Ảnh hưởng của vận động hành lang tới vụ kiện cá tra, cá basa của VN

Mục lục Lời nói đầu 3 Chương 1: ảnh hưởng của vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa. 4 1.1 Tổng quan về vụ kiện cá tra, cá basa của Mỹ đối với Việt Nam 4 1.2 Quá trình vận động hành lang trong vụ kiện 8 Chương 2: Phân tích ảnh hưởng của vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa. 13 2.1 Khái niêm về vận động hành lang 13 2.1.1 Định nghĩa vận động hành lang 13 2.1.2 Phương thức vận động hành lang trên thị trường Mỹ 13 2.1.3 Tác dụng và ý nghĩa của vận động hành l

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Ảnh hưởng của vận động hành lang tới vụ kiện cá tra, cá basa của VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ang 15 2.1.3.1 Tác dụng 15 2.1.3.2 ý nghĩa 17 2.1.4 Sự cần thiết của vận động hành lang 18 2.2 Vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa của Việt Nam 19 2.2.1 Sự vận động hành lang của vụ kiện cá tra, cá basa 19 2.2.2 ảnh hưởng của vận động hành lang trong vụ kiện 24 2.3 Nguyên nhân, ưu điểm, nhược điểm của Việt Nam trong vụ kiện 26 2.3.1 ưu điểm 26 2.3.2 nhược điểm 26 2.3.3 Nguyên nhân 27 Chương 3: Bài học kinh nghiệm và giải pháp về vận động hành lang đối với chính phủ và các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế 29 3.1 Bài học kinh nghiệm 29 3.2 Giải pháp 31 Kết luận 33 Danh mục tài liệu tham khảo 34 Lời nói đầu Trong những năm gần đây, quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức nhanh chóng thông qua các hiệp định song phương, đa phương giữa các quốc gia. Trong quá trình này, hợp tác kinh tế quốc tế là khía cạnh quan trọng nhất và giành được sự ưu tiên nhiều nhất trên các bàn đàm phán. Cũng giống như các nước khác, Việt Nam đang tham gia tích cực vào quá trình toàn cầu hoá này. Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với khoảng 170 nước trên thế giới, là thành viên của khu vục mậu dịch tự do ASEAN, đã kí kết nhiều hiệp định song phương với nhiều nước trên thế giới và chúng ta vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh quá trình hợp tác hoá cả về chất lượng và số lượng, đặc biệt là về kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta mới chuyển đổi từ nền kinh tế tập chung hoá sang nền kinh tế thị trường được một thời gian ngắn vì vậy nền kinh tế thị trường của chúng ta còn nhiều nhược điểm và kinh nghiệm kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp còn hạn chế. Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành công nhưng chúng ta cũng gặp không ít các thất bại trên thị trường quốc tế mà lí do chính là chúng ta không nắm rõ luật chơi trên các thị trường này. Một trong các ví dụ điển hình là vụ kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa của Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ (CFA). Trong vụ kiện này CFA đã tận dụng hoạt động Vận động hành lang và đây là lí do quan trọng để họ giành được chiến thắng. Vì vậy để làm rõ về vận động hành lang và tác động của vận động hành lang đối với hoạt động kinh doanh quốc tế, đặc biệt là đối với các tranh chấp kinh tế quốc tế tôi xin viết đề án này với đề tài “ ảnh hưởng của vận động hành lang tới vụ kiện cá tra, cá basa của Việt Nam”. Do trình độ hạn chế nên đề án còn nhiều thiếu sót, em rất mong được sự góp ý kiến của thầy cô giáo và bạn bè để nâng cao chất lượng của đề án này và rút kinh nghiệm cho các bài viết sau. Xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Tạ Lợi đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề án này. Chương 1: ảnh hưởng của vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa của Việt Nam Tổng quan về vụ kiện cá tra, cá basa của Mỹ đối với Việt Nam Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra, cá basa sang thị trường Mỹ vào năm 1996. Năm 1998, lượng cá lát catfish không xương đông lạnh của Việt Nam xuất sang đây mới chỉ có 260 tấn. Nhưng đến cuối năm 2001, con số ấy đã vọt lên 7.746 tấn. Với giá thành rẻ hơn từ 0,08 đến 1USD/pound và chất lượng không thua kém catfish Mỹ, cá Việt Nam đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiêu thụ catfish của Mỹ, bằng chứng là tổng giá trị catfish bán ra của Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA) giảm mạnh, từ 446 triệu USD năm 2000 xuống còn 385 triệu USD năm 2001. Dưới sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ từ các sản phẩm cá của Việt Nam, CFA đã phải hành động nhằm đánh bật con cá của Việt Nam ra khỏi thị trường Mỹ. 9/2001 vụ kiện bắt đầu nổ ra bằng việc Mỹ mở cuộc chiến về tên gọi catfish đối với sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này. CFA dựa vào Luật Ngân sách nông nghiệp 107-76 của Mỹ để cấm loại cá này của Việt Nam được nhập vào nước này với tên gọi catfish và đạo luật HR.2646 cấm hoàn toàn việc dùng tên catfish cho các loại cá tra, cá basa của Việt Nam trong tất cả các khâu bán lẻ, bán sỉ, nhà hàng, thông tin, quảng cáo... trong vòng 5 năm. Chưa dừng ở đây, CFA vin tiếp vào điều khoản 10806 của đạo luật An ninh nông trại và Đầu tư nông thôn mới nhất để xác lập chủ quyền tuyệt đối trên thương hiệu catfish. Tháng 12/2001, bất chấp sự phản đối từ phía Việt Nam, Quốc hội Mỹ đã thông qua lệnh cấm tạm thời (có hiệu lực tới ngày 30/9/2002), theo đó, chỉ có catfish của Mỹ mới được gọi là catfish, còn cá của Việt Nam phải được gọi bằng tên basa hay tra. Sau khi dự luật được thông qua, nó đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ không chỉ của dư luận Mỹ mà còn chịu sự phản đối của dư luận thế giới. Thượng nghị sĩ Phil Gramm, bang Texas khẳng định: “ Những người kiếm sống trong ngành khoa học nuôi cá gọi nó là catfish, vậy cớ sao chúng ta(Quốc hội Mỹ) lại muốn gọi nó khác đi”. Ông Gramm cùng thượng nghị sĩ John Mccain đưa ra một điều khoản bổ xung nhằm bác bỏ dự luật cấm Việt Nam sử dụng nhãn catfish, tuy nhiên, đề nghị của hai ông đã bị bác bỏ (theo báo Washington Post ngày 27/122001). Sau khi giành chiến thắng về tên gọi catfish, Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA) tiếp tục mở một cuộc tấn công khác: khởi kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa. Theo Timothy R. Brown, tác giả bài viết “Ngành nuôI cá catfish Mỹ tiếp tục chiến đấu” đăng trên AP ngày 26/2, khơI mào chiến dịch mới chính là những ngư dân ở thành phố Indianola (bang Mississipi, nơi đóng đô của CFA và chiếm tới 94% sản phẩm catfish của toàn bộ miền Nam nước Mỹ). Nhóm ngư dân này sẽ thuê hẳn một vài chuyên gia tầm cỡ từ Washington hỗ trợ cho các văn phòng tư vấn luật của bang, nhằm nỗ lực chuẩn bị cho đòn trừng phạt đối với cá giá rẻ của Việt Nam. Phó chủ tịch điều hành CFA Hugh Warren quy chụp cho những lô cá xuất khẩu của Việt Nam là những sản phẩm rẻ tiền, kém chất lượng mà người ta không thể tìm thấy ở một xưởng sản xuất cỡ gia đình như các trại cá của Mỹ. Ông này cho rằng, mặc dù sản phẩm rẻ tiền của Việt Nam đang chiếm tới 20% thị phần và hấp dẫn những nhà hàng, khách sạn, nhưng “ những nhà hàng, khách sạn này chỉ quan tâm tới giá cả chứ chẳng để ý đến chất lượng của sản phẩm”. Phóng viên Timothy nhận xét một cách khách quan rằng, những người nuôI cá catfish Mỹ không thể chạy đua về giá với sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam bởi chi phí đầu vào (đặc biệt là về nhân công và thuế ) quá cao. Trước sức ép của cá da trơn đến từ Việt Nam, giá catfish Mỹ đã rớt thê thảm, từ 0.74 USD/ pound năm 2000 xuống còn 0.58 USD, thậm chí có lúc chỉ khoảng 0.2 USD/ pound. Theo Phó chủ tịch Warren: “ Mức giá như vậy không đủ bù cho chi phí sản xuất. ít nhất phải bán được 65-70 cent/ pound, may ra người nuôi cá mới có thể hoà vốn”. Ngày 28/6/2002, CFA đã đệ đơn kiện lên Uỷ ban hiệp thương Quốc tế Mỹ (ITC). Họ đã tính toán rất kĩ lưỡng trong cuộc đi kiện lần này, bằng chứng được thể hiện ngay từ cách nộp đơn kiện của họ: nộp đơn vào đúng lúc 4 giờ chiều ngày làm việc cuối cùng trong tuần (thứ 6, ngày 28/6). Theo luật Mỹchỉ sau 20 ngày nhận đơn kiện, bên bị kiện sẽ phải điều trần trước ITC. Như vậy, phía Việt Nam đã mất đI 3 ngày để chuẩn bị. Là đơn kiện nhưng khối lượng rất đồ sộ với hơn 200 trang kèm theo 37 phụ lục, trong đó phân tích chi tiết về tình hình thị trường cá nheo Mỹ, thị phần cá da trơn filê đông lạnh của Việt Nam tại Mỹ cũng như ảnh hưởng của sản phẩm “rẻ tiền” (theo cách gọi của CFA) đối với ngành sản xuất trong nước. Chưa dừng lại ở đó, CFA tiếp tục chiến dịch của mình bằng cách nộp đơn lên Bộ Thương mại Mỹ (DOC) cho rằng, đã xuất hiện “tình trạng khẩn cấp”.để chứng minh điều đó CFA đã đưa ra các luận điểm: + Các nhà xuất khẩu Việt Nam biết cá tra, cá basa filê đông lạnh bị bán phá giá. + Các nhà xuất khẩu có thông tin về việc áp thuế chống phá giá đối với công ty của mình với mức 25% hoặc cao hơn nữa trong giai đoạn điều tra ban đầu của DOC. + Các nhà xuất khẩu Việt Nam đã tăng số lượng hàng sang Mỹ sau khi CFA nộp đơn yêu cầu điều tra chống phá giá . + Tính từ ngày 28/6/2002, số lượng hàng xuất khẩu sang Mỹ tăng ở mức 15% hoặc cao hơn nữa so với thời gian trước ngày nộp đơn yêu cầu điều tra chống phá giá. + Cần áp dụng hồi thuế chống phá giá để đảm bảo hiệu quả của thuế chống phá giá sẽ được ban hành vào ngày 24/1/2003. Tháng 11/2002 bất chấp sự phản đối từ phía Việt Nam, DOC đã kết luận Việt Nam là nước có nền kinh tế phi thị trường, việc kết luận này dựa trên đánh giá theo các tiêu chí của Mỹ nó đặt cơ sở cho việc xem xét áp dụng mức thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng cá tra, cá basa của Việt Nam. Ngày 28/1/2003, DOC tạm thời xác định mức thuế chống bán phá giá đối với cá tra, cá basa của Việt Nam trong khoảng từ 31,45% - 63,88% tuỳ theo nhóm mặt hàng và doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá basa của nước ta. Cụ thể như sau: Tên công ty Mức thuế Agifish 31,45% Cataco 41,06% Nam Việt 38,09% Vĩnh Hoàn 37,94% Các công ty khác có tham gia vụ kiện 36,76% Các công ty không tham gia vụ kiện 63,88% Tháng 3/2003, DOC đã cử đoàn quan chức sang Việt Nam để nghiên cứu điều tra tình hình sản xuất cá tra, cá basa tại các tỉnh vùng DBSCL của Việt Nam để xác định lần cuối mức thuế xuất chống bán phá giá. Các doanh nghiệp Việt Nam đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của đoàn điều tra và chứng minh năng lực cạnh tranh dựa trên quy trình tổng hợp khép kín, từ sản xuất con giống, nuôi cá thương phẩm, đến chế biến và xuất khẩu các sản phẩm cá tra, cá basa. Tuy nhiên, đoàn điều tra của DOC đã bác bỏ các tài liệu từ phía các doanh nghiệp đưa ra và không công nhận quy trình khép kín trong việc sản xuất cá tra, cá basa. Họ chỉ chấp nhận tính giá thành sản phẩm này từ khâu chế biến và đem so sánh nó với nước thứ 3 là Bangladesh một nước không có quy trình sản xuất khép kín như Việt Nam. Đầu tháng 5, Bộ Thương mại Mỹ đã gợi ý Bộ Thương mại hai bên sẽ tiến hành đàm phán “ về một thoả thuận về đình chỉ vụ kiện” này. Từ 2-9/5/2003, hai bên đàm phán, nhưng do quan điểm của hai bên rất khác nhau, cả về phương pháp luận và mức độ tiếp cận thị trường Mỹ cho mặt hàng cá tra, cá basa filê đông lạnh của Việt Nam nên hai bên đã không đạt được thoả thuận cuối cùng. Ngày 17/6/2003, ITC mở phiêu điều trần vể vụ kiện cá tra, cá basa . Trong buổi điều trần này, đại diện của chính phủ Việt Nam và đại diện của VASEP đã phát biểu trước ITC về vụ kiện này và yêu cầu Mỹ xem xét vụ kiện một cách khách quan. Tuy nhiên, đến ngày 23/7/2003 ITC đưa ra phán quyết cuối cùng về vụ kiện cá tra, cá basa. Theo đó, cơ quan này đã khẳng định các doanh nghiệp Việt Nam bán cá tra, cá basa vào thị trường Mỹ thấp hơn giá thành, gây tổn hại tới ngành sản xuất cá da trơn của Mỹ và ấn định mức thuế suất bán phá giá rất cao, từ 36.84-63.88%.Cụ thể như sau: Tên công ty Mức thuế Agifish 44,76% Cataco 45,55% Nam Việt 52,90% Vĩnh Hoàn 36,84% Các công ty khác có tham gia vụ kiện 44,66% Các công ty không tham gia vụ kiện 63,88% Sau khi đưa ra phán quyết thiếu công bằng, đến ngày 7/8/2003, Bộ Thương mại Mỹ chính thức công bố áp đặt thuế chống bán phá giá đối với 11 doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu mặt hàng filê đông lạnh cá tra, cá basa vào thị trường này.Về phía Việt Nam, sau khi lấy ý kiến, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam đều nhất trí tiếp tục theo đuổi vụ kiện. VASEP sẽ nộp đơn kiện lên toà án quốc tế thương mại Mỹ. quá trình vận động hành lang trong vụ kiện Năm 1998, lượng cá tra, cá basa filê đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ chỉ có 260 tấn, nhưng đến năm 2001 con số này đã tăng vọt lên 7.746 tấn. Lo ngại trước sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ đó, hiệp hội nuôi catfish ở các tiểu bang Mississipi, Lousiana, Askansa, Alabama đã sử dụng vận động hành lang (Lobby) để bảo vệ quyền lợi kinh tế của mình, dưới áp lực của các lobby của CFA buộc các nghị sĩ ở các tiểu bang miền Nam phải có tác động tới Quốc hội Mỹ ra nghị quyết cản trở nhập cá tra, cá basa của Việt Nam vào Mỹ. Tờ Washington Post ngày 10/9/2001 viết: “ Việt Nam đang bán phá giá sang Mỹ hàng ngàn tấn cá basa trong năm nay, gây thiệt hại cho các nhà nuôi cá nội địa. Nhiều nghị sĩ muốn Quốc hội yêu cầu gắn nhãn sản phẩm Việt Nam cho mặt hàng này”. Hai hạ nghị sĩ Dân chủ, Marion Berry và Mike Ross của bang Arkansar(nơi có nguồn cung cấp cá basa lớn thứ 3 ở Mỹ, sau Mississipi và Alabama) yêu cầu các hãng bán buôn không chỉ xác định rõ xuất xứ của cá basa Việt Nam, mà còn gắn cho sản phẩm này mác “basa Mekong”, “cá trê” hoặc “cá trê basa” để phân biệt với cái mà họ gọi là cá basa Mỹ “thứ thiệt”. Hạ nghị sĩ Berry đã theo đuổi vấn đề này với giới chức thương mại của Tổng thống Mỹ và cũng có dịp đề cập với các quan chức Việt Nam. Ông Berry tuyên bố, sẽ tìm cách đưa các điều khoản trên vào dự luật khi nó được trình trước Hạ viện hoặc được đưa ra thảo luận tại Thượng viện Mỹ tới đây. Duới sự tác động mạnh mẽ của lobby, tháng 9/2001 các đại biểu miền Nam nước Mỹ đã trình lên Quốc hội để tránh dùng từ catfish cho việc mua bán cá tra, cá basa trên thị trường Mỹ. Không những thế, chính quyền liên bang còn quyết định chi 6 triệu USD để mua catfish cho chương trình ăn trưa ở các trường học, chiêu bài này đã làm tăng hình ảnh về thương hiệu catfish cho cá da trơn của Mỹ. Đến tháng 12/2001 Quốc hội Mỹ thông qua lệnh cấm tạm thời, theo đó, chỉ có catfish của Mỹ mới được gọi là catfish, còn cá của Việt Nam phải được gọi bằng tên basa hay tra. Vậy do đâu lại có lệnh cấm oái ăm về tên gọi như vậy? Các nhà vận động hành lang cho ngư dân Mỹ lập luận rằng, cá của Việt Nam không hẳn là catfish và người Việt Nam đang lợi dụng thành quả tiếp thị của những người nuôi cá Mỹ. Tuy nhiên, sau khi lệnh cấm trên có hiệu lực, cá tra, cá basa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ vẫn được người tiêu dùng chấp nhận, điều đó chứng tỏ rằng sản phẩm này vẫn được người dân Mỹ chấp nhận và cũng khẳng định rằng cá Việt Nam không “lợi dụng thành quả tiếp thị của các nhà nuôi cá Mỹ”, cá của Việt Nam được người tiêu dùng Mỹ chấp nhận là do có lợi thế về giá cả và chất lượng. Lo ngại trước tình hình đó, CFA lại bắt đầu một chiến dịch chống cá tra, basa filê đông lạnh của Việt Nam bằng cách kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá sản phẩm này sang thị trường Mỹ. Chiến dịch được khơi mào ở thành phố Indianola (bang Mississipi, nơi đóng đô của CFA và chiếm tới 94% sản phẩm catfish của toàn bộ miền Nam nước Mỹ). Nhóm ngư dân này sẽ thuê hẳn một vài chuyên gia tầm cỡ từ Washington hỗ trợ cho các văn phòng tư vấn luật của bang và vận động hành lang cho vụ kiện. Chiêu bài mà họ sử dụng trong cuộc chiến này đó là qui cho những lô cá xuất khẩu của Việt Nam là những sản phẩm rẻ tiền, kém chất lượng mà người ta không thể nào tìm thấy ở một xưởng sản xuất cỡ gia đình như ở các trại cá của Mỹ ( phó Chủ tịch điều hành CFA). Ông này cho rằng mặc dù sản phẩm rẻ tiền của Việt Nam đang chiếm tới 20% thị phần và rất hấp dẫn các nhà hàng, khách sạn, nhưng “những nhà hàng khách sạn này chỉ quan tâm tới giá cả chứ chẳng để ý tới chất lượng của sản phẩm. Thêm vào đó các nhà vận động hậu trường cho vụ kiện còn cho rằng cá tra, cá basa của Việt Nam được nuôi trong môi trường bị nhiễm chất độc màu da cam gây ảnh hưởng tới sức khoẻ của người tiêu dung, trong khi đó chính người Mỹ đã rải chất độc này trong cuộc chiến tranh với Việt Nam. Ngày 28/6/2002, CFA đệ đơn kiện lên Uỷ ban hiệp thương quốc tế Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa sang thị trường Mỹ. Cùng với thời gian đó, ngày 2/7/2002, hai nghị sĩ Mike Ross và Ronnie Shows, đại diện cho CFA lại gửi thư trực tiếp đến bà Deanna Tanner Okun, Chủ tịch Uỷ ban Hiệp thương Quốc tế Mỹ, nêu luận điểm: “ Đại diện cho những người nuôi catfish Mỹ, chúng tôi khẩn cấp đề nghị Uỷ ban cân nhắc một cách có thiện chí đối với đơn kiện của CFA về việc cá tra, cá basa filê đông lạnh nhập từ Việt Nam được bán phá giá, gây cạnh tranh và làm thiệt hại tới các nhà nuôi cá catfish nội địa.” Ngày 28/1/2003, DOC ra quyết định tạm thời xác định mức thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm cá của Việt Nam trong khoảng 31,45% - 63,88%, quyết định này của DOC đưa ra đã bất chấp luận điểm của Việt Nam đưa ra: việc sản xuất cá tra, basa của Việt Nam được thực hiện theo quy trình liên hoàn, khép kín. DOC nói chưa xem xét đến yếu tố này do còn nhiều khúc mắc. Đến tháng 3/2003, DOC đã cử đoàn quan chức sang Việt Nam khảo sát, chính họ đã thừa nhận quá trình sản xuất, chế biến cá tra, basa ở Việt Nam là theo chu trình khép kín. Song, ở quyết định cuối cùng, DOC lại cho rằng, ở Bangladesh không có doanh nghiệp nào sản xuất theo chu trình khép kín như các doanh nghiệp tại Việt Nam, nên giá thành sản xuất được tính từ giai đoạn chế biến. Tại sao họ lại đưa ra quyết định trái ngược lại với những gì họ đã khẳng định? Đó chính là do áp lực của các lobby của các tập đoàn nuôi cá da trơn Mỹ. Cuối tháng 4/2003, Bộ Thương mại Mỹ đã gợi ý Bộ Thương mại hai bên sẽ tiến hành đàm phán “ về một thoả thuận đình chỉ vụ kiện” này. Từ ngày 2-9/5/2003, hai bên đã tiến hành đàm phán nhưng do quan điểm rất khác nhau nên cuộc đàm phán đã không đạt được thoả thuận cuối cùng. Mỹ đã đưa ra hạn mức xuất khẩu cá tra, basa filê đông lạnh của Việt Nam vào Mỹ với mức rất thấp và ấn định giá bán xuất khẩu rất cao, không thực tế nhằm cản trở việc nhập khẩu sản phẩm cá tra, basa của Việt Nam. Trong cuộc đàm phán này, Việt Nam dựa vào chu trình sản xuất khép kín đối với loại sản phẩm này và đề xuất áp dụng hạn ngạch đối với cá tra, cá basa ở các mức: năm 2003 bằng 90%; năm 2004 bằng 95%; năm 2005 bằng 100% mức năm 2002. Ngày 23/7/2003, ITC tiến hành bỏ phiếu để đưa ra kết luận, tham gia bỏ phiếu có 4 thành viên của ITC ( thiếu 2 người) và cả 4 thành viên này đều bỏ phiếu thuận theo DOC và khẳng định Việt Nam đã bán phá giá cá tra, basa sang thị trường Mỹ. Về phía Việt Nam, theo luật của Mỹ, công ty đại diện pháp lý không được sử dụng vận động hành lang, vì vậy, VASEP đã thuê hai công ty nổi tiếng để thực hiện việc này. Nhờ việc sử dụng vận động hành lang, chúng ta đã có được sự ủng hộ của 6 thượng nghị sĩ, các nghị sĩ này đã yêu cầu Quốc hội Mỹ xem xét lại các quyết định của mình trong cả cuộc chiến về tên gọi catfish cũng như cuộc chiến chống bán phá giá, nhưng những yêu cầu này đã bị bác bỏ. Trong thời gian diễn ra vụ kiện có rất nhiều tờ báo nổi tiếng lên tiếng ủng hộ Việt Nam, và sản phẩm cá tra, cá basa đã được rất nhiều dư luận Mỹ ủng hộ. Ngày 7/8/2003, DOC chính thức công bố áp đặt thuế chống bán phá giá đối với 11 doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu cá tra, cá basa filê đông lạnh sang thị trường nước này. Sau khi đưa ra quyết định, đã có rất nhiều dư luận trên thế giới phản đối kết luận này của Mỹ, trong đó có sự chỉ trích của Thủ tướng Malayxia và của Tổng Thư kí Liên Hợp Quốc. Cũng trong ngày 7/8, VASEP đã gửi đơn kiện lên Toà án Quốc tế Thương mại Hoa Kỳ, các thành viên của VASEP đều nhất trí theo đuổi vụ kiện này tới cùng . “VASEP sẽ kiện về sự bất nhất giữa quyết định sơ bộ và quyết định cuối cùng của ITC, họ không tôn trọng ngay chính kết luận và lời cam kết của họ” ( theo lời của ông Nguyễn Hữu Dũng, Tổng Thư kí VASEP). Chương 2: phân tích ảnh hưởng của vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa của Việt nam 2.1 kháI niệm vận động hành lang 2.1.1 Định nghĩa vận động hành lang Vận động hành lang hay còn gọi là lobby là việc các quan chức chính phủ, các cá nhân có uy tín đại diện cho một cộng đồng người đưa ra ý kiến đóng góp vào các dự thảo luật của chính phủ, kêu gọi sự ủng hộ của các cá nhân khác hoặc thương lượng các vấn đề khi xảy ra tranh chấp nhằm đạt được lợi ích của cộng đồng mà mình đại diện. 2.1.2 phương thức vận động hành lang trên thị trường Mỹ Mỹ là quê hương của chủ nghĩa lobby(lobbism), không chỉ ở thị trương Mỹ, mà ngay tại các thị trường khác lobby được coi là một hoạt động bình thường và rất tích cực. Washington là thủ đô của dân chuyên lobby, gồm 129 cựu nghị sĩ thường xuyên “lo lắng” của những cộng đồng, chủng tộc khác nhau. Lobby ở Mỹ được thành lập thành nhóm thường được gọi là “các đại lý có ảnh hưởng”. Các nhóm lobby ở Washington đạt được rất nhiều hiệu quả, khi mỗi nhóm xuất phát từ quyền lợi bản thân tiến hành giám định kĩ thuật chi li tỷ mỉ ( và biết rằng các đối thủ cạnh tranh không hề kém cạnh) và trả giá cho việc này. Theo thống kê, hiện nay có khoảng 3700 nhóm lợi ích đặc biệt đăng kí vận động hành lang. Việc vận động hành lang được thực hiện ở tất cả các khía cạnh trên đất Mỹ từ kinh tế, chính trị, pháp luật...Đối với các nghị sĩ Quốc hội Mỹ thì vận động hành lang là hoạt động cần thiết và không thêt tách rời đối với tiến trình lập pháp của Hoa Kỳ. Theo thống kê, có hơn 90% nỗ lực của các lobby hướng vào giải quyết các vấn đề đối nội, tuy nhiên cung có khoảng 600 chuyên gia thường xuyên làm việc với Quốc hội Mỹ về vấn đề đối ngoại. Đối với tiến trình lập pháp, các lobby thường trực tiếp đưa ra các dự thảo luật hoặc đóng góp ý kiến của mình cho các dự thảo luật và vận động để tranh thủ sự ủng hộ của các nghị sĩ Quốc hội khác nhằm đạt được lợi ích của nhóm cộng đồng do mình đại diện. Về chính trị, vận động hành lang ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình quá trình bầu cử của một quốc gia, đặc biệt là ở Mỹ bầu cử theo phổ thông đầu phiếu và Hạ viện phải ra ứng cử định kì hai năm một lần. Các cử tri có thể thể hiện sự ủng hộ của mình cho một nghị sĩ không chỉ bằng các lá phiếu mà có thể bằng cả việc đóng góp tiền cho quỹ bầu cử của nhân vật ấy. Từ đó các nghị sĩ quốc hội nhận ra rằng trách nhiệm của họ là làm hàI lòng các cử chi đã bỏ phiếu cho họ. Để làm được điều đó, họ phải bỏ lá phiếu lập pháp phản ánh được phần lớn mối quan tâm của các cử chi hoặc chuẩn bị để bào chữa không bị bỏ phiếu phản đối khi thời gian bầu cử tới gần. Mặc dù các hạ nghị sĩ đương nhiệm thường được giới lãnh đạo Hạ viện và Thượng viện chỉ thị bỏ phiếu theo quan điểm của Đảng nhưng họ vẫn chú ý tới kết quả của các cuộc thăm dò dư luận quần chúng và quan điểm của các cử tri ở các quận hoặc các bang của họ. Các hạ nghị sĩ đương nhiệm đặt tầm quan trọng rất lớn vào các quan điểm chính sách được bày tỏ trong thư, các cuộc điện thoại, các thư điện tử, các cuộc gặp gỡ cá nhân với những cử tri khu vực bầu cử. Cứ mỗi cá nhân gọi điện thoại hoặc viết một lá thư cho quan chức do mình bầu ra có thể cho rằng có thêm 10 công dân được quyền bầu cử khác ủng hộ quan điểm đó. Do vậy mà ảnh hưởng của vận động hành lang có thể được nhân lên 10 lần. ở Mỹ, nếu một Nghị sĩ Quốc hội nhận được một số lượng lớn những ý kiến phản hồi của cử tri về một vấn đề và nhà lãnh đạo yêu cầu ông ta bỏ phiếu ngược lại với những ý kiến của cử chi, thường là tiếng nói của cử tri sẽ giành được sự ủng hộ cuối cùng của lá phiếu. Các cử chi cũng có thể tăng cường ảnh hưởng của mình bằng cách tham gia một nhóm lợi ích đặc biệt hoặc một hiệp hội quốc gia. Là một thành viên của một hiệp hội quốc gia, họ tham gia vào quá trình hoạch định chính sách nội bộ và dựa vào các quan chức bầu ra hoặc những nhân viên chuyên nghiệp của hiệp hội để thay mặt cho họ vận động hành lang Quốc hội. Do vậy mà một nhà vận động hành lang cho một hiệp hội đại diện cho tiếng nói của nhiều người ủng hộ quan điểm chính sách trước quốc hội. Giữa các quốc gia cũng có thể sử dụng vận động hành lang để tranh thủ sự ủng hộ về một chính sách đối ngoại, ví dụ như cá nhân Tổng thống Mỹ đã gặp gỡ với Thủ tướng Nhật để tranh thủ sự ủng hộ của Nhật trong chiến dịch đánh Afganistan. Luật Mỹ cấm chính quyền nước ngoài tham gia vận động hànhlang nhưng không cấm người nước ngoài tham gia vận động. Vì thế các Tổng thống Mỹ vẫn có thể mời nhiều “bạn nước ngoài” vào nhà Trắng rồi vận động gây quỹ bầu cử cho đảng mình, miễn là sự ủng hộ đó phải là tư nhân. Các nhóm lobby nước ngoài cũng có thể ảnh hưởng tới quá trình bầu cử ở Mỹ thông qua việc các thành viên trong nhóm góp tiền ủng hộ cho quỹ tranh cử của nghị sĩ mà họ ủng hộ. Năm 1996, đã nổ ra vụ scandal quanh nỗ lực của Bắc Kinh gây ảnh hưởng lên quá trình bầu cử, bằng việc tài trợ cho các quỹ vận động tranh cử của Bill Clinton và vài nghị sĩ. Nhưng các cuộc điều tra cho thấy không có sự dính líu của Trung Quốc vào việc này. Vận động hành lang cũng làm ảnh hưởng trực tiếp tới chính sách đối ngoại, đặc biệt là các chính sách đối ngoại về kinh tế của Mỹ. Thông thường tai Mỹ các nhóm lobby nước ngoàI được thành lập theo từng quốc gia như lobby Đức, Italia, Hylap, Nga... Hoạt động của các nhóm lobby này thường là vận động để thiết lập các mối quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia. Ví dụ như: vận động chính phủ Mỹ tăng cường đầu tư về kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng cho quốc gia mà các nhóm lobby đại diện. Không chỉ có nhóm lobby nước ngoài, ngay cả lobby trong nước cũng vận động hành lang cho nước khác. Ví dụ như, Quốc hội Mỹ tự mình bắt tay vào vận động hành lang cho Nga hay Văn phòng Nông nghiệp Mỹ đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc vận động hành lang để gia hạn quy chế tối huệ quốc cho Trung Quốc. NgoàI ra các “đại lý có ảnh hưởng” cũng vận động hành lang cho các vấn đề xã hội, điển hình như việc nhóm lobby Israel đã thành công trong việc tổ chức tốt cho 6 triệu người Do Thái ở Mỹ. 2.1.3 tác dụng và ý nghĩa của vận động hành lang 2.1.3.1 tác dụng Sử dụng lobby giúp các cử chi có thể bảo đảm được lợi ích hoặc đạt được lợi ích của mình. Đặc biệt là khi một số lượng lớn các cử chi có chung một lợi ích liên kết lại với nhau thành những hiệp hội để bảo vệ lợi ích của mình. Các quan chức cũng như các chuyên gia của hiệp hội sẽ xem xét các dự luật có liên quan, sau đó đưa ra các ý kiến đóng góp vào dự thảo luật đó theo hướng có lợi cho quyền lợi của cả hiệp hội. Hoặc tự hiệp hội sẽ đưa ra các dự thảo luật trình lên Quốc hội để bảo vệ quyền lợi của mình khi quyền lợi đó bị một nhóm cộng đồng khác đe doạ. Đảm bảo quyền lợi và mối quan tâm của các công dân trước khi một dự thảo luật trở thành luật, nó cho phép cử tri được lên tiếng đây là một cách bảo đảm quyền công dân tại Mỹ. Thông thường một dự thảo luật trước khi được quốc hội thông qua bằng việc bỏ phiếu của các nghị sĩ thì các công dân đã trực tiếp góp ý kiến hoặc đại diện của họ là các chuyên gia vận động hành lang đã góp ý kiến cho các nghị sĩ đó. Các nghị sĩ không thể không quan tâm tới những ý kiến của các cử tri của mình, vì vậy việc họ có bỏ phiếu thông qua hay không thông qua dự luật đó đã chịu sự góp ý của các cử tri đã bầu họ và nó đảm bảo quyền lợi của nhóm cử tri này. Thông thường trong một quốc gia, lợi ích của nhóm cộng đồng này sẽ là thiệt hại của cộng đồng khác nếu một dự thảo luật được thông qua. Làm giảm áp lực về công việc trong các chương trình và dự án của chính phủ. Theo nhận xét của giới chuyên môn nếu không có giới lobby, chính phủ Mỹ sẽ ngập đầu trong các chương trình và các dự án. Các nghị sĩ Quốc hội sẽ không phải nghiên cứu, phân tích các chương trình, dự án một cách cụ thể và chi tiết , họ chỉ cần xem xét tới ảnh hưởng của chương trình hay dự án đó tới nhóm cử chi đã bỏ phiếu cho họ và nhiệm vụ của họ là hướng các chương trình, dự án này theo hướng có lợi cho nhóm người đó. Việc này được thực hiện với cả các chương trình, dự án mang tính quốc gia cũng như quốc tế. Sử dụng lobby có thể dung hoà lợi ích giữa các nhóm cộng đồng. Các nhóm cộng đồng có thể sử dụng lobby nhằm đạt được lợi ích của mình, tuy nhiên trong thực tế lợi ích của các nhóm cộng đồng luôn mâu thuẫn với nhau vì vậy thường xảy ra tranh chấp giữa các nhóm người này. Để giải quyết tranh chấp này, các bên có thể sử dụng sức ép từ các lobby để giải quyế vụ việc ngoài toà án. Thông thường là cùng nhau đàm phán để dung hoà lợi ích sao cho cả hai đều có lợi, như vậy cả hai bên đều có thể đạt được lợi ích của mình đồng thời giảm chi phí nếu đưa nhau ra toà ( ở Mỹ chi phí kiện tụng thường là rất lớn). Đối với các nhóm cộng đồng mang tính quốc gia, nếu vận dụng tốt lobby sẽ tạo điều kiện tốt cho việc thiết lập mối quan hệ giữa hai quốc gia, tạo điều kiện cho việc phát triển đất nước. Vận động hành lang của các nhóm cộng đồng dân tộc có khả năng tăng cường viện trợ hoặc đầu tư về nước mình nhằm phát triển đất nước về mọi mặt như về cơ sở hạ tầng, kinh tế, giáo dục, khoa hoc... ĐIũu này đã được chứng minh bằng thực tế bởi các nhóm lobby Nga, Trung Quốc, Israel... trên đất Mỹ. Các nghị sĩ Mỹ đều là những đại diện cho tiếng nói của một cộng đồng người, là những người đã bỏ phiếu cho họ giữ chức vụ đó, vì vậy tham gia vận động hành lang một mặt là để thực hiện trách nhiệm của họ đối với nhóm cử tri đã bầu họ, đồng thời đây cũng là một cách nhằm tăng khả năng ảnh hưởng, tranh thủ sự ủng hộ của các cử tri, điều này là rất quan trọng nó ảnh hưởng trực tiếp tới “ cái ghế” mà họ đang ngồi nhất là khi thời gian tái bầu cử sắp tới gần. 2.1.3.2 ý nghĩa Vận động hành lang là một mặt hoạt động cần thiết và không thể tách rời của tiến trình lập pháp Mỹ. Nó đảm bảo quyền và mối quan tâm của của công dân Mỹ được xem xét, góp ý kiến trước khi một dự thảo luật trở thành luật. Nó cho phép cử tri được lên tiếng và thông qua đó đảm bảo rằng nguyên tắc của nền dân chủ tại Mỹ được tuân thủ. Điều này là rất quan trọng đối với một nước đề cao tự do như nước Mỹ. Khi mỗi dự thảo luật được đưa ra thảo luận, các cử tri hoặc đại diện của họ sẽ đóng góp ý kiến của mình vào các dự thảo luật đó, đồng thời các nghị sĩ Quốc hội cũng đưa ra ý kiến của mình nhằm đạt được lợi ích của một nhóm người nào đó. Như vậy, vận động hành lang giúp giải quyết tốt hơn quyền và nghĩa vụ của công dân Mỹ cũng như quyền và nghĩa vụ của các nghị sĩ Quốc hội. Vận động hành lang rất có ý nghĩa trong các mối quan hệ quốc tế cả về kinh tế lẫn chính trị. Đối với kinh tế quốc tế, vận động hành lang có thể là cách dùng để khơi mào các cuộc chiến thương mại, có thể giúp các bên chiếm được ưu thế trong các cuộc tranh chấp và có thể giành được thắng lợi khi sử dụng vận động hành lang. Tuy nhiên vận động hành lang cũng là phương pháp giúp các bên tranh chấp chuyển từ đối đầu sang đối thoại, giúp cho hai bên cùng có lợi. Về chính trị, sử dụng vận động hành lang có thể làm tăng cường sự ủng hộ của các quốc gia khác, nhất là những nước có tầm ảnh hưởng rộng rãI trên thế giới, điều này đặc biệt quan trọng trong tình hình bất ổn định của thế giới như hiện nay. Vận động hành lang giúp các nước giảI quyết mối bất hoà trên bàn đàm phán, như các vấn đề về chiến tranh, hạt nhân, từ đó tháo gỡ dần các mối bất đồng tạo điều kiện cho quan hệ giũa các nước tiếp tục phát triển, tạo điều kiện cho thế giới ngày càng đi vào ổn định, tạo._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24507.doc