Ảnh hưởng của tình trạng đô la hoá đối với nền kinh tế Việt Nam, Nguyên nhân và giải pháp khắc phục

A - Lời nói đầu Thời gian gần đây, một vấn đề đang thu hút nhiều người quan tâm đó là hiện tượng đô la hoá. Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế nhà hoạch định chính sách.... các bài viết đều cho rằng đô la hoá là tình trạng phổ biến không thể tránh khỏi của các nước đang phát triển hoặc đang trong quá trình chuyển đổi. Những nước này thường có nền kinh tế bất ổn định, tỷ lệ lạm phát cao, giá trị đồng nội tệ giảm liên tục, công chúng thích giữ các tài sản bằng ngoại tệ nhằm tự phòng

doc42 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1416 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Ảnh hưởng của tình trạng đô la hoá đối với nền kinh tế Việt Nam, Nguyên nhân và giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngừa rủi ro giảm giá, phá giá của đồng nội tệ. Đồng đô la mỹ hoặc một số đồng ngoại tệ mạnh khác được coi là phương tiện thanh toán, cất giữ song hành với đồng nội tệ. Phân tích hiện tượng đô la hoá, nguyên nhân, tác động (mặt lợi, mặt hại) mức độ như thế nào đến nền kinh tế những giải pháp khắc phục nhằm hạn chế tình trạng này ở Việt Nam nhiều công trình nghiên cứu đã đưa ra những đánh giá, nhìn nhận về hiện tượng này. Tuy nhiên mồi bài viết của mỗi tác giả đi theo mỗi góc nhìn khía cạnh khác nhau những quan điểm xử lý vấn đề còn nhiều cách biệt, chưa thống nhất chưa đầy đủ về hiện tượng này. Để có một cách đánh giá tổng quát hơn về tình trạng đô la hoá. Cũng như tìm ra những giải pháp khắc phục tình trạng đô la hoá ở Việt Nam là vấn đề cần thiết và cấp bách vậy em chọn đề tài: "ảnh hưởng của tình trạng đô la hoá đối với nền kinh tế Việt Nam, nguyên nhân và giải pháp khắc phục" làm đề tài nghiên cứu môn học. Đô la hoá là vấn đề hết sức phức tạp liên quan nhiều mặt đời sống kinh tế xã hội. Nó không chỉ liên quan trong nước mà còn mang tính chất toàn cầu. Song do trình độ có hạn và trang bị kiến thức chuyên ngành chưa được sâu sắc nên em xin nêu một số tác động chủ yếu của đô la hoá ở Việt Nam trong những năm gần đây. Để hoàn thành đề tài này, em cũng đã cố gắng rất nhiều trong việc tự nghiên cứu. Song do kiến thức còn nhiều hạn chế do mới chỉ tiếp cận một số môn Cơ sở lý thuyết tiền tệ - Ngân hàng các môn học chuyên ngành bổ trợ chưa được tiếp cận nhiều trình độ nhận thức vấn đề còn chưa sâu sắc, thiếu lôgic và kinh nghiệm do đó khi trình bày, bài viết này không tránh khỏi những suy nghĩ, thiếu chín chắn, không xác đáng.... rất mong thầy cô lượng thứ và góp ý bổ sung để đề án của em được hoàn thiện hơn. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn thầy, cô đã trực tiếp giảng dạy truyền đạt bài giảng môn Lý thuyết tiền tệ - Ngân hàng cùng với sự tận tình hết mực của thầy cô trong việc hướng dẫn nghiên cứu đề án này. B - nội dung Chương 1 - lý luận chung về đô la hoá và ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế I - Lý luận chung về đô la hoá 1. Khái niệm đô la hoá. Thông thường mỗi một quốc gia đều có đồng tiền riêng của mình, thực hiện hâud như đầy đủ các chức năng tiền tệ; trừ chức năng tiền tệ – thanh toán quốc tế;mà không phải đồng tiền nào cũng làm được. Do các điều kiện chính trị- kinh tế- xã hội- lịch sử cụ thể nên đô la Mỹ (USD); một loại ngoại tệ mạnh có phạm vi giao dịch rộng lớn nhất thế giới; dần dần được sử dụng song hành với đồng nội tệ quốc gia; nó thay thế cho đồng bản tệ một số thậm chí thay thế toàn bộ các chức năng của tiền tệ theo thông lệ chung tức là làm phương tiện thanh toán (thay thế tiện tệ) hoặc tích trữ ngoại tệ dưới dạng tài sản (thay thế tài sản) hoặc là việc sử dụng đồng thời cả hai trường hợp đó. Có thể hiểu nền kinh tế đó bị “ngoại tệ hoá”hay “đô la hoá” ( trên thế giới hiện nay;đồng USD là đồng tiền được ưa chuộng nhất; nên thuật ngữ “đô la hoá” cũng được xem đồng nghĩa với “ngoại tệ hoá”). Tình trạng này có thể được chính phủ các quốc gia đó thừa nhận; được sử dụng trong chi trả lương; thanh toán mua bán hàng hoá và dịch vụ cho phép sử dụng đô la Mỹ trong các giao dịch thanh toán nội địa khác; như Enxanvado; Ecuado; Panama;.... hoặc không chính thức tuyên bố; nhưng đô la Mỹ được người dân cất giữ và sử dụng rộng rãi ở trong nước. Theo giải thích của một số chuyên gia của IMF, Dollar hoá nền kinh tế đó là tình trạng dân chúng (người dân cư trú ) nắm giữ một tỷ lệ có ý nghĩa trong cơ cấu tài sản của họ dươí hình thức đồng Dollar. Cũng theo nhận xét của IMF đó là đặc điểm chung của các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi. 1.1. Nguồn gốc của hiện tượng đô la hóa: Theo kinh nghiệm quốc tế thì hiện tượng đô la hoá thương gặp khi nền kinh tế ở nước đó có tỷ lệ lạm phát cao; sức mua của đồng bản tệ giảm sut thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác; đặc biệt là các đồng tiền ngoại tệ có uy tín (USD;EURO;JPY...). Song song với chức năng làm phương tiện cất trữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ có uy tín sẽ cạnh tranh mạnh mẽ với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán cũng như làm đơn vị tính toán(hay thước đo giá trị ). Các đồng tiền mạnh là những đồng tiền ổn định cả về đối nội và đối ngoại cũng như thông qua vai trò quốc tế của chúng. Điều này được thể hiện bằng chỉ số độ tin cậy z . Nhìn từ góc độ của quốc gia có đồng tiền yếu , thì z có thể được hiểu là tâm lý dự đoán phá giá đồng nội tệ về lâu dài so với đồng ngoại tệ. - Như vậy, ngay cả không có tâm lý dự đoán phá giá đồng tiền nội tệ thì lãi suất của đồng tiền yếu bao giờ cũng phải cao hơn lãi suất của đồng tiền mạnh, điều này được thể hiện bằng phương trình: I(nội tệ) = I(usd) + z Đối với các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) thì z vào khoảng từ 5 đến 10%/năm. Đối với NHTƯ thì đây là một thông số đánh giá rất quan trọng trong hoạt động ngắn hạn bởi z chỉ thay đổi được sau một thời gian tương đối dài. Khi lãi suất ở Mỹ tăng lên 1% thì đòi hỏi lãi suất ở các nước có đồng tiền yếu phải tăng cao gấp nhiều lần nhằm đối phó với tình trạng chuyển đổi đồng nội tệ sang USD (ví dụ đối với đồng Real của Brazin thì giá trị tăng lên là 2,6%/năm). Dó đó điều này cũng giải thích tại sao các nước đang phát triển đều hạn chế hoạt động xuất khẩu vốn đầu tư bằng ngoại tệ được trả lãi. - Còn như nếu có thêm tác động của tâm lý phá gía đồng nội tệ trong ngắn hạn thì công thức trên không chỉ đơn thuần là thế mà công thức trở thành: I(nội tệ) = I (usd) + z + e Trong đó , e là tỉ lệ dự đoán mất giá đồng nội tệ Khi mà lãi suất đồng nội tệ không đảm bảo việc bù đắp thêm đầy đủ các yếu tố trên thì dân chúng sẽ thích cất trữ bằng đồng ngoại tệ hơn là đồng nội tệ. 1.2. Tiêu chí phân loại đô la hoá: Khi ta biết được nguồn gốc của đô la hóa , vậy câu hỏi đặt ra là dựa vào căn cứ nào ; trên tiêu chí nào để gọi đó là nền kinh tế bị đô la hoá. Để nghiên cứu vấn đề này một cách cụ thể ta cần xem xét trên cả ba khía cạnh sau: Thứ nhất; đô la nằm ngoài hệ thống ngân hàng được dân chúng cất giữ và thanh toán trong xã hội(đô la hoá trong xã hội) Việc xác định chính xác lượng đô la này là rất khó, nhất là đối với các nước đang phát triển và đang chuyển đổi khi mà tình trạng buôn lậu còn lớn chưa kiểm soát được; bộ máy hải quan còn non kém và tuỳ tiện; luật phát không nghiêm; tình trạng tham nhũng đáng lo ngại. Do đó, chỉ có thể căn cứ vào các nguồn đô la Mỹ chuyển từ nước ngoài vào trong nước qua con đường tư nhân như: thu nhập từ buôn lậu hay buôn bán tiểu ngạch; kiều hối; quà biếu và quà tặng bằng đô la Mỹ; cá nhân mang trực tiếp theo mình khi xuất cảnh có khai báo (trên mức quy định) và không khai báo (không tự giác khai báo và dưới mức phải khai báo); các nguồn thu bằng đô la Mỹ ở trong nước; như: dịch vụ du lịch với khách nước ngoài ... Bởi vậy; chủ yếu phải dựa vào quan sát ;thông tin dư luận; nhìn nhận các giao dịch thanh toán trong dân cư, nhất là các giao dịch có giá trị lớn, như:mua bán bất động sản mua xe máy;... Đặc biệt là người dân còn có tâm lý cất trữ đô la Mỹ trong nhà mà không phải bất kỳ ai cũng sẵn sàng gửi vào ngân hàng; sử dụng USD trong thanh toán mua đất đai; nhà ở;các cửa hàng; cửa hiệu; khách sạn nhà hàng ; công ty du lịch và dịch vụ công khai hay không công khai thu tiền của khách hàng bằng ngoại tệ... Thứ hai, theo IMF , tỷ lệ đô la hoá của một nền kinh tế được căn cứ vào tỷ lệ. Giữa tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng so với lượng tiền cung ứng theo nghĩa rộng(M2) bao gồm : tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn , và tiền gửi ngoại tệ; so với tổng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng, so với tổng phương tiện thanh toán. Theo cách tính này, IMF cho rằng nếu tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên (M2) trong một nền kinh tế lớn hơn 30% thì nền kinh tế đó có thể coi là gặp phải tình trạng đô la hoá cao. Theo đánh giá của IMF năm 1998 trường hợp này có 18 nước , 34 nước khác được IMF xếp là nước có mức độ”đô la hoá vừa phải ” với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ /M2 khoảng 16,4% Viêt Nam được IMF xếp vào loại này. Về cơ bản, đô la hoá gồm ba loại chính là: Đô la hoá không chính thức, đô la hoá bán chính thức , và đô la hoá chính thức - Đô la hoá không chính thức : Đây là trường hợp ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế mặc dù không được nước này chính thức thừa nhận.Thuật ngữ “đô la hoá không chính thức” bao gồm cả các trường hợp nắm giữ tài sản nước ngoài hợp pháp và không hợp pháp . ở một số nước , việc giữ một số tài sản ngoại tệ là hợp pháp như các tài khoản bằng USD tại các ngân hàng trong nước , nhưng lại không hợp pháp khi có tài khoản ngân hàng nước ngoài trừ khi được cấp phép tình trạng ddô la hoá không chính thức là phản ứng đối với sự bất ổn định của nền kinh tế và tỷ lệ lạm phát cao , cũng như mong muốn của dân chúng nhằm đa dạng hoá đầu tư và bảo vệ tài sản của mình khỏi những rủi ro của việc phá giá đồng bản tệ . Đô la hoá không chính thức có thể gồm các loại sau: Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài - Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài - Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước - Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi Đô la hoá không chính thức được chia làm 3 giai đoạn Gia đoạn đầu các nhà kinh tế thường gọi là giai đoạn” thay thế tài sản”.Trong giai đoạn này , người dân giữ trái phiếu ngoại tệ và các khoản tiền gửi ở nước ngoài như một phương tiện cất trữ nhằm tránh việc giảm giá trị tài sản do lạm phát ở trong nước hay việc tịch thu tài sản sung công mà một số nước đã làm Giai đoạn thứ hai các nhà kinh tế gọi là giai đoạn “thay thế tiền tệ”. Trong giai đoạn này, người dân giữ một khối lượng lớn các trái phiếu ngoại tệ và tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng trong nước (nếu được phép). Ngoại tệ vừa thực hiện chức năng là phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ. Tiền lương, thuế hay những chi tiêu hàng ngày như hàng tạp phẩm hay các hoá đơn điện được thanh toán bằng nôị tệ, nhưng với những giá trị tài sản hơn như ô tô và những nhà cửa thường được trả bằng ngoại tệ. Trong giai đoạn cuối cùng của đô la hoá không chính thức giá cả của các hàng hóa được tính bằng nội tệ nhưng mọi ngươì đều liên tưởng đến ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái . Đô la hoá không chính thức rất phổ biến ở các nước đang phát triển. Theo một số nguồn thông tin đã dược công bố , thì tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ so với tổng tiền gửi của Việt Nam hiện là khoảng 40% , nếu tính riêng tỉ lệ tiền gửi so với tổng phương tiện thanh toán thì năm 1998 là 20,6%, 1999 là 29,1% ,2000 trên 30%, ước tính năm 2001 cũng ở mức trên 30% nên rõ ràng nước ta thuộc trong số các nức đang bị đô la hoá và được IMF xếp vào loại đô la hoá không chính thức cùng với các nước Mỹ -La Tinh như Argentina, Bôlivia, Mêhicô, Peru, Trung mĩ và nhiều nước khác như Mongolia, Mozambique, Turkey. - Đô la hoá bán chính thức: Khoảng 12 nước trên thế giới được IMF xếp là các nước “đô la hoá bán chính thức” hay có hệ thống lưu hành chính thứ hai đồng tiền .Đối với các nước này đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng , nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương , thuế và những chi tiêu hàng ngày. Ví dụ như nứơc Bahamas ,Cambodia, Thailand, Liberia không giống như các nước có đô la hoá chính thức , các nước đô la hoá bán chính thức duy trì NHTƯ (một cơ quan tiền tệ) có quyền hạn tương tự để thực hiện chính sách tiền tệ của họ . - Đô la hoá chính thức : Hay còn được gọi là đô la hoá hoàn toàn xuất hiện khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành ;là trường hợp mà một quốc gia chính thức từ bỏ đồng bản tệ và sử dụng một đồng tiền (ngoại tệ ) ổn định hơn làm đồng tiền pháp định. Nghĩa là đồng tiền ngoại tệ này không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ . Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ đóng vai trò là thứ yếu và thường chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ . Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp .Tuy nhiên , các nước đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp , nhưng chỉ có Andorra dùng cả đồng Franc của Pháp và đồng Pezota của Tây Ban Nha .Hỗu hết các nước đô la hoá chính thức ,các đối tác tư nhân được phép kí hợp đồng bằng bất cứ loại tiền nào mà họ cùng đồng ý . Theo IMF, hiện nay có khoảng 14 nước được xếp là các nước đô la hoá chính thức ;ví dụ như Palama, Ecuador. Trên thực tế, những nước này chỉ áp dụng đô la hoá hoàn toàn sau khi thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế. Điểm hấp dẫn chủ yếu của đô la hoá hoàn toàn là loại trừ rủi ro của việc phá giá tiền tệ đột ngột và phá giá mạnh . Thứ ba là tỷ lệ cho vay bằng ngoại tệ ,bằng USD so với tổng các khoản vay, tổng dư lợ , khi mà đạt tới con số có ý nghĩa ,xảy ra ở nhiều nứơc thuộc Châu Mỹ- La Tinh . Cũng theo thông tin đã được công bố , thì tỉ lệ này ở Việt Nam vào khoảng20%, không thể không coi là có ý nghĩa . 1.3. Nguyên nhân của hiện tượng đô la hoá . Vậy thì tình trạng đô la hoá nền kinh tế do đâu? Đô la hoá diễn ra tại mỗi nước rất khác nhau và được đánh giá qua các chỉ tiêu với mức độ khác nhau ,song tình trạng này tuỳ thuộc vào các yếu tố cốt lõi sau : -Trình độ phát triển nền kinh tế cùng tính chất của nền kinh tế đó . Đô la hoá thường rơi vào các nước có trình độ phát triển còn thấp , các nước đang phát triển,đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Buôn lậu chưa được kiểm soát chặt chẽ nhất là buôn lậu qua biên giới buôn bán kiểu ngạch ... - Trình độ dân trí , cùng tâm lí của người dân . Các nước có trình độ chưa cao, người dân còn có thói quen nắm giữ vàng và đô la , thì thường là nền kinh tế có mức độ đô la hoá cao . - Trình đô phát triển của hệ thống ngân hàng nhất là hoạt động thanh toán rõ ràng là khi hệ thống ngân hành còn non trẻ ,hoạt động thanh toán chưa phát triển công nghệ thanh toán còn lạc hậu, thì thường là có tình trạng đô la hoá nền kinh tế. - Chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối , cùng mức độ bảo đảm tính nghiêm minh của cơ chế quản lý . Nếu như đồng nội tệ ổn định ,cơ chế quản lí ngoại hối chặt chẽ , thì tình trạng đô la hoá nền kinh tế rất khó xảy ra. - Khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ ,đồng tiền của quốc gia đó . 2. ảnh hưởng của đô la hoá đối với nền kinh tế Đô la hoá nền kinh tế có những mặt lợi và mặt hại nhất định của nó song chúng ta phải nhận rõ cái lợi và cái hại để từ đó khai thác những mặt có lợi cho đất nước và hạn chế những ảnh hưởng có hại đến nền kinh tế . Vậy đâu là những tích cực của quá trình đô la hoá ? Một là, việc sử dụng đồng đô la sẽ giúp cho nền kinh tế giảm nhẹ sức ép của những mất cân đối ,kết quả của tính không hiệu quả dưới cơ chế kế hoạch tập trung(đặc biệt là các nước có nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường như ở Việt Nam ) , đồng thời cung cấp cho các tác nhân kinh tế tự bảo vệ để chống lại lạm phát , và phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức Hai là, chi phí giao dịch : + Đối với chi phí do chênh lệch tỉ giá : Đối với những nước đô la hoá chính thức các chi phí như chênh lệch giữa tỉ giá mua và bán khi chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác bị xoá bỏ .Đô la hoá chính thức cũng loại bỏ những giao dịch với các nước khác . + Chi phí dự phòng cho rủi ro tỉ giá : Chi phí này cũng không cần thiết, điều này giúp thúc đẩy thương mại và đầu tư giũa các nước làm cho các nhà đầu tư quốc tế tin tưởng hơn khi đầu tư vào nước đó .Ví dụ thông qua việc dùng đồng USD Mêhicô đã giảm được khối lượng đáng kể chi phí giao dịch thương mại với Nhật Bản. + Chi phí kinh doanh của các ngân hàng: Các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ vì thế mà giảm đưọc chi phí kinh doanh việc tồn tại của hai đồng tiền buộc các ngân hàng phải tiến hành danh mục đầu tư tách biệt giữa nội tệ và ngoại tệ . Những nghiên cứu của Moreno năm1999 cho thấy , thông qua các đô la hoá chính thức các ngân hàng Palamas hạ thấp được mức dự trữ tương đương 5% GDP so với việc lưu hành hai đồng tiền . - Hạ thấp lạm phát hiện tại và rủi ro về lạm phát trong tương lai cũng thấp hơn . Với việc sử dụng đồng ngoại tệ , các nước đô la hoá chính thức luôn được duy trì tỉ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp ở các nứơc phát hành đồng ngoại tệ Lạm phát thấp tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân , khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn . Lạm phát thấp cũng giúp cho người nghỉ hưu , những người có thu nhập cố định và những người nghèo có các tài khoản tại ngân hàng và bảo đảm rằng khoản tiết kiệm của họ được duy trì giá trị . - Lãi suất thấp hơn khuyến khích nền kinh tế tăng trưởng: ở các nước đô la hoá chính thức người ta sẽ thực hiện so sánh và tiếp nhận những đồng tiền nào có giá trị hơn đồng nghĩa với có mặt bằng lãi suất thấp hơn . Mặt bằng lãi suất thấp sẽ cho phép tăng trưởng kinh tế cao hơn và sẽ tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển và chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài cũng thấp hơn nên các khoản vay nợ được trả dễ dàng .Do đó mà những người ủng hộ việc đô la hoá cho rằng lãi suất thấp sẽ tạo điều kiện để kinh tế tăng trưởng cao hơn . - Đô la hoá ở mức độ rộng sẽ rút ngắn chênh lệch tỉ giá trên hai thị trường chính thức và phi chính thức ngay trong nước . Khi đó tỉ giá chính thức càng sát với tỉ giá trên thị trường phi chính thức , các hoạt động càng có động cơ chuyển từ thị trường phi chính thức “bất hợp pháp” sang thị trường chính thức “hợp pháp” . - Mức độ hội nhập quốc tế ngày một rộng hơn – tạo uy tín lớn trên thế giới . Các nước thực hiện quá trình đô la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ , khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế . Hơn nữa khi một nền kinh tế bị đô la hoá hoàn toàn thì NHTƯ sẽ không còn có khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát , đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt , kỉ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt . Do vậy các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn . Bên cạnh đó, với một lượng lớn ngoại tệ gửi tại ngân hàng ,các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ , qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài và tăng cường khả năng kiểm soát của NHTƯ đối với luồng ngoại tệ . Đồng thời các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoại , thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế . Tuy nhiên thực tiễn cho thấy tất cả những lợi thế trên chỉ có ý nghĩa nhất định đối với một quốc gia rất nhỏ , mà phần lớn các giao dịch vãng lai và giao dịch tài khoản vốn phụ thuộc vào quốc gia có đồng đô la . Đô la hoá cũng bao hàm nhiều tác động tiêu cực: Trong một nền kinh tế bị đô la hoá (chính thức hay không chính thức) thì việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ sẽ không thể độc lập . - Đối với chính sách tài khoá: + Đô la hoá làm yếu kém hoat động và hiệu quả của chính sách tài khoá: Nó hạ thấp doanh thu từ phát hành tiền và làm trầm trọng hơn tác động lạm phát tới việc tài trợ thâm hụt ngân sách thông qua hệ thống ngân hàng (ví du như ở Argentina, những năm sau khi tiến hành đô la hoá ,doanh thu từ phát hành tiền giảm 0,3% GDP) .Đô la hoá cũng cho phép một bộ phận nhất định các hoạt đông kinh tế chốn thuế .Đô la hoá cũng làm yếu kém hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước xét về cả khả năng của nhà nước tạo lợi nhuận cũng như đóng góp cho ngân sách. + Chi phí lớn trong việc thu hồi nội tệ và đưa ngoại tệ vào lưu thông : Các nước thực hiện đô la hoá chính thức cần phải có lượng ngoại tệ đủ để thay thế số nội tệ đang lưu thông . Nghiên cứu cuả Fisher năm1982 cho thấy chi phí trung bình đối với các nước tiến hành đô la hoá chính thức vào nhưngx năm 1970 khoảng 4-5% GDP. - Đối với chính sách tiền tệ : + Đô la hoá làm giảm hiệu quả kiểm soát tiền tệ . Đô la hoá không chính thức có thể khiến cho cầu về nội tệ không ổn định . Giả sử một nguyên nhân nào đó tác động đến tâm lý khiến mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể lamf cho dồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát . Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ , những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (chính là hoạt động đầu cơ tỷ giá) . Những thay đổi này sẽ gặp khó khăn cho NHTƯ trong việc đặt mục tiêu cung ứng tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng . Cụ thể là , trong điều kiện đô la hoá sẽ rất khó khăn cho việc dự báo tổng phương tiện thanh toán . Qua đó , việc quyết định tăng hay giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời . Những cố gắng của NHTƯ trong việc khuyến khích(kìm hãm) tổng cầu thông qua tăng (giảm) tín dụng cũng sẽ ít hiệu quả,do sự thay đổi về lãi suất nước ngoài sẽ trực tiếp tác động đến các quyết định phân bổ tài sản cuả những người giữ USD . Nói cách khác những thay đổi lãi suất nước ngoài sẽ tác động đến tổng cầu nội địa vì khi lãi suất nước ngoài tăng (giảm) người giữ đô la sẽ có xu hướng thu hẹp (mở rộng ) tiêu dùng và đầu tư . Như vậy việc thi hành chính sách lãi suất thấp trong trường hợp kinh tế suy thái không nhất thiết khuyến khích đầu tư mà có thể làm nảy sinh tâm lý chuyển đổi sang USD nhằm bảo tồn gía trị . Đặc biệt đối với những nước đô la hoá chính thức thì chính sách tiền tệvà chính sách lãi suất của đồng tiền lúc này sẽ được quyết định ở Mỹ , trong khi một nước đang phát triển bị đô la hoá chính thức với một nước phát triển như Mỹ lại không có những chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau . Do đó nếu có xảy ra một quá trình điều chỉnh cho phù hợp thì quá trình này cũng phải kéo dài rất nhiều năm . Sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau. Cuối cùng, với doanh thu thuế lạm phát thấp hơn và những tác động bất lợi của đô la hoá đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước khiến cho chính sách tiền tệ, ở một mức độ nào đó phải cung cấp những nhu cầu tài chính lớn hơn cần thiết cho khu vực nhà nước. + Đô la hóa cũng làm giảm hiệu lực của chính sách tỷ giá: Đô la hoá tác động đến cơ chế truỷền dẫn của tỷ giá hối đoái . Tác động khuyếch đại của phá giá tiền tệ sẽ trở nên yếu kém do phá giá tiền tệ chỉ tác động đến một bộ phận nhỏ hơn tài sản có tính thanh khoản. Sự yếu kém của chính sách tỷ giá xuất hiện bất kể có tồn tại hay không chênh lệch trên thị trường phi chính thức so với thị trường chính thức. Bên cạnh đó, nếu mặt bằng giá cả trong nước tăng nhanh hơn ở Mỹ thì hệ quả đồng đô la sẽ tăng giá trị thực, khả năng cạnh tranh so với Mỹ (và các nước còn lại trên thế giới giảm sút). Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế thực hiện phá giá đồng tiền thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái. Điều này đã xảy ra trong năm 1999 , khi Brazin thực hiện phá giá mạnh đồng Real và hệ quả là hàng xuất khẩu của Achentina sang Brazin đã giảm đáng kể và hàng hoá của Brazin lại có khả năng cạnh tranh hơn một cách rõ rệt tại Achentina. Rõ ràng lợi thế của việc tiếp nhận đồng đô la là có giá trị ổn định chỉ thực có nếu như Mỹ là đối tác thương mại quan trọng nhất . Chừng nào không có được điều kiện này thì luôn luôn xuất hiện nguy cơ sự lên giá của đồng đô la so với đồng EURO, đồng JPYvà các đồng tiền khác sẽ làm giảm sút khả năng cạnh tranh của xuất khẩu trong nước. +Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi NHTƯ và chức năng của nó là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Ví dụ, mặc dù hiện nay các ngân hàng Việt Nam chỉ có vốn tự có thấp , song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của nhà nước đối với các khoản tiền gửi này. Điều này có thể làm được với VND nhưng không thể áp dụng được với USD. Khu vực ngân hàng trở nên bất ổn hơn với những trường hợp NHTM bị phá sản và đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của NHTƯ bị mất. Qua phân tích những lý luận chung về đô la hoá và ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế chúng ta đã có một cái nhìn khá tổng quát về hiện tượng đô la hoá và những nguồn gốc gây nên hiện tượng này. Vậy đô la hoá ở Việt Nam do đâu, mức độ của nó như thế nào? Chúng ta sẽ làm sáng tỏ câu trả lời này ở chương 2. Chương 2: THựC TRạNG ĐÔ LA HóA ở VIệT NAM 1. Đôi nét khái quát về quá trình đô la hoá ở Việt Nam từ những năm 80 đến nay: Trên đây là những lý luận chung nhất về đô la hoá nền kinh tế , bây giờ chúng ta sẽ vận dụng những lý luận chung đó để đối chiếu vào thực tiễn ở Việt Nam xem tình trạng này ở Việt Nam là do đâu, tác động như thế nào đến nền kinh tế, đến việc đưa ra những giải pháp khắc phục kịp thời. Vào những năm cuối thập kỷ 80, lạm phát tiền tệ ở Việt Nam lên cao tột đỉnh đến bốn chữ số (lạm phát phi mã như năm 1986 lạm phát 774,7%; 1987 là 231,8%; 1988 là 293,8%). Việc thực hiện cải cách tiền lương bị thất bại (năm 1985 sự sụp đổ của một số tổ chức tín dụng, chính sách đa tỷ giá, đồng Việt Nam (VND) bị mất giá nặng (e) đã tác động không nhỏ tới tâm lý của công chúng (z) thì tình trạng đô la hoá tăng mạnh vào thời gian này được thể hiện qua phương trình: I (VND) = I (USD) + z + e Công chúng đô xổ nắm giữ vàng, đô la Mỹ (USD) hoặc bất động sản... hầu hết đều lấy USD làm chuẩn mực để cất giữ và thanh toán trong nước. Hiện tượng đô la hoá xuất hiện ở mức cao tới 41% tổng tiền gửi trong hệ thống Ngân hàng. Đến đầu những năm thập kỷ 90, Ngân hàng Trung Ương đã sử dụng chính sách tiền tệ mới, lạm phát tiền tệ hạ thấp xuống đến một chữ số, đặc biệt đã áp dụng chính sách lãi suất thực dương đã hấp dẫn hướng mọi người tích luỹ VND. Thực tế đã có nhiều người rút tiền gửi USD chuyển qua gửi vàòng bằng VND được hưởng lãi suất cao hơn, dẫn đến tỷ lệ tiền gửi USD trong tổng tiền gửi của hệ thống Ngân hàng lúc đó chỉ còn 18% (năm 1996). Bước đầu coi như đã thiết lập VND thành đồng tiền ổn định giá trị cả vể đối nội và đối ngoại. Thế nhưng từ bốn năm qua, mức độ đô la hoá lại gia tăng với tỷ lệ trên 40% trong tổng tiền gửi của hệ thống Ngân hàng là khá cao. ở đây chưa lượng tính được số USD trôi nổi nằm ngoài hệ thống Ngân hàng. Nguyên nhân đô la hoá cao lần này không do lạm phát tiền tệ gây nên mà do chủ yếu từ cơ chế chính sách của ta kích thích mạnh, đến mức các Ngân hàng Thương mại cạnh tranh sôi động nên đã có lúc đẩy lãi suất tiền gửi USD lên rất cao, USD cháy vào Ngân hàng thương mại, lấn át VND gây hiện tượng thiếu VND để hoạt động. Số ngoại tệ huy động được đã chuyển thẳng vào các Ngân hàng nước ngoài để hưởng chênh lệch lãi suất lớn. Mới đây, Ngân hàng Trung Ương đã thả nỗi lãi suất về ngoại tệ càng tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại thoải mái trong việc định lãi suất huy động tiền giử USD. Đồng USD được đăng quang gây thêm tâm lý cất giữ và thanh toán còn có cả kỳ vọng sẽ được lợi nhiều về chính sách phá giá VND dài hạn. Lại thêm việc khuyến khích các doanh nghiệp trong nước vay ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại. Nguồn ngoại tệ này do các Ngân hàng thương mại huy động được đang dư thừa gửi ở nước ngoài. Xét về lợi ích trước mắt, thì việc này thấy có lợi nhưng nhìn vào tầm quản lý vĩ mô thì không ổn. Việc Ngân hàng chấp nhận tiền gửi bằng ngoại tệ và cấp tín dụng ngoại tệ ở trong nước là đã hợp pháp hoá thừa nhận đồng ngoại tệ có quyền phát huy đầy đủ các chức năng tiền tệ khác nào đó là một sự hoàn thiện tình trạng đô la hoá. Tất yếu đồng USD vốn đã mạnh có chỉ số độ tin cậy (z) cao là lợi thế lấn át đồng tiền yếu VND phải diễn ra. Tuy nhiên cho đến nay khi mà Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế vĩ mô, đã thành công trong việc ổn định giá trị đồng bản tệ (VND) cả về đối nội và đối ngoại, thế nhưng tình trạng đô la hoá vẫn tiếp tục tăng? Để trả lời cho câu hỏi này chúng ta nên xem xét nền kinh tế nước ta hiện tượng đô la hoá tiền gửi hay tiền vay hoặc cả hai. 2. Hình thức đô la hoá ở Việt Nam. 2.1.Đ ô la hóa tiền gửi. Đô la hóa diễn ra được đánh giá qua các chỉ tiêu tiền gửi bằng ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán , hoặc tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ so với tổng tiền gửi của hệ thống ngân hàng... Có thể nói, dư âm của lạm phát cao trong thời gian cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 vẫn còn đọng lại trong tâm trí dân cư nên những người sở hữu khoản tiết kiệm bằng ngoại tệ không dại gì mà chuyển đổi sang tiết kiệm bằng VND, giá trị của đồng nội tệ giảm theo xu hướng thời gian khiến cho người tiết kiệm có khuynh hướng phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng cách lựa chọn hình thức tiết kiệm bằng ngoại tệ đặc biệt là đô la Mỹ. Thêm vào đó , lãi suất tiết kiệm USD tăng cao trong năm 2000 càng gia tăng mức độ đô la hoá tiền gửi trong hệ thống ngân hàng, tỷ lệ lợi tức trên 1 đồng ngoại tệ gửi tại ngân hàng lớn hơn nhiều so với 1 đồng nội tệ đã làm thay đổi việc lựa chọn tài sản tiết kiệm. Biểu 1: Cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trong tổng vốn huy động của hệ thống ngân hàng Đơn vị:% 1994 1995 1996 1997 1998 1999 10/2000 1.Ngoại tệ 39,2 33,5 31,7 33,2 33,6 39,1 45,3 2.VND 60,8 66,5 68,3 66,8 66,4 60,9 54,7 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN các năm, và thời báo ngân hàng số 78, năm 2000 Nhận xét: Biểu số liệu trên cho thấy tình trạng đô la hoá có xu hướng tăng mạnh biểu hiện cụ thể là năm 1994 tỷ trọng tổng đô la trên tổng vốn huy động của hệ thống Ngân hàng là 39,2% đến giai đoạn 1995 - 1998 lại có xu hướng giảm sút khoảng từ 0,4 đến 1,8%. Năm 1999 mức độ đô la hoá lại có xu hướng tăng tương đương năm 1994 và thực sự bùng nổ trở lại năm 2000 với 45,3% tăng 2,2% so với năm 1999. Biểu 2: Cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trên M2. Đơn vị % 12/1991 3/1995 30/9/2001 1.Ngoại tệ 41,15 19,65 33,63 2.VND 58,85 80,35 66,37 Tổng 100 100 100 Nhận xét: Tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ/M2 đạt mức cao nhất tháng 12/1999 biểu hiện tỷ trọng tổng đô la trên M2 là 41,15% rồi giảm dầ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0808.DOC