Tài liệu Ảnh hưởng của văn hoá ấn Độ đến tộc người Chăm ở Việt Nam & người Chăm đã tiếp nhận nó ra sao & được thể hiện như thế nào: ... Ebook Ảnh hưởng của văn hoá ấn Độ đến tộc người Chăm ở Việt Nam & người Chăm đã tiếp nhận nó ra sao & được thể hiện như thế nào
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 6573 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Ảnh hưởng của văn hoá ấn Độ đến tộc người Chăm ở Việt Nam & người Chăm đã tiếp nhận nó ra sao & được thể hiện như thế nào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
tính cấp thiết của đề tài
Một cộng đồng cư dân không chỉ sống trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên mà con luôn tồn tại trong mối quan hệ với xã hội các dân tộc xung quanh. Cách thức ứng xử với môi trường xã hội là một thành tố của hệ thống văn hoá.
Với vị trí ngã tư đường, con người Việt Nam luôn quan tâm tới việc tiếp nhận các giá trị văn hoá nhân loại : Tiếp thu văn hoá Trung Hoa, ta có Nho giáo và Đạo giáo. Văn hoá phương Tây đem lại KiTô Giáo và những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần mơí mẻ, tiếp thu văn hoá Ấn Độ, ta có nền Phât giáo Việt Nam và nền văn hóa Chăm độc đáo. Sự hội nhập văn hoá giữa Chămpa và Ấn Độ trước đây đã góp phần tạo nên sự đa dạng cho nền văn hoá Việt nam đa sắc tộc
Cùng với thời gian và sự biến đổi nhà nước Chănpa suy tàn các dấu ấn về chính trị cũng bị xoá sạch và chỉ để lại trong dân tộc Chăm và các bộ tộc khác một di sản văn hoá đậm ảnh hưởng Ấn Độ với những nét riêng độc đáo. Vậy văn hoá Ấn Độ đã có mặt ở Chămpa từ bao giờ, bằng con đường nào?. Vai trò và ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đến với tộc người Chăm có sâu rộng hay không, có lấn át đựoc lớp văn hoá bản địa hay không ? được thể hiện ra sao? Để đáp ứng và lý giải phần nào đòi hỏi đó khoá luận đi vào nghiên cứu đề tài: Ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đến tộc người Chăm ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho tới hiện nay ở nước ta chưa có nhiều công trình nghiên cứu quy mô về văn hoá Chăm ở Việt nam, số lượng tác giả nghiên cứu về văn hoá Chăm ở Việt Nam hiện tại là rất hạn chế. Các bài viết chủ yếu xuất hiện trên một số tạp chí nghiên cứu, báo…. với dung lượng nhỏ, xoay quanh các đề tài như: Lễ hội, kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật…. Nhìn chung ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đến tộc người Chăm ở Việt Nam hiện nay chưa được các công trình khoa học nào đề cập một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ. Dù sao những công trình nghiên cứu đó là những đóng góp to lớn cho việc nhận diện rõ hơn văn hoá dân tộc Chăm dưới góc độ khoa học và là những tài liệu vô cùng quý báu để khoá luận lấy làm tư liệu học tập và kế thừa .
3. Mục đích, nhiệm vụ và pnhạm vi nghiên cứu của khoá luận
Mục đích của khoá luận là đi vào tìm hiểu những “ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đến tộc người Chăm ở Việt Nam và người Chăm đã tiếp nhận nó ra sao và được thể hiện như thế nào.” Thực hiện mục đích trên, khoá luận tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu chung về vương quốc Chămpa
- Văn hoá Ấn Độ và văn hoá Chăm
- Một số biểu hiện của văn hoá Ấn Độ đến văn hoá Chăm
- Phạm vi nghiên cứu: Đi sâu vào tìm hiểu sự giao lưu giữa hai nền văn hoá Ấn Độ và Chămpa, trong đó chú ý đến những dấu ấn còn lại của văn hoá Ấn Độ với người Chăm hiện nay
4. Phương pháp nghiên cứu của khoá luận
Khoá luận được thực hiện với một số phương pháp: phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, đối chiếu, so sánh…..
5. ý nghĩa khoá luận
Khoá luận chỉ đống góp một phần nhỏ cho việc tìm hiểu và nhận diện rõ hơn cho sự giao lưu, ảnh hưởng giữa văn hoá Ấn Độ và Chămpa. Văn hoá Chăm cũng như các giá trị của nó cần được trân trọng, gìn giữ trong đời sống chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
6. Kết cấu khoá luận :
Ngoài phần mở đầu, kết luận, dạnh mục tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 chương, 8 mục
CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU CHUNG VỀ VƯƠNG QUỐC CHĂM PA
1.1. Sự ra đời và hình thành của Vương quốc Chăm
Theo kết quả điều tra dân số thì tính đến ngày 1/4/1989 dân tộc Chăm có 98.971 người đứng thứ 14 trong số 54 dân tộc Việt Nam.
Người Chăm sống tập trung chủ yếu ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận (trên 89%), số ít ở An Giang, Đồng Nai, Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh. Tại miền Tây các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa. Ngoài ra còn có nhóm Chăm miền núi - Chăm - láng giềng của người Ê Đê, Ba Na.
Người Chăm có lịch sử cư trú lâu đời ở ven biển miền Trung. Họ đã lập nên nước Lâm Ấp - Chăm Pa phát triển rực rỡ vào cuối thế kỷ thứ II.
Về mặt chủng tộc, người Chăm (cùng với một số dân tộc Tây Nguyên) thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo, là một bộ phận của nhóm loại hình Inđônêxia, xưa kia cư trú rải rác tại nam Đèo Ngang đến Bình Thuận.
Theo các tài liệu Trung Quốc, vào năm 192, thừa lúc nhà Hậu Hán suy yếu (sau cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nhưng bị đàn áp đẫm máu của Hai Bà Trưng), một viên chức quận Tường Lâm (phía Nam Thừa Thiên ngày nay) là Khu Liên đã lãnh đạo người Chăm nổi lên khởi nghĩa thắng lợi lập nên Vương quốc Lâm Ấp (xứ Rừng) hay Chăm Pa, Tân Thư, một tài liệu Trung Quốc năm 280 xác định:
"Vương quốc về phía Nam, giáp nước Phú Nam. Hai nước gồm rất nhiều bộ lạc và liên kết với nhau, lợi dụng núi non hiểm trở, họ không chịu quy phục Trung Quốc".
Từ thời điểm này, trên rẻo đất miền Trung nổi lên một tiểu quốc độc lập chịu ảnh hưởng của Ấn Độ.
Vương quốc Lâm Ấp vốn là một quốc gia sớm phát triển ở Đông Nam Á, hảng hải Lâm Ấp rất nổi tiếng và đã từng thực hiện chủ quyền Nhà nước trên các đảo lớn ở biển Đông, mà thủ tịch cổ của Trung Quốc thường gọi là Giao Chỉ Dương (biển của Giao chỉ). Quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa, người Lâm Ấp gọi là B'lao Brai Kân (Cù lao bãi lớn). Đó là loại địa danh chắc chắn cổ nhất trong lịch sử quần đảo này. Người Chăm H're còn ghi nhớ một bài kinh cúng khi ra khai thác quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa vào các tháng 1 - 4 hàng năm theo lịch cổ.
Vương quốc Lâm Ấp với tên gọi có tính chất quốc tế lúc bấy giờ là Sinhapura (thành phố Sư Tử) dựa trên nền văn hóa vốn có đã phát triển của chính mình, sớm tiếp thu sâu sắc văn hóa Ấn Độ, sáng tạo nên nền văn hóa rất độc đáo, mà hàng loạt di tích kiến trúc còn lưu lại khắp cả tỉnh ven biển miền Trung - đỉnh cao nhất tập trung tại địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng. Phía Nam vương quốc Lâm Ấp tiếp giáp với một thuộc quốc của phù Nam Bia ký Võ cạnh nổi tiếng đã ghi rõ, người đứng đầu thuộc quốc này là "Đấng… hậu duệ của nhà vua Crimara , hậu duệ xứng đáng với thanh danh dòng họ của (nhà vua) Crimara". - Crimara vốn là một danh tướng rất nổi tiếng được tôn lên làm vua phù Nam. Lâm Ấp và Phù Nam đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẫn nhau.
Vương quốc Phù Nam (từ phù Nam có thể phiên âm từ Phnom có nghĩa là núi của tiếng Khmer) là một quốc gia ngay từ buổi đầu tiên đã được xây dựng trên cơ sở một nền nông nghiệp trồng lúa khá phát triển bắt nguồn từ vùng ruộng nương trung nguyên sông Cửu Long của cư dân Môn - Khmer, kết hợp với nghề biển cổ truyền của cư dân Nam Đảo. Trên cơ tầng đó, các đạo sĩ Bàlamôn từ Ấn Độ đến đã tổ chức một quốc gia mô phỏng theo mô hình Ấn Độ trên tất cả các mặt: tổ chức chính trị, thiết chế xã hội, đô thị hóa, giao thông, kỹ thuật, công nghiệp cùng một hệ thống tôn giáo và các nền văn hóa kèm theo trong đó có đạo Bàlamôn đóng vai trò chi phối.
Theo sách sử ghi: Năm Vinh Minh thứ 9 (491) vua Phù Nam sai sứ dâng cống nạp hoàng đế Trung Quốc và được phong là Lâm Ấp Vương. Như vậy trong thời gian này Lâm Ấp chịu sự thống trị của đế quốc Phù Nam. Đến cuối thế kỷ V Lâm Ấp mới giành được độc lập (theo Nam Tề Thư, q. 58, 4b Lâm Ấp). Cũng từ đấy Phù Nam dần dần đi vào con đường suy yếu, sức ép tấn công từ hai phía là Chân Lạp và Lâm Ấp đã quyết định sự sụp đổ của vương quốc Phù Nam.
Vương quốc Lâm Ấp chiếm toàn bộ lãnh thổ của thuộc quốc Phù Nam từ phía Nam Đèo Cả đến tiếp giáp Đồng Nai. Trên địa bàn đó có hai khu vực hành chính chủ yếu, ở phía Nam là Panduranga (Bình Thuận, Ninh Thuận) và phía Bắc là Koh Th'ra (Thara) - Nha Trang, theo ngôn ngữ Malayo cổ, địa danh này có nghĩa là: Bải biển hình cong lưỡi liềm.
Lâm Ấp mở rộng lãnh thổ vào phía Nam đưa lại một sự kiện chính trị to lớn là sự hình thành một vương quốc mới bao gồm Lâm Ấp là chủ thể và phần đất rộng lớn vốn là thuộc quốc của Phù Nam. Vương quốc mới hình thành mà thư tịch cổ Trung Quốc gọi là Hoàng Vương, và sau đổi thành Champapura - Chiêm Thành. Chăm là tên tự gọi, nay trở thành tên chính thức của dân tộc.
Ngoài ra còn có những tên khác như Chàm (thực ra tên này do người Kinh gọi biến âm từ Chăm mà ra), Lồi, Hời hay Chiêm, Chiêm Thành mà ta đã kể đến ở trên. Quốc hiệu Chăm Pa xuất hiện vào lúc nào không rõ, chỉ biết rằng bia kí sớm nhất có nhắc đến tên này được khắc vào cuối thế kỷ VI [Ngô Văn Doanh 1994: 6]2. Chăm pa là tên một loài hoa, miền Bắc gọi là hoa đại, miền Nam gọi là hoa sứ. Dạng rút gọn của nó chính là Chăm, biến âm là Chàm. Âm Hán Việt là Chiêm Thành, rút gọn là Chiêm. Ảnh hưởng của Ấn Độ đối với văn hóa Chăm phát huy mạnh mẽ trong khoảng thế kỷ VII đến hết thế kỷ XV, khi Chămpa chấm dứt sự tồn tại với tư cách quốc gia của mình.
Văn minh Chămpa đã tắt, hay đúng hơn các nhà nước Chămpa đã không còn tồn tại từ vài trăm năm nay, song tộc Chăm và các tộc bà con theo mẫu hệ còn đó: Chăm H'rê, chăm H'roi, Raglai, Tarai, Rhaday… Văn hóa Chăm vẫn còn đây, sống động ở Ninh Thuận (với làng gốm Bàu Trúc) Bình Thuận là các phế tích "Thành Lời", giếng "Hời", "cánh đồng Chăm" theo cách gọi của người Kinh - Việt ở Bình - Trị - Thiên, Nam - NgãI - Bình - Phú, Khánh Hòa - Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết… Đó còn là những lễ hội rất Chăm đi vào đời sống văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cái riêng hòa trong cái chung, tất cả góp mình làm nên bản sắc, văn hiến cho dải đất hình chữ S bên bờ biển Đông.
1.2. Vài nét về đặc điểm tự nhiên và xã hội của Vương quốc Chăm Pa
1.2.1. Thiên nhiên miền Trung với Vương quốc Chăm pa
Người Chăm sống trên dải đất hẹp miền Trung. Nói đến miền Trung ai cũng biết đấy là miền có địa thế hẹp chiều Tây - Đông, dằng dặc chiều Bắc - Nam.
Phía Tây là dải Trường Sơn, người Pháp gọi là Chaine annamitique. Đoạn Trường Sơn nam từ Quảng Nam đến Vũng Tàu gọi là Nam Sơn. Trường Sơn mênh mông chân núi (Pie'rnont) mà người Nga gọi là miền trước núi (pretgorie = Sơn cước). Từng đoạn từng đoạn dải núi - đồi này lại đâm ngang ra biển Đông, chia cắt miền Trung thành từng vùng - xứ - tỉnh, đi từ Bắc vô Nam Trung Bộ là ta cứ lần lượt qua "một đèo, một đèo, lại một đèo". Đèo Ba Dội, đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cù Mông, đèo Cả…
Dưới chân đèo là các sông lớn nhỏ, đều chảy ngang theo chiều Tây - Đông ra biển, sông ngắn, nước biển xanh, ít phù sa, nhiều cửa sông sâu tạo thành vịnh cảng là nơi đậu thuyền rất tốt. Vận động tạo sơn còn ném ra biển xa rất nhiều các đảo và quần đảo. Những Hoàng Sa - Trường Sa, Hòn Cỏ - Hòn La, hòn Nồm, Hòn Gió (Quảng Bình) Cồn Cỏ (Quảng Trị) Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Phú Yên) Hòn Tre (Khánh Hòa)… tạo ra những "bình phong" ngăn chặn bớt sóng gió biển Đông.
Bờ biển miền Bắc "lõm" vào đất liền thành vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, kỳ quan di sản văn hóa thế giới 94, song lại bị đảo Hải Nam "thút nút" ở bên ngoài.. Bắt đầu từ miền Trung, đường bờ biển Việt Nam "ưỡn" cong, "lồi" ra phía biển Đông, hứng gió bão sóng thần thật đấy, song "chất biển" trong văn hóa Chămpa ngày trước, văn hóa các vùng Trung Bộ Việt Nam ngày nay rất mặn mà như chượp, mắm ruốc, mắm nêm, nước mắm, các loại đặc sản miền Trung, Luồng cá biển cũng chạy gần bờ miền Trung hơn miền Bắc. Miền Trung lại có mùa mưa lệch pha với hai đầu Bắc Nam đất nước (mùa khô Bắc - Nam là từ cuối tháng 10 đến đầu tháng 4). Ở miền Trung mùa hè (tháng 4 - tháng 10) khô nóng, lại gặp gió Tây (gió phơn) rất khô nóng thổi từ Lào qua (xưa bà con ta gọi là gió "Lào") nên nói như một câu ca dân gian Quảng Trị "tháng ba, tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn…". Bốn năm liền 92 - 95 cứ vào tháng 7 - 8 tôi vô công tác Quảng Trị - Quảng Bình và hưởng trọn 30/30 ngày nắng gió Tây ngoài cồn cát nóng khô. Càng nóng, càng ăn cay, và đấy là một bản sắc văn hóa ăn Chăm pa - Trung Bộ (Hoàng phủ Ngọc Tường đã tìm cách giải thích hiện tượng này).
Người Chăm sống trên giải đất miền Trung, giữa một bên là dãy Trường Sơn cao vút, bên kia là biển Đông sâu thẵm. Sự đối chọi đó của thiên nhiên đã tạo ra những sản vật đặc biệt (như Trầm, hương, vàng…) nhưng đồng thời sự thiếu hài hòa đó của tự nhiên cũng tạo nên một miền khí hậu khắc nghiệt, bao nhiêu nước mưa rơi xuống núi đều trôi tuột ra biển cả, khiến cho đất đai miền Trung trở nên hết sức khô cằn. Sống trong khung cảnh đó, con người phải một mặt vật lộn với thiên nhiên và mặt khác, giành giật với các láng giềng xung quanh. Và có lẽ chính đây là lý do để tạo nên nét khu biệt của người Chăm với những cộng đồng cư dân khác trên đất nước Việt Nam.
1.2.2. Hiểu thêm về nền nông nghiệp Chăm pa
Những hình ảnh phổ biến nhất về lịch sử sinh thái và kinh tế Chăm pa có thể hình dung ra như sau: Thiếu những đồng bằng rộng lớn do vậy thiếu luôn cả một nền nông nghiệp phát triển, là một cường quốc biển yếu tồn tại chủ yếu nhờ vào việc bán ra những mặt hàng lâm sản nhưng với số lượng không lớn và ít hiệu quả. Tuy vậy những cố gắng khá mạnh mẽ nhằm kiểm soát những con đường buôn bán cùng những điều kiện kinh tế và sinh thái của mình đã cho phép Chăm pa trở nên hùng mạnh sau thế kỷ 13 hoặc 14.
"Chăm pa có thể đã có vai trò lớn trong các hệ thống buôn bán ở biển Nam Trung Quốc khi đề cập tới việc lịch sử sinh thái của Chăm pa mà giờ là miền Trung Việt Nam cần phải được nghiên cứu trong hệ thống "những vùng khô" [từ điển Chàm - Việt- Pháp. Trung tâm văn hoá Chăm, Phan Rang, 1971]
Theo chính sử nhà Tấn (265 - 420), Lâm Ấp đã tấn công Nhật Nam (vùng Bình - Trị - Thiên hiện nay) thuộc quyền cai trị của Trung Quốc vào năm 347, vì vị quan cai quản Nhật Nam người Trung Quốc khi đó quá tham lam và: "Vì Lâm Ấp thiếu ruộng lúa nước và thèm muốn đất Nhật Nam" [Jingshu (Tấn Thư), Vol 97. P2546, Liangshu (Lương Thư) Vol, 54 P.784] .
Đoạn miêu tả về Chiêm Thành trong Lingwai Daida, tập sách ghi chép về tỉnh Quảng Tây và các nước ở Nam Hải biên soạn năm 11781, có nói "Tất cả đất đai đều là cát trắng, đất trồng trọt được thì rất hiếm". Trong số các đồng bằng thuộc duyên hải miền Trung, chỉ có đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh là tương đối lớn, còn các đồng bằng khác nhỏ hẹp, do phù sa bồi lấp các vùng biển cũ. Đất phần lớn là đất cát pha, thuận lợi cho việc phát triển các cây công nghiệp hàng năm (lạc, mía, thuốc lá…) nhưng không thật thuận lợi cho cây lúa.
Mặc dầu cũng như nhiều vùng khác trên đất nước Việt Nam là cùng nằm trong vùng khí hậu Á Châu gió mùa, nhưng một số đặc điểm của địa thế đã khiến cho khu vực Nam Trung Bộ, đặc biệt là vùng Ninh Thuận - Bình Thuận trở thành vùng khô hạn nhất nước ta. Lượng mưa trung bình hàng năm ở Phan Rang rất thấp (695m/m) và chỉ trong 52 ngày. ở Phan Rí là 770m/m trong 70 ngày. Trong những tháng mùa mưa vũ lượng hàng tháng chỉ khoảng 100m/m (vũ lượng tối đa ở tháng 5 và tháng 10).
Sông ngắn, dốc, lượng mưa thấp, đất đai khô cằn không đủ tạo lên những đồng bằng phì nhiêu, rộng lớn như đồng bằng sông Hồng hay sông Cửu Long. Như vậy chỉ có những vùng đất hẹp bên trong dân cư đông đúc thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp (vùng đất ấy không chỉ là những đồng bằng mà còn là cao nguyên và thung lũng sông như hai huyện Tây Sơn và An Khê ở phía Tây Bình Định, như các huyện Krông Pa và Ayunpa ở phía Tây tỉnh Phú Yên) đủ để đáp ứng cơ bản về nhân lực và vật lực cho bộ máy của thể chế địa phương. Suốt dải đất miền Trung còn để lại nhiều dấu tích của những công trình trị thuỷ mang lại màu xanh cho cây cối như các hệ thống dẫn nước hình kỷ hả, các đập nước, hồ nước… Người Chăm đã thuần dưỡng được giống lúa không cần nhiều nước được gọi là "lúa Chiêm" (Chiêm Thành) là những giống lúa nhanh chín, có thể chịu được cả khô hạn và ngập nước, vì vậy mà thích hợp với những điều kiện thủy lợi không thuận.
Ta có thể thấy rằng nông nghiệp của Chăm pa không phải là thế mạnh của Vương quốc này - nếu như không muốn nói là rất kém phát triển.
Sự khắc nghiệt của thiên nhiên, diện tích trồng trọt và trữ lượng thấp là những lý do để vương quốc Chămpa bị cản trở trong việc phát triển một nền nông nghiệp mạnh và toàn diện. Hơn bao giờ hết con người cần phải thích nghi với môi trường và vượt lên trên hoàn cảnh, đương đầu và chiến thắng. Những cư dân Chămpa đã làm được điều đó, khi họ đã khẳng định và tìm cho mình chỗ đứng trên chính mảnh đất gian nan này.
1.2.3. Ưu thế lâm, ngư, thương nghiệp của Vương quốc Chămpa
Chămpa luôn nổi tiếng là xứ sở của trầm hương. Trầm hương của Nhật Nam đã được người Trung Quốc biết đến rất sớm từ khoảng thế kỷ 3 sau công nguyên và luôn được ghi chép là cống vật của Chămpa.
Theo lời nhà sử học Ba Tư là Ibn Abei Yak Kuh viết vào khoảng năm 875 - 880 thì trầm hương Chăm pa được đánh giá là tốt nhất thế giới.
Sách Thuỷ Kinh Chú cho biết người ta phải mua gỗ trầm của Chămpa: "Bằng lượng vàng nặng tương đương".
Còn trữ lượng vàng của Chămpa thì lớn đến mức trở thành huyền thoại. Cái gì đã cuốn hút người Ấn Độ vượt biển đến Đông Nam Á ngày càng nhiều vào những thế kỷ đầu công nguyên?
Có hai động lực chủ yếu: Thứ nhất là nguồn hương liệu phong phú với gỗ trầm hương, kỳ nam, các loại dầu thơm, long não, cánh kiến trắng và thứ hai là nguồn vàng - nhất là khi Ấn Độ mất nguồn mua vàng từ Xibêri và Trung Á. Một loạt địa danh Đông Nam Á được ghi lại bằng chữ Phạn với những đặc sản điển hình của địa phương như: Xứ Vàng (Suvarna - dvipa) Thành Phố Vàng (Karakapuri), Đảo Long Não (Karguradvipa), Đảo Dừa (Narikeladvipa).
Sách Lương Thư của Trung Quốc ghi rằng: "nước đó có núi vàng, đá đều màu đỏ, trong đó sinh ra vàng. Vàng ban đêm bay ra giống như đom đóm" [Ngô Văn Doanh 1994. 13].
Tuy nhiên, không phải tất cả những mặt hàng xuất đi của Chămpa đều là lâm sản và khoáng vật. Vào đầu thế kỷ 17, Zhang Xie, dựa vào những nguồn tài liệu Trung Quốc trước đó đã làm một bảng danh sách những sản phẩm của Chămpa như sau: "Vàng, bạc, thiếc, sắt, ngọc "bao mu", ngọc trai "cheng - Shuichu" ngọc trai lửa, hổ phách, pha lê, ốc tiền?, các loại đá "pusashi" sừng tê, ngà voi, mai rùa, trầm hương, gỗ đàn hương, long não, xạ hương, đinh hương, hồng thuỷ, dầu lửa, bông, vải "Zhaoxia", vải có vẻ màu, vải bông trắng, chiếu lá cọ, sáp ong vàng, lưu huỳnh, gỗ vang, gỗ mun, tre, gạo, tổ yến, hạt tiêu, cau, dừa, mít, cây "Haiwuzi" cây anit, ớt lựu nhục đậu khấu, tê giác, sư tử, voi, vượn, khỉ trắng, voi trắng, chim "chiji", vẹt, chim "Shanji", chim "guifei", rùa [(Nguồn: Zbang Xie, Dongxi, Yankao - Bản dịch tiếng Anh của Komai Yoshiaki - trường Đại học KyoTo, 1967, tr 121-5, có thể tham khảo Zonghua Shuju, Peking, 1981, tr 26 - 20]. Trong danh mục đã nêu ở trên, chiếm hầu hết là các mặt hàng lâm thổ sản. Có lẽ đây cũng chính là sự đền bù thoả đáng của tự nhiên cho sự khắc nghiệt của mảnh đất nơi đây. Để cho người Chăm có thể tự hào mà rằng "Đây là xử sở giàu có sản vật quý hiếm bậc nhất" trong vùng.
Một trong những ghi chép về hải thuyền lớn của Zhenghe vào đầu thế kỷ 15 có ghi"nhiều người làm nghề chài lưới, ít người làm nghề gieo trồng, bởi vậy thóc gạo không nhiều" [Ma Huan, Yingya Shenglan (Taipai, 1970) tr 4].
Để lý giải điều trên không phải là một điều khó. Bởi từ trứoc đến nay Chămpa vẫn được coi là một Vương quốc biển. Có thể thấy một điều rằng biển miền Trung lắm tôm, cá và các hải sản khác. Tỉnh nào cũng có bãi tôm, bãi cá, nhưng các bãi tôm, bãi cá lớn nhất là ở biển cực Nam Trung Bộ. Hiện nay, chỉ tính riêng các tỉnh thuộc cực Nam Trung Bộ sản lượng thủy sản hàng năm là 120 - 150 nghìn tấn (trong đó có nhiều loại cá quý như cá thu, cá ngừ, cá trích, cá nục, cá hồng… tôm hùm, tôm he, mực). Nước mắm Phan Thiết ngon nổi tiếng cũng là sản phẩm của Nam Trung Bộ.
Có thể nói, ngay từ rất sớm ý thức được nguồn lợi này, người Chăm đã vươn ra chiếm lĩnh biển khơi với nghề đánh cá.
Được thiên nhiên phú cho 1000 km bờ biển giàu có về các loại cá, lại có nhiều vũng và vịnh tốt mà từ ngàn năm trước công nguyên người Nam Đảo đã biết giong buồm tìm đến. Chăm pa còn được xem như một cái "chợ tự nhiên" vì những sản vật quý hiếm trong rừng nội địa, như trầm hương và các loại hương liệu, dược liệu… hay của biển như ngọc trai, mai rùa… Những sản phẩm đó từng là nỗi đam mê của cả người Ấn Độ và Trung Hoa… Đặc biệt, cái "chợ tự nhiên" này lại nằm giữa tuyến đường biển nối Trung Hoa và Ấn Độ, chiếm vị trí quan trọng nhất trên tuyến đường biển Nam Trung Hoa. Có lẽ chính vì vậy mà nơi đây sớm là nơi thu hút những tàu bè gần xa cập bến. Đối với vương quốc cổ này, biển là điều kiện đầu tiên mở ra con đường giao lưu với các nước trong và ngoài khu vực.
Bờ biển miền Trung dài khúc khuỷa, nhiều vũng vịnh rất thuận lợi cho việc mở những hải cảng ven biển cho tàu bè neo đậu, trao đổi, buôn bán hàng hóa. Ngay từ rất sớm ở phù Nam đã xuất hiện một cảng thị đó là ÓC Eo. ở đây ghi nhận quá trình tiếp xúc khá sớm giữa nhà nước phù Nam với các nước khác. Trong các hiện vật đào được ở ÓC Eo có các hiện vật của các vương triều Ấn Độ, Trung Á, Đông Hán và Bắc Nguỵ … Người Ấn Độ mang đến đây kỹ thuật làm thuyền đi biển phát triển ngành thương nghiệp và cả kỹ thuật nông nghiệp khô với chiếc cày do bò kéo mà ngày nay người Châu Ro vẫn còn bảo lưu với cái tên Lơngal.
Cùng với sự lớn mạnh của Vương quốc Chăm pa, ngày càng có nhiều các thị cảng ra đời dọc bờ biển Nam Trung Bộ đánh dấu sự phát triển và vai trò của Chămpa trong hệ thống buôn bán ở biển Nam Trung Quốc. Nhiều mối quan hệ với nhiều màu sắc khác nhau đã từng đến và đi trên vùng biển này. Quan hệ kinh tế theo những tuyến đường thương mại, quan hệ chính trị bang giao ngược xuôi với những đoàn triều cống, rồi chiến tranh và xung đột quân sự… Đi theo sau tất cả những quan hệ đó, nhưng lại có sức lan toả mạnh mẽ hơn, rộng hơn, nhanh hơn là giao lưu văn hóa và tương tác văn hóa khu vực. Có thể thấy dấu ấn của sự giao lưu này còn để lại một cách sâu sắc trong nền nghệ thuật của Vương quốc cổ Chăm pa. Trong bối cảnh giao lưu văn hóa đầu thế kỷ đầu công nguyên, Chămpa đã tiếp nhận tự nhiên và hoà bình nền văn hóa Ấn Độ. Sản phẩm của sự giao lưu, tiếp xúc này đã tìm được cho mình chỗ đứng trong lòng xứ sở Chăm, được các thế hệ Chăm trân trọng và giữ gìn cho đến ngày nay.
1.2.4. Cư dân Chămpa
Về mặt chủng tộc, người Chăm (cùng với một số dân tộc Tây Nguyên) thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo, là một bộ phận của nhóm loại hình Inđônêxia. Người Inđônêxia cư trú trên toàn bộ địa bàn Đông Nam Á cổ đại. Đó là một vùng rộng lớn, phía Bắc tới sông Dương Tử, phía Đông tới vùng quần đảo Philipin, phía Nam tới hải đảo Inđônêxia và phía Tây tới bang Assam của Ấn Độ. Chính vì vậy có người còn cho rằng về mặt chủng tộc, người Chăm có lẽ vốn là "những người thuộc dòng dõi quý tộc của Ấn Độ, bị thất thế ở chính quốc nên phiêu bạt giang hồ đi tìm đất nước để dung thân [Lê văn siêu 1972: 335 ]
Ấn Độ từ xa xưa là một trong những trung tấm lớn nhất của thế giới, sánh vai với La Mã, Trung Quốc, nhưng khác với La Mã và Trung Quốc, Ấn Độ không xâm lấn ai, không mở rộng lãnh thổ. Trong những hướng ra đi chính người Ấn Độ chọn hướng gió mùa, ngả về phương Đông. Gió mùa dẫn dắt họ đi. Miền Bắc Ấn có một quá trình phát triển lâu dài và đầy biến động nên có thể có nhóm đi ra ngoài từ sớm tìm đất mới làm ăn sinh sống ( Chămpa, kanboja, kalinga…)
Giữa thiên nhiên và con người Chămpa và Ấn Độ nếu đi sâu vào tìm hiểu ta thấy dường như ít nhiều có sự tương đồng ứng đối. Nếu như Ấn Độ có nhiều núi cao rừng già bí hiểm có bờ biển dài, có Sa mạc nóng cháy. Thì Chămpa thì cũng có Trường Sơn cao vút, biển Đông sâu thẳm đèo cao hiểm trở.
Sống trong khung cảnh đó , con người phải một mặt vật lộn với thiên nhiên và mặt khác phải giành giật với các láng giềng xung quanh. Trong quá trình tồn tại của Vương Quốc mình, người Chăm cũng từng nhiều lần cướp bóc các buôn, sóc K'mer ở phía nam đánh lên vùng Tây nguyên của người Thượng và vùng vẫy tiến ra Bắc, lấn chiếm vùng đất phía Nam Đèo Ngang của Giao Châu ( sau này là Đại Việt ) điều này đã được lưu lại ở bia ký Chăm được ghi nhận trong nhiều sách sử như sử nhà Tấn, Thuỷ Kinh Chú, Đại Việt Sử Ký toàn thư… Thế nhưng việc chinh phạt ít nhiều là cần thiết cho tất cả các thủ lĩnh các "Mandala " Đông Nam Á, kể cả của K'mer và Đại Việt thời kỳ đầu, để nhằm chứng tỏ uy lực của mình, nhằm phân chia lại các thành viên liên minh và nhằm kiểm soát các con đường buôn bán.
Chính cuộc sống như vậy đã rèn luyện cho con người Chăm trong lịch sử một tính cách cứng rắn và cương nghị, thượng võ. Đó cũng chính là một phần nét riêng tạo nên phong cách đất nước và con người Chămpa
CHƯƠNG 2
VĂN HOÁ ẤN ĐỘ VÀ DÂN TỘC CHĂM
2.1. Những con đường đưa văn hoá Ấn độ đến với xứ sở Chăm pa
Tấm bia ký của vua Chămpa tên là PrakasadharmaVikrantavácman I (nửa đầu thế kỷ VII ) tìm thấy ở Mỹ Sơn ( tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng ) có ghi lại huyền thoại về một người Ấn Độ tên là Kaurdinya đến lập quốc tại Chămpa. Huyền thoại kể rằng, Kaurdinya, " một người Bàlamôn vĩ đại" nhận được cây giáo do Ácvathanan, con trai của Đrona tặng.. Ngài phóng cây giáo xuống đất chỉ nơi ngài xây đế đô lương lai. Ngài lấy nữ chúa của đất nước đó và sáng lập ra một vương triều. Nữ chúa tên là Sôma và là con gái của vua Rắn Naga. Rồi thì các vua chúa Chămpa thuộc vương triều Indra pra ( giữa thế kỷIX - cuối thế kỷ X) coi mình là hậu duệ của Bhrigu - một nhà vật trong sử thi Mahabharata của Ấn Độ , tổ tiên của dòng họ Bhagava. Tất nhiên hai tài liệu trên mang tính huyền thoại nhiều hơn lịch sử thế nhưng một điều chắc chắn là vương quốc Chămpa với cái tên Lâm Ấp đã đi vào lịch sử cuối thế kỷ thứ 2 sau công nguyên. Mà Chăm pa - một trong những vương quốc cổ đại ra đời sớm nhất ở Đông Nam Á lại là quốc gia ngay từ đầu đã chịu ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ.
Do nằm ở một vị trí địa lý thuận lợi bên bờ biển Đông, do có những nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú mà Ấn Độ thời cổ cần, nên ngay từ những thế kỷ đầu trước công nguyên, những thương nhân Ấn trên đường đi tìm hương liệu và vàng đã đặt chân lên vùng đất ven biển miền Trung Việt Nam mà sau này nơi đó trở thành Vương Quốc Chămpa.
Những thương nhân Ấn Độ đầu tiên đó đã có những tiếp xúc buôn bán với thổ dân nơi đây và lập ra những thương điếm ở đây, chủ yếu là những hải cảng ven biển mặc dầu cho đến nay vẫn chưa phát hiện ra những bằng cớ vật chất về những thương điếm đầu tiên của người Ấn ở Chămpa, nhưng có thể giả định rằng những của biển thuận lợi cho thuyền bè cập bến để buôn bán hay tạm dừng chân mà sau này trở thành các cảng lớn của Chămpa; như Chiêm Cảng ( gần Hội An ) Châu Sa ( tỉnh Quảng Ngãi ) Thi Nại ( gần Quy Nhơn ) Nha Trang ( tên xưa là Kau thana ), Panđuranga ( nay là Phan Rang )… đã là những địa điểm lý tưởng cho người Ấn mở những thương điếm của mình. Không phải ngẫu nhiên mà tên đất nước của người Chăm - Chămpa, tên những vùng đất của Vương Quốc Chămpa như Amaravati, Panđuranga… đều là những tên một vùng nào đó ở Ấn Độ.
Ngoài những tài liệu bia ký và sử liệu trên đất nước của Vương Quốc Chămpa còn tìm thấy những hiện vật , vật chất cụ thể cho chúng ta biết đến thế kỷ V - VI, Chămpa là một trong những quốc gia cổ nhất ở Đông Nam Á tiếp nhận nhiều ảnh hưởng của Ấn Độ, hay nói như một số nhà nghiên cứu là quốc gia " Ấn Độ hoá " thế mà, cho đến nay, hầu như không có một tư liệu nào mà chúng ta được biết nói về quá trình thu nhập những ảnh hưởng của Ấn Độ vào lãnh thổ Chămpa cổ. Vì vậy, để tìm những nguyên nhân và những điều kiện khiến Chămpa sớm trở thành quốc gia "Ấn Độ hoá" , các nhà khoa học đã phải sử dụng những phương pháp phân tích và suy diễn gián tiếp khác nhau, những phương pháp đó là: phân tích vị trí địa lý cũng như những điều kiện khách quan và chủ quan khiến Ấn Độ và Chămpa cũng như các khu vực ở Đông Nam Á sớm có những mối quan hệ sâu sắc về lịch sử và văn hóa.
Vùng bán đảo Đông Dương và Nam Dương quần đảo, với những đặc thù về khí hậu về ( nhiệt đới gío mùa ) địa lý ( đặc biệt là vai trò của biển )… từ xa xưa đã trở thành cầu nối hay ngã tư đường của những nền văn hoá lớn trên thế giới. Hơn thế nữa, trước khi chịu tác động của những ảnh hưởng Ấn Độ cả Đông Nam Á , đã là một khu vực văn hoá ( văn hoá Nam Á ) phát triển và khu biệt với những đặc thù chính: 1) Trồng lúa nước 2) Thần dưỡng trâu bò 3) Sử dụng công cụ thô sơ bằng kim loại 4) Thành thạo trong nghề đi biển 5) Vị trí của phụ nữ được đề cao 6) Tín ngưỡng vật linh giáo, tục thờ cúng tổ tiên và thổ thần, 7) Thiết nhị nguyên về vũ trụ, 8) Việc sử dụng những ngôn ngữ có đơn tố có khă năng phát sinh phong phú bằng tiền tố, hậu tố và trung tố… Như vậy khi tới Đông Nam Á người Ấn Độ đẫ đối diện không phải với những người mông muội mà là những xã hội có tổ chức, có một nền văn minh đã khá phát triển có nhiều nét giống như với văn hoá của mình. Ngược lại ngày từ thời tiền sử nhất là từ thời đại kim khí, với tính chất đại cương của địa hình và với sự phát triển khá cao của nghề đi biển, người Đông Nam Á đã truyền văn minh của mình về phía Tây tới tận Madagaska, về phía Bắc tới tận Nhật Bản về phía Đông tới tận vùng đảo Thái Bình Dương.
Tuy chưa có những tài liệu cụ thể, nhưng rất có khả năng từ thời tiền sử, Ấn Độ và Đông Nam Á đã có những quan hệ với nhau. Có thể kể ra đây là một vài dẫn chứng: trong văn hoá Đông Sơn ở Bắc Việt Nam và văn hoá Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam đã có những đồ trang sức bằng thuỷ tinh hay mã não và những hạt chuỗi vẽ màu có nguồn gốc Ấn Độ. Còn nhà khoa học Ấn Độ ông MananohanGhosh cho rằng chuyện Âu Cơ đẻ trăm trứng của người Việt rất giống với câu chuyện về cục thịt của Gàdhari sinh ra 100 người con trai của Ấn Độ trong sử thi Mahabharata… Thế nhưng nếu như không có một sức ép nào đó khiến cho người Ấn ào ạt đến Đông Nam Á vào những thế kỷ đầu trước và sau công nguyên thì những quan hệ qua lại vừa nêu trên không thể khiến Đông Nam Á trở thành một khu vực" Ấn Độ hoá " như đã có trong lịch sử chính những tài liệu Ấn Độ đã cho chúng ta biết về những sức ép đó.
Trong cuốn sách Anthasastra (khảo cứu về tổ chức chính trị và hành chính ) của Kaudilya, vị thượng thư của vua Chardragupta ( cuối thế kỷ IV đầu thế kỷ III trước công nguyên ) có đoạn khuyên nhà Vua chiếm đoạt đất đai của các Vương Quốc khác hoặc di dân quá đông của mình tới đó. Các tập jatata ( bổn sinh kinh ) của Phật giáo, sử thi Ramayana và đặc biệt cuốn Niddơsa có ghi lại những lời tường thuật của những người đi biển Ấn Độ, có nhắc tới các địa danh như Giava, Suma tra, Xuvanabhumi ( Xứ vàng ) ở Đông Nam Á. Vậy nguyên nhân nào đã khiến người Ấn Độ vượt biển tới các vùng Đông Nam Á các nguyên nhân thì có nhiều nhưng các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng yếu tố thương mại là nguyên nhân chủ yếu khiến người Ấn Độ vào những thế kỷ đầu công nguyên, đã tìm đường vượt biển tới Đông Nam Á sức hút của các nguồn hương liệu, của vàng và nhiều lâm thổ sản quý hiếm đã là điểm nhấn cho sự tìm đến của các thương nhân Ấn Độ. Hơn nữa Chămpa xưa là nơi có nhiều hải cảng mang tính quốc tế quan trọng. Theo sử liệu Trung Quốc ( Tân đường thư, Địa lý chí ) vào những thế kỷ VII- X trên con đường biển từ Quảng Châu ( Trung Quốc ) Bagdad. ( Ả Rập ) thuyền bè Trung Quốc, Ba Tư, Ả Rập, Srivijaya… bao giờ cũng ghé qua Chiêm Bất Lao (cù lao chàm) Lăng Sơn Môn Độc ( Quy Nhơn ), Cổ Đát quốc ( Kauthara - tức Nha Trang hiện nay ._.) Bôn Là Lăng Châu ( Panduranga - Phan Rang và Phan Thiết hiện nay )
Các nhà khoa học đã hình dung ra quá trình hình thành các " thuộc địa " của những lái buôn tìm vàng Ấn Độ ở Đông Nam Á bằng cách dựa trên những dự kiện đã diễn ra ở nơi khác và trong những thời gian khác nhau. Trong những hoàn cảnh tương tự ví dụ G. Ferăng đã hình dung về ảnh hưởng của Ấn Độ ở Giava như sau:
" Hai hoặc ba tàu biển Ấn Độ cùng nhau vượt biển và tiến dần tới Giava. Những người mới đến liền giao thiệp với các thủ lĩnh địa phương và tranh thủ được cảm tình của họ bằng cách biếu tặng phẩm chăm sóc người bệnh, phân phát bùa hộ mệnh… Đi vào đất mới người Ấn Độ không có phiên dịch do đó họ phải học tiếng bản xứ. Về sau, họ kết hôn với con gái các thủ lĩnh địa phương và từ đấy, ảnh hưởng của họ trong lĩnh vực văn hoá và tôn giáo mới có cơ phát triển. Người vợ bản xứ đã được họ huấn luyện, trở thành người tuyên truyền tư tưởng và tín ngưỡng mới đắc lực nhất… Để phổ biến những điều mới ấy, người Giava phải dùng thuật ngữ Ấn " chắc hẳn, người Ấn đã tới Chămpa như đã tới Giava.
Sau những thương nhân thậm chí là cùng với thương nhân tới Đông Nam Á là những trí thức người Ấn ( các tu sĩ Bàlamôn giáo, các nhà sư Phật giáo) và nếu không thì khó có thể hiểu được về sự phát sinh ở Đông Nam Á những nền văn minh thấm nhuần sâu sắc những ảnh hưởng của Ấn Độ như văn minh của người Khơme của người Giava và của người Chămpa. Theo G.xơdes việc thết lập những vương quốc thành nhà nước có tổ chức ở Đông Nam Á của người Ấn có thể diễn ra theo hai cách: hoặc một người Ấn buộc cư dân bản địa, trong đó có ít hoặc nhiều người Ấn làm hạt nhân phải thừa nhận mình là thủ lĩnh, hoặc một thủ lĩnh địa phương hấp thụ nền văn minh Ấn Độ cả hai trường hợp trên chắc là đã diễn ra. Nhưng dù một triều đại có nguồn gốc Ấn Độ như xảy ra đối với trường hợp đầu, thì sự thuần nhất cũng không lâu bền, vì người Ấn Độ phải kết hôn với người địa phương. Nhiều truyền thuyết của các nước Đông Nam Á thời cổ như Phù Nam, Chân Lạp, Chămpa đã phần nào nói tới việc thiết lập các quốc gia " Ấn Độ hoá" ở vùng này.
Ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ tới Đông Nam Á , chủ yếu là sự bành trướng của một nền văn hoá có tổ chức dựa trên quan điểm Ấn Độ về vương quyền mà tiêu biểu là Ấn Độ giáo hoặc Phật giáo, văn học nghệ thuật và lấy tiếng Phạn làm phương tiện biểu đạt người Ấn không hề tiến hành ở Đông Nam Á một cuộc xâm lăng vũ trang nào và không hề thôn tính tên tuổi một quốc gia hoặc một đô thị nào. Các vương quốc " Ấn Độ hoá " chỉ có những quan hệ về mặt truyền thống với các triều vua Ấn Độ, mà không lệ thuộc về chính trị. Điều này khác hẳn sự bành trướng bằng bạo lực, bằng chinh phục của người Trung Hoa vì thế những nước Ấn Độ " chinh phục" được một cách hoà bình và bằng những ảnh hưởng văn hoá vẫn duy trì đựoc bản chất của mình và phát huy nó lên.
Tất nhiên, vai trò những người Ấn là rất lớn trong việc du nhập và truyền bá văn hoá Ấn Độ vào các nước Đông Nam Á . Nhưng, những người gốc Đông Nam Á, sau khi sang Ấn Độ về, cũng đã có một vai trò nhất định trong công việc truyền bá các phong tục và tôn giáo của Ấn Độ và đất nước mình
Lịch sử của các Quốc gia ở Đông Nam Á đã cung cấp nhiều trường hợp như vậy. Một bia ký Chămpa thế kỷ VII đã nói đến một vị có danh hiệu là Gangraja ( trị vào thế kỷ thứ V ) " nổi tiếng về đức tài, thông thái, anh dũng đã thoái vị và từ giã đất nước để đi đến sông Hằng."
Do thâm nhập chủ yếu qua văn hoá mà lại bằng những phương thức hoà bình ,nên những ảnh hưởng của Ấn Độ đã để lại những dấu ấn thật sâu sắc đối với vương quốc Chămpa cũng như đối với các quốc gia cổ đại khác ở Đông Nam Á. Thế nhưng, những ảnh của Ấn Độ chưa bao giờ xoá bỏ những truyền thống văn hoá tốt đẹp vốn có của những cư dân bản địa đã tạo điều kiện cho những ảnh hưởng Ấn Độ phát triển phù hợp trên mảnh đất mà chúng bén rễ.
Như vậy, cho đến thế kỷ V - VI, những hạt giống của nền văn minh Ấn Độ, đã được gieo trồng và bắt đầu đâm chồi nảy lộc trên mảnh đất Chămpa. Bắt đầu từ thế kỷ VII cho đến tận cuối thế kỷ XV - khi Chămpa chấm dứt sự tồn tại của mình như một quốc gia; những tài liệu văn bia, những hiện vật chất hiện còn đã cho phép chúng ta biết được về cả một chặng đường dài nhiều thế kỷ mà người Chămpa đã lựa chọn và phát triển những truyền thống văn minh Ấn Độ vào nền văn hoá của mình ra sao. Có thể nói, ảnh hưởng của Ấn Độ đã là yếu tố vô cùng quan trọng để tạo nên nền văn hoá cổ đại Chămpa cũng như những nền văn hoá rực rỡ khác ở Đông Nam Á như Ăngco, Pagan, Srivitgaja. Các nhà nghiên cứu đã có lý khi cho rằng, các nước Đông Nam Á ( Trong đó có Chămpa ) chỉ đi vào lịch sử trong chừng mực chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ, và nếu không có Ấn Độ thì chúng ta sẽ biết rất ít về quá khứ của những Quốc gia ở đây, không hơn gì quá khứ của Tân Ghinê hoặc Ôxtrâylia Thế nhưng, cũng theo nhận định của các nhà nghiên cứu và thực tế cũng đã chứng minh. Nếu nhờ ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ mà Chămpa cũng như các nước khác ở Đông Nam Á có một quá khứ lịch sử văn hoá huy hoàng, thì chính Chămpa và các nước ở khu vực Đông Nam Á, đã" trả ơn " một cách xứng đáng cho Ấn Độ. Thứ nhất lịch sử quá khứ của Đông Nam Á đã giúp người Ấn Độ rõ hơn giá trị ít nhiều mang tính" khai hoá " của chính nền văn minh của họ. Thứ hai, chính Đông Nam Á ( trong đó có Chămpa) đã cung cấp những tài liệu vô giá để hiểu Ấn Độ hơn vì ở Đông Nam Á còn giữ lại được nhiều truyền thuyết cổ mà từ lâu đã biến mất khi Ấn Độ. Do đó mà trong khoa học nghiên cứu về Ấn Độ đã hình thành hướng nghiên cứu Ấn Độ " từ Phía Đông", sau hết, ai cũng thấy một điều như S.Lêvi đã nhận xét " Ấn Độ chỉ sáng tạo ra những kiệt tác tiêu biểu nhất nhờ ở tác động từ bên ngoài hoặc trên nước người " Ăngco, Bôrobudu,Pagan, các đền tháp và điêu khắc Chămpa… là những tác phẩm kỳ diệu của văn minh Ấn Độ, nhưng lại không ở Ấn Độ.
Đúng là vai trò của Ấn Độ với lịch sử quá khứ của Chămpa cũng như các nước khác ở Đông Nam Á thật quan trọng và lớn lao. Nhưng, người Chămpa nói riêng và người Đông Nam Á nói chung đã tiếp nhận một cách chọn lọc và sáng tạo những ảnh hưởng của Ấn Độ để tạo nên nền văn hoá cổ mang đậm sắc thái riêng của chính mình chứ không sao chép từ nguyên mẫu một cách thụ động.
Do có ưu thế của một nền văn minh lớn cũng như ưu thế sớm hình thành truyền thống đúc kết và ghi chép những thành tựu chính trị, văn học, nghệ thuật, tôn giáo, phong tục…của mình thành văn bản, nền văn hoá Ấn Độ thời cổ, thông qua sự truyền bá của các nhà buôn, các sư tăng, tu sĩ… đã dễ dàng thâm nhập và bén rễ vào những cư dân bản xứ của vương quốc Chămpa sau này.
Vì mục đích chủ yếu và gần như là duy nhất của người Ấn đến Chămpa cũng như các vùng đất khác ở Đông Nam Á là buôn bán và thiết lập những cơ sở làm ăn lâu dài, nên những thương nhân, thậm chí cả những tu sĩ, sư tăng đều phải tìm cách bám trụ lại những vùng đất mới. Do không phải là những người lính đi xâm lược, đi chiếm đất, nên cách duy nhất của những Ấn ở Chămpa là thâm nhập, là hoà vào với những người bản xứ. Và, cách hay nhất, dễ nhất để làm việc đó là lấy vợ người bản xứ, là thông qua người bản xứ để truyền bá nền văn hoá của chính mình. Chính bằng con đường thâm nhập hoà bình và từ đó chính bằng cách thâm nhập qua văn hoá đó mà văn minh Ấn Độ dễ được những người dân Chămpa chấp nhận và chấp nhận khá nhanh và triệt để..
Người Ấn Độ đến với các thổ dân Chămpa cũng như các thổ dân khác trong khu vực Đông Nam Á không phải như những người văn minh đến với những người mông muội, hoặc như những người quá xa lạ đến với nhau như kiểu người Âu đến Phi Châu và Á châu ở thời cận - hiện đại.
Khi những người Ấn đầu tiên tới Chămpa, người dân ở đây không còn là những người nguyên thuỷ nữa mà đã là những cư dân của nền văn hoá phát triển không thua kém gì nhiều dân tộc ở Ấn Độ. Mặc dầu chưa có đầy đủ cứ liệu để chứng minh người Sa Huỳnh là tiền thân của người Chămpa, nhưng chắc chắn chủ nhân của nền văn hoá Sa Huỳnh - một nền văn hoá kim khí phát triển cao ở Đông Nam Á - phải là một bộ phận cư dân quan trọng của vương quốc Chămpa sau này. Về nhiều mặt, cư dân Chămpa không thua gì người Ấn cả, có thua chăng là thua cách tổ chức một xã hội ở mức cao hơn - mức quốc gia, vì khi người Ấn tới cư dân Chămpa đang còn ở giai đoạn tiền nhà nước, có thua chăng là thua ở một tư tưởng , một tôn giáo với đầy đủ hệ thống giáo lý chặt chẽ và hấp dẫn và có thua chăng là thua một hệ thống văn tự và văn bản hoàn chỉnh, tiện lợi. Hơn thế nữa, văn hoá truyền thống của các cư dân Chămpa có nhiều tương đồng và gần gũi với văn hoá của các dân tộc Ấn Độ, vì thổ dân Chămpa cũng như nước Đông Nam Á, nói chung, về mặt nhân chủng học rất gần với nhiều dân tộc Ấn Độ. Điều này giúp ta phần nào hiểu được vì sao người dân Chămpa cũng như Đông Nam Á dễ dàng chấp nhận và tiếp thu những thành tựu văn hoá, thậm chí cả những thành tựu phát triển cao hơn của Ấn Độ. Hay nói một cách khác , những truyền thống văn hoá của các cư dân Chămpa đã tìm được ở văn hoá Ấn Độ những hình thức thể hiện phù hợp nhưng ở mức cao hơn.
Những bằng chứng về khảo cổ học cũng như dân tộc học cho ta biết, khi người Ấn tới nhiều tộc người ở Đông Nam Á trong đó có những cư dân Chămpa đã sống trong một xã hội tiền nhà nước, nghĩa là trong xã hội đã có một tầng lớp tù trưởng lớn hay những thủ lĩnh lớn . Những người Ấn chắc hẳn sẽ tìm cách bén rễ vào tầng lớp xã hội bên trên này của Chămpa ở giai đoạn đầu khi họ tới đây. Truyền thuyết về Kaundinya là một trong những bằng chứng tuy hoang đường nhưng cũng phần nào phản ánh sự thực đó. Và một điều cũng rất tự nhiên là các thủ lĩnh hay các tư tưởng của Chămpa đã rất nhanh chóng tiếp nhận những cách tổ chức xã hội và chính quyền của Ấn Độ để tạo lập ra những Quốc gia những nhà nước lớn. Mà những cách tổ chức đó hay khoa học về chính trị về luật pháp đã được người Ấn Độ đúc kết thành văn bản chi tiết. Để tổ chức được một nhà nước mang tính chất vương quyền theo kiểu Ấn Độ, không thể không có tôn giáo, mà những tôn giáo đó lại sẵn ở Ấn Độ, vì thiếu một trong ba thứ đó không thể thiết lập lên một vương quyền kiểu Ấn Độ. Do đó, có thể nói, tính vương quyền hay mục đích nhằm thiết lập và củng cố vương quyền là đặc trưng đầu tiên nổi bật nhất của quá trình bành trướng và du nhập văn hóa Ấn Độ vào Chămpa cũng như vào các quốc gia cổ đại khác ở Đông Nam Á.
Các đại diện tầng lớp trên của Chămpa đã tiếp nhận, thông qua người Ấn Độ, hầu như tất cả những thành tựu văn hoá của Ấn Độ để phục vụ cho việc thiết lập và sau đó củng cố vương quyền. Ngay từ những thời kỳ đầu lập quốc, vua chúa và tầng lớp trên của Chămpa đã tiếp nhận chữ Phạn, đã học và làm theo các trước tác về khoa học chính trị và luật pháp của Ấn Độ, đã chọn Ấn Độ giáo ( chủ yếu là Siva giáo ) làm tôn giáo của triều đình.
Cũng hoàn toàn rất tự nhiên, một khi đã chấp nhận chữ viết, các văn bản thành văn và tôn giáo, vua chúa Chămpa phải học và làm theo những hình thức biểu hiện của văn bản, của tôn giáo, nghĩa là phải đọc các tác phẩm văn học tôn giáo, phải xây dựng đền tháp thờ các thần, phải chạm khắc các hình thần linh…
Ở Ấn Độ, văn học nghệ thuật, âm nhạc, sân khấu, múa, hội lễ, phong tục tập quán… đều gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, với vương quyền. Phục vụ cho thần linh, phải có đền miếu, hình tượng, hội lễ, kinh sách ( cả dưới dạng những tác phẩm văn học, nghệ thuật âm nhạc và múa phục vụ cho việc củng cố vương quyền, ngoài tổ chức chính trị, xã hội và luật pháp, và còn có nhiều thứ khác đi theo tôn giáo, cách sống , cách giải trí… chính vì thế mà chúng ta thấy rõ rệt một điều là triều đình Chămpa đã tiếp nhận gần như toàn bộ những thành tựu văn hoá của Ấn Độ, từ chữ viết, văn bản, đến kiến trúc điêu khắc, từ luật, chính trị tới văn học, ca múa, từ cách đi đứng, ăn chơi tới hệ thống đẳng cấp… Không phải ngẫu nhiên mà những gì thư tịch cổ Trung quốc và bia ký Chămpa ghi lại cũng như những tác phẩm kiến trúc và điêu khắc mà vương quốc cổ Chămpa để lại … là cả một bức tranh phong phú, sinh động và khá đầy đủ về ảnh hưởng nhiều mặt của văn hoá Ấn Độ đối với triều đình và tầng lớp trên của Chămpa.
Tất nhiên, để tạo ra đền tháp, những tác phẩm điêu khắc tuyệt mỹ, để trình diễn những bản nhạc và những vũ điệu Tây thiên đầy quyến rũ… phải có sự tham gia, thậm chí là sự tham gia chủ yếu, của những người dân bình thường đã được học hành và đào luyện kỹ lưỡng, nhưng tất cả những cái đó đều nhằm phục vụ cho vương quyền và đều cho vua chúa và tầng lớp trên của quốc gia Chămpa nằm giữ. Không phải ngẫu nhiên mà hầu như tất cả những di sản văn hoá Chămpa hiện còn đều mang tính vương quyền và phục vương quyền vì thế, chúng tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa, tính vương quyền là đặc trưng cơ bản nhất của quá trình tiếp nhận những ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ ở Chămpa. Đặc trưng này không riêng cho Chămpa mà còn chung cho cả các quốc gia cổ đại khác ở Đông Nam Á . Điều này lý giải vì sao khi các vương triều chịu ảnh hưởng Ấn Độ sụp đổ thì những ảnh hưởng Ấn Độ cũng hoặc biến mất luôn hoặc phải biến đổi cho phù hợp.
Tất nhiên, những ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ ở Chămpa cũng được dân chúng tiếp nhận, hay nói cách khác, ảnh hưởng của Ấn Độ cũng đã bén rễ ở lớp dưới của xã hội Chămpa; nhưng chủ yếu đời sống và sinh hoạt và văn hoá Chămpa dân gian. Vì vậy, khi có một sự tác động mới vào đó, hoặc theo thời gian, những ảnh hưởng đó mất đi, biến đổi hoặc bị lãng quên. Một trong những bằng chứng đầy thuyết phục cho điều này là, hiện nay khó có thể tìm thấy những ảnh hưởng của Ấn Độ trong người Chăm hiện nay. Ở những người Chăm theo Hồi giáo chúng đã được thay bằng ảnh hưởng của Đạo hồi, còn ở những người Chăm Bàlamôn, thì chúng đã bị hoà nhập vào những yếu tố văn hoá dân gian truyền thống rồi. Kết quả là, những dấu tích còn lại duy nhất cũng như những gì đã được ghi lại thành văn về ảnh hưởng của Ấn Độ đối với Chămpa, lại đều liên quan tới triều đình và tầng lớp trên, hay nói một cách khác, là gắn với văn hoá cung đình của Chămpa. Vì vậy, nói đến ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ ở Chămpa cổ, nghĩa là chủ yếu nói đến những dấu ấn của Ấn Độ trong văn hoá cung đình. Ấn Độ là một trong những nền văn hoá lớn nhưng khác với Trung hoa hay đế chế LaMã, người Ấn Độ đem văn hoá mình đến cac quôc gia khác băng con đường hoà bình. Một trong những hướng đi mà người Ấn Độ đã chọn, chính là hướng Đông, gió mùa đã dẫn dắt họ đi. Và điểm dừng chân trong hành trình đó khi đến Việt Nam, họ đã chọn Chămpa.
Bắt đầu từ sự xâm nhập của các thương lái vượt biển xa đến đây, văn hoá Ấn Độ dần bén rễ và bắt nhịp vào cuộc sống của xã hội Chăm. Ở mức độ này hay mức khác văn hoá Ấn Độ có thể chỉ đựơc tiếp nhận mạnh mẽ bởi vương quyền Chămpa hoặc chưa tạo lập được ảnh hưởng rộng trong đời sống dân gian. Mặc dầu vậy, một điều không thể phủ nhận đựơc là: những ảnh hưởng Ấn Độ đã góp một phần cực kì quan trọng vào quá trình hình thành ra vương quốc Chămpa cũng như một nền văn hoá phát triển rực rỡ và đầy bản sắc - văn hoá Chăm. Ngược lại chính Chămpa, văn hoá Chămpa đã góp phần làm nên sức sống cũng như giá trị cho Ấn Độ và nền văn minh Ấn Độ.
2.2. Yếu tố bản địa trong quan hệ văn hoá Chăm - Ấn Độ
Cũng như ở những quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á vì tiếp nhận những yếu tố văn hoá Ấn Độ để phục vụ cho vương triều, nên vua chúa và tầng lớp trên của Chămpa đã làm cho những ảnh hưởng Ấn Độ nhanh chóng bén rễ và trùm lên khắp các lĩnh vực văn hoá cung đình. Chữ viết Ấn Độ được dùng như một dạng chữ thiêng, các trước tác và kinh bổn của Ấn Độ đựơc đem ra học tập và áp dụng, đền đài miếu mạo được dựng lên thờ các thần Ấn Độ, các nghi lễ, các trò chơi giải trí của Ấn Độ luôn diễn ra trong cung cấm để phục vụ cho những mục đích khác nhau của vua chúa…
Cũng vì nhằm mục đích phục vụ vương triều nên các vua chúa Chămpa đã phải nhanh chóng biến những ảnh hưởng của Ấn Độ cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước và dân chúng của mình. Dù có nhiều nét chung đến mấy đi nữa, thì đối với Chămpa, văn hoá Ấn Độ vẫn cứ là từ bên ngoài vào và có nhiều điều xa lạ đối với văn hoá truyền thống của Chămpa. Vì vậy không có sự thay đổi, thì những yếu tố Ấn Độ khó có thể nhập đựơc vào mảnh đất Chămpa. Người đầu tiên phải làm công việc này, không phải là ai khác, mà chính là vua chúa và tầng lớp trên của triều đình Chămpa. Nhờ vậy, chỉ sau một thời gian ngắn, những cái vỏ, những hình thức biểu hiện của Ấn Độ đã nhanh chóng đựơc khuôn vào những nội dung truyền thống bản địa và góp phần đẩy những nội dung đó lên một cấp độ cao hơn.
Với bia ký Đông Yên Châu ( Quảng Nam - Đà Nẵng ) thế kỉ IV - V, Chămpa là quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á đã dựa trên văn tự Ấn Độ sáng tạo ra chữ viết của mình. Từ đó trở đi, ở Chămpa, bên cạnh chữ Phạn, đã tồn tại và phổ biến chữ viết của người Chăm. Sau nhiều lần cải tiến từ dạng chữ vuông đến chữ nét cuốn, văn tự một ngày một hoàn hảo để trở thành dạng chữ viết phổ biến ở người Chăm hiện nay.
Cũng ngay từ thế kỷ IV - V, bia Đông Yên Châu cho chúng ta biết, bên cạnh thờ các vị thần Ấn Độ, các vua chúa Chăm còn duy trì tín ngưỡng bản địa - thờ thần rắn. Bên cạnh thờ thần rắn, các vị thần bản địa cũng dần dần đựơc đẩy lên ngang tầm với các vị thần tối thượng Ấn Độ và nhập vào cái vỏ của thần thoại Ấn Độ. Ví dụ điển hình cho hiện tượng này là sự tôn kính và sùng bái của các vua chúa Chămpa dành cho nữ thần Mẹ của xứ sở - nữ thần Pô Inư Nagar. Muộn hơn việc thờ Pô Nagar là việc triều đình và dân chúng Chămpa đã thần hoá một số vị vua có công với nước như Pô Kaung Garai (1151 - 1205 ). Pô Rômê ( 1627 - 1651 )… và nhờ các vị vua đó dưới dạng Siva tại các tháp lớn. Hiện tượng thờ thần vua ở Chămpa chỉ là một hình thức cao hơn của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên truyền thống của người Chăm. Khi tôn giáo của Ấn Độ ngự trị trong triều đình Chămpa, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không những mất đi mà còn được đẩy cao lên tới tầm cỡ tôn giáo. Các bia ký cổ Chămpa luôn nói tới các vua, các đại thần dựng thánh đường thờ những tổ tiên đã mất dưới dạng các vị thần Ấn Độ. Đặc biệt, đối với các vua, hình thức thờ phụng tổ tiên còn được huyền thoại hoá, được bọc bên ngoài lớp vỏ linh thiêng nhất, cao nhất của các tôn giáo Ấn Độ.
Đúng là các vua chúa Chămpa đã tiếp thu khái niệm " vua là hiện thân của thần linh trên mặt đất " của Ấn Độ. Nhưng việc thần hoá vua ở Chămpa đã nhập luôn vào tục thờ cúng tổ tiên truyền thống. Vì vậy, nếu như ở Ấn Độ vua chỉ được thần hoá trong quan niệm, thì ở Chămpa, vua có được lập thân vào vị thần tối thượng và được thờ phụng như thờ một vị thần tối thượng. Các bia kí cho chúng ta biết, ngay thánh đường dựng đầu tiên ở thánh địa Mĩ Sơn vào thế kỉ V đã là đền thờ thần vua rồi. Từ thời điểm đó trở đi, các vị vua Chămpa luôn được thần hóa, được chôn cất và thờ phụng ngay ở những tháp thờ các vị thần Ấn Độ. Hơn thế nữa, sau khi chết, nhiều vua Chămpa còn được phong miếu hiệu. Mà miếu hiệu của các vua Chămpa bao giờ cũng có nghĩa là hoà nhập vào một vị thần tối thượng nào đó. Không phải ngẫu nhiên mà người Chăm hiện nay gọi tháp thờ các vị thần Balamôn là Kàlằn ( Lăng mộ) hay mun kàlằn ( đền lăng ).
Ngay ở tục thờ phụng tổ tiên các vị thần bản địa thôi chúng ta đã thấy cái vỏ vững chắc nhất của Ấn Độ - cái vỏ tôn giáo - đã phải bị vỡ ra để nhập vào những truyền thống bản địa như thế nào ở Chămpa. Cũng thật tự nhiên và hợp quy luật, một khi cái hạt nhân đã biến đổi, sẽ kéo theo những biến đổi khác của những thành tố phụ trợ. Do việc thờ thần hoà nhập vào với tục thờ vua và tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên nên chức năng của các thánh đường Chămpa phải chuyển thành chức năng của đền lăng. Mà một khi nội dung thay đổi thì các hình thức thể hiện nội dung đó cũng phải biến đổi theo, chính vì thế, tuy vẫn trung thành phỏng theo mô hình và các đề tài Ấn Độ, tháp thờ, các hình tượng thờ phụng, hay nói một cách khác là nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc cổ của Chămpa, vẫn có sắc thái riêng, vẻ đẹp riêng, chứ không giống hệt những nguyên mẫu của Ấn Độ.
Cho dù văn hóa Ấn Độ có cả một quá trình ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài nền văn hoá Chămpa thì những yếu tố bản địa vẫn tìm cách vượt lên để khẳng đínhức sống mãnh liệt và tiềm tàng của nó. Nếu như Ấn Độ hiện hữu với thiếu nữ ApSara hay vũ điệu quồng nhiệt Tanđava, thì trong cuộc sống sinh hoạt của người Chăm vẫn tồn tại những điệu múa cổ gắn liền với cộng đồng - Đó là múa vãi chài miêu tả cuộc sống đi biển, vượt sóng hay đánh bắt cá của người Chăm, múa pụ ( đội nước ) thể hiện những điệu bộ động tác múa di chuyển, đội nước của các cô gái Chăm - một việc làm , một nhu cầu trong đời sống khô hạn, khắc nhiệt trên xứ sở Chămpa. Rồi múa lửa hay múa Piđiền ( múa chim công ) đều thể hiện trong đó những nội dung, quan niệm, phong cách của người Chăm.
Cũng như múa, trong âm nhạc Chăm dù cho sự hiện diện của các loại nhạc cổ Ấn Độ, nhưng người Chăm có những loại nhạc cụ truyền thống đặc trưng như trống baramưng, kèn saranai., nhị muarùa ( kanhí ) họ cũng có thể biến đổi, hay thể hiện những nhạc cụ Ấn Độ theo phong cách Chăm.
Như vậy, trong ba nguồn gốc của văn hoá Chăm, nguồn ảnh hưởng Ấn Độ có vẻ nổi bật nhất, nhưng thực chất thì nguồn bản địa và khu vực mới giữ vai trò quan trọng. Thực tế, có lẽ phần lớn người Chăm bình dân không hề biết đến các triết lý Bàlamôn giáo cùng các vị thần, các truyền thuyết Ấn Độ xa lạ. Đó là việc của các sỹ Bàlamôn. Tu sĩ Bàlamôn thì chỉ đạo xây dựng đền, tạc tượng theo những khuôn mẫu Ấn Độ, con người nghệ sỹ dân gian thì xây và tạc theo cảm hứng và những khuôn mẫu truyền thống của nhân dân mình.
Từ chỗ cả ba vị thần BalaMôn đều được dựng tháp thờ khi đạo này mới du nhập dần chỉ có một mình Siva được đề cao bởi lẽ tính cách Siva phù hợp hơn cả tính cách bản địa của người Chăm. Và trong Siva muôn mặt với hàng trăm tên chỉ có Siva dưới dạng Linga hoặc với Linga được phổ biến bởi lẽ tục thờ cột đá như một dạng tín ngưỡng phồn thực vốn là truyền thống lâu đời của người nông nghiệp. Cuối cùng, Siva thì được hình dung thành người Chăm (ngay cả con bò thần Nanđin cũng được thể hiện dưới dạng con trâu quen thuộc) còn Linga thì ở chỗ này được thay bằng ông vua – anh hùng dân tộc Chăm,ở chỗ khác thì được thay bằng nữ thần Mẹ quê hương xứ sở. thành ra trên thực tế, thần Siva cùng bạn bè, bộ hạ của ông với những lý lịch Ấn Độ xa lạ chỉ còn tồn tại trong ý nghiã của tầng lớp trí thức và tu sĩ Bàlamôn, đối với số đông người dân Chăm, Thần Siva, tượng Linga... chỉ là hình thức, còn ước vọng phồn thực và lòng sùng kính các Nữ thần địa phương, các anh hùng dân tộc mới là nội dung. Cũng dễ hiểu khi đạo Bàlamôn xa lạ đã được người Chăm biến cải thành Đạo Bà Chăm gần gũi, đạo Bà Chăm này đã không còn là BalaMôn giáo Ấn Độ nữa mà chỉ có thể xem như một biến thể của nó. Bởi người Chăm luôn hướng tới cội nguồn và mảnh đất xứ sở nơi mình đã sinh ra và lớn lên.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ BIỂU HIỆN CỦA ẢNH HƯỞNG VĂN HOÁ ẤN ĐỘ ĐẾN VĂN HOÁ CHĂM
3.1. Ngôn ngữ, chữ viết, văn học và lịch pháp
Khi nghiên cứu quá trình bành trướng và du nhập ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ vào Đông Nam Á, các nhà khoa học cho rằng, các trước tác được ghi chép thành văn bản (sastra) của Ấn Độ đóng một vai trò cực kì quan trọng. Thậm chí, có nhà nghiên cứu còn đánh giá tầm quan trọng của sách vở lớn hơn cả vai trò của người Âu trong việc truyền bá ảnh hưởng của Ấn Độ ở Đông Nam Á. Ví dụ, trong công trình “ảnh hưởng của Ấn Độ trong vùng Thái Bình Dương” W.F Stutterheim cho rằng: “Toàn bộ nền văn hoá Ấn Độ ở Inđônêxia đã được học tập trong sách vở, còn người Ấn chỉ đóng một vai trò không đáng kể, thậm chí còn không đóng một vai trò nào cả”. Có thể ý kiến trên có phần hơi thái quá, nhưng một điều chắc chắn là ở Chămpa cũng như ở một số quốc gia cổ đại khác trong khu vực Đông Nam Á, những tác phẩm văn của Ấn Độ có vai trò không phải là nhỏ trong việc truyền bá và củng cố những ảnh hưởng của văn minh Ấn.
Như đã đề cập ở phần trước, hầu như tất cả những trước tác về luật pháp chính trị và tôn giáo của Ấn Độ đều đã có mặt ở Chăm pa, được các vua chúa Chămpa áp dụng và ưa thích. Tất nhiên, cái chìa khoá để hiểu được những tác phẩm văn đó không thể là cái gì khác ngoài ngôn ngữ và chữ viết. Chỉ qua những gì hiện có và được biết chúng ta đã thấy chữ Phạn (Sanskrit) đã được người Chămpa tiếp thu từ thế kỷ dầu công nguyên. Bia Võ Cạnh (tấm bia cổ nhất bằng chữ Phạn ở Đông Nam Á) với cách viết rất gần với kiểu viết của các bia ký Amaravati ở Nam Ấn Độ, đã được các nhà nghiên cứu định niên đại thế kỷ 3-4 là bằng chứng đầu tiên về sự du nhập chữ Phạn vào Chămpa. Từ thời điểm đó cho tới khi Vương quốc Chămpa chấm dứt dưới sự tồn tại của mình, chữ Phạn luôn là chữ viết được dùng trong triều đình Chămpa. Một điều rất đặc biệt là diễn biến dạng tự chữ Phạn ở Chămpa gần như đồng thời với sự biến đổi ở Ấn Độ.
Nếu nhìn vào sự tiến triển của văn tự Sanskrit ở Chămpa, ta thấy từ trước thế kỷ 4 mà bia Võ Cạnh là tài liệu duy nhất chữ viết có dạng cong của Nam Ấn, sau đó, trong những thế kỷ từ 6-8 lại có dạng tự vuông của Bắc Âu, rồi từ thế kỷ 8 trở đi dạng tự chữ Phạn của Chămpa chuyển sang kiểu tròn Nam Ấn. Ngay sự diễn biến của chữ Phạn ở Chămpa cũng phần nào chứng tỏ giữa Ấn Độ và Chămpa thời cổ luôn có sự giao lưu thường xuyên về văn hoá.
Cũng như ở các nước khác trong khu vực Đông Nam Á, người Chămpa đã sớm tiếp thu hệ thống văn tự cổ Ấn Độ để sáng tạo ra chữ viết của chính mình. Theo những tài liệu hiện được biết, một điều mà chúng ta biết chắc là: Chămpa là một quốc gia có chữ viết sớm nhất ở Đông Nam Á. Ngay vào thế kỉ 4-5, vua Bhađravanrman đã cho khắc tấm bia (bia Đông Yên Châu) bằng chữ Chămpa cổ nói về vị thánh Naga của nhà vua. Xét về mặt dạng tự chữ Chămpa cổ được viết theo dạng cong như của Nam Ấn. Sau đó từ thế kỷ 13 trở đi, chữ Chămpa trở lại nét cong và móc nhưng phóng khoáng hơn.
Ngay ở bia Đông Yên Châu đã xuất hiện xu hướng cải biên văn tự kiểu chữ thảo (chữ cong - akhar thrah) của Ấn Độ bằng cách bỏ các kí hiệu phụ ghi âm vốn không có trong tiếng Chăm . Sau đó , một số kí hiệu được bổ sung, một số kí hiệu viết trên hoặc dưới dòng được đưa về cùng hàng với kí hiệu cơ bản. Theo các nhà nghiên cứu, tiếng Chăm có 65 kí hiệu, trong đó có 41 chữ cái (6 nguyên âm a và 35 phụ âm) và 24 chân chữ bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo (akhar thrah) của Ấn Độ. Nhà nghiên cứu ngôn ngữ và chữ viết Chăm nổi tiếng A.Cabaton cho rằng, trong suốt quá trình lịch sử, người Chăm đã dùng một số kiểu chữ Ấn Độ như akharik (chữ Thánh), akharkalaming (chữ con nhện), akhartapuk (chữ sách) akharjok (chữ thần bí), akharator (chữ treo) và phổ biến hơn cả là akharthrah (chữ thảo). Chữ thảo là loại chữ mà người Chăm hiện còn dùng và E.Aymonier và A.Cabaton sử dụng để biên soạn từ điển Chăm - Pháp vào năm 1906. Ngoài những tài liệu bia kí, các sử liệu Trung Quốc còn cho chúng ta biết, ngay từ trước thế kỷ 7, người Chăm đã dùng văn tự của mình để ghi chép kinh sách và trao đổi thư từ. Sử liệu Trung Quốc cho biết vào năm 605, Lưu Phương - vị tướng nhà Tuỳ đem quân đánh Lâm Ấp và đã thu về hơn 1.350 bộ kinh Phật và nhiều sách viết bằng chữ Chiêm Bà ... Hiện nay, ngoài chữ thảo được dùng trong những mục đích thế tục, người Chăm còn sử dụng loại chữ akhartapuk (chữ sách) để ghi trên những thẻ lá buôn, một số thi phú cổ.
Do nhiều nguyên nhân lịch sử, chúng ta hiện nay không có một văn bản văn học cổ nào của người Chăm. Nhưng bia kí và những tác phẩm nghệ thuật điều khắc lại cho biết hầu như tất cả những tác phẩm văn học cổ đại nổi tiếng của Ấn Độ đều có mặt và được biết đến ở Chăm pa. Bia ký thế kỷ 7-8 của hai vị vua Vikrantavarman I và II có nói tới việc dựng đền thờ cho đại Rsi Valmiki” tác giả của bộ sử thi cổ đại nổi tiếng Ramayara của Ấn Độ. Việc thờ Valmiki, chứng tỏ ngay từ thế kỷ 7, tác phẩm Ramayana của Ấn Độ đã phải được biết đến, nếu không nói là được ưa thích ở Chămpa. Tuy không có văn bản nhưng chúng ta biết chắc là cho đến tận thế kỷ 15, sử thi Ramayana vẫn còn được lưu truyền ở Chămpa. Bằng chứng là, trong Lĩnh Nam Chích quái - tập truyện cổ dân gian thế kỷ 15 của người Việt do Vũ Quỳnh, Kiều Phú biên soạn - có truyện Lĩnh Nam Chích Quái, tuy rất ngắn, nhưng lại tóm tắt được hầu như toàn bộ nội dung sử thi Ramayana của Ấn Độ. Truyện kể lại rằng: “Thời thượng cổ, ở ngoài nước Âu lạc có nước Diệu Nhiêm . Chúa nước ấy hiên là Dạ Thoa Vương, còn gọi là Trường Minh Vương hay Thập Đầu Vương (vua 10 đầu). Nước này phía Bắc giáp Hồ Tôn Tinh quốc. Nước Hồ Tôn Tinh có vua là Thập Xa Vương (vua 10 xe) có thái tử là Vi Bà. Vợ Vi Bà là Bạch Tinh Chiếu Nương dung mạo rất đẹp đẽ. Dạ Thoa nghe nói, rất thích bèn đánh Hồ Tôn để cướp vợ Vi Bà. Vi Bà tức giận, bèn đem loài vượn đi hầu phá núi, lấp bể thành đường phẳng để công phá nước Diệu Nhiêm, giết Dạ Thoa Vương cướp vợ y mà trở về. Chúng ta có thể nhận thấy ở Truyện Dạ Thoa những nguyên mẫn nhân vật và địa danh của Ramayana: Nước Diệu Nhiên chính là đảo Lanka, Dạ Thoa Vương là quỷ Ravana mười đầu. Hồ Tôn Tinh quốc là nước Kosala, Thập Xa Vương - vua Dasaratha, thái tử Vi Bà - Rama, Bạch Tinh chiếm Nương - Si Ta đoàn quân vượn - đoàn quân khỉ của Hanuman.
Có lẽ hiện vật vật chất duy nhất còn loại chứng tỏ sự hiện diện của sử thi Ramayana ở Chămpa là bốn bức phù điện thế kỷ 10 (hiện có ở Bảo Tàng Chăm - Đà Nẵng) minh hoạ một vài cảnh rút từ sử thi. Tuy không đầy đủ nhưng ta dễ nhận ra các nhân vật chính của Ramayana là Rama, Si Ta HaNuman, Laksman ... trên bốn bức phù điên này của Chămpa.
“Viện các bia kí ở Đông Dương và Pô - Nagar mà chúng tôi đã dẫn nói tới các vị tổ huyền thoại của các vua Chămpa là những người trong dòng họ Parđava đã phần nào nói lên sự phổ biến của bộ sử thi nổi tiếng thứ 2 của Ấn Độ - sử thi Mahablarata - ở Chămpa. Theo nghiên cứu gần đây của chúng tôi bức phù điêu mang kí hiệu 47-70 ở Bảo tàng Chăm Đà Nẵng có xuất xứ từ thành Bình Định thể hiện cảnh Acgiunna cùng hoàng tử Utara ra trận - một trong những tình tiết quan trọng của sử thi Mahabharata.
Theo G.Xơdes những hình khắc trên bốn mặt của bệ tượng Trà Kiệu (thế kỉ 10) nổi tiếng thể hiện các cảnh tiêu biểu rút ra từ bộ Bhagavata pivana. Như vậy là, không chỉ các bộ sử thi mà các truyện cổ tích (pinara) của Ấn Độ đã có mặt ở Chămpa.
Nếu rút ra rồi lên danh sách tên các vị thần mà bia kí nhắc tới hoặc các hình điêu khắc thể hiện, thì có thể nói, hầu như tất cả các tôn giáo chính của Ấn Độ đều được thờ phụng hay được nhắc tới ở Chămpa. Hơn thế nữa._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0173.doc