm hứng ấy một
phần “nằm trong dòng chảy ngầm của tinh thần phạm thượng bắt nguồn từ dân gian. Những kẻ
dị dạng này nhiều khi làm nên điểm sáng nhân hậu, trí tuệ anh minh của câu chuyện” [59,
tr.391]. Song bên cạnh đó, tác giả bài viết Biển không có thủy thần lại thừa nhận ở các nhân
vật kể trên luôn ẩn chứa một “nghịch lí phản cổ tích” [59, tr.390], đó là điểm sáng tạo mới mẻ
trong nhiều thiên truyện của Nguyễn Huy Thiệp.
Cùng với quan điểm của Đặng Anh Đào, trong bài viết Ảnh hưởng thần thoại và cổ tích
trong cách xây dựng nhân vật văn xuôi hôm nay, Bùi Thanh Truyền nêu vấn đề: “Xây dựng
nhân vật thần thoại, cổ tích, hầu hết các cây bút văn xuôi hôm nay đều lồng vào đó thế giới
quan mới mẻ, cái nhìn ‘lạ hóa” của người hiện đai. Vì thế có thể xem đây là những truyện cổ
tích, thần thoại đời mới” [104, tr.45]. Để làm rõ nhận định, tác giả bài viết đã đi sâu tìm hiểu
nhân vật Trương Chi trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp. Từ đó, Bùi Thanh
Truyền khẳng định: lấy cảm hứng từ nhân vật trong cổ tích dân gian nhưng Nguyễn Huy Thiệp
không có cái nhìn nhất phiến về giai thoại cổ. Cho nên “nếu bi kịch của Trương Chi “bốn ngàn
năm trước” là bi kịch tình yêu xuất phát từ sự mâu thuẫn giữa tài năng thiên phú và nhân diện
xấu xí thì bi kịch của chàng Trương bốn ngàn năm sau chủ yếu là xung đột giữa hoàn cảnh xã
hội và thân phận con sâu cái kiến của kiếp người” [104, tr.46].
Bài viết Đối thoại với văn học dân gian và bản lĩnh của người viết của Lê Đình Kỵ
cũng đi sâu vào nghiên cứu sự sáng tạo trên cơ sở kế thừa tiếp nối truyện cổ dân gian trong
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhất là về phương diện xây dựng nhân vật. Trong truyện
Trương Chi, Lê Đình Kỵ đánh giá Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp “không còn là một
Trương Chi cam chịu, âm thầm nhận lấy số phận của mình” [44, tr.30]. Mặc dầu vậy: “Dù là
Trương Chi truyền thống hay Trương Chi “hiện đại” thì đó cũng đều là lời nhắn gởi, là tiếng
kêu khắc khoải sao cho nghệ thuật, cho tiếng hát và tình yêu không bị cách lìa, mà được hòa
giải, hòa diệu vào nhau” [44, tr.31].
Bàn về thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhiều nhà nghiên
cứu nhận thấy những nhân vật này thường toát lên vẻ đẹp trong trẻo, hồn hậu, mang vẻ đẹp mẫu
tính vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến tỏ ra là người có
những phát hiện trước nhất và mới mẻ hơn cả. Trong bài viết Tôi không chúc bạn thuận buồm
xuôi gió, Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: “Những người đàn ông trong tập truyện của Nguyễn Huy
Thiệp hầu hết là đốn mạt, chí ít là những kẻ bất đắc chí, vô tích sự, nói chung là không ra gì.
Ngược lại, trong các nhân vật nữ có những con người ưu tú, nhiều người đáng gọi là liệt nữ.
Nó là sự hiện thân của nguyên tắc tư tưởng tạo ra cảm hứng chủ đạo của tác giả, có thể gọi đó
là nguyên tắc tính nữ hay thiên tính nữ” [59, tr.15-16]. Theo nhà nghiên cứu này thì “thiên tính
nữ” trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “trước hết là tinh thần của cái đẹp và tất
cả những nhân vật này đều đẹp, mỗi người một vẻ” [59, tr.16], không chỉ thế nó còn là “tinh
thần vị tha và đức tính hi sinh” [59, tr.17]. Vẻ đẹp ấy tỏa ra ánh sáng dịu dàng, huyền diệu,
lung linh trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Thiên tính nữ là điểm tựa quan trọng của tác
giả. Thiếu nó, văn ông sẽ mất đi chiều sâu và chất trữ tình.
Cũng cùng với quan điểm trên là ý kiến đánh giá sắc sảo của nhà nghiên cứu Văn Tâm:
Nguyễn Huy Thiệp viết nhiều về cái xấu xa, cái ác nhưng “cảm hứng tích cực, tinh thần nhân
bản… cũng bất giác được mã hóa qua một hiện tượng nổi bật: tuyệt đại đa số những nhân vật
nữ đều có phẩm chất ưu mĩ tuyệt vời” [59, tr.301–302). Qủa thực, trong truyện của Nguyễn
Huy Thiệp, nhà văn luôn dành giọng điệu ngợi ca vẻ đẹp nữ tính của những nhân vật nữ.
Những nhận xét, đánh giá trên phần nào đã cho ta thấy các nhà nghiên cứu có những phát
hiện, khẳng định yếu tố trọng âm, trọng nữ trong tín ngưỡng của người Việt trong nghệ thuật
xây dựng nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, các đánh giá này chỉ
nêu vấn đề có tính chất gợi mở chứ chưa minh định cụ thể trên cả bề rộng lẫn bề sâu.
Bàn về chất thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp, trong bài viết có nhan đề Thơ trong văn
Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Philimonova cho rằng một trong những đặc điểm nổi bật
của văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp là việc thường xuyên sử dụng thơ. Đặc biệt hơn hết là trong
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thường xuất hiện các đoạn kể bằng văn vần là các bài ca
dao, đồng dao xen kẽ lời kể bằng văn xuôi. Philimonova lí giải sở dĩ có hiện tượng này là do
Nguyễn Huy Thiệp “chịu ảnh hưởng văn xuôi cổ điển vùng Viễn Đông” và việc vận dụng thủ
pháp cũ này khiến văn ông trở nên “rất đặc biệt, rất dễ nhận ra” [59, tr.168]. Nguyễn Vy
Khanh cũng có cùng ý kiến trên khi cho rằng: “Nhờ thể huyền thoại, Nguyễn Huy Thiệp có
những đoạn truyện như là thơ, một thứ thơ dân gian, xa chốn văn minh giả tạo và dối trá” [59,
tr. 380].
Bùi Việt Thắng nhận xét: “Nguyễn Huy Thiệp đã đưa vào truyện ngắn các hình thức
khác như đồng dao (Huyền thoại phố phường), hát dỗ em (Những người thợ xẻ), thơ dịch
(Nguyễn Thị Lộ), thơ trữ tình (Những bài học nông thôn), chuyện thơ (Thương nhớ đồng quê)”.
Từ đó, nhà nghiên cứu cho rằng: “việc đưa thơ vào truyện ngắn làm cho “sự kể chuyện” thêm
linh hoạt, phong phú” [75, tr.386] này vốn đã có truyền thống trong văn học. Thành công của
nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là sự vận dụng, kế thừa văn học truyền thống, từ đó có những cách
tân, sáng tạo nhưng vẫn không xa rời với truyền thống.
Về nét mới trong cách dựng truyện, nhà thơ Diệp Minh Tuyền đánh giá: Nguyễn Huy
Thiệp đã “kết hợp giữa hiện thực và huyền thoại” […]. Rõ ràng ở đây ta thấy dấu ấn của văn
học hiện đại châu Mỹ la – tinh. Nhưng sự tiếp thu này ở Nguyễn Huy Thiệp không sống sượng
bởi nhờ trước đó anh đã vốn có lối tư duy huyền thoại thuần thục biểu hiện trong chùm truyện
Những ngọn gió Hua Tát”, [59, tr.399]. Chính sự kết hợp này đã khiến cho văn ông vừa mới
mẻ, hiện đại lại vừa gần gũi bởi chúng được bắt nguồn từ bề sâu truyền thống thẩm mĩ của
người đọc Việt Nam.
Về cách kể chuyện của Nguyễn Huy Thiệp, Đoàn Hương ví von ông là “Người kể
chuyện cổ tích hiện đại”. Đoàn Hương nhận định truyện của Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn độc
giả chính là ở “cái cách kể chuyện đơn giản bằng chính ngôn ngữ của nhân dân là một thi pháp
đã có từ trong truyền thống như đã từng có trong truyện cổ tích Việt Nam” [33, tr.621].
Cũng theo nhà nghiên cứu Đoàn Hương, dấu ấn của truyện cổ dân gian trong sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp còn biểu hiện rõ qua cách thức mở đầu và kết thúc truyện. Đoàn Hương
nhận thấy rằng nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “vốn ưa cấu trúc một cốt truyện đơn giản như
chẳng có gì”. Bởi thế mà truyện của ông có những “cái kết thúc đẹp đẽ mang tính biểu tượng
của một kết thúc có hậu của truyện cổ tích” [33, tr.622].
Còn theo Nguyễn Vy Khanh thì chính bởi một số truyện của Nguyễn Huy Thiệp sáng tạo
từ thể huyền thoại dân gian nên nhà văn hay “úp mở, gợi tưởng tượng. Hay không thật sự kết
thúc, vì không có kết; hay kết cũng huyền hoặc như dẫn đưa của đầu và thân truyện” [59,
tr.386]. Từ đó, tác giả đi đến nhận xét truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường có những đoạn
kết rất đặc biệt, tạo được sự hấp dẫn riêng.
Bằng nhãn quan tinh tế và tấm lòng trân trọng, thấu hiểu tài năng của Nguyễn Huy
Thiệp, Hoàng Ngọc Hiến đã có nhận xét rất sâu sắc: “Dẫu kể chuyện cổ tích, Nguyễn Huy
Thiệp trước sau viết về cuộc sống ngày hôm nay. Và tác giả đã nhìn thẳng vào sự thật của đời
sống thực tại. Tác giả đã không ngần ngại nêu lên những sự bê tha, nhếch nhác trong cuộc
sống, kể cả những sự thật rùng rợn, khủng khiếp” [59, tr.9-10].
Đoàn Hương cũng cho rằng một số truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có thể gọi truyện cổ
tích hiện đại vì cái chất “hiện đại” của nó. Nhưng, nhà nghiên cứu này khẳng định: “nó vẫn là
cổ tích vì cái đẹp nhân bản của nó” [33, tr.626].
Nhà nghiên cứu văn học người Úc, Greg Lockhart, lí giải lí do vì sao ông đã chọn dịch
tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp sang tiếng Anh. Ông ca ngợi: tác phẩm của Nguyễn Huy
Thiệp là “một đóng góp quan trọng cho văn học Việt Nam” và cũng là “đóng góp cho văn học
thế giới hiện đại” vì tính chất nhân bản mà nhà văn nêu lên trong truyện là vấn đề lớn mang tầm
nhân loại [59, tr.110-111].
Mở rộng hơn, một số nhà nghiên cứu còn nhận thấy dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại
trong những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả La Khắc Hòa khẳng định rằng
có thể tìm thấy trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp những câu chuyện thể hiện tâm trạng và
cảm quan hậu hiện đại. Xuyên suốt toàn bộ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là “câu chuyện về
một thế giới vô nghĩa, vô hồn”. Đọc truyện ngắn của ông, ta thấy “có những dấu hiệu về một
cuộc chia tay với nguyên tắc dụ ngôn cùng với những vị ngữ bất biến, quen thuộc của nó […].
Khi sự hồ nghi tồn tại đã thấm sâu vào cảm quan nghệ thuật, chắc chắn nhà văn sẽ tìm đến
nguyên tắc lạ hoá làm nền tảng cấu trúc hình tượng”. Tuy nhiên, dù đổi mới sáng tạo đến đâu
đi nữa thì “loại hình tư duy ấy gắn với những nguyên tắc kiến tạo hình tượng, tổ chức văn bản
của đồng dao, câu đố có nguồn cội từ thời tiền văn học, trong sáng tác dân gian” [29]. Thêm
vào đó, La Khắc Hòa còn nhận xét rất xác đáng rằng sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại
trong văn học Việt Nam nói chung, trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp nói riêng “chắc chắn
không phải là hiện tượng vay mượn, ngoại nhập”, mà do những điều kiện lịch sử, xã hội trong
vòng 30 năm nay đã làm nảy sinh tâm trạng, cảm quan và loại hình văn hoá hậu hiện đại trong
văn học Việt Nam.
Như vậy, theo các nhà nghiên cứu, mặc dù là nhà văn luôn có những cách tân táo bạo
trong nghệ thuật xây dựng truyện ngắn trong giai đoạn văn học thời Đổi mới, nhưng sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp vẫn bắt nguồn từ truyền thống văn hóa - văn học dân gian đa dạng và
phong phú của dân tộc.
Tóm lại, từ trước đến nay, vấn đề về: Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và yếu tố văn hóa
dân gian trong truyện ngắn của nhà văn vẫn luôn là vấn đề lý thú, không ngừng thu hút được
sự quan tâm, tìm hiểu của đông đảo học giả, các nhà nghiên cứu, các giới phê bình văn học, độc
giả trong và ngoài nước. Các bài nghiên cứu, phê bình mà chúng tôi có điều kiện tìm hiểu ở trên
phần nào đã phân tích, đánh giá, khẳng định sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong truyện
ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và có tính chất gợi mở cho người viết tìm hiểu sâu hơn về
vấn đề này. Tuy nhiên, do tính chất về đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu khác nhau
nên sự quan tâm ở những bài viết trên mới chỉ dừng lại ở đôi lời nhận xét, nhận định khái quát;
hoặc thu hẹp khi khảo sát trong một vài tác phẩm cụ thể hoặc khái quát khi tiến hành khảo sát
trên toàn bộ sáng tác của nhà văn dưới góc nhìn phong cách học. Vì thế như một lẽ tất yếu, các
bài viết chưa có điều kiện tập trung một cách sâu sắc và toàn diện về sự ảnh hưởng của văn hóa
dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua luận văn này, người viết sẽ cố gắng đưa
đến một cách hiểu, một cách nhìn nhận, đánh giá mang tính hệ thống và đầy đủ hơn về sự ảnh
hưởng này trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.
3. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn ở đề tài nghiên cứu, luận văn sẽ tiến hành khảo sát, nghiên cứu toàn bộ truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp, bao gồm 42 truyện. Người viết sử dụng văn bản sau để tiến hành
nghiên cứu:
Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn và hiệu
đính, Nxb Văn hoá Sài Gòn.
Về ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nhiều vấn
đề cần nghiên cứu. Tuy nhiên trong phạm vi điều kiện cho phép, luận văn chỉ đi vào khảo sát,
phân tích, nhận định một số yếu tố của văn hóa dân gian như văn học dân gian, tín ngưỡng dân
gian, ngôn ngữ dân gian ảnh hưởng đến việc xây dựng cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ, giọng
điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Người viết rất hi vọng kết quả mà luận văn gặt hái được có thể là những đóng góp hữu ích
như sau:
- Góp phần khảo sát và lí giải một cách có hệ thống, khách quan, mới mẻ về sự ảnh hưởng
của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua đó góp phần khẳng định
cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa dân gian là một trong những hướng nghiên cứu cần
thiết trong nghiên cứu văn học hiện nay.
- Luận văn này cũng có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về
tác giả Nguyễn Huy Thiệp nói riêng, và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, chúng tôi đã vận dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
5.1. Phương pháp văn hóa học:
Người viết sử dụng phương pháp này khi nghiên cứu luận văn nhằm vận dụng các quan
điểm và thành tựu văn hóa nói chung, đặc biệt là văn hóa dân gian để tìm hiểu, lí giải truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên một số phương diện như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng
điệu.
5.2. Phương pháp hệ thống:
Người viết sử dụng phương pháp này nhằm xem xét các yếu tố văn hóa dân gian biểu
hiện qua nội dung và nghệ thuật làm nên diện mạo chung cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
trên tinh thần hệ thống. Từ đó phân tích sự kế thừa, sáng tạo các yếu tố ấy tạo nên sức hấp dẫn
thẩm mĩ trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
5.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp:
Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết tiếp cận và khảo sát trực tiếp văn bản, từ
đó phân tích để đưa ra những luận điểm tổng hợp, khái quát của luận văn về sự ảnh hưởng của
văn hóa dân gian trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trên các phương diện như cốt
truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu.
Những phương pháp nghiên cứu này sẽ được người viết vận dụng một cách linh hoạt
trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, để có cái nhìn toàn diện, khách quan khi đánh giá vấn đề,
người viết còn sử dụng phối hợp các phương pháp khác như: phương pháp so sánh, đối chiếu,
phương pháp thống kê,…với chừng mực nhất định mà mục đích cuối cùng là làm rõ sự ảnh
hưởng của văn hóa dân gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn bao gồm 138 trang. Ngoài phần Mở đầu (12 trang), phần Kết luận (4 trang),
phần Nội dung của luận văn (122 trang) được tổ chức thành ba chương:
Chương 1: Những tiền đề lí luận và thực tiễn
Chương 2: Cốt truyện và nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Chương 1
NHỮNG TIỀN ĐỀ LÍ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết
Trước khi đi sâu tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết làm tiền
đề lí luận cho việc nghiên cứu đề tài của luận văn, chúng ta cần tìm hiểu hai khái niệm văn hóa
và văn hóa dân gian .
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sự kết tinh những quan hệ tốt đẹp nhất giữa
người với người, với xã hội và với tự nhiên. Văn hóa là cái phân biệt con người với động vật, là
đặc trưng của xã hội loài người nhưng không phải do sự kế thừa về mặt sinh học mà có được
nhờ học tập, tích lũy. Nói một cách dễ hiểu nhất: văn hóa là tất cả những gì do con người sáng
tạo ra (khu biệt với cái tự nhiên) trong quá trình ứng xử với tự nhiên và xã hội.
Thuật ngữ văn hóa xuất hiện từ rất sớm. Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, theo nhà
nghiên cứu Trần Quốc Vượng: ở phương Đông, từ văn hóa đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất
sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và hóa: Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa
thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ). Người sử dụng từ văn hóa sớm nhất có lẽ là
Lưu Hướng (năm 77-6 TCN) với nghĩa như một phương thức giáo hóa con người “văn trị giáo
hóa” [107, tr.17-18]. 6
Ở phương Tây, vào thế kỉ thứ III – TCN, người La Mã được ghi nhận là người đầu tiên
nói đến thuật ngữ văn hóa. Họ dùng từ “cultura” đồng nghĩa với “văn chương” hay “nhân văn”.
Người La Mã sử dụng từ cultura và cultus để chỉ việc gieo trồng, animi cultura hoặc cultus
nghĩa là gieo trồng tinh thần. Trên cơ sở đó, nhà hùng biện lỗi lạc người La Mã, Siserô Markơt
Tuliut (106-43 TCN) đã định nghĩa “Triết học là sự gieo trồng tinh thần”. Vậy theo người La
Mã, cultus là văn hóa với hai khía cạnh: trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và
giáo dục, đào tạo một cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên, có phẩm chất
tốt đẹp.
Ở Việt Nam, từ văn hóa được hiểu: văn là tốt đẹp, hóa là biến cải. Văn hóa là biến cải để
trở thành tốt đẹp. Văn hóa thường được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối sống;
theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn; còn theo nghĩa rộng thì văn
hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập
quán,…
Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra, có từ thuở bình minh của xã hội loài
người nhưng phải đến những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, việc nghiên cứu về văn hóa
mới được tiến hành một cách nghiêm túc và nhanh chóng thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu. Từ năm 1952, hai nhà văn hóa học Hoa Kì là A. Kroeber và C. Kluckholn đã thống
kê được 150 định nghĩa, khái niệm khác nhau về văn hóa. Con số đó hiện nay đã tăng lên
khoảng trên 300 định nghĩa [105, tr.11]. Qua đó, ta thấy quan niệm thế nào là văn hóa không
phải là một vấn đề đơn giản và có thể giải quyết một cách rốt ráo.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm văn hóa, do đó có nhiều định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Liên quan đến phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi chỉ có điều kiện
nêu ra một số định nghĩa sau:
- Nhà nhân học văn hóa người Anh E. B. Taylor (1832-1917) là người đầu tiên đưa ra
một quan niệm khá hoàn chỉnh về văn hóa. Trong công trình Primitive culture (Văn hóa
nguyên thủy), ông viết: văn hóa là “một tổng thể phức hợp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục, và tất cả những khả năng và thói quen mà con người
đạt được với tư cách là một thành viên trong xã hội” [9, tr.251].
- Trần Quốc Vượng quan niệm: “Văn hóa…là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người
[…] để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối
với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với hệ thống
những chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm…tạo nên phong cách
diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người” [107, tr.35-36]
- Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [85, tr. 25].
- Cũng cùng với ý kiến trên của Trần Ngọc Thêm, nhưng Phùng Qúi Nhâm chú ý nhấn
mạnh thêm tính dân tộc của văn hóa: “Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử và mang đậm bản sắc dân tộc” [65, tr. 249].
Trong quá trình tìm hiểu các khái niệm về văn hóa, chúng tôi nhận thấy quan niệm chính
thức về văn hóa của Liên hợp quốc (Unesco) đưa ra từ năm 1982, trong Hội nghị quốc tế do
Unesco chủ trì diễn ra tại Mexico, là khá bao quát: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể
những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã
hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những
lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và
những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét bản thân. Chính văn hóa
làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn
thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự
biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân,
tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên
bản thân” [107, tr.23-24). Từ quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu văn hóa không phải là lĩnh
vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra. Văn hóa chính là nền tảng cho sự phát triển của xã hội loài người.
Văn hóa là hiện tượng bao trùm mọi phương diện của đời sống con người, vì thế bất kì
khái niệm nào cũng không thể bao quát đầy đủ nội dung của nó. Cũng bởi vậy mà số lượng các
khái niệm về văn hóa mỗi ngày một nhiều song vẫn chưa phải là đáp án cuối cùng. Mỗi khái
niệm chỉ có thể thâu tóm một vài phương diện nào đó của văn hóa. Sự phong phú của các khái
niệm về văn hóa phản ánh những hướng quan tâm khác nhau. Vì vậy, theo nhà nghiên cứu Chu
Xuân Diên, từ nhiều khái niệm khác nhau có thể nêu lên bốn nét nghĩa chủ yếu, cơ bản sau:
“* Văn hóa là một hoạt động sáng tạo chỉ riêng con người mới có.
* Hoạt động sáng tạo đó bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống con người:
đời sống vật chất, đời sống xã hội, đời sống tinh thần.
* Thành tựu của những hoạt động sáng tạo ấy là các giá trị văn hóa; các giá trị văn hóa
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng con đường giáo dục.
* Văn hóa mỗi cộng đồng người có những đặc tính riêng hình thành trong lịch sử, phân
biệt cộng đồng người này với cộng đồng người khác” [9, tr.252].
Trong phạm vi của đề tài nghiên cứu, chúng tôi chỉ giới hạn vấn đề ở phạm vi những giá
trị văn hóa tinh thần, biểu hiện cụ thể trong bộ phận văn hóa dân gian với những thành tố đặc
trưng.
1.1.2. Khái niệm văn hóa dân gian
Văn hóa dân gian là cội nguồn của mọi nền văn hóa trên thế giới. Ở Việt Nam, văn hóa
dân gian là cơ sở rất quan trọng của văn hóa dân tộc, chi phối đời sống trên mọi phương diện.
Do vậy không thể hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, tri thức và tình cảm con người Việt Nam nếu
như không hiểu văn hóa dân gian.
Thuật ngữ dân gian hiểu theo nghĩa chiết tự Hán Việt: gian nghĩa là khoảng, khu vực
rộng lớn, vùng; dân gian là trong khu vực, trong vùng của dân. Vậy, văn hóa dân gian là sáng
tạo của dân, từ dân mà ra và phục vụ cho cuộc sống của dân. Văn hóa dân gian được thể hiện ở ._.
mọi lĩnh vực, mọi không gian, mọi thời điểm.
Để chỉ hiện tượng mà tiếng Việt gọi là văn hóa dân gian thì hiện nay trên thế giới và cả
Việt Nam, thuật ngữ folklore (gốc tiếng Anh : folk là nhân dân, lore là trí tuệ, tri thức) được sử
dụng rất phổ biến. Thuật ngữ này do William J.Thoms nêu ra trong tạp chí The Athemneum,
London năm 1846. Dần dần được các nhà văn hóa chấp nhận và sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay.
Ở nhiều nước phương Tây, khái niệm folklore được hiểu rất rộng. Từ điển bách khoa của
Anh xác định: “Folklore là tên gọi chung, thống nhất của những tín ngưỡng, truyền thống,
thiên kiến, đạo lí, nghi lễ, mê tín của dân gian. Những câu truyện cổ, những bản tình ca, dân ca
và những câu tục ngữ đều nằm trong khái niệm này…, nó bao gồm cả những yếu tố văn hóa vật
chất mà ban đầu nó không tính đến” [88, tr.20].
Ở Liên Xô, nội dung của folklore được hiểu theo hai xu hướng. Xu hướng thứ nhất hiểu
folklore với nội dung rộng theo cách hiểu của đa số học giả phương Tây, xu hướng còn lại có
xu hướng “ngữ văn hóa folklore” khi cho rằng về cơ bản folklore là “nghệ thuật ngôn từ”, là
sáng tác thơ ca truyền miệng của đông đảo quần chúng. Theo họ, có thể đồng nhất folklore với
văn học truyền miệng. Tiêu biểu là những ý kiến của các nhà folklore sau:
- Xocolov Iu.M.: “Folklore trước hết là sáng tác nghệ thuật thi ca truyền miệng của
quần chúng”, hay “Folklore – phần lớn là thơ ca truyền miệng” [88, tr.85]
- Andreev N.P. : “Dưới tên gọi folklore, chúng ta có thể gọi phần lớn các tác phẩm nghệ
thuật ngôn ngữ đã được phổ biến bằng truyền miệng” [88, tr.85].
- Kravtxov N.I. : “Khoa học Xô Viết hiểu thuật ngữ “folklore” không phải là biểu thị
toàn bộ nền nghệ thuật dân gian mà chỉ là văn học dân gian truyền miệng” [88, tr.93]
Trong những thập niên gần đây ngày càng có nhiều người vượt qua được quan niệm bó
hẹp folklore trong nghệ thuật ngôn từ. Họ thấy rằng folklore bao gồm những yếu tố ngôn từ,
diễn xướng, tạo hình, tín ngưỡng, phong tục,…và các yếu tố ấy gắn kết với nhau trong một
chỉnh thể nguyên hợp. Tổng bách khoa toàn thư Xô Viết xuất bản năm 1974 quan niệm rằng:
“Folklore là sáng tác dân gian, hoạt động nghệ thuật của nhân dân lao động. Đó là thơ ca, âm
nhạc, sân khấu, múa dân tộc, kiến trúc, nghệ thuật trang trí thực hành, hội họa được nhân dân
sáng tạo ra và sống trong nhân dân.” [88, tr.95].
Ở Việt Nam, thuật ngữ folklore được dùng tương đối muộn và thường được hiểu với
những nội dung rộng hẹp khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thống nhất về nội
dung khái niệm văn hóa dân gian. Nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị đã nêu nhận xét khái quát:
“Trong ba quan niệm chính thống về folklore hiện lưu hành trong folklore học thế giới thì định
nghĩa folklore là văn học dân gian, từ lâu đã đi vào sách giáo khoa ở Liên Xô và nhiều nước
khác, trong khi đó ở một số nước khác (có cả các nước xã hội chủ nghĩa) người ta vẫn thừa
nhận một cách phổ biến folklore là văn nghệ dân gian. Còn một số nước khác nữa, thuật ngữ
folklore được gắn với một ý nghĩa rất rộng – folklore là văn hóa dân gian bao gồm không chỉ
riêng nghệ thuật dân gian mà cả truyền thống dân gian” [88, tr.113-114]. Cả ba cách hiểu ấy
đều tồn tại ở folklore Việt Nam.
Đinh Gia Khánh, chuyên gia hàng đầu của folklore Việt Nam thì nêu quan niệm: văn hóa
dân gian “bao gồm văn nghệ dân gian (ngữ văn, âm nhạc, vũ đạo, hội họa, điêu khắc, nghệ
thuật trang trí,.v…v) và những hiện tượng cũng như vật phẩm mang tính chất thẩm mĩ nảy sinh
từ sản xuất và chiến đấu”. Quan niệm trên đã được tóm gọn trong công thức : “folklore là folk
culture được tiếp cận từ giác độ thẩm mĩ” [9, tr.220].
Tiếp đó, nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh đề xuất cách tiếp cận văn hóa dân gian như sau:
văn hóa dân gian “là một loại “văn hóa nghệ thuật” biểu hiện chủ yếu thông qua các các hình
tượng và các biểu tượng, thể hiện trình độ thẩm mĩ của con người ở mỗi thời kì lịch sử nhất
định. Do vậy, góc độ tiếp cận loại hình văn hóa này là góc độ tiếp cận thẩm mĩ” [88, tr.35].
Như vậy, các ý kiến này mặc dù có nới rộng hơn về đối tượng khi cho rằng văn hóa dân
gian bao gồm cả “hiện tượng”, “vật phẩm” nhưng vẫn bó hẹp ở cách tiếp cận dưới góc độ thẩm
mĩ.
Mở rộng cách hiểu về văn hóa dân gian hơn, Phạm Huy Thông cho rằng: “không phải
chỉ làn ca, những điệu múa, mà cả những lễ nghi tôn giáo, những hội hè truyền thống cũng là
những biểu hiện của văn hóa dân gian” [88, tr.119]. Đồng tình với quan niệm trên, Trần Quốc
Vượng phát biểu: folklore Việt Nam là “tổng thể mọi sáng tạo, mọi thành tựu văn hóa dân gian
ở mọi nơi, trong mọi thời và mọi thành phần dân tộc đang hiện tồn trên lãnh thổ Việt Nam”.
Ông cũng có xu hướng mở rộng thành tố của văn hóa dân gian khi cho rằng: “Sáng tạo dân
gian bao trùm mọi lĩnh vực đời sống từ đời sống làm ăn thường ngày (ăn, mặc, ở, đi lại) đến
đời sống vui chơi buông xả (thể thao dân gian, võ vật, đánh cầu, đánh phết), hát hò (hát đò
đưa, hát giã gạo, đúm, ví, xoan, ghẹo) đến đời sống tâm linh (giỗ, lễ tế, hội)” [88, tr.124].
Còn Chu Xuân Diên thì cho rằng để có thể đánh giá đầy đủ giá trị, đặc trưng của văn hóa
dân gian, chúng ta cần xác định, phân loại những thành tố cơ bản nhất của nó. Cụ thể, folklore
bao gồm những thành tố là những sáng tạo nghệ thuật có ý thức (các tác phẩm văn học dân
gian), âm nhạc và múa dân gian, hội họa dân gian,.v.v…cả những thành tố là những sản phẩm
vừa mang tính ích dụng vừa mang tính thẩm mĩ (kiếm trúc, đồ thủ công mĩ nghệ,…), và cả
những thành tố là những giá trị văn hóa không bao hàm ý nghĩa thẩm mĩ hiểu theo nghĩa đích
thực của nó (văn hóa ẩm thực, những tri thức về môi trường tự nhiên,…) [9, tr.231].
Như vậy, văn hóa dân gian theo phần đông các nhà nghiên cứu hiện nay bao gồm rất
nhiều thành tố đặc trưng, biểu hiện trong nhiều lĩnh vực và là đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học liên ngành, trong đó đặc biệt là ngành thi pháp folklore. Chúng tôi tán thành
cách hiểu mở rộng của các nhà nghiên cứu này. Trong các thành tố cơ bản của văn hóa dân gian
đã nêu ở trên, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu: ảnh hưởng của các thành tố như văn học dân
gian, tín ngưỡng dân gian, ngôn ngữ dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Cách
thức trình bày của luận văn là sẽ vận dụng một số tri thức lí luận của các thành tố văn hóa dân
gian này vào phân tích, nhận định, đánh giá truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
1.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết
Trước khi đi vào tìm hiểu mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết, chúng tôi
xin trình bày vài nét cơ bản về mối quan hệ có tính chất khái quát hơn, đó là mối quan hệ giữa
văn hóa và văn học nói chung. Bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học không phải là một
vấn đề mới, nhưng trong khoa học nói chung và khoa học văn học nói riêng, thiết nghĩ làm mới
một vấn đề cũ cũng là một đóng góp mang tính lí luận và thực tiễn.
Ở nước ta, trong quá trình vận động và phát triển, văn học luôn được đặt trong mối quan
hệ mật thiết với các hình thái xã hội khác. Văn học lúc thì được so sánh với đạo đức, khi thì
được đối chiếu với triết học, tôn giáo, chính trị,…Gần đây, các nhà nghiên cứu đã tập trung chú
ý đến mối quan hệ giữa văn hóa và văn học. Mối quan hệ này ngày càng được quan tâm hơn và
văn học thường được nghiên cứu dưới góc độ văn hóa.
Trước đây, mối quan hệ giữa văn hóa và văn học được coi là quan hệ tương hỗ, là mối
quan hệ của hai hình thái ý thức xã hội cùng thuộc thượng tầng kiến trúc, cùng phản ánh một cơ
sở hạ tầng. Vì vậy, nghiên cứu văn hóa, người ta có thể lấy tư liệu từ văn học và ngược lại.
Quan hệ này tuy nhiên chỉ là quan hệ bề ngoài, không bộc lộ bản chất của nhau. Trong những
thập niên gần đây, Unesco đã phát động những thập kỉ phát triển văn hóa. Và cùng với sự thay
đổi nhận thức của nhân loại khi cho rằng văn hóa là động lực của phát triển, quan hệ văn hóa và
văn học đã được nhìn nhận ở góc độ khác hơn. Hiện nay, các nhà nghiên cứu thiên về xu hướng
nhìn nhận văn hóa là nhân tố chi phối văn học bởi lẽ văn hóa là một tổng thể, bao gồm nhiều hệ
thống, trong đó có văn học. Văn hóa chi phối văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố,
toàn thể chi phối bộ phận. Như chúng ta đã biết, văn hóa là sản phẩm vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra. Những yếu tố nào gắn với giá trị văn hóa đều liên quan đến con người.
Sự sáng tạo của nhà văn chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố trong đó có văn hóa. Cho nên có thể
nói văn hóa chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn là một đặc điểm có tính quy luật.
Một trong những người khởi xướng cho xu hướng tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa là
giáo sư văn học người Nga, Mikhail M Bakhtin. M. Bakhtin cho rằng khoa nghiên cứu văn học
phải đặc biệt chú ý đến tầm quan trọng của “lịch sử văn hóa”, đặc biệt là nghiên cứu thời đại
văn hóa mà tác phẩm ra đời, vì văn học là một bộ phận không thể tách rời văn hóa: “Khoa
nghiên cứu văn học phải gắn bó chặt chẽ với lịch sử văn hóa. Văn học là một bộ phận không
thể tách rời của văn hóa. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch (kontest) nguyên vẹn của toàn bộ
văn hóa một thời đại trong đó nó tồn tại” [2, tr.139]. Không chỉ thế, “Tác phẩm văn học không
thể sống trong những thế kỉ tiếp, nếu nó không biết bằng cách nào đó thu hút vào mình những
gì của các thế kỉ đã qua. Nếu nó chỉ nảy sinh bằng tất cả những yếu tố của ngày nay (tức của
xã hội đương thời với nó) mà không tiếp tục quá khứ và không gắn bó với quá khứ một cách
đáng kể, nó không thể tiếp tục sống trong tương lai” [2, tr.141]. “Quá khứ” trong cách nói của
Bakhtin có thể hiểu một phần là nền văn hóa dân gian. Quả thực, từ lâu các nhà văn đã tự giác
hoặc không tự giác, trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp thu, ảnh hưởng, lí giải vấn đề này hoặc vấn đề
khác của văn hóa dân gian, đặc biệt là văn học dân gian.
Thật vậy, từ bao đời nay văn hóa dân gian đã ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực của cuộc
sống, đặc biệt là đối với văn học. Hòa mình với quy luật bất biến ấy của nhân loại, trong tiến
trình phát triển của văn học Việt Nam, quan hệ tác động, ảnh hưởng qua lại giữa văn hóa dân
gian và văn học viết diễn ra hết sức độc đáo. Đó là mối quan hệ sáng tạo, có tính quy luật và
cũng là cơ sở lí luận cốt yếu cho sự cắt nghĩa một số quá trình, hiện tượng văn học cụ thể.
Văn học Việt Nam luôn tồn tại một bộ phận văn học chịu ảnh hưởng đậm nét từ nền văn
hóa dân gian. Và như một sự ngẫu nhiên song lại rất hợp lí, trong tiến trình lịch sử văn học dân
tộc, nhà văn, nhà thơ nào chịu ảnh hưởng, tiếp thu, vận dụng chất liệu dân gian một cách nhuần
nhuyễn đều gặt hái được những thành công nhất định. Những tác phẩm của họ thường có tiếng
vang và được lưu truyền theo thời gian. Có thể kể ra đây một số tác giả tiêu biểu mà những tác
phẩm của họ đã được thời gian thẩm định. Nguyễn Trãi là người mở đầu cho những sáng văn
học bằng chữ Nôm. Là người có bút lực tinh tế, nhà thơ Nguyễn Trãi như con ong cần mẫn bay
đi khắp bốn phương để hút những nhụy hoa về làm mật. Những giọt mật vàng óng, ngọt lịm ấy
được tạo ra từ những bông hoa cội nguồn văn hóa dân gian dân tộc Việt vốn rất giàu truyền
thống thi ca, nghệ thuật. Trong Quốc âm thi tập, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những lời ăn
tiếng nói hàng ngày, những thành ngữ, tục ngữ, ca dao được tác giả vận dụng một cách nhuần
nhuyễn, tự nhiên. Đại thi hào Nguyễn Du cũng ảnh hưởng rất nhiều từ thi liệu văn học dân gian
khi sáng tác Truyện Kiều. “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương, Tú Xương,…sáng tác những
bài thơ ken dày thi liệu dân gian.
Sự ảnh hưởng, tác động ấy vẫn diễn ra sâu sắc kể cả khi văn học Việt Nam chịu ảnh
hưởng của văn hóa, văn học phương Tây, đặc biệt là văn hóa, văn học Pháp. Bên cạnh những
nhà văn, nhà thơ có những cách tân táo bạo vẫn có những tác giả chịu ảnh hưởng sâu đậm từ
nền văn hóa, văn học dân gian như Nguyễn Bính, Tố Hữu. Rõ ràng, tùy theo từng thời điểm,
mặc dù phải trải qua nhiều biến cố, nhiều sự tiếp biến văn hóa ngoại lai do những nguyên nhân
khách quan và chủ quan khác nhau thì bộ phận văn học ảnh hưởng sâu đậm từ nguồn mạch văn
hóa dân gian cho đến nay vẫn còn cuồn cuộn chảy với một sức sống mãnh liệt. Và Nguyễn Huy
Thiệp là một trong những nhà văn đã kế thừa, tiếp nối xuất sắc truyền thống văn học đó.
Như trên đã trình bày thì mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết là mối quan
hệ mang tính chất quy luật, rộng khắp. Tuy nhiên đó không phải chỉ là mối quan hệ một chiều.
Văn học là một thành tố quan trọng của văn hoá , vừa chịu sự tác động của văn hóa, vừa tác
động đến sự phát triển của văn hoá dân tộc. Với tư cách chủ thể tiếp nhận văn hoá đồng thời là
chủ thể sáng tạo, nhà văn chính là người lưu giữ qua văn chương mình những đặc trưng của văn
hoá dân tộc.
Trong bài viết Văn hóa – ngọn nguồn của văn học, nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Sĩ Vịnh
đã nhận định rằng: văn hóa dân gian là ngọn nguồn của tiến trình lịch sử văn học,“là bầu sữa
nuôi dưỡng nhiều tài năng văn học”[29, tr.220]. Song mối quan hệ ấy không diễn ra một chiều
mà văn học luôn có “sự tác động trở lại của văn học đối với văn hóa” [29, tr.224].
Như chúng ta đã biết, văn hóa là một tổng thể, chi phối văn học với tư cách là hệ thống
chi phối yếu tố. Đây là quan hệ bất khả kháng, tự thân nó, là chuyện hiển nhiên. Tuy nhiên, văn
học so với các yếu tố khác trong văn hóa là một yếu tố mạnh và năng động. Văn học là sản
phẩm sáng tạo của chủ quan của nhà văn. Văn học sử dụng ngôn từ, một phương tiện giao tiếp
có tính phổ quát nên có sự ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng nhân dân.
Văn học không chỉ sáng tạo những giá trị mới cho bản thân nó mà còn cho cả hệ thống.
Hơn thế, văn học có vai trò sáng tạo văn hóa. Trong một bài viết có nhan đề Văn học góp phần
tạo nên những giá trị văn hóa hàng đầu của dân tộc, nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh đã nói
rằng: “một trong những đóng góp quan trọng nhất của văn học đối với đời sống xã hội là góp
phần tạo nên những giá trị văn hóa của dân tộc” [39]. Đồng thời qua văn học, những phạm trù
có giá trị của văn hóa được bảo lưu và phát triển.
Còn trong bài Vai trò sáng tạo văn hóa của văn học, theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử,
vai trò sáng tạo ấy thể hiện rõ nhất trên bốn phương diện: 1/ Lấy việc sáng tạo, biểu hiện con
người làm đối tượng trung tâm, văn học trước hết phát huy vai trò sáng tạo những mô hình nhân
cách; 2/ Văn học có vai trò “phê phán văn hóa”. Văn học có vẻ thích “nói ngược” nhưng chính
nó giữ vai trò điều chỉnh văn hóa, có thể nhận ra cái cũ, cái thái quá, cái bất cập; 3/ Văn học có
vai trò lựa chọn văn hóa. Văn học cung cấp một sự lựa chọn văn hóa từ phía đời sống từ nhu
cầu làm giàu đời sống tâm hồn và trí tuệ, chứ không phải từ lập trường chính trị cho nên rất gần
gũi và thiết thực đối với con người; 4/ Văn học có vai trò sáng tạo văn hóa. Văn học là bộ phận
quan trọng của văn hóa, sự giàu có của nó về nội dung và hình thức trực tiếp làm giàu cho văn
hóa. [76, tr.891-892-893-894].
Quả vậy, thực tế đời sống văn hóa, văn học đã minh chứng rằng nhiều sáng tác của các
nhà văn đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn hóa dân gian. Các tác phẩm này đều hướng tới xây
dựng những mô hình nhân cách văn hóa trọn vẹn, từ đó tác động tích cực đến đời sống văn hóa
của xã hội. Trong văn học quá khứ, một số sáng tác là sản phẩm của văn học thành văn thuộc
bộ phận văn hóa bác học, nhưng sự lưu truyền lại không chỉ trong tầng lớp quí tộc, những
người có học thức mà có một số tác phẩm xuất chúng đã len lỏi đến tận thửa ruộng, luống cày,
ăn sâu vào từng tâm hồn những người nông dân. Để rồi không biết từ bao giờ nó trở thành món
ăn tinh thần không thể thiếu của quần chúng nhân dân. Tiêu biểu cho hiện tượng “dân gian hóa”
vừa nêu không thể không kể đến Truyện Kiều. Nguyễn Du khi sáng tác Truyện Kiều, ngoài
những tri thức bác học, ông còn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm tri thức văn hóa dân gian. Đóng
góp lớn nhất của Nguyễn Du qua Truyện Kiều là đã góp phần đưa thể thơ lục bát của dân tộc
đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Truyện Kiều còn được “dân gian hóa” thành những hiện tượng văn
hóa phổ biến như tập Kiều, bói Kiều. Đó là chưa kể đến những truyện Nôm khuyết danh như
Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa,…những tác phẩm do các nhà nho viết ra, nhưng vì
được lưu truyền quá rộng rãi trong nhân dân, nên không còn có thể phân biệt được đâu là văn
chương bình dân, đâu là văn chương bác học. Hiện tượng “dân gian hóa” ấy còn diễn ra ở nhiều
tác phẩm văn học bác học khác như tác phẩm Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu), thơ lục bát
của Tố Hữu, thơ Tú Mỡ, thơ Bút Tre.
Tóm lại, mối quan hệ ảnh hưởng giữa văn hóa với văn học nói chung, văn hóa dân gian
với văn học viết nói riêng là mối quan hệ mang tính quy luật tất yếu. Văn học chẳng những là
một bộ phận quan trọng của văn hóa, chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ văn hóa mà còn là một
trong những phương tiện tồn tại và bảo lưu văn hóa hữu hiệu nhất. Văn học vốn chịu sự chi
phối ảnh hưởng từ truyền thống văn hóa và môi trường văn hóa của dân tộc. Là thành viên của
cộng đồng văn hóa, như một hệ quả tất yếu, nhà văn tiếp nhận những giá trị văn hóa truyền
thống, những lối tư duy, những mô thức ứng xử trong cộng đồng. Vì thế, dù nhà văn viết về vấn
đề gì, dù sáng tạo đến đâu thì trong tác phẩm vẫn thể hiện tâm thái văn hóa của dân tộc mình.
Bằng không những gì nhà văn viết ra sẽ hoàn toàn xa lạ với độc giả, với chính mình. Bởi như
nhà văn Nga M. Gorki đã từng nói: “Nhà văn không bao giờ là ngẫu nhiên mà thường là tất yếu
lịch sử, anh ta là một hiện tượng nảy sinh từ sản phẩm tinh thần của dân tộc, biện giải từ yêu
cầu dân tộc để nhìn nhận cuộc sống thể hiện trong nghệ thuật…Anh ta nhiệt thành với những
khát vọng, những lí tưởng và những hình thức mới. Những khát vọng đó được hình thành và
thâm nhập vào thế giới. Bằng cách đó, mỗi tác phẩm nghệ thuật nảy sinh từ tinh thần và hi
vọng của dân tộc, của xã hội. Nhà văn sáng tạo từ tài liệu vốn có, do lịch sử đưa lại cho anh ta,
vì thế những tác phẩm sáng tạo của nhà văn là chứa đựng bản sắc dân tộc.” [65, tr.253]. Tất cả
những gì thật sự mới mẻ trong văn học nghệ thuật nếu được nảy nở trên miếng đất tốt lành của
truyền thống văn hóa thì sẽ trường tồn theo thời gian. Để từ đó, qua sự thẩm định của thời gian,
những tác phẩm ưu tú lại trở thành những biểu tượng cho văn hóa dân tộc, có tác động mạnh
mẽ đến đời sống văn hóa của dân tộc mình.
Nghiên cứu sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong sáng tác của một nhà văn cụ thể có
thể thông qua việc “đo lường” (chữ dùng của nhà nghiên cứu Hà Công Tài) ảnh hưởng cụ thể
của các thành tố văn hóa dân gian trong sáng tác của nhà văn như: những yếu tố có nguồn gốc
từ văn học dân gian như cốt truyện, nhân vật,…hiện hữu trong tác phẩm. Tuy nhiên vấn đề ở
đây không đơn thuần là việc chúng ta “đo lường” máy móc, đôi khi có phần gán ghép xem tác
phẩm của một nhà văn nào đó đã ảnh hưởng bao nhiêu phần trăm từ văn hóa dân gian, mà quan
trọng hơn là đánh giá đầy đủ tính dân gian của nó. Có như thế chúng ta mới tránh được tình
trạng nghiên cứu so sánh một cách áp đặt máy móc một số hiện tượng văn học nghệ thuật. Đó
cũng là quan điểm của chúng tôi khi tiến hành nghiên cứu đề tài luận văn này.
1.2. Quá trình tích lũy vốn sống của Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950 tại Thanh Trì, Hà Nội. Thuở nhỏ vì mưu sinh, ông
phải theo gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ,
Vĩnh Yên. Năm 1960, gia đình ông chuyển về quê, định cư ở xóm Cò, làng Khương Hạ, Hà
Nội. Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa Sử, Trường Đại học sư phạm Hà Nội và lên dạy học tại
Sơn La, một tỉnh thuộc vùng cao Tây Bắc. Mười năm sau, năm 1980, ông về lại Hà Nội,
chuyển công tác về làm việc tại công ty Sách giáo khoa thuộc Sở giáo dục Hà Nội. Hiện nay,
ông đã nghỉ hưu và sống cùng gia đình tại Hà Nội. Ngoài sáng tác văn chương, viết tiểu luận
phê bình, Nguyễn Huy Thiệp còn vẽ tranh.
Nguyễn Huy Thiệp luôn bày tỏ sự cần thiết về việc tích lũy vốn sống của một nhà văn
trước khi anh ta cầm bút và muốn có một sáng tác thực sự có giá trị. Nhà văn vẫn hằng tâm
niệm phải “có một chút muối rắc đâu đó trên từng trang viết” [89, tr.17]. Chất muối ấy là sự
kết tinh của tài năng, tâm huyết, vốn sống, sự trải nghiệm của người cầm bút trước những trang
sách cuộc đời. Ông đã dành hết tâm lực dấn thân vào sự nghiệp cầm bút, với khao khát đi tìm
điều thiện tốt đẹp nhất cho con người. Hành trình của Nguyễn Huy Thiệp vì thế đã tạo được sự
quan tâm đặc biệt của giới phê bình, độc giả trong và ngoài nước.
Gần đây, trong một lần phỏng vấn, nhà báo Lê Thị Thái Hòa đã hỏi Nguyễn Huy Thiệp:
“Từ khi nào ông bỗng nhiên muốn viết?”, Nguyễn Huy Thiệp trả lời rất thành thực: “Tôi muốn
viết từ rất sớm. Khoảng 7 đến 10 tuổi tôi đã viết những đoạn văn ngắn rồi “chôn” xuống đất
sau khi đọc những truyện của người khác viết” [92]. Thế nhưng phải đến tháng 1 năm 1987,
bạn đọc cả nước mới được biết đến một Nguyễn Huy Thiệp với tư cách là “nhà văn trẻ” qua tập
truyện ngắn đầu tay Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát được khởi đăng trên
báo Văn nghệ. Song, tác phẩm này chưa gây được tiếng vang trong dư luận. Phải đến khi
Tướng về hưu trình làng cũng trên báo Văn nghệ số 24 ra ngày 20 tháng 6 năm 1987, Nguyễn
Huy Thiệp mới được dư luận tiếp nhận, tranh luận sôi nổi với nhiều xu hướng khác nhau. “Nhà
văn trẻ” của chúng ta năm đó đã bước sang tuổi 37, nói như ông thì “khi đã sống được nửa đời
người”. Đối với một nhà văn, từ năm lên 7 tuổi đã bắt đầu cầm bút, viết rồi lại “chôn xuống
đất” khi đọc những truyện của người khác, điều này chứng tỏ với Nguyễn Huy Thiệp, viết văn
chẳng phải là một việc dễ dàng gì. Phải chăng vì ông sớm ý thức rằng “Cái khó không phải là
viết, cái khó là sống như thế nào để có cái gì mà viết” [92].
Nguyễn Huy Thiệp sinh ra và lớn lên ở đồng bằng Bắc Bộ, nằm giữa lưu vực hai con
sông Hồng, sông Mã. “Trong các sắc thái phong phú và đa dạng của văn hóa Việt Nam, đồng
bằng Bắc Bộ như là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc” [107, tr.235]. Bắc Bộ là cái nôi
hình thành dân tộc Việt, cũng là nơi sinh ra các nền văn hóa lớn. Đặc trưng của vùng văn hóa
này phải kể đến thái độ ứng xử với tự nhiên trên cơ sở chinh phục và sống hài hòa với tự nhiên.
Đáng kể nhất là những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt Bắc Bộ. Mọi tín ngưỡng
của cư dân trồng lúa nước như thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, sùng bái tự nhiên,…có mặt trên hầu
hết các làng quê Bắc Bộ. Không chỉ thế, kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ có thể coi như một
loại mỏ với nhiều khoáng sản qúi hiếm. Từ thần thoại đến truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, ca
dao, tục ngữ, thể loại nào cũng phong phú. Có thể nói, đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi văn hóa dân
gian lúa nước của cư dân Việt.
Được bao bọc từ cái nôi văn hóa Bắc Bộ, Nguyễn Huy Thiệp lớn lên trên những cánh
đồng lúa bạt ngàn, những dòng sông chở nặng phù sa…Thế giới tự nhiên trở thành người mẹ
nuôi dưỡng, chở che, là người bạn thủy chung của con người. Có lẽ đấy là nguồn cảm hứng bất
tận cho những sáng tác của ông, đặc biệt trong những tác phẩm nhà văn viết về thiên nhiên và
con người nông thôn Bắc Bộ. Khi viết về đề tài nông thôn, Nguyễn Huy Thiệp thường dành cho
nó những trang văn thấm đẫm chất thơ với nguồn cảm hứng trữ tình dạt dào, tha thiết. Ông đã
có lần tự hào: “Tôi có may mắn là thời thơ ấu tôi gắn với nông thôn. Mẹ tôi là nông dân, còn
tôi sinh ở nông thôn” [89, tr.10]. Thời thơ ấu, cậu bé Thiệp từng cùng gia đình lưu lạc khắp
nhiều vùng nông thôn giàu truyền thống văn hóa dân gian của đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Từ
đó, Nguyễn Huy Thiệp đã tích luỹ được rất nhiều hành trang quý báu để có thể viết nhiều, viết
hay về những miền đất dung dị mà chân chất tình người này. Đọc truyện của Nguyễn Huy
Thiệp, người đọc thấy gần như là một “nhà văn của đất đai” (nhận xét của Sean Tamis Rose)
[59, tr.499]. Nếu trong những truyện viết về thành thị và lịch sử, Nguyễn Huy Thiệp gieo vào
lòng độc giả cảm giác khá nặng nề, ngột ngạt thì đến với những truyện ngắn như: Chảy đi sông
ơi, Con gái thuỷ thần, Những bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê, Chăn trâu cắt cỏ,
Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt,… người đọc lại như được đắm mình trong suối nguồn yêu
thương, với cảm giác êm đềm, da diết, được thấy lòng mình bồi hồi với những dư vị thật ngọt
ngào, sâu lắng.
Bên cạnh đó, Nguyễn Huy Thiệp lại có thời gian sống và gắn bó đến mười năm cùng với
mảnh đất Tây Bắc thân thương. Đây cũng vùng văn hóa miền núi miền Bắc với những đặc điểm
hết sức riêng biệt. Mỗi dân tộc Tây Bắc tuy có khác nhau về cách ăn mặc, thói quen sinh hoạt,
nhưng đa phần giống nhau ở bản chất hiền lành, thuần phác, luôn sống lạc quan và giàu tình
yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Các dân tộc ở Tây Bắc đều có tín ngưỡng “mọi vật có
linh hồn”, có đủ các loại “hồn” và các loại thần như thần sông núi, suối khe, các lực lượng siêu
nhiên như sấm, chớp,...Cũng như nhiều dân tộc khác, các dân tộc Tây Bắc có một kho tàng văn
hóa, văn học nghệ thuật dân gian đa dạng, phong phú.
Có thể nói, vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ, vùng cao Tây Bắc là những môi trường văn
hóa dân gian màu mỡ, là nguồn cung cấp tư liệu đáng quí và cũng là nguồn cảm hứng mãnh liệt
chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.
Để sáng tạo nên những tác phẩm độc đáo khi viết về thiên nhiên và cuộc sống con người
miền núi, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã có quãng thời gian mười năm thâm nhập thực tế ở Tây
Bắc. Đó là những tháng ngày thầy giáo Thiệp dạy học tại một bản heo hút ở Sơn La, nơi cách
tỉnh lỵ một ngày đi bộ, với bao thiếu thốn vất vả mà sau này chính nhà văn thú nhận chỉ có sức
mạnh của nhiệt huyết tuổi trẻ mới giúp ông vượt qua những năm tháng ấy. Có lẽ quãng thời
gian sống và làm việc ở Tây Bắc, Nguyễn Huy Thiệp đã đọc những “trang sách đời” được viết
ra từ chính cuộc sống hiện thực của người dân nơi đây. Đọc nhiều truyện của Nguyễn Huy
Thiệp, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của thầy giáo Thiệp năm nào. Kí ức về những tháng ngày
sống và làm việc ở Tây Băc sâu đậm đến nỗi không cần gợi nhắc, nó luôn thường trực, âm ỉ và
nếu có dịp, nhà văn lại thổ lộ: “Ngày xưa, khi còn dạy học ở vùng núi Tây Bắc…”. Và rồi ông
cứ để cho hoài niệm tràn về…
Mở đầu truyện ngắn Những người muôn năm cũ, Nguyễn Huy Thiệp hồi tưởng: “Cách
đây hơn ba mươi năm, tôi dạy học ở Bâm là một xóm núi khỉ ho cò gáy ở tỉnh N, cách thủ đô
vài trăm cây số. Hồi ấy tôi 20 tuổi, vừa mới tốt nghiệp ra trường, tâm hồn còn rất ngây thơ”
[94, tr.510].
Hay một đoạn trong Chuyện tình kể trong đêm mưa, tác giả kể: “Trường học miền núi
nơi tôi ở nằm trên một quả đồi trọc gọi là đồi Thông […]. Khu nhà giáo viên kề ngay đó lợp
ngói, vách trát “toocsi” nhưng khi mưa xuống dột còn nhiều hơn cả mái nhà lợp gianh” [94,
tr.458]. Đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ta còn có thể bắt gặp khá nhiều những dòng tự sự
chân thực như thế.
Sau này khi đã trở về Hà Nội, nếm trải qua bao nhiêu thăng trầm, ngay cả khi đã khẳng
định được tên tuổi trên văn đàn và đã có chỗ đứng khá vững chắc trong lòng độc giả, với
Nguyễn Huy Thiệp, tháng ngày ở Tây Bắc vẫn là quãng thời gian đẹp đẽ và đáng nhớ nhất. Với
ông, Tây Bắc mãi là “Mảnh đất tình yêu! Mảnh đất giữ người!” [94, tr.576]. Gần đây, trong
truyện ngắn có nhan đề Quan âm chỉ lộ, Nguyễn Huy Thiệp bồi hồi nhớ lại: “ Những ngày dạy
học gian khó ở trên miền núi Tây Bắc xa xôi, tôi chỉ là một thầy giáo tiểu học vô danh, tôi như
viên sỏi vô danh ở trong lòng suối vô danh nhưng chẳng bao giờ tôi thấy cô đơn, trong lòng tôi
lúc nào cũng như có một con chim chiền chiện líu la líu lo ca hát những lời vô nghĩa bất tận”
[94, tr.587].
Điều đó còn là cơ sở để lí giải tại sao mảng truyện viết về miền núi chiếm số lượng đáng
kể trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nguyễn Huy Thiệp không phải là người đầu tiên khai
thác và thành công khi viết về mảng đề tài này. Trước ông đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ gặt
hái được thành công khi tìm đến với con người và cuộc sống nơi đây. Tiêu biểu như Tố Hữu
với tập thơ Việt Bắc; Nguyễn Huy Tưởng với Kí sự Cao Lạng; Tô Hoài với Truyện Tây Bắc,
Miền Tây; Nguyễn Tuân với Nhật kí lên Mèo, Sông Đà; Rừng động của Mạc Phi; Kan Lịch
của Hồ Phương; Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Vệ sĩ của quan Châu của Ma Văn
Kháng,v.v…Tuy nhiên, mặc dù thuộc thế hệ đi sau và viết sau nhưng Nguyễn Huy Thiệp không
bị chìm khuất trong số những tên tuổi tiêu biểu vừa kể trên, trái lại ông đã tìm cho mình một lối
đi riêng để triển khai và chiếm lĩnh đề tài này tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo. Sử dụng
yếu tố văn hóa dân gian một cách sáng tạo đã góp phần tạo ra cái riêng đó của Nguyễn Huy
Thiệp. Tiêu biểu cho mảng đề tài viết về miền núi của ông có thể kể đến như Những ngọn gió
Hua Tát, Muối của rừng, Sống dễ lắm, Những người thợ xẻ, Thổ cẩm, Những người muôn
năm cũ, Chuyện tình kể trong đêm mưa.
1.3. Quan niệm văn chương của Nguyễn Huy Thiệp
Trước khi đi sâu vào nghiên cứu những đặc trưng của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
trên cơ sở ảnh hưởng từ nền văn hóa dân gian của dân tộc, chúng tôi bước đầu tìm hiểu quan
niệm văn chương của ông, trong đó lưu ý đến quan niệm của ông về mối quan hệ giữa văn hóa
dân gian và văn học. Chúng như một sợi chỉ đỏ chi phối toàn bộ quá trình sáng tác của nhà văn.
Những quan niệm này được Nguyễn Huy Thiệp gửi gắm trong một số truyện ngắn, qua các bài
tiểu luận phê bình, hoặc bày tỏ qua một số lần trả lời phỏng vấn.
Khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp có thể thấy hầu hết tác phẩm của ông đều
chứa đựng một vài triết lí về văn chương. Quan niệm về văn chương của Nguyễn Huy Thiệp rất
đa dạng. Phải luôn trăn trở về ý nghĩa của nó, ông mới có thể viết nên những trang văn chất đầy
suy tư như thế. Điều này khiến ta liên tưởng đến sự tương đồng giữa Nguyễn Huy Thiệp và
Nam Cao, một nhà văn nổi tiếng với những quan niệm văn chương đã trở thành những tuyên
ngôn nghệ th._.ặt của phát ngôn, là sự phản đối,
phủ định dưới hình thức tán dương, khẳng định” [74, tr.195]. Còn giễu cợt là “nêu thành trò
cười nhằm chế nhạo, đả kích” những thói hư tật xấu trong xã hội [68, tr.401]. Mỉa mai, giễu cợt
là những phương thức biểu cảm được Nguyễn Huy Thiệp sử dụng có hiệu quả trong nhiều thiên
truyện.
Dân gian có thói quen mỉa mai, giễu cợt nhằm phê phán những thói hư tật xấu của con
người. Cách nói ấy thường biểu hiện qua những câu truyện trạng, truyện cười, ca dao trào
phúng,…Mỉa mai, giễu cợt trong văn chương nghệ thuật không phải đến từ một "cõi lạ", không
dính dáng đến hiện tại mà luôn gắn chặt với thực trạng muôn mặt của cuộc đời. Bởi tác phẩm
dẫu nói về cái xấu, cái ác nhưng người viết vẫn hướng con người về phía cái đẹp, khơi gợi
những tình cảm cao đẹp bởi “khi cười cái xấu, người ta đứng cao hơn nó” (Tsecnưsepxki).
Đọc truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy phảng phất giọng điệu giễu cợt của dân
gian. Giọng điệu này cũng là một cách để nhà văn tiếp cận và phản ánh hiện thực cuộc sống.
Nhờ đó mà những phương diện đa dạng và phong phú trong dòng chảy của cuộc sống hôm nay
được nhà văn soi chiếu một cách chân thực nhưng không kém phần tinh tế. Đối tượng mỉa mai,
giễu cợt của nhà văn rất đa dạng.
Giọng mỉa mai, giễu cợt thể hiện rõ khi Nguyễn Huy Thiệp phê phán sự suy đồi truyền
thống đạo lí gia đình trong một bộ phận xã hội buổi giao thời. Điều đặc biệt là giọng văn này
trong truyện của ông ít khi gắn với tiếng cười. Nếu có thì thường không phải là tiếng cười hả
hê, vui vẻ. Ngược lại, nó ẩn chứa những nỗi đau, nỗi buồn về thế thái nhân tình của kiếp người.
Tiếng cười đôi khi thực sự bi đát, nặng nề, đầy mai mỉa. Một ông tướng (Tướng về hưu) một
thời từng xông pha anh dũng nơi chiến trường trận mạc, trớ trêu thay, ông lại trở nên thụ động
giữa đời thường, thậm chí lạc lõng ngay trong gia đình mình. Làm chủ hôn cho đám cưới của
đứa cháu họ, chứng kiến không khí “ô hợp láo nháo thản nhiên rất đời, thô thiển, thậm chí ô
trọc nữa” ở đấy khiến ông “luống cuống, khổ sở” đến “kinh hãi, đau đớn” [94, tr.22]. Thấy cô
con dâu làm bác sĩ sản khoa lấy xác thai nhi về nấu cho chó béc giê ăn, ông chỉ biết khóc. Đến
khi đứa cháu gái “giễu”: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm phải không ông?”, ông cũng chỉ
biết mắng: “Mẹ mày! Láo!” [94, tr.31].
Trong một gia đình khác, hãy xem bố con ông Kiền (Không có vua) nói chuyện với
nhau, ta thấy rõ hơn về sự “bát nháo” đó. Lão Kiền thường nói với con những lời mỉa mai rất
độc địa. Với Đoài: “Mày ấy à? Công chức gì mặt mày? Lười như hủi, chữ tác, chữ tộ không
biết, chỉ giỏi đục khoét!”, với Cấn thì: “Hay thật, cái nghề cạo đầu ngoáy tai của mày, nhục thì
nhục nhưng hái ra tiền!” [94, tr.47]. Cho nên người đọc cũng không quá bất ngờ và sẽ còn ám
ảnh rất lâu bởi câu nói của Đoài. Bố bệnh nặng, Đoài bảo: “Tôi nghĩ bố già rồi, mổ cũng thế,
cứ để chết là hơn”. Rồi không để ai kịp nói, Đoài thản nhiên đến tàn nhẫn, vô nhân tính: “Ai
đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu quyết nhé” [94, tr.62]. Có cái gì đắng chát sau câu nói trơn tuột
ấy của Đoài. Người ta những tưởng anh ta đang nói đến chuyện bầu bán gì đấy chứ không phải
chuyện bệnh tình của bố mình. Đạo lí cha con trở nên vô nghĩa, bị con người ta đem ra làm trò
đùa. Đời sống kinh tế thị trường đem đến sự thõa mãn nhu cầu vật chất cho con người, nhưng
theo đó là sự tha hóa nhân tính trong một bộ phận xã hội lúc giao thời. Đồng tiền có sức mạnh
phá hủy nhân tính thật ghê gớm. Cái hiện thực cay đắng ấy đã được nhà văn miêu tả một cách
riết róng, qua giọng văn đầy mỉa mai.
Khi viết về những hành động động ngớ ngẩn, vô nghĩa của con người, nhà văn thường
viết bằng giọng mỉa mai, giễu cợt. Trong Những người thợ xẻ chi tiết nhân vật Ngọc ngăn
không cho Bường hãm hiếp Quy, Bường giận dữ, thách đánh nhau với Ngọc: “Thế nào? Tiến
lên đi chứ, công tử bột! Hãy mang chiến thắng về nộp dưới chân nàng Đuynxinê ở làng
Tôbôdô” [94, tr.126] thật lố bịch. Hai người lao vào đánh nhau ác liệt mà chẳng vì cái gì cụ thể.
Lời thách thức của tay “du thủ du thực” kia, mỉa mai thay, đã biến chàng cử nhân tương lai
thành một anh chàng ngốc đi “đánh nhau với cối xay gió”.
Giọng mỉa mai, giễu cợt còn được nhà văn dùng khi viết về những tình huống “dở khóc
dở cười” khi con người phát hiện ra một điều gì đó. Người ta đắc chí với sự phát giác ấy mà
không biết rằng mình đang trở thành một kẻ lố bịch hơn bao giờ hết. Ẩn sau câu chữ là những
nỗi buồn tưởng bâng quơ nhưng rất thâm thúy. Để săn được con khỉ đầu đàn, ông Diểu (Muối
của rừng) đã phải mất khẩu súng săn và cả bộ quần áo. Trên đường trở về, ông bực mình nghĩ:
“chẳng lẽ lại nồng nỗng thế này về nhà thì thật là khả ố! Mình sẽ thành trò cười cho thiên hạ
mất…”. Rồi ông bỗng bật cười: “Thì đã sao nào! Hỏi ai bắn được một con khỉ thế này? Phải
yến rưỡi thịt…Lông vàng như nhuộm…Bắn được con vật như thế này thì dẫu mảnh giáp không
còn cũng đáng!” [94, tr.73] Thực ra ông Diểu đã nhận ra sự lố lăng trong hành động của mình.
Ông ta chỉ đang cố biện minh cho hành động ấy mà thôi.
Cuộc sống đời thường với bao toan tính, mưu mô xảo quyệt. Truyền thuyết, huyền thoại
vốn đẹp, thơ mộng lại trở thành trò cười trong thiên hạ. Huyền thoại Mẹ Cả đầy ắp trong kí ức
tuổi thơ Chương (Con gái thủy thần). Trong trí tưởng tượng của anh, Mẹ Cả hiện lên thật đẹp
và lộng lẫy. Cho đến một hôm có người chỉ cho Chương nấm đất gần kề gốc cây muỗm và bảo
đấy là mộ của Mẹ Cả. Anh đào lên. Thì ra trong nấm đất ấy chỉ là “một khúc gỗ mục chẳng
hình thù gì” [94, tr.86]. Chuyện Mẹ Cả rốt cùng chỉ là câu chuyện bịa đặt. Sự thật mà anh vừa
trông thấy tận mắt quá phũ phàng so với huyền thoại mà người đời bấy lâu nay vẫn thêu dệt.
Thật đau đớn và chua chát, Chương thấy mình bơ vơ, lạc lõng chính tại nơi mình đang sống.
Anh quyết định đi ra biển, dẫu biết rằng “ngoài biển không có thủy thần” [94, tr.87], nhưng có
thể nơi ấy sẽ không còn những trò lừa bịp ác tâm của con người.
Cậu bé làng chài (Chảy đi sông ơi) cố nài nỉ những người đánh cá mòi đêm cho lên
thuyền để có thể nhìn thấy sự thật về truyền thuyết con trâu đen. Nhưng truyền thuyết ấy chỉ là
tin đồn thất thiệt của một kẻ rỗi hơi nào đấy. “Chuyện giết người cướp của có thực, ngoại tình
có thực, cờ bạc có thực”, còn đau lòng thay: “chuyện trâu đen là giả”, vì đó chỉ là “chuyện
đồn nhảm nhí” [94, tr.12].
Giọng mỉa mai, giễu cợt thể hiện qua những phát ngôn kiểu hô hào rỗng tuếch. Đây
chính là điểm gặp gỡ giữa Nguyễn Huy Thiệp với Vũ Trọng Phụng. Trong Số đỏ, nhà văn Vũ
Trọng Phụng đã để cho nhân vật Xuân Tóc Đỏ nhiều lần nói những câu trịch thượng song lại vô
nghĩa và buồn cười. “Hỡi quần chúng! Mi không hiểu gì, mi oán ta! Ta vẫn yêu quí mi mặc
lòng mi chẳng rõ lòng ta!...Thôi giải tán đi, và cứ an cư lạc nghiệp trong hòa bình và trật tự!
Ta không dám tự phụ là bậc anh hùng cứu quốc, nhưng ta đã tránh được cho mi họa chiến
tranh rồi! Hòa bình vạn tuế! Hội Quốc liên vạn tuế!” [70, tr.234]. Mấy nghìn người bị một kẻ
lưu manh, bụi đời gọi là “mi” không những chẳng tức giận, ngược lại còn rất xúc động, sốt sắng
hoan hô: “Xuân Tóc Đỏ vạn tuế! Sư đại bại vạn tuế!” [tr. 235]. Tiếng cười châm biếm, mỉa mai
từ đó vang lên thật sâu cay!
Trong một số thiên truyện của Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật cũng có cách nói kiểu hô hào
“thùng rỗng kêu to” như thế. Tiêu biểu là truyện Sang sông. Chuyện kể rằng trên chuyến đò
sang bờ bên kia hôm ấy có rất nhiều hạng người và nhiều biến cố xảy ra. Một cậu bé vì nghịch
ngợm đã kẹt tay vào cái bình của hai gã buôn đồ cổ. Trong lúc mọi người trên đò đang lúng
túng chưa biết xử trí thế nào thì tên cướp có vẻ mặt hung tợn đã liều mình đập vỡ chiếc bình
quý để cứu đứa bé thoát chết trong gang tấc. Chứng kiến hành động ấy, nhà giáo (trước đó run
lẩy bẩy, đánh rơi cả kính) bỗng hoảng hốt thốt lên: “Trời! Anh dám đập vỡ bình! Thật đúng là
một anh hùng! Một nhà cải cách! Một nhà cải cách!” [94, tr.369]. Thật nực cười! Nhà giáo cao
đạo nói những lời sáo rỗng, ngây ngô, còn kẻ cướp giờ lại trở thành “anh hùng”, thành “nhà cải
cách” vĩ đại. Khi để cho nhân vật thầy giáo nói những câu “khen ngợi” ấy, tác giả không hướng
người đọc đến sự đánh giá về nhân vật tên cướp, mà chủ yếu nhằm phê phán sự hèn nhát, thói
mọt sách của ông thầy giáo nọ nói riêng, và những kẻ sống theo kiểu “lí thuyết suông” không
hiếm gặp trong đời thường nói chung. Câu chuyện vì thế toát lên thái độ mỉa mai, giễu cợt thâm
thúy.
Nhà văn còn mỉa mai, giễu cợt cái cách người ta đặt tên địa danh vùng miền bằng những
cái tên nghe “rất kêu” nhưng thật kệch cỡm. Ví dụ như trong truyện Những người thợ xẻ, ông
để nhân vật Bường nói mỉa: “Vùng ma thiêng nước độc thì tên là Tương Lai, Bình Minh, Tân
Lập, Đoàn Kết, Tự Cường! Kêu cứ như chuông! Mấy thằng bán quán, khách vào thì chém cổ
lại đặt tên là Bình Dân với Thanh Lịch! Còn mấy thằng bán thuốc nạo thai con gái lại đặt tên
là Hồi Xuân với Cứu Thế!” [94, tr.110].
Giọng giễu cợt của Vũ Trọng Phụng là thái độ phủ định sâu sắc hết thảy cái xã hội thảm
hại, lố lăng trước cách mạng. Giọng điệu ấy bộc lộ chủ yếu qua bút pháp trào lộng, châm biếm
sâu cay. Vũ Trọng Phụng có những tác phẩm thuần túy với giọng giễu cợt. Còn giọng mỉa mai,
giễu cợt trong văn Nguyễn Huy Thiệp chỉ nhằm vào một vài đối tượng cụ thể đan cài vào tác
phẩm. Đôi khi cái nhìn giễu cợt xuất phát từ những tình huống tưởng chừng rất vụn vặt đời
thường song lại ngầm chứa những giá trị nhân sinh sâu sắc. Ngay ở những thiên truyện “phản
cổ tích” (được cho là có biểu hiện của giọng mỉa mai, giễu cợt) thì giọng khẳng định vẫn là
giọng chính. Song không thể phủ nhận rằng thông qua giọng điệu mỉa mai, giễu cợt, Nguyễn
Huy Thiệp đã cho chúng ta thấy được phần nào những mặt tiêu cực trong tư tưởng, nếp sống,
đạo đức,…còn tồn tại trong xã hội để từ đó có ý thức sống tốt hơn.
Tiểu kết:
Có thể nói, ngôn ngữ và giọng điệu là những đặc điểm tạo nên sức hấp dẫn thẩm mĩ cho
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và góp phần khẳng định tài năng cũng như phong cách của tác
giả.
Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được viết bởi thứ ngôn ngữ rất đời thường, vận
dụng khá nhuần nhuyễn thành ngữ, tục ngữ nên gần gũi với ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày,
mang đậm sắc thái ngôn ngữ của dân gian. Bên cạnh đó, nhà văn còn kể chuyện bằng lối kể rất
quen thuộc trong cổ tích, trong thói quen giao tiếp của người Việt Nam, đó là lối kể chuyện
bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần. Truyện của ông hấp dẫn, lôi cuốn độc giả chính là nhờ đã kết
hợp được chất thơ và chất tự sự trong văn xuôi, góp phần tạo nên sự rậm rạp trên bề mặt và cả ở
chiều sâu trong việc khám phá đời sống con người.
Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn luôn có ý thức và cố gắng tạo nên giọng điệu văn chương
riêng cho mình. Với sự nỗ lực tìm tòi không ngừng, ông đã khẳng định được văn phong riêng
độc đáo không thể nhầm lẫn. Một trong những yếu tố góp phần tạo nên sự hấp dẫn của truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp là sắc thái dân gian trong giọng điệu trữ tình, thấm đẫm chất thơ và
giọng điệu mỉa mai, giễu cợt. Chúng là những “dải băng ngôn từ” được nhà văn khéo léo chọn
lựa, chắt lọc, đan cài tạo nên nhiều chất giọng trong tác phẩm. Văn của ông vừa có sự kế thừa
cách diễn đạt truyền thống vừa có lối diễn đạt sắc lạnh, đầy suy tư của văn chương hiện đại.
KẾT LUẬN
1. Nguyễn Huy Thiệp là một trong những nhà văn tiên phong của giai đoạn văn học thời
kì Đổi mới, góp phần tạo nên diện mạo mới cho nền văn học đương đại Việt Nam. Với những
tìm tòi, sáng tạo đầy nỗ lực, Nguyễn Huy Thiệp đã khẳng định tài năng, vị trí và tầm ảnh hưởng
của mình trên văn đàn cũng như trong lòng độc giả.
Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn của sự đổi mới, cách tân. Điều đó đã được nhiều nhà
nghiên cứu, phê bình, nhiều công trình khoa học phát hiện và minh chứng. Với mong muốn
khám phá thêm chiều sâu trong những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, luận văn tiến hành tìm
hiểu truyện ngắn của ông từ hướng tiếp cận văn hóa dân gian. Khảo sát riêng ở mảng truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt soi rọi từ một số lí thuyết cơ bản của văn hóa dân gian dân
tộc, luận văn nhằm đi đến kết luận: truyện ngắn của ông có sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian
cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức thể hiện.
2. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sự kết tinh những quan hệ tốt đẹp nhất
giữa người với người, với xã hội và với tự nhiên. Trong đó, văn hóa dân gian là một bộ phận
quan trọng của văn hóa. Mối quan hệ ảnh hưởng giữa văn hóa với văn học nói chung, văn hóa
dân gian với văn học viết nói riêng là mối quan hệ mang tính quy luật tất yếu. Việc vận dụng
các lí thuyết văn hóa dân gian vào nghiên cứu tác phẩm văn học cụ thể giúp chúng ta hiểu sâu
hơn bản chất sáng tạo của nhà văn.
Trước hết, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã chuyển tải thành công các quan niệm văn
chương của nhà văn. Trong đó, Nguyễn Huy Thiệp đặc biệt chú ý đến mối quan hệ giữa văn
hóa, văn học dân gian và nhà văn. Khi đi vào tìm hiểu ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, luận văn đã phân tích, chứng minh sự ảnh hưởng của một số
thành tố văn hóa dân gian như văn học dân gian, tín ngưỡng dân gian, ngôn ngữ dân gian trên
các phương diện cụ thể như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu.
3. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đa phần không có cốt truyện phức tạp, chứa đựng
quá nhiều mâu thuẫn kịch tính. Để thể hiện cuộc sống với tất cả sự đa diện, đa chiều, Nguyễn
Huy Thiệp thường xây dựng những cốt truyện mang màu sắc huyền ảo và môtíp cổ tích. Chúng
tôi cũng đã chỉ ra sự ảnh hưởng của truyện dân gian đối với cách thức mở đầu và kết thúc trong
cốt truyện truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Ở những kiểu cốt truyện này, để làm rõ sự kế thừa và sáng tạo độc đáo của Nguyễn Huy
Thiệp, người viết đã tập trung đi sâu phân tích các yếu tố như sự kiện, chi tiết kì lạ, hoang
đường; những tình huống truyện hư ảo; những nhân vật kì lạ; những giấc mơ bí ẩn, những
môtíp cổ tích quen thuộc. Từ đó, người viết khẳng định việc sử dụng các yếu tố huyễn hoặc,
các môtíp cũ không có nghĩa là Nguyễn Huy Thiệp lặp lại truyền thống mà đó là cách để nhà
văn có thể đi sâu chiếm lĩnh, khám phá hiện thực đa chiều của cuộc sống thực tại.
4. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khá đa dạng và phong phú.
Có ba kiểu nhân vật hiện lên khá toàn diện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là: nhân
vật là những con người sống hòa hợp với tự nhiên, mang trong mình triết lí sống hài hòa, bình
ổn; nhân vật là những người có đời sống tâm linh sâu sắc; nhân vật là những người phụ nữ
mang vẻ đẹp của “thiên tính nữ”. Trong quá trình đi sâu phân tích hệ thống nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, luận văn đã cố gắng chỉ ra rằng: khi xây dựng nhân vật, nhà
văn chịu ảnh hưởng khá sâu sắc truyền thống văn hóa dân gian Việt Nam với triết lí sống hài
hòa, bình ổn xuất phát từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, truyền thống trọng nữ, tục thờ Mẫu của
cư dân nông nghiệp lúa nước lâu đời truyền lại. Cho nên nhân vật trong truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp tuy là những con người của cuộc sống hiện đại nhưng vẫn mang trong mình
những phẩm chất truyền thống cao đẹp.
5. Chịu ảnh hưởng khá sâu sắc cách diễn đạt từ dân gian, ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp mang những đặc điểm sau: sử dụng nhuần nhị ngôn ngữ đời thường, tục ngữ, thành
ngữ; lời kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp là thứ ngôn ngữ được chắt lọc từ đời sống, từ thói quen vận dụng tục
ngữ, thành ngữ từ lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân. Lời kể chuyện trong truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp cũng khá độc đáo. Đó là lối kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn
vần vốn đã quen thuộc từ truyện cổ dân gian. Chính việc vận dụng phối hợp khéo léo các dạng
ngôn ngữ này mà truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã để lại ấn tượng sâu sắc hơn trong cảm
nhận của độc giả.
Nói đến truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, người ta cũng thường nói đến giọng điệu độc
đáo trong văn ông. Tùy thuộc vào đối tượng thể hiện mà nhà văn thường chọn một chất giọng
chủ đạo, qua đó bộc lộ thái độ, quan điểm của tác giả về con người và cuộc sống. Truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp là một thế giới đa giọng điệu, ở đó có sự kết hợp, đan cài giữa chất giọng
trữ tình, thấm đẫm chất thơ với chất giọng mỉa mai, giễu cợt.
Truyện của Nguyễn Huy Thiệp gây ấn tượng đặc biệt cho độc giả bằng chất giọng trữ
tình, thấm đẫm chất thơ. Giọng điệu ấy như “một cấu trúc nhịp nhàng, một giai điệu ẩn náu
như bè trầm của văn bản” [75, tr.179]. Theo chúng tôi giọng điệu này có đươc một phần là do
Nguyễn Huy Thiệp đã chịu ảnh hưởng từ lối văn giàu nhạc điệu của văn chương truyền miệng của
dân tộc.
Giọng mỉa mai, giễu cợt cũng là một trong những giọng chủ đạo trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp. Thông qua phương thức biểu cảm mỉa mai, giễu cợt, với lối nói ngược hẳn
với ý nghĩa bề mặt phát ngôn cùng với thái độ phê phán những mặt trái của xã hội qua cách
nhìn giễu cợt, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã phản ánh hiện thực đa diện của cuộc sống
hôm nay một cách thẳng thắn nhưng khá tinh tế. Khi tìm hiểu giọng điệu này, chúng tôi cũng cố
gắng làm rõ sự tiếp thu của nhà văn từ lối nói mỉa, trào phúng quen thuộc trong đời sống dân
gian. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng này theo chúng tôi cũng chưa được rõ nét lắm so với các phương
diện khác mà luận văn đã nghiên cứu.
6. Bằng sự lao động miệt mài, khổ luyện trên “cánh đồng chữ nghĩa”, Nguyễn Huy Thiệp
đã gặt hái được những thành công đáng kể trong sự nghiệp cầm bút, đặc biệt là ở mảng truyện
ngắn. Quan trọng hơn, ông đã nhận được sự “đồng điệu” sâu sắc từ đông đảo độc giả trong và
ngoài nước. Đến với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, người đọc không chỉ có thêm những
khám phá thú vị từ cuộc sống muôn màu muôn vẻ, mà đáng quí hơn, họ còn được nhà văn khéo
léo đưa trở về với cội nguồn của truyền thống văn hóa dân gian dân tộc. Những đóng góp ấy to
lớn và có ý nghĩa biết nhường nào. Trong nhịp chảy hối hả của cuộc sống hiện đại hôm nay,
chúng ta càng thấy trân trọng hơn những đóng góp của nhà văn. Cuộc sống dù phát triển đến
đâu, con người đều rất cần có sự kế thừa, tiếp nối giữa quá khứ với hiện tại làm nền tảng vững
chắc cho tương lai. Văn học cũng vậy. Và vì thế, những câu chuyện của Nguyễn Huy Thiệp sẽ
vẫn có sức hấp dẫn, lôi cuốn riêng của nó.
Nghiên cứu ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,
luận văn không cho rằng đã có thể giải quyết đầy đủ, trọn vẹn mọi vấn đề. Nhưng tác giả luận
văn hi vọng rằng đề tài nghiên cứu của mình đã mở ra một hướng tiếp cận mới đối với “hiện
tượng” Nguyễn Huy Thiệp. Và cũng mong kết quả nghiên cứu của luận văn, về mặt khoa học, ít
nhiều cũng góp một tiếng vào nỗ lực chung trong việc nghiên cứu về một tác giả tiêu biểu của
văn học đương đại Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. M. Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch từ nguyên bản
tiếng Nga, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
2. M. Bakhtin (1980), “Một số khía cạnh phương pháp luận cần lưu ý khi nghiên cứu văn học quá
khứ”, Vương Trí Nhàn dịch, Tạp chí văn học (số 4).
3. Trần Lê Bảo (2009), “Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc
(số 2).
4. Thụy Bình, Thiên lương trong “ Muối của rừng” www.evan.com.vn.
5. Nam Cao (1996), Truyện ngắn (chọn lọc), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
6. Nguyễn Minh Châu (1985), Tuyển tập truyện ngắn Bến Quê, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn
Việt Nam, Hà Nội.
7. Đoàn Văn Chức (2004), Văn hóa học, Nxb Lao động.
8. Nguyễn Văn Dân (2004), “Tiếp cận văn học bằng văn hóa học”, Tạp chí văn học (số 11).
9. Chu Xuân Diên (2004), Mấy vấn đề văn hóa và văn học dân gian Việt Nam, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ
Chí Minh.
10. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh.
11. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội.
12. Phạm Đức Dương (2007), Việt Nam – Đông Nam Á – Ngôn ngữ và Văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
13. Nguyễn Đình Đăng, Nhà văn Việt Nam của tôi, www.evan.com.vn.
14. Đặng Anh Đào (1991), “Một hiện tượng mới trong hình thức kể chuyện hiện nay”, Tạp chí văn học
(số 6).
15. Đặng Anh Đào, Vai trò của cái kì ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam, www.nhavan.com.vn.
16. Phan Cư Đệ (chủ biên), (2007), Truyện ngắn Việt Nam – Lịch sử - Thi pháp – Chân dung, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
17. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc
học, Tp Hồ Chí Minh.
18. Phong Điệp, Đánh giá thành tựu văn học Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới,
www.vietnamnet.com.vn.
19. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.
20. Nguyễn Đăng Điệp, Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp, www.phongdiep.net.
21. Hà Minh Đức (2008), Một nền văn hóa văn nghệ đậm bản sắc dân tộc với nhiều loại hình nghệ
thuật phong phú, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. V. E. Guxev (1999), Mỹ học Folklor, Hoàng Ngọc Hiến dịch, Nxb Đà Nẵng.
23. Phùng Hữu Hải, Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại từ sau 1975,
www.vienvanhoc.org.vn.
24. Nguyễn Văn Hạnh, Về khái niệm văn hóa – vài khía cạnh lý luận và thực tiễn,
www.vienvanhoc.org.vn.
25. Nguyễn Văn Hạnh (2007), “Văn hóa như là nguồn mạch sáng tạo và khám phá văn chương”, Tạp
chí Nghiên cứu văn học (số 1).
26. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lí luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
27. Võ Thị Thu Hằng, Triết lí văn chương trên trang viết Nguyễn Huy Thiệp, www.evan.com.vn.
28. Lê Huy Hòa, Hoàng Đức Nhuận (tuyển chọn và giới thiệu), (2000), Văn hóa Việt Nam, truyền
thống và hiện đại, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
29. La Khắc Hòa, Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, www.vienvanhoc.org.vn.
30. Châu Minh Hùng, Tiếng nói của cái tục trong văn Nguyễn Huy Thiệp www.evan.com.vn.
33. Đoàn Hương (2004), Văn luận, Nxb Văn học, Hà Nội.
34. Đoàn Thị Đặng Hương (1996), “Thử giải mã văn học Việt Nam theo tinh thần văn hóa Việt Nam
và văn hóa phương Đông”, Tạp chí văn học (số 3).
35. Lê Thị Hường (1995), “Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay”, Tạp chí văn học (số 4).
36. Nguyễn Văn Kha (2007), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện ngắn 1975 – 2000, Nxb
Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh.
37. Đinh Gia Khánh (chủ biên), (1998), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
39. Đinh Gia Khánh (1998), “Văn học góp phần tạo nên những giá trị văn hóa hàng đầu của dân tộc”,
Tạp chí văn học (số 6).
40. Đinh Gia Khánh (1992), “Tục thờ Mẫu và truyền thống văn hóa dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí
văn học (số 5).
41. Vũ Ngọc Khánh (2007), Nghiên cứu văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Ma Văn Kháng (2003), Tuyển tập truyện ngắn (4 tập), Nxb Công an Nhân dân.
43. Kim Khuyên, Đi săn hay là tìm lại thiên lương?, www.evan.com.vn.
44. Lê Đình Kỵ (1991), “Đối thoại với văn học dân gian và bản lĩnh của người viết”, Tạp chí văn học
(số 5).
45. Cao Kim Lan, Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hậu hình thi pháp hậu
hiện đại, www.vienvanhoc.org.vn.
46. Cao Kim Lan (2005), “Mấy vấn đề thi pháp cốt truyện”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 6).
47. Nguyễn Trường Lịch (1997), “Huyền thoại và sức sống của huyền thoại trong văn chương xưa và
nay”, Tạp chí văn học (số 5).
48. Nguyễn Văn Long (2006), Nguyễn Văn Thìn (đồng chủ biên), Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn
đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
49. Trần Long, Góp phần làm rõ nguyên lí mẹ trong văn hóa Việt, www.vanhoahoc.com.vn.
50. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Trần Nhật Lý, Đọc lại “Sang sông” của Nguyễn Huy Thiệp, www.evan.com.vn.
52. Sơn Nam (1999), Hương rừng Cà Mau, Nxb Trẻ.
53. Nguyên Ngọc, Văn xuôi Việt Nam hiện nay, lôgic quanh co của các thể loại, những vấn đề đang
đặt ra và triển vọng, www.vietnamnet.com.vn.
54. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa.
55. Phan Ngọc, Quan hệ giữa văn chương và văn hóa ở Việt Nam, www.vienvanhoc.org.vn.
56. Nguyễn Thị Ngọc (1996), Hồ Xuân Hương và nền văn hóa dân gian Việt Nam, Luận án P.TS, Thư
viện Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh.
57. Mạc Ngôn (2004), “Ngọn nguồn văn hóa dân gian của sáng tác văn học”, Tạp chí Nghiên cứu văn
học (số 6).
58. Lã Nguyên, Nhìn lại các bước đi, lắng nghe những tiếng nói www.vietnamnet.com.vn.
59. Phạm Xuân Nguyên (sưu tầm và biên soạn), (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn hoá thông
tin, Hà Nội.
60. Phùng Qúi Nhâm (2002), Văn học và văn hóa từ một góc nhìn, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên
cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh.
61. Vương Trí Nhàn (2006), “Giăng lưới bắt…lí luận”, Báo Thể thao và văn hoá, ra ngày 10 tháng 3.
62. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh.
63. Nhiều tác giả (2000), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
64. Nhiều tác giả (1989), Nguyễn Huy Thiệp, Tác Phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương + Nxb Trẻ.
65. Nhiều tác giả (2002), Bản sắc dân tộc trong văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên
cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh.
66. Hoàng Thị Oanh (2008), Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ, Thư viện
Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh.
67. Lê Trường Phát (1987), “Về hiện tượng xen kẽ giữa văn vần và văn xuôi trong truyện kể dân
gian”, Tạp chí văn học (số 4).
68. Hoàng Phê (chủ biên), (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội,
Đà Nẵng.
69. Phạm Phú Phong (2002), “Giọng điệu văn chương Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí Sông Hương (số
155).
70. Vũ Trọng Phụng (2002), Số đỏ, Nxb Văn học, Hà Nội.
71. Huỳnh Như Phương (1991), “Văn xuôi Việt Nam những năm 80 và những vấn đề dân chủ mới của
nền văn học”, Tạp chí văn học (số 4).
72. G.N Pospelov (chủ biên), (1993), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
73. Đặng Văn Sinh, Đọc lại “ Tướng về hưu” www.vietnamnet.com.vn.
74. Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (2007), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục.
75. Trần Đình Sử (chủ biên) (2000), Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Đại học sư phạm
Hà Nội.
76. Trần Đình Sử (2005), Trần Đình Sử tuyển tập, Nguyễn Đăng Điệp (tuyển chọn), Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
77. Hà Công Tài (1989), “Để nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết”, Tạp chí
văn học (số 5).
78. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi”, Tạp chí văn học
(số 2).
79. Nguyễn Thị Minh Thái (2007), “Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: “Tôi sống ảo”, An ninh Thủ đô,
ngày 9 tháng 9.
80. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
81. Bùi Việt Thắng (2000), “Một bước đi của truyện ngắn”, Tạp chí Nhà văn (số1).
82. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
83. Bùi Việt Thắng (2004), “Truyện ngắn hôm nay”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 1).
84. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
85. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
86. Nguyễn Thành Thi (2010), “Ám ảnh hiện sinh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí
Nghiên cứu văn học (số 5).
87. Trần Viết Thiện (2007), “Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp – Chiều tương tác độc đáo”, Tạp chí
Sông Hương (số 216).
88. Ngô Đức Thịnh (chủ biên), (1991), Quan niệm về Folklore, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
89. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Giăng lưới bắt chim (Tạp văn, tiểu luận, phê bình, giới thiệu), Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
90. Nguyễn Huy Thiệp (2006), “Giăng lưới bắt chim” là những đối thoại nội tâm”, Tiền phong chủ
nhật, ngày 24 tháng 9.
91. Nguyễn Huy Thiệp (2002), “Tôi chỉ hướng tới tự nhiên”, Báo Tiền Phong (số 40).
92. Nguyễn Huy Thiệp (2008), “Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: “Thế giới đã an bài!”, Báo Thanh niên,
ngày 10 tháng 3.
93. Nguyễn Huy Thiệp (2008), “Tổng nhuận bút của tôi khoảng 8000 USD”, Báo Người đương thời
(số Xuân Mậu Tý).
94. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn và hiệu đính, Nxb
Văn hoá Sài Gòn.
95. Đỗ Lai Thúy (1999), Hồ Xuân Hương – hoài niệm phồn thực, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
96. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội.
97. Đỗ Lai Thúy, Mối quan hệ văn hóa – văn học nhìn từ hệ thống lí thuyết, www.vienvanhoc.org.vn.
98. Phạm Thị Thùy Trang (2009), Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn
Thạc sĩ, Thư viện Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh.
99. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của sáng tạo, thách thức của văn hóa, Nxb Thanh niên.
100. Lê Ngọc Trà (tập hợp và giới thiệu), (2001), Văn hóa Việt Nam – đặc trưng và cách tiếp cận,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
101. Lê Ngọc Trà, Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới, www.vienvanhoc.org.vn.
102. Đỗ Bình Trị (1989), “Mấy ý kiến về vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học với văn học dân
gian”, Tạp chí văn học (số 1).
103. Bùi Thanh Truyền (2008), “Song đề truyền thống - hiện đại trong điểm nhìn nghệ thuật của
truyện giả cổ tích và truyện cũ viết lại thời đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 2).
104. Bùi Thanh Truyền (2001), “Ảnh hưởng thần thoại và cổ tích trong cách xây dựng nhân vật văn
xuôi hôm nay”, Tạp chí Văn hóa dân gian (số 5).
105. Phạm Thái Việt (chủ biên), (2004), Đại cương về văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
106. Trần Ngọc Vương, Tục hoá quay về để tiến tới, www.vienvanhoc.org.vn.
107. Trần Quốc Vượng (chủ biên), (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
108. Nguyễn Thị Thanh Xuân, Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam, www.vienvanhoc.org.vn.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5421.pdf