Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------
NGUYỄN HOÀI THU
ẢNH HƢỞNG CỦA NGÔN NGỮ NÓI
ĐẾN NGÔN NGỮ VIẾT CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(TRÊN CỨ LIỆU NHỮNG BÀI LÀM VĂN CỦA HỌC SINH TRƢỜNG
THPT LƢƠNG THẾ VINH - THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Thái Nguyên, 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------
NGUYỄN HOÀI THU
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Ảnh hưởng của Ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ viết của học sinh Trung học phổ thông (trên cứ liệu nhứng bài làm văn của học sinh trường Trung học phổ thông (THPT) Lương Thế Vinh - Thành phố Thái Nguyên), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẢNH HƢỞNG CỦA NGÔN NGỮ NÓI
ĐẾN NGÔN NGỮ VIẾT CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(TRÊN CỨ LIỆU NHỮNG BÀI LÀM VĂN CỦA HỌC SINH TRƢỜNG
THPT LƢƠNG THẾ VINH - THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.01
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS NGUYỄN VĂN KHANG
Thái Nguyên, 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
cứ công trình nào.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hoài Thu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS
Nguyễn Văn Khang. Nhân đây, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
GS.TS Nguyễn Văn Khang - Người Thầy đã tận tình giúp đỡ để tác giả hoàn
thành luận văn này .
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tất cả các thầy, cô
giáo, những người đã trực tiếp giúp tác giả nâng cao vốn kiến thức ngôn ngữ
trong thời gian theo học chương trình thạc sĩ ngôn ngữ khoá 2007 - 2009 tại
trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè, đồng nghiệp, các em học sinh,
những người đã động viên, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hoài Thu
1
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 3
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................ 5
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 6
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT...................................................................... 7
1.1 Khái quát về ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết ............................................. 7
1.1.1 Ngôn ngữ nói ...................................................................................... 7
1.1.2 Ngôn ngữ viết ................................................................................... 11
1.1.3 Những khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết ...................... 14
1.1.4 Mối quan hệ giữa ngôn ngữ nói và viết ............................................ 16
1.2 Giới thiệu cảnh huống ngôn ngữ của trường THPT Lương Thế Vinh ..... 20
Tiểu kết ......................................................................................................... 21
Chƣơng 2. KHẢO SÁT NĂNG LỰC VIẾT TIẾNG VIỆT CỦA HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LƢƠNG THẾ VINH DƢỚI TÁC
ĐỘNG CỦA NGÔN NGỮ NÓI ...................................................................... 23
2.1 Khái niệm về năng lực ngôn ngữ ............................................................. 23
2.1.1 Năng lực ngôn ngữ ............................................................................ 23
2.1.2 Năng lực giao tiếp ............................................................................. 24
2.2 Khảo sát thực tế về ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ viết
của học sinh THPT Lương Thế Vinh ............................................................. 25
2.2.1 Về phương diện chữ viết ................................................................... 25
2.2.2 Về phương diện từ vựng- ngữ nghĩa .................................................. 29
2.2.3 Về phương diện ngữ pháp ................................................................. 34
Tiểu kết ......................................................................................................... 43
2
Chƣơng 3. NHỮNG NHÂN TỐ TẠO RA ẢNH HƢỞNG CỦA NGÔN
NGỮ NÓI ĐỐI VỚI NGÔN NGỮ VIẾT VÀ CÁCH KHẮC PHỤC ............... 45
3.1 Những nhân tố tạo ra ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đối với ngôn ngữ viết ..... 45
3.1.1 Học sinh không phân biệt được ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết ....... 45
3.2.2 Môi trường giao tiếp.......................................................................... 48
3.2.3 Ảnh hưởng của ngôn ngữ chat ........................................................... 51
3.2 Cách khắc phục ....................................................................................... 53
3.2.1 Giúp học sinh nhận biết được sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và
viết ............................................................................................................. 53
3.2.3 Dạy học tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp ............................ 55
Tiểu kết ........................................................................................................ 57
KẾT LUẬN .................................................................................................. 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 62
PHỤ LỤC.........................................................................................................
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ giao tiếp của con người tồn tại ở hai dạng cơ bản là nói và
viết. Về mặt thuật ngữ, trước đây chúng ta vẫn thường gặp các tên gọi “phong
cách nói” hoặc “phong cách khẩu ngữ” đặt trong thế đối lập với “phong cách
viết” hoặc “phong cách sách vở”. Xét về mặt lịch sử, tình hình nghiên cứu về
ngôn ngữ nói bắt đầu có sự chuyển biến tích cực từ thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, một số nhà ngôn ngữ học đã đạt được sự nhất trí rằng, lời nói mới là sự
hoạt động chính của ngôn ngữ còn dạng viết chỉ là thứ cấp. Trên thực tế, ngôn
ngữ nói cũng từng bị xếp ở vị trí thứ yếu do bị quy vào bản chất không cố
định, không có hệ thống và không có cấu trúc.
Từ những tồn tại trong nghiên cứu ngôn ngữ cần thiết phải có cái nhìn
đầy đủ, toàn diện không thể áp đặt cái nhìn phiến diện đối với ngôn ngữ nói
hoặc ngôn ngữ viết. Việc nghiên cứu về ngôn ngữ nói và viết không chỉ giúp
xác định lại một cách đúng đắn những nhận định đã có về ngôn ngữ nói và
viết trong phạm vi ngôn ngữ học cơ bản và phân tích diễn ngôn, mà còn có ý
nghĩa thiết thực đối những bộ môn khoa học khác như phong cách khoa học
ngôn ngữ, lý thuyết dạy và học tiếng.
Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, dù nói hay viết con người không chỉ
cần xác định nội dung giao tiếp tức nói, viết cái gì mà còn quan tâm đến việc
nói như thế nào, viết như thế nào. Sự lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ của
chủ thể giao tiếp không ngừng bị chi phối bởi các nhân tố như: mục đích giao
tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, nội dung giao tiếp và đối tượng giao tiếp hoặc kênh
giao tiếp. Sự lựa chọn này thể hiện năng lực giao tiếp ở mỗi người.
Nghiên cứu về ngôn ngữ nói và viết còn có ý nghĩa quan trọng đối với
sự phát triển ngôn ngữ của dân tộc. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà
việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt được đặt ra cấp thiết thì cần thiết
4
phải giáo dục cho thế hệ trẻ thói quen nói đúng và viết đúng tiếng Việt. Vấn
đề này được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm và một trong số đó là Cao
Xuân Hạo, người đã từng nhắc đến thực trạng này như sau:
“Đặc biệt những lỗi về tiếng Việt, những cách dùng từ sai, những câu
bất thành cú (thường là vì cách dịch sát từng chữ do tính cẩu thả của những
người dịch tin nước ngoài truyền bá), đã được nêu lên không biết bao nhiêu
lần từ hơn nửa thế kỷ nay mà các biên tập viên cũng cứ lặp lại hàng mấy chục
lần trong một buổi truyền hình hay phát thanh, và mỗi năm lại được bổ sung
thêm hàng chục kiểu lỗi mới phát minh. Những người lớn có văn hoá chỉ
khinh bỉ, nhún vai, nhưng thế hệ trẻ nhất là học sinh phổ thông lại tưởng đâu
đó lại là một kiểu nói “ hiện đại” hơn, vội vàng bắt chước hoặc tuy không cố
bắt chước nhưng nghe nhiều lần đâm quen, không thấy chướng tai nữa, và cứ
thế nói ẩu, viết ẩu dần dần phổ biến và rốt cục tiếng Việt trở thành một thứ
tiếng tạp nham không còn quy tắc ngữ pháp gì nữa.” [ 7, tr.340]
Nghiên cứu ngôn ngữ nói và viết sẽ góp phần vào việc phát triển, nâng
cao năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp của học sinh trong nhà trường.
Thực trạng của học sinh phổ thông hiện nay là năng lực phân tích còn yếu
kém. Các em chỉ có thể mô tả lại sự vật, hiện tượng, còn khi được yêu cầu
phân tích, đánh giá lập tức các em sẽ gặp khó khăn và thường là không thể
làm được. Hơn thế nữa, kĩ năng sử dụng ngôn ngữ của các em rất yếu. Tiếng
Việt là ngôn ngữ mẹ đẻ của các em và đã được học rất nhiều năm qua, thế mà
khi sử dụng, các em vẫn mắc nhiều lỗi về dùng từ, viết câu, dựng đoạn, liên
kết ý, diễn đạt… Đa phần các em viết lung tung, lộn xộn, không có cấu trúc rõ
ràng, ý nghĩa tối tăm, nhiều khi không thể diễn đạt rõ ràng suy nghĩ của mình
khi được giáo viên hỏi…
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, luận văn này tiến hành khảo sát sự
ảnh hưởng của tiếng Việt nói tới tiếng Việt viết ở một trường học cụ thể - nơi
5
mà chúng tôi đang làm công tác giảng dạy, đó là trường trung học phổ thông
Lương Thế Vinh, thành phố Thái Nguyên.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Thông qua khảo sát việc sử dụng tiếng Việt của
học sinh trường THPT Lương Thế Vinh, Thành Phố Thái Nguyên, luân văn
mong muốn góp phần vào làm rõ thêm mối quan hệ giữa ngôn ngữ nói và
ngôn ngữ viết, đặc biệt là những ảnh hưởng của ngôn ngữ nói tới ngôn ngữ
viết của học sinh phổ thông. Qua đó, luận văn đưa ra những ý kiến đóng góp
vào việc giảng dạy môn ngữ văn nói chung, tiếng Việt nói riêng trong nhà
trường nhằm nâng cao khả năng nói và viết tiếng Việt của học sinh.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn đề ra
những nhiệm vụ như sau:
1). Nêu được cơ sở lý thuyết có liên quan đến đề tài, cụ thể là liên quan
đến ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
2). Giới thiệu những nét cơ bản về môi trường dạy học của trường
THPT Lương Thế Vinh, Thành Phố Thái Nguyên (Có tác động đến tiếng Việt
của học sinh).
3). Khảo sát đặc điểm sử dụng tiếng Việt của học sinh Trường THPT
Lương Thế Vinh khi viết, chú trọng tác động của ngôn ngữ nói tới ngôn
ngữ viết.
4) Chỉ ra những nhân tố tạo ra những ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đến
ngôn ngữ viết và đề ra cách khắc phục.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là tiếng Việt học sinh sử dụng ở trường THPT
Lương Thế Vinh – nơi mà chúng tôi đang tham gia giảng dạy .
- Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn trong các bài kiểm tra, các bài thi
của học sinh và quan sát tiếng Việt các em học sinh sử dụng khi phát biểu
trong lớp.
6
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn là
phương pháp của ngôn ngữ học xã hội và phương pháp phân tích lỗi của dụng
học.
Phương pháp của ngôn ngữ học nhằm điều tra thực tế ảnh hưởng của
tiếng Việt nói đến tiếng Việt viết của học sinh.
Phương pháp phân tích lỗi của dụng học nhằm thống kê, phân loại
những lỗi xuất hiện trong bài văn của học sinh
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận: đề tài góp phần chứng minh cho luận điểm: giữa ngôn
ngữ nói và ngôn ngữ viết có sự tác động qua lại với nhau.
- Về mặt thực tiễn: Từ việc chỉ ra năng lực ngôn ngữ của học sinh
THPT hiện nay và năng lực vận dụng chúng như thế nào, luận văn bước đầu
khái quát hướng sử dụng ngôn ngữ của học sinh THPT, hy vọng sẽ giúp cho
việc dạy - học tiếng Việt có hiệu quả hơn.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần phụ lục, luận văn gồm 03
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2: Khảo sát năng lực sử dụng tiếng Việt khi viết của học sinh
trường THPT Lương Thế Vinh dưới tác động của ngôn ngữ nói.
Chương 3: Những nhân tố tạo ra ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đến ngôn
ngữ viết của học sinh THPT Lương Thế Vinh và cách khắc phục.
7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày đặc điểm cơ bản của ngôn
ngữ nói và viết như: tính tự nhiên và tính nhất thời, tính trực tiếp và tính
không gọt giũa của ngôn ngữ nói; tính hoàn chỉnh và tính cố định, tính không
đối mặt và vững bền, tính gọt giũa của ngôn ngữ viết.
1.1 Khái quát về ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
1.1.1 Ngôn ngữ nói
Ngôn ngữ nói có vai trò quan trọng trong đời sống cá nhân và cộng
đồng. Cuộc sống của các cá thể là một chuỗi nối tiếp của những hành động có
chủ ý (và không có chủ ý), với một hoặc một số người nghe xác định, nhằm
thỏa mãn nhu cầu giao tiếp trước mắt hoặc để đạt một mục đích nào đó.
1.1.1.1 Tính tự nhiên và tính nhất thời
Lời nói thường trải ra một cách tự nhiên, ít gò bó. Người nói có khả
năng phát ra một tràng dài, thường là các ngữ đoạn ngắn hơn một câu, và các
ngữ đoạn này dường như thiếu liên kết bề mặt như cách tổ chức một văn bản
viết. Tính tự nhiên cũng có nguyên nhân từ tính tức thời, từ tính chất không
dàn dựng trước, hoặc không được lập trình trước. Cho rằng người nói có thể
chuẩn bị trước một số ý cơ bản trước khi gặp gỡ, trò chuyện với đối tượng mà
mình quan tâm, nhưng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày không ai có thể
chuẩn bị đến từng chi tiết như khi soạn thảo văn bản trên giấy hoặc bằng máy
vi tính. Trong tương tác mặt đối mặt, người nói và người nghe thường luân
phiên đưa ra và chấp nhận các lượt lời, luân phiên đổi vai cho nhau. Phát
ngôn kế tiếp của người nói thứ nhất không hoàn phụ thuộc vào ý chủ định của
người ấy, mà trái lại, phụ thuộc rất lớn vào hồi đáp tức thời của người nghe,
tức là người sẽ luân phiên đảm nhận vị trí người nói thứ hai. Nếu cuộc thoại
8
không diễn tiễn như dự kiến, người nói phải lựa chọn cách bổ sung sửa chữa
hoặc chuyển hướng đề tài.
Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ tự nhiên. Tuy vậy đặc tính tự nhiên của
ngôn ngữ nói không đồng nghĩa với “tự do”, “hồn nhiên” hoặc “phi nghệ
thuật”. Ngôn ngữ nói không chỉ có những ràng buộc thông thường tùy vào
mục đích và nội dung giao tiếp, nhất là những quy định mang màu sắc văn
hoá, phong cách ứng xử chung của cộng đồng người bản ngữ.
Ngôn ngữ nói tiếng Việt cũng như nhiều ngôn ngữ khác trên
thế giới được cấu thành bởi những yếu tố ngôn ngữ mang tính chất tuỳ chọn,
nhưng thực chất cũng bị ràng buộc một cách chặt chẽ: từ cách xưng hô đến
cách mở đầu, cách phát triển đề tài diễn ngôn, cho đến cách kết thúc cuộc
thoại. Những yếu tố này thuộc đặc trưng mang tính dân tộc, thể hiện thói quen
tiềm tàng trong cách nghĩ, trong tập tục đời sống văn hoá của cộng đồng suốt
chiều dài lịch sử.
Một trong những điểm nổi bật khác tạo nên sự khác biệt lớn giữa nói
và viết đó là bản chất nhất thời, tức là bản chất không cố định được trong
không gian của ngôn ngữ nói. Có thể thấy rằng người nghe phải xử lý nguồn
thông tin mà họ nghe được bằng cách ghi nhớ, tóm tắt nội dung được trình
bày hơn là tập trung ghi nhớ từng chữ từng lời. Họ phải lưu ý để nhận biết
phần ý mà người nói muốn truyền đạt, hơn là phần lời đã được nói ra. Một
mặt, tính nhất thời là điểm thuận lợi đối với người nói khi cần chuyển hướng
đề tài sửa chữa các phát ngôn, hoặc thậm chí phủ định lời nói đã được nói ra.
Mặt khác, bản chất nhất thời khiến lời nói miệng chỉ có hiệu lực tức thời và
có thể gây ra những khó khăn nhất định khi người nghe chỉ dựa trên
những “hợp đồng miệng” nhất là trong giao dịch mua bán, trong những mối
quan hệ tình cảm, …vv…
9
1.1.1.2 Tính trực tiếp
Khi người nói quyết định nói điều gì thì cũng là lúc người ấy phát đi
các tín hiệu ngôn ngữ bằng một chuỗi âm thanh. Đồng thời người nghe cũng
lập tức tiếp nhận và giải mã các tín hiệu âm thanh ấy. Khác với giao tiếp bằng
chữ viết, trong giao tiếp bằng lời nói người nghe có cơ hội để hỏi lại và có thể
được giải thích ngay tại chỗ. Điều này cũng có đóng góp đáng kể đến mức độ
thành công trong việc truyền đạt và nhận hiểu nội dung giao tiếp.
Giao tiếp bằng ngôn ngữ nói khó có thể đạt hiệu quả nếu giữa hai phía
đối thoại không có hiểu biết chung, hoặc giả định chung về nhau. Điều này
cũng có nghĩa là trong những tình huống giao tiếp mặt đối mặt, các bên tham
gia hội thoại có được những thuận lợi nhất định như biết được khi nào nên nói
hay nên dừng, đều nhận thức được về môi trường vật lý xung quanh, về các
mối quan hệ xã hội và văn hoá giữa họ với nhau và do đó có thể điều chỉnh
được tác động của những điều họ nói ra đối với người nghe.
Tóm lại, nhờ vào tính chất trực tiếp của tình huống giao tiếp cụ thể mà
người nói có thể tạo ra những phát ngôn để người nghe có thể hiểu được một
cách dễ dàng. Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ viết, người đọc chỉ có thể có
thêm các tín hiệu ngoài văn bản như tranh ảnh, sơ đồ (nếu có), chữ viết tay
hoặc hình thức của chữ in, hoặc xuất xứ của văn bản (từ sách, tạp chí,…vv..).
Trong khi đó, người nghe với tư cách là người thụ ngôn hoàn toàn có thể dựa
vào nét mặt, ánh mắt, cử chỉ cũng như giọng điệu của người nói để hiểu đúng
ý định chức năng mà người nói muốn thể hiện. Nhờ có thể quan sát trực tiếp
trong giao tiếp mặt đối mặt mà hai phía người nói và người nghe có thể cùng
thương lượng nghĩa, thậm chí họ có thể sửa chữa kịp thời để làm tăng hoặc
giảm tác động phát ngôn đối với bên còn lại, điều mà người viết trong những
điều kiện thông thường khó có thể thực hiện được.
10
1.1.1.3 Tính không gọt giũa
Ngay cả người nói ngôn ngữ thứ nhất đôi khi cũng có một số khó khăn
do phải tổ chức các phát ngôn trong một thời gian tương đối ngắn. Các lỗi
thường gặp khi nói là: những lỗi về từ ngữ, cú pháp, việc bỏ lửng những ý
định mình định nói lúc đầu hoặc quên đi phần mình vừa phát biểu xong và lặp
lại cùng một ý.
Trong tương tác mặt đối mặt, người phát ngôn tổ chức lời nói của
mình một cách nhanh chóng. Do thời gian cho phép để vừa tổ chức phát ngôn,
vừa thao tác để sản sinh phát ngôn bị hạn chế, và do người nói và người nghe
thường có những hiểu biết chung nên người nói thường không nói hết và
nhường phần tham chiếu lại cho người nghe. Sự thiếu hụt về thời gian nêu
trên được đền bù bằng cách người nói có điều kiện để vừa suy nghĩ vừa diễn
tả ngay những hình ảnh, ý nghĩ trong đầu thành những sản phẩm lời nói có
tính tự phát. Kết quả là những sản phẩm nói tức thời thường ít trau chuốt và
không hoàn chỉnh (theo cách đánh giá đối với văn bản viết), bởi vì một người
bình thường khó có thể làm cả hai việc một lúc là vừa nói tự nhiên vừa nói
trau chuốt được.
Tính không gọt giũa của ngôn ngữ nói được thể hiện ở những nét đặc
thù mà người viết có xu hướng loại bỏ khi tạo lập diễn ngôn viết.
Trong ngôn ngữ nói tiếng Việt, thường sử dụng rất nhiều trợ từ tình thái
như: à, á, đấy, ứ, ừ, chớ, nhớ, nhá, nhỉ…v.v..; các trợ từ nhấn mạnh: chính,
cái, cóc, đích, mới, hẳn…vv.. Một mặt, trợ từ là cái thêm vào, là bộ phận lời
nói có thể bị lược bỏ khi văn bản được trình bày lại ở dạng viết. Mặt khác, trợ
từ là phương tiện ngôn ngữ có tầm quan trọng đặc biệt. Trợ từ tiếng Việt vừa
là những từ công cụ chuyển tải một số ý nghĩa ngữ pháp nhất định, vừa góp
phần diễn đạt tư tưởng, tình cảm một cách tinh tế, nhẹ nhàng. Ngoài ra trợ từ
còn có chức năng “đánh dấu” (hoặc làm đầy) văn bản nói. Trợ từ là những
yếu tố làm cho ngôn ngữ nói không bao giờ bị đồng nhất với ngôn ngữ viết.
11
Có ý kiến cho rằng chính những yếu tố dư này là những yếu tố làm cho ngôn
ngữ nói luôn biến đổi một cách sinh động, mới mẻ và truyền cảm.
Có thể nói rằng sự phong phú, đa dạng của trợ từ tình thái xuất phát
từ đặc thù ngữ âm của tiếng Việt và sự phân biệt nghĩa rất tinh tế trong cảm
quan ngôn ngữ của người bản ngữ.
Ngoài ra, cũng như hầu hết các ngôn ngữ khác, “tính thô” trong văn nói
tiếng Việt cũng được thể hiện ở những chỗ ngắt quãng trong lời nói, chỗ
ngập ngừng lúc bắt đầu, những từ ngữ thiếu chính xác, những
từ ngữ có ý nghĩa chung chung không cụ thể như: Hổng chừng, đại khái như,
kiểu như, đại thể là, phải không nào; và ở những điệp từ, điệp ngữ không có
chủ ý.
1.1.2 Ngôn ngữ viết
Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết không chỉ khác nhau ở hình thức tồn
tại trong môi trường vật lý (âm thanh – chữ viết), mà còn ở cách chúng tái
hiện thực tại khách quan. Ngôn ngữ viết trình bày sự vật và hiện tượng dưới
dạng những sản phẩm hoàn chỉnh hơn là những quá trình. Trong khi ngôn ngữ
nói xác định lĩnh vực sáng tạo chủ yếu của nó là những quá trình, những hình
ảnh sinh động của hiện thực khách quan, thì ngôn ngữ viết được dàn trải trên
trang giấy hoặc màn ảnh, màn hình.
Ngoài những đặc điểm chung có thể quan sát được ở cả hai biến
thể nói và viết, ngôn ngữ viết còn thể hiện những điểm khác biệt chính
như sau:
1.1.2.1 Tính hoàn chỉnh và tính cố định
Tính cố định được trong không gian là một trong những ưu thế của
hệ thống chữ viết. Bản chất cố định này cho phép các thế hệ sau nghiên
cứu văn bản từ các thế hệ trước một cách thấu đáo và xem xét các ý tưởng
hoặc bình phẩm về các mối quan hệ bên trong và bên ngoài văn bản một
cách dễ dàng.
12
Ngoài ra việc lưu trữ thông tin bằng chữ viết cho phép con người phát
triển cách nhìn phê phán đối với kiến thức và những tư tưởng của các xã hội
trước và do đó giúp xã hội không ngừng phát triển. Và cũng chính nhờ đặc
trưng tĩnh trạng này mà việc nghiên cứu ngôn ngữ viết có nhiều thuận lợi hơn,
và do đó đã đạt được những thành tựu có tính tiên phong so với việc nghiên
cứu ngôn ngữ nói.
Ngôn ngữ viết đòi hỏi sự thống nhất về chuẩn mực chính tả cũng như
những quy tắc về cách viết, cách trình bày văn bản. Thực tế lịch sử đã chứng
minh rằng kể từ khi hệ thống chữ viết đảm nhận các chức năng xã hội của
mình, nó có xu hướng tạo ra sự nhất quán trong hệ thống để thuận tiện cho
việc sử dụng, và bởi vì sự tiến hóa của hệ thống chữ viết luôn gắn liền với các
quá trình chuẩn hóa. Ý kiến sau đây góp phần giải thích vì sao ngôn ngữ viết
có được ưu thế vượt trội với tư cách là một hệ thống hoàn chỉnh như đã nhắc
đến ở trên:
“Ngày xưa, trong truyền thống ngữ văn học thì văn bản là đối tượng
nghiên cứu và lời nói, tức là ngôn ngữ nói, không thể coi là có giá trị để
nghiên cứu như ngôn ngữ viết được. Quan niệm ấy có lý do: Ngôn ngữ viết
tức là ngôn ngữ đã thành văn chương, thành những tác phẩm biểu hiện cái
hay, cái đẹp, cái tinh hoa đã có giá trị định hình của một ngôn ngữ; ngôn ngữ
nói thì biến động, cho nên rất dễ trở thành “pha tạp”, “hư hỏng”. Vì thế trước
đây, sự chuẩn mực hóa cũng dựa trên ngôn ngữ viết để quy định cái đúng, cái
sai. Như vậy mặt chữ có ưu thế hơn hẳn mặt âm. Vả lại trong đời sống trước
đây thì ở đâu sách cũng là công cụ chủ yếu của sự truyền đạt tư tưởng văn
hóa. Vai trò quan trọng như vậy của sách cũng là vai trò quan trọng của mặt
chữ” [23 ]
Các sản phẩm bằng ngôn ngữ viết tồn tại lâu bền và cố định hơn các
sản phẩm lời nói, do đó chúng phù hợp hơn để lưu giữ các sự kiện thông tin.
Người Việt ta xưa đã nhận thức rõ về tính nhất thời và không cố định được
13
của ngôn ngữ nói (lời nói gió bay). Từ trước đến nay, tất cả các loại giấy tờ
quan trọng như văn bản pháp lý, giấy chứng nhận, bằng cấp, thư từ giao dịch
đều phải ghi lại bằng văn bản viết. Đó chính là bằng chứng về tính ưu việt và
tính đặc thù của ngôn ngữ viết mà lời nói miệng không thể thay thế được.
1.1.2.2 Tính không đối mặt và tính vững bền
Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết không chỉ khác nhau ở hoàn cảnh
và phương thức tạo lập văn bản của người phát ngôn, mà còn khác nhau về
các yêu cầu mà chúng đòi hỏi đối với người thụ ngôn. Trước hết, ngôn
ngữ viết không theo nguyên tắc “ở đây” và “bây giờ”. Điều này cũng góp
phần tạo ra những ý nghĩa khác biệt của giao tiếp bằng chữ viết.
Khi phát triển ngôn từ, hiển nhiên rằng con người đã biết kết hợp với
một số kiểu âm thanh thường xuất hiện trong tự nhiên, với những tiếng kêu do
cảm xúc, biết dùng điệu bộ để diễn tả kèm theo lời nói của họ. Về sau này, khi
xã hội loài người phát triển đến một độ nhất định, con người không chỉ sử
dụng ngôn ngữ âm thanh để thể hiện những mối quan hệ tâm lý, tình cảm,
những đòi hỏi thiết yếu trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, mà còn có nhu
cầu truyền đạt kiến thức, kỹ năng, thông tin giữa họ với nhau và với các thế
hệ sau. Cuối cùng chữ viết xuất hiện cùng với sự phát triển của các hệ thống
dấu hiệu và văn tự của ngôn ngữ viết và cùng với sự chuyển tiếp từ nói sang
viết, chữ viết đã trở thành phương tiện hữu hiệu để chuyển giao kiến thức và
kinh nghiệm. Trong suốt tiến trình phát triển của xã hội loài người, cũng
chính nhờ vào việc ghi chép, lưu trữ thông tin bằng chữ viết mà thế hệ đi sau
có thể biết được những kinh nghiệm mà các bậc tiền bối của mình đã trải qua
và muốn truyền đạt lại cho họ. Việc ghi chép bằng ngôn ngữ viết giúp con
người lưu trữ những tư tưởng, những kiến thức lâu bền và chính xác. Do bản
chất của giao tiếp là một chiều và không trực tiếp nên người viết có thể tiến
hành giao tiếp với những người ở cách xa cả về không gian và thời gian.
14
Trong những điều kiện thông thường, khi viết, tác giả thường bị tách
biệt khỏi người đọc trong môi trường làm việc của mình. Do không có điều
kiện tương tác trực tiếp với người đọc, do không chịu sức ép về mặt thời gian,
về tâm lí mà người viết có điều kiện tổ chức các cấu trúc dày đặc thông tin,
điều mà người nói khó thực hiện trong điều kiện tiếp xúc trực tiếp và không
được chuẩn bị trước.
1.1.2.3 Tính gọt giũa
Khi sử dụng ngôn ngữ viết, người tạo lập văn bản có đầy đủ điều
kiện để chủ động tổ chức sắp xếp thông tin, thực hiện các kiểu quan hệ nghĩa
- logic giữa các câu theo một trình tự mong muốn. Khác với việc sử dụng lời
nói miệng, trong đó người nói dành nhiều thời gian để lựa chọn các chiến
lược giao tiếp và lựa chọn từ ngữ và mặt âm thanh của ngôn ngữ, người viết
thường chú ý nhiều hơn đến việc tổ chức các phương tiện ngôn ngữ sao cho
việc diễn đạt được tốt nhất. Tính gọt giũa của ngôn ngữ viết được thể hiện ở
việc kết hợp các phương tiện ngôn từ một cách công phu và sáng tạo để tạo ra
những tác phẩm có giá trị về tư tưởng, nghệ thuật.
Ngoài việc sắp xếp, tổ chức các phát ngôn theo một trật tự cú pháp hợp
lí để văn bản viết trở nên hoàn chỉnh và có thể hiểu được, tính gọt giũa của
ngôn ngữ viết cũng được thể hiện ở việc lựa chọn ngôn từ phù hợp nhất với
nội dung cần biểu đạt để tạo nên xúc cảm thẩm mỹ cao nhất ở người đọc.
1.1.3 Những khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
Nghiên cứu của nhiều tác giả đã chỉ ra rằng có sự khác biệt giữa ngôn
ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Theo P.M.Clanay, sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết có
nguồn gốc từ những nhu cầu nhận thức và xã hội khác nhau trong những cảnh
huống riêng biệt khi nói hoặc khi viết.
Tác giả W.L.Chafe lại nghiên cứu sự khác nhau trong các quá trình
tạo lập văn bản viết và văn bản nói đã dẫn đến các kết quả khác biệt trong
15
các sản phẩm lời nói (lời nói và chữ viết) như thế nào. Ông chú ý đến hai
khía cạnh chính:
1. Nói thì nhanh hơn viết (và chậm hơn đọc);
2. Người nói tương tác trực tiếp với người nghe, còn người viết thì
không.
Chafe tìm thấy các cấu trúc ngôn ngữ khác nhau giữa ngôn ngữ hội
thoại hàng ngày với văn xuôi có tính học thuật trong ngôn ngữ của cùng đối
tượng nghiên cứu. Tác giả cũng thấy rằng các cứ liệu của ngôn ngữ nói mà
ông thu thập được thường bị ngắt quãng do nhịp độ nhanh của ngôn ngữ nói.
Trong khi đó các cứ liệu của ngôn ngữ viết thì được tổ chức chặt chẽ hơn.
Chafe chứng minh rằng ngôn ngữ viết có khuynh hướng không lệ thuộc bởi
tương tác trực tiếp giữa người viết và người đọc nhờ việc sử dụng các cấu trúc
bị động và danh hóa. Trái lại, trong ngôn ngữ nói có thể tìm thấy nhiều cách
thể hiện tương tác liên cá nhân giữa người nói và người nghe bao gồm các
quy chiếu về người nói và các quá trình tạo lập văn bản của người nói, các
phương tiện tổ chức thông tin, việc sử dụng các tiểu từ để nhấn mạnh, và các
lời dẫn trực tiếp.
Nói đến sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết không thể
không nhắc đến các ý kiến của nhà nghiên cứu M.K.Hallyday. Ông cho rằng
sự khác biệt này không nằm trong bản thân hệ thống ngôn ngữ mà là ở
phương tiện diễn đạt, ở ngữ cảnh và ở cách tổ chức kinh nghiệm. Cụ thể là:
ngôn ngữ viết không thu được vào trong mình những ý nghĩa tiềm tàng của
lời nói miệng, đó là những đóng góp có ngôn điệu và các phương tiện kèm
ngôn ngữ. Còn ngôn ngữ nói thì lại không chỉ ra được đường biên giới của
câu và của đoạn văn.
Theo Halliday, trong ngôn ngữ luôn có những biến thể. Các biến thể
này gồm có biến thể có tính chất xã hội, tức là phương ngữ, và các biến thể
thuộc về chức năng ngôn ngữ, tức là ngữ vực. Biến thể thuộc về chức năng là
16
cái làm cho ngôn ngữ nói và viết không bao giờ bị đồng nhất. Trong khi
phương ngữ là cái mà người nói sử dụng như một thói quen ngôn ngữ, và
được xác định tùy vào người nói là ai, thì biến thể chức năng của ngôn ngữ
được sử dụng là cái mà người nói thực sự nói ra (hoặc viết ra) lúc đó.
Với quan điểm: “Nói và viết không chỉ đơn thuần là những cách thức
để làm những việc như nhau. Nói đúng đúng hơn, chúng là những cách thức
để làm những việc khác nhau” [ 2, tr.42], Halliday đã di đến kết luận rằng hai
hình thức ngôn ngữ này khai thác những đặc điểm khác nhau của cùng một hệ
thống ngôn ngữ, và cả hai đều đạt được những thế mạnh khác nhau.
1.1.4 Mối quan hệ giữa ngôn ngữ nói và viết
Tuy có nhiều ý kiến không thống nhất về vấn đề sự khác biệt có tính
cấu trúc giữa ngôn ngữ nói và viết, song cũng không ít tác giả nhận ra mối
liên hệ chặt chẽ giữa hai biến thể có tính chức năng (nói và viết) của cùng hệ
thống ngôn ngữ. Halliday, một nhà nghiên cứu đã tìm ra rất nhiều điểm khác
biệt giữa ngôn ngữ nói và viết, cũng đã thừa nhận rằng: nói và viết đều là “sự
nói ra những cái như nhau” (nói miệng và viết là hai cách khác nhau của việc
nói ra).[2, tr.38]
Theo tác giả A.N.Morohovski, đối với những ngôn ngữ phát triển
chẳng mấy a._.i còn đơn giản nghĩ rằng viết chẳng qua là ghi lại lời nói miệng.
Ở đấy, chữ viết với hệ thống kí tự khác hẳn về chất liệu – chất liệu đồ hình
khác với chất liệu âm thanh – thời gian của lời miệng – đã có đời sống riêng
của mình ở những khu vực nhất định trong hệ thống của mình (như hệ thống
dấu câu, quy tắc viết hoa, viết xuống dòng…) và do đó lời viết vừa chịu tác
động của lời miệng vừa tác động trở lại lời miệng, hai bên dựa vào nhau và
nâng đỡ giúp ngôn ngữ phát triển lên hơn nữa.
Những khảo sát của các tác giả khác cũng chỉ ra rằng những cái được
cho là có liên quan đến phương thức nói có thể tìm thấy trong diễn ngôn theo
17
phương thức viết và ngược lại. G.M.Green đã có nhận xét rằng, những đặc
trưng thường được gán cho là của văn bản viết với phong cách ngôn ngữ văn
hóa gọt giũa cũng được tìm thấy trong cả hai ngữ cảnh nói và viết.
Không có lí do gì để cho rằng ngôn ngữ viết hiện nay chỉ đơn thuần là
ngôn ngữ nói được ghi chép lại. Kể từ bước đầu phát triển, ngôn ngữ viết đã
xây dựng cho mình một hệ thống hoàn chỉnh, và hệ thống này liên tục được
bổ sung bởi các hiện tượng của ngôn ngữ nói. Ngược lại, ngôn ngữ viết cũng
có sự tác động tích cực ngược trở lại đối với ngôn ngữ nói, như nâng cao địa
vị của ngôn ngữ nói theo các chuẩn mực của mình. Trong một nghiên cứu
khác, tác giả D. Biber cho rằng năng lực ngôn ngữ có liên quan đến cấu trúc
ngôn ngữ của các phát ngôn “đúng ngữ pháp”; còn năng lực giao tiếp thì có
quan hệ với hình thức và việc sử dụng của cả hai phương thức nói và viết.
Trong cơ cấu này, không nhất thiết phải xem nói hay viết là dạng nguyên cấp,
là cái chủ đạo và loại bỏ cái còn lại. Cũng theo Biber, cả nói và viết cần được
đầu tư nghiên cứu và việc phân tích đối chiếu về mặt ngôn ngữ của cả hai
phương thức trở thành một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Cách nhìn tiến
bộ của Biber đã góp phần đem lại một hướng đi đúng đắn cho những nghiên
cứu về ngôn ngữ nói và viết.
Xét cho cùng, “Nói miệng và viết là hai cách khác nhau của việc nói
ra”. Nói và viết là hai dạng tồn tại của một ngôn ngữ, trong đó dạng nói là
dạng nguyên cấp, dạng viết là dạng thứ cấp, là cái xuất hiện về sau. Trong quá
trình phát triển, chữ viết đã dần dần hình thành cho mình một hệ thống riêng
có phần khác biệt so với ngôn ngữ nói và ảnh hưởng tích cực đến dạng nói,
nâng ngôn ngữ nói cao dần trên cái thang của văn hóa ngôn ngữ. Mặt khác,
ngôn ngữ nói vẫn sống động và phát triển, là nguồn sinh lực dồi dào cung cấp
“năng lượng” sống và sáng tạo của nhân dân cho ngôn ngữ viết.
18
Như vậy, tuy có nhiều ý kiến thống nhất về sự khác biệt có tính cấu
trúc giữa ngôn ngữ nói và viết, cũng không ít tác giả nhận ra mối liên hệ chặt
chẽ giữa hai biến thể có tính chức năng (nói và viết) của cùng hệ thống ngôn
ngữ. Nhiều khảo sát về mối quan hệ giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết đã
chỉ ra rằng những cái được cho là có liên quan đến phương thức nói có thể tìm
thấy trong diễn ngôn theo phương thức viết và ngược lại. Những đặc trưng
thường được gán cho là của văn bản viết với phong cách ngôn ngữ văn hóa
gọt giũa cũng được tìm thấy trong cả hai ngữ cảnh nói và viết.
Không có lí do gì để cho rằng ngôn ngữ viết hiện nay chỉ đơn thuần
là ngôn ngữ nói được ghi chép lại. Kể từ bước đầu phát triển, ngôn ngữ viết
đã xây dựng cho mình một hệ thống hoàn chỉnh và hệ thống này liên tục được
bổ sung bởi các hiện tượng của ngôn ngữ nói. Đồng thời ngôn ngữ viết cũng
có tác động tích cực đối với ngôn ngữ nói, ví dụ như nâng cao địa vị của ngôn
ngữ nói theo các chuẩn mực của mình. Không có chữ viết thì các khái niệm
khoa học không thể được hiện thực hóa theo tư duy logic tuyến tính và chúng
ta có thể không biết suy nghĩ một cách logic và có thể đã trở lại với thời kỳ
mông muội sơ khai.
Nếu chúng ta thừa nhận – và có cơ sở để thừa nhận như vậy – rằng
ngôn ngữ viết phản ánh rõ nét hơn tính hệ thống của ngôn ngữ, còn ngôn
ngữ nói phản ánh rõ nét hơn sự hoạt động của ngôn ngữ trong tương tác
(nói như thế không có nghĩa là ngôn ngữ nói có cấu trúc kém hơn ngôn ngữ
viết), thì mối quan hệ giữa chúng có thể thấy rõ trong cách nói của F.de
Sausure: “…về phương diện lịch sử, sự kiện của lời nói bao giờ cũng đi
trước”. Và ngày nay, không mấy ai còn giản đơn nghĩ rằng viết chẳng qua
là ghi lại lời nói miệng. Ở đấy, chữ viết với hệ thống ký tự khác hẳn về
chất liệu – chất liệu đồ hình – không gian – khác với chất liệu âm thanh –
thời gian của lời nói miệng – đã có đời sống riêng của mình ở những khu
19
vực nhất định trong hệ thống của mình (như hệ thống dấu câu, quy tắc viết
hoa, viết xuống dòng..vv..) và do đó chữ viết vừa chịu tác động của lời
miệng vừa tác động trở lại lời miệng, hai bên dựa vào nhau và nâng đỡ
nhau, giúp ngôn ngữ phát triển.
Ở Việt Nam, liên quan đến những khảo sát về ngôn ngữ nói và viết
thuộc lĩnh vực phong cách học tiếng Việt có thể kể đến những đóng góp to
lớn của các tác giả như Cù Đình Tú, Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái
Hòa,…với sự phân biệt giữa các nhóm phong cách chức năng (phong cách
khẩu ngữ và các phong cách ngôn ngữ văn hóa gọt giũa) tồn tại ở hai dạng
thức (dạng nói và dạng viết).
Trong “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt”, tác giả đã trình bày vấn
đề phân biệt ngôn ngữ nói và viết dưới dạng thức: hình thức thứ nhất là hình
thức cụ thể, trực quan đối lập với hình thức thứ hai là hình thức khái quát.
Hình thức cụ thể phân biệt ngôn ngữ nói theo nghĩa kép (ngôn ngữ âm thanh
dùng trong hội thoại tự nhiên và ngôn ngữ viết bao gồm cả lời phát biểu trên
cơ sở bài viết sẵn), còn hình thức khái quát thì phân biệt ngôn ngữ viết trong
mọi lĩnh vực xã hội (trong mọi phong cách chức năng). Tác giả cũng cho rằng
nói và viết là hai dạng tồn tại của ngôn ngữ, trong đó dạng nói là dạng nguyên
cấp, dạng viết là dạng thứ cấp, là cái xuất hiện về sau. Trong quá trình phát
triển, chữ viết đã dần dần hình thành cho mình mộ hệ thống riêng có phần
khác biệt so với ngôn ngữ nói và ảnh hưởng tích cực đến dạng nói, nâng ngôn
ngữ nói cao dần trên từng bậc thang của văn hóa ngôn ngữ. Mặt khác ngôn
ngữ nói sống động và phát triền là nguồn sinh lực dồi dào cung cấp “năng
lượng” sống và sáng tạo của nhân dân cho ngôn ngữ viết. Nhận định này góp
phần khẳng định một cách nhìn đúng đắn về vị trí, chức năng của ngôn ngữ
nói và viết, tránh được xu hướng cực đoan chỉ đề cao ngôn ngữ nói hoặc ngôn
ngữ viết đã từng tồn tại một thời gian dài trong lịch sử.
20
1.2 Giới thiệu cảnh huống ngôn ngữ của trƣờng THPT Lƣơng
Thế Vinh
Như đã biết, ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết không chỉ tồn tại những
điểm khác biệt mà giữa chúng còn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Ở luận
văn này, chúng tôi đi tìm hiểu mối quan hệ ấy, cụ thể là những tác động của
ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ viết của học sinh phổ thông ở một địa chỉ cụ thể,
đó là trường trung học phổ thông Lương Thế Vinh, Thành phố Thái Nguyên.
Trường Trung học phổ thông Lương Thế Vinh Từ khi ra đời đến nay đã
trải qua mười năm xây dựng và trưởng thành. Trường đóng trên địa bàn thành
phố Thái Nguyên. Hiện nay trường có ba cơ sở đào tạo với hơn 600 học sinh
trong đó số học sinh nam là 493 em ( chiếm tỉ lệ: 77,4% ), số học sinh nữ là
107 ( 22,6%). Về thành phần dân tộc, cũng như các trường trung học phổ
thông khác của thành phố, các em chủ yếu là dân tộc Kinh (chiếm khoảng
96%), số còn lại là các dân tộc Tày, Nùng, Sán Dìu (chiếm 4%). Đáng chú ý
là số các em thuộc dân tộc khác đều sinh ra và lớn lên ở thành phố cho nên
ảnh hưởng của ngôn ngữ dân tộc đối với tiếng Việt của các em là không còn.
Như vậy, 100% các em sử dụng tiếng Việt phương ngữ Bắc Bộ từ khi thơ ấu
đến khi học tiếng Việt một cách có ý thức trong nhà trường phổ thông.
Với đặc điểm của lứa tuổi trung học phổ thông, các em đại đa số đang ở
độ tuổi 16, 17, 18. Đây là độ tuổi vị thành niên rất nhạy bén với cái mới, thích
bắt chước những điều mới lạ. Đặc điểm này vừa có mặt tốt lại vừa có mặt tiêu
cực. Với ngôn ngữ, các em dễ học theo và học rất nhanh cách nói, cách viết
mà các em cho là độc đáo, gây được sự chú ý của người khác. Đây chính là cơ
hội để những yếu tố phi chuẩn mực xâm nhập vào trong cách viết, cách nói
của học sinh. Qua tìm hiểu chúng tôi cũng nhận thấy rằng, về gia đình của các
em, phần lớn bố mẹ làm nghề buôn bán tự do nên không có thời gian và ý
thức rèn luyện, phát triển ngôn ngữ cho con cái. Điều này ảnh hưởng rất nhiều
đến năng lực ngôn ngữ của các em.
21
Về năng lực tiếng Việt của học sinh trong trường, qua quá trình giảng
dạy các em chúng tôi thấy, phần đông các em sử dụng tiếng Việt khi nói và
đặc biệt khi viết còn rất non yếu. Có thể do đây là một trường dân lập, chất
lượng đầu vào không cao, kiến thức tiếng Việt của các em ở lớp dưới bị hổng
rất nặng nề. Đây cũng là thực trạng chung của học sinh trung học phổ thông.
Sự yếu kém trong nói, viết tiếng Việt làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt
cần lưu ý là do sự thiếu hiểu biết về những quy tắc chung của tiếng Việt chứ
không phải do các em cố tình nói, viết như vậy. Chính vì thế trong giáo dục
ngôn ngữ, cần chú ý cung cấp những tri thức này cho các em.
Về thái độ của học sinh đối với tiếng Việt, cấp học trung học phổ
thông là cấp học mang tính hướng nghiệp cao, hầu hết học sinh đều đã có
định hướng nghề nghiệp cho mình sau này. Xu thế chung là các em thường
chọn các ngành học như kinh tế, ngân hàng, tài chính, kế toán… cho nên học
sinh chỉ chú trọng các môn liên quan đến khối thi của mình còn đối với môn
văn cũng như tiếng Việt, các em thường không mấy hào hứng và chỉ học với
mục đích để thi đỗ tốt nghiệp. Điều này lí giải vì sao kết quả học tập của môn
học này không cao.
Đội ngũ giáo viên dạy ngữ văn của trường gồm 8 thầy cô giáo trong đó
có 4 người là giáo viên thỉnh giảng. Các thầy cô đều được đào tạo bài bản
trong các trường sư phạm, đều rất yêu thích môn văn và nhiệt tình trong giảng
dạy. Tuy nhiên có thể nhận thấy do đặc thù của trường, đội ngũ giáo viên
thỉnh giang thiếu sự quan tâm sát sao đối với học sinh (có thể do đây không
phải là trường chính của họ). Điều này phần nào ảnh hưởng đến việc dạy –
học tiếng Việt của học sinh.
Tiểu kết
Chương 1 cho thấy sự khác biệt lớn giữa ngôn ngữ nói và viết, cũng
như mối liên hệ không tách rời giữa hai mặt nói và viết. Như đã phân tích ở
trên, sự khác biệt giữa các sản phẩm nói và viết không chỉ giới hạn ở những
22
khác biệt có tính hình thức (chất liệu âm thanh/chữ viết, dạng thức tồn tại,
hoặc kênh giao tiếp), mà là những khác biệt thuộc về cấu trúc, về phong cách
ngôn ngữ, đã được hình thành trong quá trình tạo lập diễn ngôn. Trong quá
trình tổ chức, sắp xếp các phát ngôn, thời gian là một trong những yếu tố đóng
vai trò quyết định.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu về ngôn ngữ nói và viết, không thể tuyệt
đối hóa những khác biệt có tính chất ước định này, bởi vì nói và viết không
tạo nên một thế lưỡng phân rạch ròi. Những đặc điểm được cho là tiêu biểu
của ngôn ngữ viết không có nghĩa là không gặp lại trong ngôn ngữ hội thoại,
đời thường. Và ngược lại, cũng có thể tìm thấy những yếu tố của phong cách
ngôn ngữ hội thoại trong các văn bản nghệ thuật, văn bản báo chí…vv.. Điều
quan trọng đối với việc nghiên cứu ngôn ngữ nói và viết là chấp nhận cả nói
và viết chỉ là những biến thể chức năng của một hệ thống ngôn ngữ, tận dụng
những nét khác biệt của cùng một hệ thống ngôn ngữ để biểu đạt những nội
dung ngữ nghĩa khác nhau, và nhờ đó có những thế mạnh khác nhau vốn có
trong bản chất của mỗi kiểu.
23
Chƣơng 2
KHẢO SÁT NĂNG LỰC VIẾT TIẾNG VIỆT
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LƢƠNG THẾ
VINH DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA NGÔN NGỮ NÓI
2.1 Khái niệm về năng lực ngôn ngữ
2.1.1 Năng lực ngôn ngữ
Khái niệm “năng lực ngôn ngữ” (hay “ngữ năng”) được Chomsky dùng
để chỉ cái ngôn ngữ - hệ thống lưu trữ trong đầu của những cá nhân được cho
là biết, hoặc có năng lực với cái ngôn ngữ đang xét. Năng lực ngôn ngữ hiểu
theo nghĩa này luôn là năng lực đối với một ngôn ngữ cụ thể. Những người
bản ngữ thường có được nó ngay từ hồi thơ ấu và nó được lưu trữ trong não
các thành viên của cộng đồng ngôn ngữ cụ thể.
Quan niệm con người sinh ra đã có năng lực nắm vững tiếng mẹ đẻ của
ngữ pháp học tạo sinh đã đưa đến vấn đề là, có phải chăng vì thế mà trẻ em
trước khi tiếp thu giáo dục chính quy đã có thể nói được những câu hoàn
chỉnh? và phải chăng cũng vì thế mà con người ta không học ngữ pháp nhưng
vẫn có thể nói được cấu trúc của câu này là đúng, câu kia là sai. Giải thích
điều này, ngữ pháp học tạo sinh cho rằng, đứa trẻ khi được sinh ra trong môi
trường tiếng mẹ đẻ thì trong “tâm linh” của chúng dần dần hình thành một số
các quy tắc ngữ pháp cơ bản. Vì thế mà một số nhà ngôn ngữ còn gọi năng
lực ngôn ngữ là năng lực ngữ pháp.
Thế giới ngôn ngữ của con người được hình thành từ hai nửa: một nửa
là năng lực ngôn ngữ (thuộc phạm trù tâm lí) và một nửa khác là sự vận dụng
ngôn ngữ (thuộc phạm trù xã hội). Một người không chỉ cần phải có năng lực
ngôn ngữ, không chỉ biết đặt câu như thế nào mà còn phải biết giao tiếp với
người khác, phải biết lúc nào cần nói và lúc nào không cần nói, nói với ai, nói
điều gì và nói như thế nào. Trong thực tế giao tiếp, có trường hợp có những
24
phát ngôn đúng ngữ pháp nhưng dường như là ít tác dụng về mặt giao tiếp
(thậm chí là không có). Đây chính là sự hạn chế về năng lực giao tiếp của
người giao tiếp. Nói cách khác, con người muốn giao tiếp hiệu quả không
những cần có năng lực ngôn ngữ mà còn phải có năng lực giao tiếp nữa.
2.1.2 Năng lực giao tiếp
Năng lực giao tiếp của con người bao gồm năng lực nói và năng lực
viết. Chomky gọi năng lực giao tiếp là “ngữ thi” và ông quan niệm rằng “ngữ
thi” biểu thị cái cách dùng ngôn ngữ - hệ thống.
Dell Hymes hiểu năng lực giao tiếp là năng lực vận dụng ngôn ngữ để
tiến hành giao tiếp xã hội. Nội dung của khái niệm năng lực giao tiếp là sự kết
hợp linh hoạt của ba tham tố gồm cấu trúc ngôn ngữ, vận dụng ngôn ngữ và
đời sống xã hội.
Con người có được năng lực giao tiếp là nhờ quá trình xã hội hoá. Có
thể nói xã hội hoá xuyên suốt cuộc đời của mỗi con người. Bất cứ cá nhân nào
muốn trở thành một thành viên của xã hội thì nhất thiết phải học các tri thức,
kĩ năng, chuẩn mực mà xã hội có được nhờ sự tích luỹ theo thời gian. Môi
trường để học và tiếp thu cho con người là rất rộng: thông qua gia đình, nhà
trường, nơi làm việc cũng như trong xã hội rộng lớn.
Con ngưòi khi ở tuổi ấu thơ cùng một lúc học cả năng lực ngôn
ngữ và năng lực giao tiếp. Khi trẻ bắt đầu học nói cũng là lúc bắt đầu học luôn
các quy tắc giao tiếp. Chính sự tiếp thu và học hỏi trong một môi trường ngôn
ngữ rộng lớn như vậy mà sẽ xảy ra tình trạng học sai cách sử dụng ngôn ngữ
giao tiếp. Chính vì thế mà con người trong quan hệ xã hội vừa học vừa tự điều
chỉnh để hoàn thiện bản lĩnh về hành vi ngôn ngữ. Và giáo dục là môi trường
quan trọng sẽ giúp cho con người có được bản lĩnh cơ bản đó. Năng lực giao
tiếp được thể hiện ở hai phương diện: năng lực giao tiếp bằng lời nói và năng
lực giao tiếp bằng chữ viết.
25
Vấn đề mà luận văn quan tâm là năng lực viết tiếng Việt của học sinh
THPT. Năng lực viết có thể được hiểu là năng lực vận dụng ngôn ngữ viết
trong giao tiếp xã hội. Năng lực viết thể hiện trong việc dùng từ, đặt câu,
dựng đoạn, tạo lập văn bản… của người viết.
2.2 Khảo sát thực tế về ảnh hƣởng của ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ
viết của học sinh THPT Lƣơng Thế Vinh
Đối tượng khảo sát: Những bài làm văn của học sinh
Phương pháp khảo sát: thống kê, phân loại theo những tiêu chí đã xác
định trước
Nội dung khảo sát:
Mục đích của đề tài là tập trung làm rõ đặc điểm ngôn ngữ viết của học
sinh từ đó thấy được tác động của ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ viết của các
em. Vì vậy luận văn đi vào khảo sát những nội dung cụ thể như sau:
Về mặt chữ viết: khảo sát tình hình vi phạm các quy tắc hiện hành về
chính tả và về chữ viết nói chung.
Về mặt từ ngữ: khảo sát những lỗi dùng từ có liên quan đến ảnh hưởng
của ngôn ngữ nói qua các bài văn.
Về mặt ngữ pháp: khảo sát cấu trúc cú pháp thường dùng của học sinh,
khảo sát độ dài câu, xem xét vấn đề liên kết, mạch lạc trong bài viết dưới tác
động của ngôn ngữ nói.
Kết quả khảo sát:
2.2.1 Về phương diện chữ viết
Khác với phương diện ngữ âm: có nhiều biến thể ở từng địa phương,
những cách thức nhấn giọng đặc trưng theo vùng, miền; chữ viết tiếng Việt có
xu hướng được trình bày theo chuẩn ngôn ngữ toàn dân mà phương ngữ Bắc
là cơ sở. Do đó đối với học sinh ở miền Bắc không có sự cách biệt lớn về
phong cách ngôn ngữ nói và viết như ở các tỉnh miền Nam.
26
Có thể nói chữ viết và lời nói miệng có sự tác động qua lại với nhau.
Thông thường một cá nhân ra đời và phát triển khả năng giao tiếp bằng lời nói
miệng từ một cộng đồng ngôn ngữ nhất định. Có những thông lệ trong giao
tiếp bằng lời nói đã đi vào nề nếp sinh hoạt của một vùng, tạo thành diện mạo
văn hoá cộng đồng. Trong những năm đầu đời, cá nhân tiếp thu ngôn ngữ
(chủ yếu là ngôn ngữ nói) từ các thành viên trong gia đình, ở một địa phương
cụ thể, do vậy ảnh hưởng của cách phát âm địa phương tới chữ viết là điều
không thể tránh khỏi. Tuy vậy, chữ viết vẫn phải hướng tới chuẩn mực ngôn
ngữ chung của toàn xã hội.
Ngôn ngữ viết mang tính xã hội cao hơn so với lời nói miệng và đi liền
với nó luôn có những chuẩn mực. Chuẩn mực này ngay từ khi mới bắt đầu đi
học, học sinh đã được giáo viên hướng dẫn để có thể sử dụng tiếng Việt theo
đúng chuẩn mực của nó. Song trong thực tế sử dụng tiếng Việt, học sinh vẫn
mắc rất nhiều lỗi về phương diện chữ viết. Qua khảo sát tình hình sử dụng
tiếng Việt của học sinh THPT Lương Thế Vinh, chúng tôi đã thống kê được
những lỗi cơ bản về chữ viết như sau:
Vi phạm quy tắc chính tả
Có thể nói chính tả là một vấn đề có tính phổ quát đối với mọi
thứ chữ viết ghi âm được dùng hiện nay trên thế giới. Ở mỗi thứ chữ viết ghi
âm, bao giờ cũng có vấn đề nên viết thế nào cho đúng chính tả. Sở dĩ có tình
trạng này là do trong ngôn ngữ luôn luôn có tình trạng không khớp nhau hoặc
ít hoặc nhiều giữa âm và chữ. Chữ viết ghi âm được đặt ra là để ghi lại ngôn
ngữ âm thanh. Nhưng ngôn ngữ âm thanh của con người luôn biến đổi theo
thời gian, còn chữ viết lại có xu hướng bảo thủ. Qua thời gian, sự khác biệt
giữa âm và chữ tích tụ lại ngày càng nhiều gây khó khăn cho chính tả. Bên
cạnh đó, trong một đất nước thống nhất, dùng chung một ngôn ngữ thì bao
giờ cũng tồn tại nhiều phương ngữ khác nhau, với những cách phát âm khác
nhau dựa trên cơ sở một chính tả chung. Điều này dẫn đến tình trạng có nhiều
27
lỗi chính tả đặc trưng cho từng vùng. Chẳng hạn chính tả phân biệt tr và ch, s
và x… nhưng cách phát âm của nhiều địa phương Bắc Bộ không có sự phân
biệt này, vì vậy rất dễ viết lẫn lộn các chữ này với nhau. Trong bài văn của
học sinh, các em thường mắc những lỗi chính tả như:
- Lẫn lộn tr-ch. Ví dụ:
+ Lúc dọn khu đất đó họ phải trặt đi cây mít mà anh tôi yêu thích.
+ Tôi chạy đến ôm trầm lấy bố tôi.
+ Đăm San là một người có ý trí và nghị lực
+ Tôi khao khát cháy bỏng một gia đình chọn vẹn
Hiện tượng lẫn lộn tr và ch là do trong cách phát âm, hai âm này không
được phân biệt rõ ràng với nhau. Để khắc phục những lỗi như thế này, giáo
viên có thể hướng dẫn học sinh một số quy tắc nhỏ. Chẳng hạn như: tr không
kết hợp với những vần bắt đầu bằng oa, oă, oe, ue (choai choai, loắt choắt,
choèn choẹt…). Về ý nghĩa, những từ chỉ quan hệ gia đình thì được viết bằng
ch (cha, chú, cháu, chị, chồng, chắt…), những từ chỉ đồ dùng trong nhà (chạn,
chum, chén, chai, chăn, chiếu…). Những từ chỉ quan hệ ngữ pháp vị trí viết
bằng tr (trên, trong, trước…)
- Lẫn lộn s-x. Ví dụ:
+ Tình cảm của tôi đối với bà không sao kể siết
+ Đăm San như một vị thần hoà bình luôn canh giữ và bảo vệ dân làng
khỏi các thế lực sấu khác.
+ Nghe tiếng trống canh dồn dập mà sót xa bẽ bàng
+Từ “dạt” cho thấy cánh bèo bị sô đẩy bị tác động gợi thân phận bơ
vơ, tội nghiệp.
Hiện tượng lẫn lộn x-s cũng có nguyên nhân từ cách phát âm không
phân biệt hai âm này với nhau. Cách khắc phục có thể kể đến một số mẹo
như sau: S không kết hợp với các vần bắt đầu băng oa, oă, oe, uê (xuề xoà,
28
xoay xở, xoen xoét…). Về nghĩa, tên thức ăn thường viết với x (xôi, xúc
xích,lạp xường…), những từ chỉ hơi đi ra viết với x (xì, xỉu, xọp, xẹp…),
những từ chỉ nghĩa sụp xuống viết với s (sụt, sụp, sẩy chann, kém sút…),
những từ chỉ quan hệ ngữ pháp phần lớn đi với s (sự, sẽ, sắp, sao, sẵn,
song…).
- Lỗi do không phân biệt r-gi-d. Ví dụ:
+ Anh ấy biết dất nhiều cách chơi hoa.
+ Tôi sẽ mãi mãi ghi nhớ và không bao giờ quên được những gì mà bố
giành cho tôi
+ Khi Đăm San đánh nhau với với Mtao Mxây, chàng thể hiện sự dũng
cảm của mình, tỏ thái độ bình tĩnh, không giun sợ trước kẻ thù.
+ Thơ mới xuất hiện như một giàn đồng ca đa sầu đa cảm
Đối với hiện tượng nhầm lẫn này, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh
cách phân biệt như sau: r và gi không kết hợp với những vần bắt đầu bằng oa,
oă, uâ, oe, uê, uy. Xét về nguồn gốc, không có từ Hán Việt đi với r; trong các
từ Hán Việt: d đi với dấu ngã và nặng, gi đi với dấu hỏi và sắc.
- Lỗi do không phân biệt l-n.
Đây là lỗi phổ biến trong bài văn của học sinh. Chúng tôi nhận thấy
rằng, những học sinh không phân biệt được l và n trong phát âm thì khi viết
các em cũng sẽ bị mắc những lỗi này. Ví dụ:
+ Thời thơ ấu của tôi được lớn nên trong tình yêu thương của mẹ
+ Tôi lắm lấy bàn tay mẹ.
+...đến triều Nguyễn, con đường ấy đã trở nên nỗi thời không còn đủ
sức hấp dẫn nữa
+ “Tự tình” là tự bày tỏ tự dãi bày những tâm sự của nhà thơ
Hiện tượng lẫn lộn l và n là do lỗi chính tả phổ biến ở các tỉnh đồng
bằng Bắc Bộ. Hiện tượng này xảy ra không phải do l và n không có trong
29
cách phát âm mà chủ yếu là do có sự lẫn lộn về từ vựng, chữ đáng đọc là l thì
lại đọc là n và ngược lại.
Tóm lại, những lỗi chính tả thông thường như trên có nguyên nhân chủ
yếu là do sự không khớp nhau giữa mặt âm và mặt chữ. Rõ ràng ở đây có sự
ảnh hưởng của cách phát âm đối với chữ viết. Cách phát âm không phân biệt
giữa tr-ch, s-x… là một trong những nguyên nhân khiến học sinh mắc lỗi
chính tả như đã trình bày ở trên. Vì vậy để khắc phục tình trạng này, đối với
học sinh tiểu học, giáo viên phải phát âm đúng chính tả, cố gắng phát âm phân
biệt tr-ch, s-x…Tuy nhiên thay đổi thói quen phát âm là một chuyện đòi hỏi
rất nhiều thời gian và phần nào viển vông bởi trong tình hình thực tế nước ta
hiện nay chưa có một cách phát âm nào có thể được coi là chuẩn.
Vi phạm quy tắc viết hoa
Quy tắc viết hoa là một quy tắc cơ bản, thông thường nhất của tiếng
Việt. Ngay khi bước vào học chữ, học sinh đã được làm quen với quy tắc này.
Tuy nhiên trong các bài văn viết của học sinh, nhiều em viết hoa rất tuỳ tiện (
không viết hoa tên người, tên địa lý, đầu câu, đầu đoạn…)
2.2.2 Về phương diện từ vựng- ngữ nghĩa
Khi nói hay khi viết đều phải dùng từ. Từ là đơn vị ngôn ngữ đã
có sẵn, thuộc kho từ vựng của ngôn ngữ và tồn tại trong tiềm năng ngôn ngữ
của mỗi người. Nó là tài sản chung của xã hội. Khi giao tiếp, mỗi người huy
động vốn tài sản đó để tạo ra lời nói hoặc văn bản.
Tiềm năng ngôn ngữ của mỗi người có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc tạo nên hiệu quả của giao tiếp. Trong đó sự phong phú hay nghèo nàn về
vốn từ là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của giao tiếp.
Ngôn ngữ viết do đặc thù phải hướng đến sự chuẩn mực của ngôn
ngữ toàn dân cho nên về phương diện từ vựng, ngôn ngữ viết có những khác
biệt nhất định so với ngôn ngữ nói. Trong thực tiễn sử dụng ngôn ngữ của học
30
sinh Trường THPT Lương Thế Vinh, chúng tôi thấy có rất nhiều hiện tượng
lệch chuẩn.
2.2.2.1 Dùng từ không đúng với âm thanh và hình thức cấu tạo
Từ là đơn vị có nhiều bình diện, trong đó không thể thiếu âm thanh và
hình thức cấu tạo. Âm thanh và hình thức cấu tạo là mặt vật chất, là cái biểu
đạt. Trong chữ viết của ta (chữ quốc ngữ) - thứ chữ theo nguyên tắc ghi âm,
âm thanh và hình thức cấu tạo của từ được ghi lại bằng các chữ cái. Cho nên
khi viết văn bản, cần ghi lại đúng âm thanh và hình thức cấu tạo của từ được
sử dụng. Tuy nhiên trong thực tế, học sinh vẫn mắc lỗi này. Ví dụ:
+ Trên đường đi tới trường, em đã suy nghĩ không biết ngôi trường này
thế nào nhỉ, có to không, lớp học như thế nào, quanh cảnh trong trường ra
sao. (quang cảnh)
+ Có một cái gì đó đã quấn hút em vào trường THPT Lương Thế Vinh.
(cuốn hút)
+ Đăm San là một người anh hùng khoẻ mạnh, là một tráng sĩ oai liệt,
kiên cường. (oanh liệt)
Nhưng lỗi này có thể do ở nhiều địa phương, một số từ tiếng Việt có
cách phát âm và cách viết không hoàn toàn trùng khớp.
Ví dụ:
phát âm viết
quấn hút cuốn hút
quận dây cuộn dây
Sự không trùng khớp này có thể là nguyên nhân khiến học sinh nhầm
lẫn như trong trường hợp nêu trên.
2.2.2.2 Dùng từ sai phong cách
Mỗi phong cách ngôn ngữ của văn bản được sử dụng trong một phạm
vi nhất định của cuộc sống xã hội và nhằm thực hiện một mục tiêu giao tiếp.
Do đó mỗi phong cách văn bản đòi hỏi và cho phép việc dùng những lớp từ,
31
nhóm từ nhất định. Có những từ dùng được trong mọi phong cách văn bản,
nhưng có những từ chỉ thích hợp hoặc chỉ được dùng trong một phong cách
ngôn ngữ nào đó. Khi dùng từ trong văn bản, nếu không ý thức rõ về phong
cách văn bản để dùng từ cho phù hợp thì sẽ mắc lỗi về phong cách. Chẳng
hạn những trường hợp sau:
+ Buổi đầu tiên bước vào trường THPT đã để lại cho em quá nhiều
ấn tượng.
+ Đăm San là một tù trưởng hết sức tài giỏi có thể mang no ấm
cho dân làng của mình.
+ Lần này khi bước vào cánh cổng cấp III, em có ấn tượng rất là
sâu sắc.
+ Không hiểu do đâu mà chúng tôi lại chơi thân với nhau, chắc tại
hai thằng hợp nhau cũng nên
Những từ được gạch chân trong các trường hợp trên chỉ thích hợp dùng
trong ngôn ngữ nói (ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày). Còn trong văn viết,
những từ này bị coi là lỗi phong cách.
Qua khảo sát những bài văn của học sinh, chúng tôi nhận thấy phần lớn
các lỗi về phong cách là do các em đưa khẩu ngữ vào trong bài viết của mình.
Từ ngữ khẩu ngữ được dùng chủ yếu trong phong cách sinh hoạt hàng ngày.
Với đặc điểm là giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm cao, từ khẩu ngữ đáp ứng
nhu cầu nói năng thân mật hàng ngày và bày tỏ trực tiếp thái độ của người nói
đối với các vấn đề của đời sống. Như vậy, khẩu ngữ là lớp từ ngữ đặc trưng
cho ngôn ngữ nói.
Tuy nhiên trong tiếng Việt, một ngôn ngữ mà phong cách ngôn
ngữ gọt giũa hình thành muộn, thì từ khẩu ngữ trong một chừng mực nhất
định được dùng trong cả ngôn ngữ viết. Đối với ngôn ngữ viết, từ khẩu ngữ
chỉ xuất hiện trong một số kiểu loại văn bản nhất định. Ở đó, nó trở thành
32
công cụ lợi hại và đắc lực để nhà văn có thể miêu tả, tái tạo được cuộc sống
thực trong tác phẩm.
Trong bài văn của học sinh, một dạng của ngôn ngữ viết điển hình
thì việc đưa từ khẩu ngữ vào là không thể chấp nhận được, đó là lỗi phong
cách. Có những cách diễn đạt vốn chỉ thích hợp với phong cách sinh hoạt
thường ngày học sinh lại đưa vào bài viết. Cách viết này có xu hướng rời
xa chuẩn mực, và có phần chịu tác động của thói quen nói năng hàng ngày.
Ví dụ:
+ Tình cảm của mẹ làm cho tôi cực kì cảm động, sau này dù có đi đâu
về đâu, tôi cũng nhớ đến công ơn dạy dỗ của mẹ.
+ Những lúc đó em không biết phải giải quyết như thế nào, nhiều lúc
em tưởng chừng như bó tay.
+ Đăm San hiện ra với hình ảnh một con người khoẻ mạnh, bắp chân
chàng to vật vã, cả bắp đùi của chàng thì khỏi phải nói, sức của chàng to như
sứccon voi đực.
+ Tóm lại vẻ đẹp của Đăm San là không thể kể được là một người anh
hùng, một tù trưởng giàu có, được mọi người quý trọng.
2.2.2.3 Hiện tượng lặp từ, thừa từ
Ngôn ngữ nói trong những điều kiện của đối thoại liên tục và khẩn
trương, để cho người nghe kịp theo dõi, kịp tiếp nhận, người nói thường dùng
những yếu tố dư (trong đó có hình thức lặp từ). Ngược lại văn bản viết cần
phải cô đọng vừa đủ về dung lượng. Do đó trong việc dùng từ cần tránh hiện
tượng thừa từ, lặp từ khi không cần thiết.
+ Lúc đầu thì em cũng thấy hơi run sợ, nhưng sau đó em cảm thấy tự
tin hơn nhờ sự giúp đỡ của các bạn trong lớp.
+ Cái buổi đầu tiên đi học đều gần như là mới lạ với em.
+ Đăm San là người anh hùng kiên cường chống lại những cái tội ác
mà kẻ thù gây ra.
33
+ Các thầy cô giáo thì rất vui vẻ đón các em học sinh.
Những từ gạch chân trong các ví dụ trên ta thường thấy xuất hiện
trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày. Trong văn viết, sự xuất
hiện những từ này là không được chấp nhận và thường bị cho là lỗi về mặt
phong cách.
2.2.2.4 Dùng từ sai nghĩa
Nội dung ý nghĩa là một bình diện của từ. Nó là cái được biểu đạt của
mỗi từ. Do đó muốn đạt được hiệu quả trong giao tiếp, khi nói cũng như khi
viết, phải dùng từ cho đúng với ý nghĩa của từ. Điều này có nghĩa là: từ được
dùng phải biểu hiện được chính xác nội dung cần thể hiện (ý nghĩa của từ phải
phù hợp với nội dung định thể hiện). Mặt khác nghĩa của từ bao gồm cả thành
phần nghĩa sự vật, cả thành phần nghĩa biểu thái (biểu hiện thái độ, tình cảm,
cảm xúc của con người). Vì thế khi dùng từ cần phải đạt được yêu cầu vừa
đúng về nghĩa sự vật, vừa đúng về nghĩa biểu thái, biểu cảm.
Trong các bài văn của học sinh chúng tôi thấy có nhiều trường hợp
sử dụng từ không chính xác với nội dung định thể hiện. Chẳng hạn như các
trường hợp sau:
+ Đối với tôi, hình ảnh mẹ xuất thân từ những điều hết sức đơn giản
+ Đăm San là một người anh hùng luôn thắng bại trước kẻ thù, với tư
thế ung dung để lại cho chúng ta những kỉ niệm tốt về chàng.
+ Khi mới vào trường, người đầu tiên em gặp là bác bảo vệ. Bác
rất hài hoà và làm việc rất nghiêm túc.
+ Em bước ._.g được chú
trọng ở phổ thông.
Hai kĩ năng nói và viết có ảnh hưởng qua lại với nhau. Từ thực tiễn
giảng dạy ở phổ thông, người viết nhận thấy rằng những em có kĩ năng nói tốt
thì khả năng viết văn cũng tốt hơn nhiều những em có kĩ năng nói kém.Chính
vì thế để nâng cao năng lực viết tiếng Việt, cần thiết phải chú ý rèn luyện kĩ
năng nói cho các em, cụ thể bằng những biện pháp như:
- Khuyến khích học sinh nói nhiều hơn, không chê trách phê phán khi
các em phát biểu sai. Ngay trong lớp khi học sinh nhận xét lẫn nhau cũng phải
hướng dẫn cách nói: không bảo “bạn sai rồi” mà nói: “nếu tôi là bạn, tôi sẽ bổ
sung…”. Cứ như thế, dần dần học sinh sẽ thích nói hơn.
- Ở một số tiết học, thay vì giáo viên thuyết trình, hãy để học sinh làm
việc đó. Có thể cử ra một cá nhân hoặc một nhóm đảm nhận việc thuyết trình
55
trước lớp. Các học sinh khác có thể đặt câu hỏi hoặc nêu nhận xét với nhóm
thuyết trình. Trong các bài học tiếng Việt, giáo viên có thể giúp học sinh phát
triển kĩ năng nói bằng cách đặt các đơn vị kiến thức cần tìm hiểu vào các tình
huống giao tiếp cụ thể mà các em hay gặp trong cuốc sống.
- Trong các tiết học, tăng cường thảo luận nhóm, trả lời câu hỏi.
3.2.3 Dạy học tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp
Nói đến kĩ năng ngôn ngữ của học sinh phổ thông là nói đến năng lực
giao tiếp bằng ngôn ngữ với tất cả yêu cầu về văn hoá giao tiếp ở mặt bằng
dân trí phù hợp. Không thể đòi hỏi năng lực ấy ở mức văn chương nghệ thuật,
nhưng phải nắm được và vận dụng những quy luật giao tiếp ngôn ngữ thông
thường. Học sinh sẽ được hướng dẫn có lí luận đến mức độ nhất định ở nhà
trường qua môn tiếng Việt: tính mục đích của giao tiếp, sự tôn trọng và khai
thác đúng các mối quan hệ đối ngôn phù hợp với hoàn cảnh cho phép với tất
cả những gì là tiền giả định chung, là “văn hoá nền” giữa người nói và người
nghe. Chính vì vậy dạy tiếng Việt là dạy học sinh cách nói một ngôn bản hay
cách viết một văn bản đáp ứng chiến lược giao tiếp và phù hợp với quy luật
giao tiếp. Cái đích cuối cùng là qua các giờ tập nói, tập viết, học sinh sẽ có
được năng lực tạo lập ngôn bản, văn bản phù hợp, đáp ứng yêu cầu của cuộc
sống ở trường học hiện nay và trường đời sau này. Mặt khác, muốn hình
thành các kĩ năng và kĩ xảo ngôn ngữ, học sinh phải trực tiếp tham gia vào
hoạt động giao tiếp. Để đạt được mục đích ấy, cần thiết phải đề ra những biện
pháp cụ thể:
- Tạo tình huống giao tiếp “có vấn đề”: phương hướng tốt nhất để dạy
các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động hành chức là phải tìm mọi cách hướng
học sinh vào hoạt động nói năng. Hoạt động giao tiếp vừa là phương tiện, vừa
là mục đích của việc dạy học tiếng Việt. Học tiếng Việt, học sinh không chỉ
nghiên cứu về nó mà phải biết cách sử dụng nó thành thạo vũ khí này vào tư
duy và giao tiếp. Muốn đạt được điều đó, cần phải tạo ra được các hoàn cảnh
56
giao tiếp, tình huống giao tiếp khác nhau để kích thích động cơ giao tiếp, tạo
cho các em có nhu cầu giao tiếp. Các hình thức hoạt động ngoại khoá, các
cuộc tranh luận, thảo luận… là các hình thức tạo tình huống giao tiếp, kích
thích nhu cầu và động cơ giao tiếp cho học sinh.
Muốn thế cần phải tạo một môi trường giao tiếp thoải mái để học sinh
có thể tự do nói lên ý kiến, quan điểm của mình.. Có thể nói trường học là nơi
thuận tiện để can thiệp có ý thức xã hội vào hoạt động và sự phát triển ngôn
ngữ của học sinh, dạy tiếng Việt ở nhà trường phổ thông chính là giúp các em
biết nói, viết đúng chuẩn ngôn ngữ tiếng Việt. Môi trường giao tiếp đó cần
được xây dựng theo nguyên tắc “tương tác đa chiều, đa đối tượng”. Trong
phương pháp giảng dạy ở các trường phổ thông hiện nay, hình thức tác động
từ người dạy đến người học được sử dụng phổ biến. Nhưng đấy thường lại là
tác động một chiều “thầy trò”. Trong xu hướng đổi mới phương pháp dạy
học hiện nay cần phải “tương tác đa chiều, đa đối tượng” nghĩa là dạy học là
sự tác động qua lại không chỉ một chiều giữa thầy với trò ( thầy trò) mà
còn có sự tác động trở lại của trò với thầy (trò thầy) và giữa người học với
nhau (trò trò).
- Thiết kế bài tập tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp
Hiện nay hầu hết hệ thống bài tập tiếng Việt ở các sách giáo khoa Ngữ
văn chương trình phổ thông chủ yếu được dùng để minh hoạ lí thuyết về tiếng
Việt mà học sinh vừa học. Hệ thống bài tập tiếng Việt này vưa nặng về thực
hành ngôn ngữ học lại chưa thể hiện được rõ nét các nguyên tắc giáo dục học
trong dạy học thực hầnh tiếng Việt. Theo quan niệm của lí thuyết hoạt động
giao tiếp, hệ thống bài tập tiếng Việt được xác định là phương tiện thực hành
nhằm tạo dựng và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt của học sinh. Học
sinh phổ thông ở các lứa tuổi khác nhau, trình độ khác nhau thì yêu cầu về
năng lực sử dụng ngôn ngữ cũng khác nhau. Việc thiết kế bài tập tiếng Việt
phải đảm bảo phục vụ cho việc phát triển khả năng giao tiếp cho học sinh.
57
Thực hành với bài tập tiếng Việt là một khâu trọng yếu có ý nghĩa nhất định
đối với việc hình thành kĩ năng sử dụng tiếng Việt và Ứng dụng tiếng Việt
trong đời sống của học sinh. Bởi vậy bài tập tiếng Việt khi được thiết kế dưới
ánh sáng của lí thuyết giao tiếp sẽ thiết thực hơn, hiệu quả hơn đối với học
sinh phổ thông.
- Trong hệ thống bài tập tiếng Việt, cần phải chỉ rõ cho học sinh hướng
vào hoạt động giao tiếp khi tiến hành áp dụng các tri thức tiếng Việt sẽ thực
hành nhằm định hình trước cho các em tác dụng của việc thực hiện các bài tập
tiếng Việt trong hoạt động giao tiếp của bản thân. Điều này có nghĩa là: với
một bài tập tiếng Việt cụ thể sau khi thực hành, các em sẽ rút ra hoặc củng cố
một tri thức tiếng Việt hoặc một lĩ năng sử dụng tiếng Việt cụ thể. Tri thức, kĩ
năng ấy được các em sử dụng để nói và viết.
Mục đích của dạy học là qua các giờ tập nói, tập viết học sinh sẽ có
được năng lực tạo lập ngôn bản, văn bản phù hợp đáp ứng yêu cầu của cuộc
sống ở trường học hôm nay và trường đời sau này.
Tiểu kết
Trong chương ba, luận văn tìm hiểu những nguyên nhân tạo ra ảnh
hưởng của ngôn ngữ nói đối với ngôn ngữ viết, phân tích và lí giải nguyên
nhân tại sao bài văn của học sinh lại mắc những lỗi như đã thống kê ở chương
hai. Qua đây, chúng tôi nhận thấy sự thiếu hiểu biết của chính bản thân học
sinh về những khác biệt giữa ngôn ngữ nói và viết là nguyên nhân cơ bản
nhất. Mặt khác, môi trường giao tiếp cũng ảnh hưởng to lớn đến năng lực
ngôn ngữ và năng lực giao tiếp của các em. Bên cạnh đó, trong thời đại thông
tin di động và truyền thông ngày nay, chúng tôi cũng nhận thấy ảnh hưởng
không nhỏ của ngôn ngữ chat đến việc sử dụng ngôn ngữ trong bài văn của
học sinh, đó là hiện tượng viết tắt và nhiều khi nó làm méo mó, biến dạng cả
tiếng Việt. Đây thực sự là vấn đề đáng lo ngại bởi nó gây nhiều khó khăn
trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Từ việc chỉ ra những nguyên
58
nhân nêu trên, luận văn mạnh dạn đề xuất một vài biện pháp nhằm khắc phục
thực trạng này, trong đó cần thiết nhất là phải giáo dục cho học sinh nhận thức
được sự khác biệt giữa văn nói và văn viết, muốn vậy, cần xem lại cách sắp
xếp chương trình của sách giáo khoa và đặc biệt là vai trò quan trọng của
người giáo viên.
59
KẾT LUẬN
Về mặt lí luận và thực tiễn, luận văn đã thu được những kết quả
như sau:
1. Về việc nghiên cứu ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
Luận văn thừa nhận quan điểm cho rằng, dạng nói của ngôn ngữ đã tồn
tại với tư cách là cái có trước so với dạng viết, mặc dù việc nghiên cứu ngôn
ngữ nói đã gặp không ít khó khăn để đạt được những thành tựu to lớn như
ngày hôm nay. Bên cạnh đó, với tư cách là cái xuất hiện về sau, nhưng ngôn
ngữ viết đã phát triển để trở thành hệ thống hoàn chỉnh và có cái riêng bản thể
của nó mà ngôn ngữ nói không có được. Ngôn ngữ viết là nhân chứng của
lịch sử và chuẩn mực.
Luận văn đã hệ thống hóa và giới thiệu các quan điểm của các nhà khoa
học về bản chất của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết cũng như mối quan hệ
không thể tách rời giữa hai mặt nói và viết. Những thông tin nghiên cứu mà
luận văn giới thiệu đã được sưu tầm, tìm hiểu trong phạm vi tương đối rộng,
nhằm hạn chế cách nhìn chủ quan, phiến diện của chúng tôi đối với đề tài
nghiên cứu.
Luận văn đã làm sáng tỏ những đặc điểm cơ bản nhất của ngôn ngữ nói
và ngôn ngữ viết cũng như những khác biệt cơ bản giữa hai dạng tồn tại của
hệ thống ngôn ngữ. Sự khác biệt giữ nói và viết không chỉ giới hạn ở những
khác biệt có tính hình thức, mà là những khác biệt thuộc về cấu trúc, về phong
cách ngôn ngữ.
2.Về năng lực sử dụng tiếng Việt của học sinh trung học phổ thông
Từ kết quả khảo sát về tình hình sử dụng tiếng Việt của học sinh
Trường trung học phổ thông Lương Thế Vinh, Thành phố Thái Nguyên, luận
văn đã chỉ ra đặc điểm ngôn ngữ viết của học sinh, đặc biệt chú ý những lỗi
60
mà các em thường mắc phải khi viết văn. Từ đó thấy được ảnh hưởng của
ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ viết của học sinh.
Trải qua hơn mười năm học tiếng Việt trong nhà trường phổ thông, về
mặt lí thuyết, học sinh phải nắm được những quy tắc cơ bản nhất của tiếng
Việt trong dùng từ, đặt câu, tạo lập văn bản… Song trong thực tế do nhiều
nguyên nhân khác nhau, học sinh không đạt được yêu cầu này. Luận văn đã
tiến hành khảo sát rất cụ thể và chi tiết những lỗi học sinh thường hay mắc
phải trong bài viết dưới ảnh hưởng của ngôn ngữ nói ở cả phương diện chữ
viết, từ và câu. Đây là cơ sở để luận văn đi tới khẳng định, tình trạng “viết
như nói” đang diễn ra phổ biến trong các bài viết văn của học sinh, đáng lo
ngại ở chỗ là nó làm cho tiếng Việt – thứ của cải lâu đời và quý báu của dân
tộc trở nên méo mó, biến dạng. Thực trạng này ảnh hưởng không nhỏ tới việc
giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Ngôn ngữ được coi là linh hồn của dân
tộc. Vậy nên chăng việc giữ gìn và phát triển ngôn ngữ nói và viết phải được
xem như một trọng trách của tất cả các thành viên trong trong cộng đồng
ngôn ngữ?
3. Xem xét những nhân tố tạo ra ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đối với
ngôn ngữ viết, luận văn đã chỉ ra những nhân tố như: sự thiếu hiểu biết của
học sinh về những khác biệt giữa ngôn ngữ nói và viết; ảnh hưởng của môi
trường giao tiếp và ngôn ngữ chat tới ngôn ngữ viết của các em. Trong các
nhân tố này, việc không nhận biết được những khác biệt giữa ngôn ngữ nói và
viết là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng “viết như nói” đã nêu ra ở trên.
Việc thiếu nhận thức về những đặc điểm khác nhau của ngôn ngữ nói và viết
sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng về cách viết dễ dãi, lạc phong cách, không
phù hợp với yêu cầu giao tiếp của một xã hội ngày càng phát triển. Tình trạng
này lại phổ biến ở chính học sinh – đối tượng giữ vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt
61
4. Luận văn đã đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục những ảnh
hưởng của ngôn ngữ nói đối với ngôn ngữ viết của học sinh. Trong việc hình
thành và phát triển năng lực ngôn ngữ cho học sinh cần quan tâm đến việc
phát triển ngôn ngữ nói – điều mà trước đây chưa được chú trọng trong nhà
trường phổ thông. Mặt khác việc dạy viết ở nhà trường cần chú ý hơn đến các
yếu tố như tính truyền thống, tính chính xác và tính thẩm mĩ. Trong việc dạy
học tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp cần phải nhận thức được rằng,
viết cũng là một hình thức giao tiếp quan trọng do vậy cần phải chú ý đến
mục đích, phương tiện, nội dung và đối tượng của hình thức giao tiếp này.
Khả năng ứng dụng và những vấn đề có thể tiếp tục nghiên cứu
Luận văn có những đóng góp nhất định về mặt lí luận ngôn ngữ, và có
thể là tài liệu tham khảo phục vụ cho bộ môn phân tích lỗi.
Luận văn góp phần đưa ra những định hướng đối với việc dạy học tiếng
Việt ở phổ thông, đó là khẳng định vai trò của các kĩ năng nói – viết. Đặc biệt
chú trọng phát triển năng lực viết của học sinh, nâng cao nhận thức của các
em trong sự phân biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết viết.
Luận văn góp phần thúc đẩy những thảo luận tiếp theo về tầm quan
trọng của công nghệ thông tin và truyền thông đại chúng trong giáo dục ngôn
ngữ, cũng như những lo ngại về những tác đông tiêu cực của truyền thông di
động đối với hệ thống chữ viết của tiếng Việt
Những vấn đề có thể tiếp tục nghiên cứu:
- Đặc điểm ngôn ngữ nói của học sinh phổ thông
- Ngôn ngữ nói và viết của học sinh trong thời đại thông tin di động.
Tóm lại, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội
loài người, chính vì vậy người sử dụng ngôn ngữ không chỉ cần rèn luyện
những kĩ năng ngôn ngữ cần thiết mà phải biết vận dụng chúng sao cho phù
hợp với từng hoàn cảnh giao tiếp riêng biệt.
62
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban, Giao tiếp văn bản mạch lạc liên kết đoạn văn, Nxb.
KHXH, 2002.
2. Diệp Quang Ban, Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Nxb. Giáo dục,
1998.
3. Bùi Đăng Bình, Năng lực chính tả của học sinh tiểu học và trung học cơ
sở hiện nay, TCNN số 9/2006.
4. Nguyễn Thị Thanh Bình, Một số xu hướng lí thuyết của việc dạy tiếng mẹ
đẻ trong nhà trường, TCNN số 4/2006.
5. Nguyễn Thị Thanh Bình, Tác động của hoàn cảnh giao tiếp đến ngôn ngữ
trẻ em 2 – 3 tuổi ở Hà Nội: Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình
người Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, 1996.
6. Vũ Kim Bảng, Về năng lực sử dụng dấu câu tiếng Việt của học sinh trung
học cơ sở hiện nay, TCNN số 4/2006.
7. Đỗ Hữu Châu, Đại cương ngôn ngữ học tập hai: Ngữ dụng học, Nxb. Giáo
dục, 2001.
8. Đỗ Hữu Châu, Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, 198
9. Hoàng Thị Châu, Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb. KHXH, 1989.
10. Mai Ngọc Chừ - Vũ Đức Nghiệu – Hoàng Trọng Phiến, Cơ sở ngôn ngữ
học và tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, 2006.
11. Nguyễn Đức Dân, Ngữ dụng học, Nxb. Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, 1998.
12. Đinh Văn Đức, Vài suy nghĩ bước đầu về ngữ pháp lí thuyết và ngữ pháp
thực hành trong dạy tiếng Việt, TCNN số 4/1991
13. Nguyễn Thiện Giáp, Dụng học Việt ngữ, Nxb.ĐHQGHN, 2004.
14. Cao Xuân Hạo, Tiếng Việt - văn Việt - người Việt, Nxb Trẻ, 2001.
63
15. Đỗ Việt Hùng, Từ khái niệm năng lực ngôn ngữ đến vấn đề dạy học tiếng
Việt trong nhà trường phổ thông, Nxb. Giáo dục, 1999.
16. Vũ Thị Thanh Hương, Từ khái niệm “năng lực giao tiếp” đến vấn đề dạy
và học tiếng Việt Trong nhà trường phổ thông hiện nay, TCNN số 4/2006.
17. Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ học xã hội, Nxb. KHXH, 1999.
18. Nguyễn Văn Khang, Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, 2007.
19. Nguyễn Văn Khang, Tiếng lóng Việt Nam, Nxb. KHXH, 2001.
20. Đinh Trọng Lạc-Nguyễn Thái Hòa, Phong cách học tiếng Việt, Nxb. Giáo
dục, 1998.
21. Trần Thị Nhàn, Vấn đề dạy và học kiểu câu đặc biệt, câu rút gọn trong
trường phổ thông hiện nay, TCNN số 4/2006.
22. Nguyễn Khắc Phi, Dạy học tiếng Việt trong nhà trường phổ thông,
TCNN, số 8/2001.
23. Bùi Minh Toán- Lê A- Nguyễn Quang Ninh, Phương pháp dạy học tiếng
Việt, Nxb. Giáo dục, 2008.
24. Bùi Minh Toán- Lê A- Đỗ Việt Hùng, Tiếng Việt thực hành, Nxb Giáo
dục, 2008.
25. Trần Ngọc Thêm, Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb. Giáo dục,
2002.
26. Cù Đình Tú, Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb. Giáo dục,
2002.
27. Nguyễn Thị Thìn, Câu tiếng Việt và nội dung dạy – học câu ở trường phổ
thông, Nxb. ĐHQGHN, 2003.
28. Nguyễn Đức Tồn, Mấy vấn đề lí luận và phương pháp dạy-học từ ngữ
tiếng Việt trong nhà trường, Nxb ĐHQGHN, 2003.
29. Ferdinand de Sausure, Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (bản dịch tiếng
Việt của Cao Xuân Hạo), Nxb.KHXH, 2005.
30. Gllian Brown- George Yle, Phân tích diễn ngôn, Nxb. ĐHQGHN, 2002.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
PHỤ LỤC
LỖI VỀ CHỮ VIẾT
1. Lúc dọn khu đất đó, họ phải trặt đi cây mít mà anh tôi yêu thích.
2. Tôi sẽ mãi mãi ghi nhớ và không bao giờ quên được những gì mà bố
đã giành cho tôi.
3. Anh ấy biết dất nhiều cách chơi hoa
4. Thời thơ ấu của tôi được lớn nên trong tình yêu thương của ông bà,
cha mẹ.
5. Tình cảm của tôi đối với bà không sao kể siết
6. Tôi khao khát cháy bỏng một gia đình chọn vẹn
7. Tôi nắm lấy bàn tay mẹ
8. Cả cuộc đời này mẹ sống vì tôi, rành hết tình yêu thương cho tôi
9. Không những chỉ lái xe, mà thời gian dảnh bố tôi đi tìm việc làm thêm
để kiếm tiền nuôi gia đình
10. Tôi chạy đến ôm trầm lấy bố tôi
11. Mặc dù bố mẹ tôi đã tạo điều kiện tốt nhất để cho tôi học hành nhưng
tôi lại không biết chân trọng
12. Đăm San là một người anh hùng được dân làng kính trọng và thần
linh tre trở
13. Hình ảnh “cánh bèo” gợi đến những kiếp người trôi nổi bấp bênh, bị
sô đẩy bơ vơ tội nghiệp
14. “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, câu này hoàn toàn tả thực không
xa vào ước lệ sáo mòn. một cành củi khô nhỏ bé chôi dạt lênh đênh trên
sông nước
15. Nghe tiếng trống canh dồn dập mà sót xa bẽ bàng
16. Hồ Xuân Hương trực tiếp bộc lộ tâm trạng chán trường buồn tủi
17. Khi mẹ mắng tôi có những câu hơi lạng lời làm cho tôi trạnh lòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18. Đối với tôi hình ảnh mẹ suất thân từ những điều hết sức đơn giản
19. Khi Đăm San đánh nhau với Mtao Mxây cành thể hiện sự dũng cảm
của mình, tỏ thái độ bình tĩnh, không giun sợ trước kẻ thù
20. Em mong ước sau này em trở thành một người tài giỏi
21. Em không thể quên được những hàng cây xanh, những hàng ghế đá
dưới gốc cây râm mát để những bạn học sinh ngồi chơi trò truyện
22. Đăm San là một người có ý trí và nghị lực
23. Nhìn những người bạn mới, thầy cô giáo mới, trong lòng em không
thể dấu nổi sự bâng khuâng lo sợ xen lẫn sự hứng khởi và tràn đầy hạnh phúc
24. Đăm San như một vị thần hòa bình luôn canh giữ và bảo vệ dân làng
khỏi các thế lực sấu khác
25. Hình ảnh cánh chim chiều xuất hiện trên nền trời cao rộng hơn nữa
cánh chim chiều càng cô đơn, lẻ loi bởi dường như nó trở cả bóng chiều xa
trên đôi cánh nhỏ bé.
26. Tràng giang là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy cận dó là nỗi buồn,
nỗi sầu nỗi ảo lão bậc nhất trong các nhà thơ mới.
27. Tràng Giang của Huy Cận tiêu biểu cho hồn thơ của ông dó là nỗi
buồn, nỗi sầu, nỗi ảo não bậc nhất trong các nhà thơ mới xong qua đó ta vẫn
nhận thấy tình yêu cuộc sống, niềm khao khát giao cảm với cuộc đời.
28. “Thơ mới” xuất hiện như một giàn đồng ca đa sầu đa cảm
29. Hai câu đầu của khổ thơ tiếp theo làm nổi bật sự đìu hiu, vắng nặng
của cảnh chiều
30. Từ “dạt” cho thấy cánh beo bị sô đẩy bị tác động gợi thân phận bơ vơ,
tội nghiệp.
31. Câu thơ là lời mời gọi tha thiết ân cần của người con gái sứ Huế
32. Câu thơ trên chứa đựng những tình cảm thắm thiết nhớ nhung cũng
chen lẫn sự giận hờn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33. Con đường chải dài vô tận: đường bằng phẳng thì ít mà đường ghê sợ
thì nhiều
34. Đến triều Nguyễn, con đường ấy đã trở nên nỗi thời không còn đủ sức
hấp dẫn nữa.
35. Không gian được mở ra rộng mênh mông với những bãi cát dài lối
tiếp nhau
36. Hình ảnh người đi đường được khắc họa qua tri tiết những bước đi
mải miết mệt mỏi nặng lề.
37. Thời gian của thiên nhiên của đất trời cứ tuần hoàn mà tuổi xuân của
con người qua đi không trở lại, sự dở dang của duyên tình làm tăng thêm sự
sót xa đau đớn
38. Câu thơ tiếp tả tác giả một mình trơ chọi cô độc trước không gian
rộng lớn
39. Tự tình là tự bày tỏ tự dãi bày những tâm sự của nhà thơ
40. Bài thơ nằm trong trùm “Tự tình” gồm 3 bài
41. Âm thanh “văng vẳng” là những tiếng kêu rai rẳng tạo nên một không
gian yên tĩnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỖI VỀ TỪ VỰNG
1. Tình cảm của mẹ làm cho tôi cực kì cảm động sau này dù có đi đâu về
đâu cũng nhớ đến ơn dạy dỗ chăm sóc của mẹ
2. Đối với tôi hình ảnh mẹ suất thân từ những điều hết sức đơn giản
3. Sau khi về anh liền tặng tôi một con diều, không nghĩ ngợi gì nữa tôi
liền cầm lấy nó và chạy vụt lên tầng và thả cho nó bay lên, nhìn cánh diều bay
tôi rất thích, nó làm cho tôi có cảm giác đang được bay trên chân không
4. Khi ngủ dậy tôi liền gọi anh khắp nhà
5. Từ khi còn bé tôi đã ý thức được ý nghĩa của mẹ
6. Khi đó tôi còn quá nhỏ để hiểu được câu nói đó và giờ đây tôi đã thấm
thía được câu nói đó
7. Lúc đó tôi mới biết bà rất yêu thương tôi rất nhiều
8. …những lúc đó em không biết phải giải quyết như thế nào, nhiều lúc
em cảm chừng như bó tay
9. Tuy còn đang công tác nhưng mẹ em vẫn chăm sóc em từng li từng
tí một.
10. Còn cả cách dạy học ôi thật tuyệt biết bao mẹ chỉ bảo cho em từng li
từng tí một. Từ các câu dễ đến các câu khó, mẹ đều bảo và giảng dạy em hết
11. Nhưng không vì vậy em tự ti mặc cảm, vì học dưới mái trường Lương
Thế Vinh đều là các thầy cô giáo dạy tốt cả
12. Nhiều khi tôi hay khóc thầm vì sự thương mẹ
13. Từ xa xưa hình ảnh người mẹ đã đi sâu vào thơ ca, những bài văn
câu hát
14. Tấm lòng của mẹ thì cao cả như là sông là biển
15. Không hiểu do đâu mà chúng tôi lại chơi thân với nhau, chắc tại hai
thằng có tính cách hợp nhau cũng nên
16. Anh em tôi rất hay cùng nhau chia sẻ, giúp đỡ nhau trong học tập và
trong cuộc sông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17. Tôi vẫn nhớ năm tôi lên tám tuổi, tôi bị ốm suốt một tuần rời
18. Từ khi bố tôi mất, mẹ tôi phải chạy đôn chạy đáo vất vả kiếm tiền
nuôi tôi ăn học
19. Mỗi lần như vậy thì tôi cảm thấy rất thương mẹ
20. Đăm San là một anh hùng luôn thắng bại trước kẻ thù với tư thế ung
dung, luôn cho chúng ta những kỉ niệm tốt về chàng
21. Khi mới bước vào trường, người đầu tiên em gặp là bác bảo vệ, bác
rất hài hòa và làm việc rất nghiêm khắc
22. Hành động của chàng thì rất mạnh mẽ áp đảo kẻ thù
23. Đăm San là một tù trưởng hết sức tài giỏi có thể mang no ấm cho
những người dân của mình
24. Năm nay em đã học lớp 10 rồi, nhanh thật đấy
25. Lần này khi vừa bước vào cánh cổng cấp III nó cho em một cái cảm
giác, ấn tượng rất là sâu sắc
26. Em nhìn bạn nào cũng thấy lạ chẳng nhìn thấy người quen đâu cả
27. Bạn bè nhìn nhau ngơ ngác dường như không bạn nào quen bạn nao cả
28. Đăm San là một người anh hùng khỏe mạnh là một tráng sĩ oai liệt
kiên cường
29. Lúc đầu thì em cũng thấy hơi run sợ, nhưng sau sau đó em cảm thấy
tự tin hơn nhờ sự giúp đỡ của các bạn trong lớp
30. Qua câu chuyện nó đã thể hiện lên Đăm San là một người anh hùng
dân tộc đem lại sự giàu có phồn vinh và hạnh phúc cho dân tộc mình
31. Đó là một ngày đẹp trời của mua thu hòa vào dòng người đầy tấp nập
kia với những chiếc áo trắng khoác trên người chúng tôi cũng bắt đầu đi tới
trường để bắt đầu năm học mới
32. Trong số các nhân vật trong truyện này thì Đăm San là một nhân vật
được nói đến nhiều
33. Buổi bước chân vào trường THPT đã để lại cho em quá nhiều ấn tượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34. Các thầy cô giáo thì rất vui vẻ đón tất cả các em học sinh
35. Em bước vào ngôi trường này với tiếng trống trường, với những tiết
học thật là nhộn nhịp
36. Từ khi bước vào trường THPT, em thấy đó là một môi trường giáo
dục tốt với những thầy giáo, cô giáo thật là nghiêm khắc
37. Khung cảnh ở đây thật là nhộn nhịp với những phòng học thật là
rộng lớn
38. Đăm San nghiễm nhiên trở thành một vị anh hùng được toàn bộ nhân
dân Ê đê biết đến
39. Ngày đầu tiên bước vào trường THPT, chưa bao giờ tôi lại có cái cảm
giác lâng lâng và kì lạ như vậy
40. Cái buổi đầu tiên đi học mọi thứ đều gần như là mới lạ với em
41. Đăm San là một người anh hùng dũng cảm kiên cường chống lại
những cái tội ác mà Mtao Mxây gây ra, là một người anh hùng được tất cả
dân làng kính trọng và thần linh tre trở
42. Tóm lại vẻ đẹp của Đăm San là không thể kể được là một người anh
hùng là một tù trưởng giàu có, được mọi người quý trọng
43. Mặc dù tôi đã qua hai lần trải nghiệm cái cảm xúc bồi hồi bỡ ngỡ khi
bước vào mái trường mới. Nhưng đến lần thứ ba này lại khác. Khi đặt bước
chân đầu tiên vào mái trường THPT cái cảm giác bồi hồi bỡ ngỡ nó lại trỗi
dậy, nhưng lần này cái cảm giác bồi hồi bỡ ngỡ lại không giống hai lần trước
44. Trên đương đi tới trường, em đã có suy nghĩ, không biết ngôi trường
này thế nào nhỉ, có to không, lớp học như thế nào, quanh cảnh trong trường
ra sao
45. Có một cái gì đó đã quấn hút em vào trường THPT Lương Thế Vinh
46. Cách ông gieo vần “eo” rất là đặc biệt
47. Tiếp đến tác giả vẽ lên không gian xa vắng, tĩnh lặng và cô đọng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48. Bài thơ được sáng tác năm 1938 lấy khơi gợi chủ yếu từ cảnh sông Hồng
49. Hình ảnh “củi một cành khô” đã nhấn mạnh, khẳng định, tô đận cái
nhỏ nhoi đơn độc của cành củi giữa dòng nước mênh mông vô tận
50. Hai câu thơ đầu làm nổi bật sự dịu dàng vắng lặng của cảnh chiều.
Đứng trong cảnh không gian đó, con người lại càng cô đơn, càng khát khao
được nghe những tiếng vọng thân thiện của cuộc đời
51. Đăm San là một người anh hùng, một người tài ba, một tù trưởng
xứng đáng của nhân dân, là một vị anh hùng của nhân dân
52. Trong sử thi có rất nhiều những câu chuyện kể về những người anh hùng
53. Nhưng đối với em niềm cảm xúc khi bước vào trường là rất lo sợ và run
54. Đăm San hiện ra với hình ảnh một con người khỏe mạnh, bắp chân
chàng to vật vã, cả bắp đùi của chàng thì khỏi phải phải nói, sức của chàng to
như sức con voi đực.
55. Em không thể quên được cái cái buổi đầu tiên , cái ngày mà mình đặt
chân đến mái trường THPT với bao điều mới lạ
56. Xa trường học và phải xa cả bạn bè cũ lúc đầu thì em rất buồn
57. Tác giả đã vẽ lên không gian vắng vẻ tĩnh lạng và cô đọng
58. Hình ảnh hàng cau nó tượng trưng cho thôn Vĩ
59. Câu thơ đầu tiên như một câu hỏi, vừa nhắc nhở trách móc, vừa mời
mọc ân cần tha thiết. Câu hỏi thấm thía một niềm tiếc nuối day dứt vọng lên
từ trong lòng bài thơ.
60. Không gian được mở ra rộng mênh mông với những bãi cát nối tiếp
nhau, đó là con đường rất là dài, vô tận
61. Hình ảnh bãi cát tượng chưng cho con đường danh lợi đầy trông gai,
nhọc nhằn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
62. Nhịp điệu bài thơ góp phần diễn tả thành công những cảm xúc suy tư
của nhân vật chữ tình
63. Qua âm thanh này Hồ Xuân Hương giường như rất có ấn tượng và bị
ám ảnh bởi âm thanh này
64. Câu thơ tả cảnh đêm khuya không gian tĩnh lặng. Một quang cảnh im
lặng, tĩnh lặng đến nỗi tiếng trống rừ xa mà vẫn nghe thấy
65. “Hồng nhan” là nhan sắc của người phụ nữ đẹp lại kết hợp với từ
“cái” để chỉ ra sự rẻ rúm mỉa mai về thân phận
66. Trong bài thơ “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến thì ông đã qua
sát bằng mắt sắc màu, hình dáng, động thái của sự vật hiện tượng
67. Âm thanh “văng vẳng” là âm thanh vọng từ xa tới, nó gợi một không
gian yên lặng tuyệt tình
68. Từ đây ta có thể kết luận rằng; 2 câu đề đã thể hiện nỗi niềm buồn tủi,
xót xa, thân phận đơn phương của người phụ nữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỖI VỀ CÂU
1. Trong văn bản “Chiến thắng Mtao M xây” đã toát lên vẻ đẹp anh
hùng, phi thường của nhân vật Đăm San
2. Qua “Chiến thắng Mtao Mxây” đã cho thấy vẻ đẹp tài năng phi
thường của người anh hùng Đăm San
3. Trong câu chuyện “Chiến thắng Mtao Mxây” thì được nói nhiều nhất
là nhân vật Đăm San là một vị anh hùng.
4. Là một nhà thơ có hồn thơ ảo não bậc nhất, thơ Huy Cận thấm đượm
một nỗi buồn sâu sắc và thấm thía
5. Qua hoàn cảnh sáng tác này đã cho em biết nội dung của bài thơ là
một bức tranh phong cảnh đẹp về một miền quê đất nước đó là xứ Huế và
sông Hương thơ mộng
6. Là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện
đại. Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí nhiều bài thơ của ông
nằm trong số những bài thơ hay nhất trong thơ mới
7. Bằng sự kết hợp giữa ngôn ngữ cổ điển tả cảnh ngụ tình, đã nêu bật
được sự cô đơn lẻ loi của Huy Cận
8. Với từ láy “lớp lớp” như tạo nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tầng
tầng lớp lớp những núi mây.
9. Trong văn học thường dùng hình ảnh cánh bèo dạt để biểu tượng cho
những kiếp người nhỏ bé, trôi nổi, Huy cận cũng dùng nói để gợi lên một thân
phận bơ vơ tội nghiệp
10. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử là một nhà thơ lớn của
phong trào thơ mới.
11. Trong hai câu thơ đầu đã vẽ lên một khung cảnh thiên nhiên sóng
nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12. Với câu đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” nắm bắt được
hồn thơ của bài thơ Tràng giang vừa thâu tóm được cái tình bâng khuâng
thương nhớ vừa vẽ lên khung cảnh thiên nhiên dài vô tận.
13. Qua đó thấy được tâm hồn đang thèm khát sự sống, sự ấm cúng
14. Ngay mở đàu bài thơ là một lời tự vấn của tác giả “sao anh không
về chơi thôn vĩ?”
15. Trong bài thơ “Câu cá mùa thu” sử dụng những từ ngữ cách gieo vần
“eo” phù hợp với việc miêu tả không gian mùa thu nhỏ hẹp
16. Qua những từ ngữ nêu trên nó góp phần làm tăng vẻ đẹp của nghệ
thuật sử dụng từ ngữ
17. Trong những tá phẩm ở học kì I lớp 11, thì tác phẩm “Tự tình II” của
Hồ xuân Hương. Vì ở tác phẩm này là Hồ Xuân Hương tự bày tỏ nỗi lòng, sự
éo le trong tình duyên
18. Sách là kho tàng tri thức vô giá mà con người có được. Sách mang lại
những hiểu biết cho con người. Tầm quan trọng của sách là một điều mà
không ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên sự lựa chọn sách để đọc là một điều rất
quan trọng. Nếu lựa chọn sách không phù hợp có thể dẫn đến những sai lệch
về ý nghĩa của sách. Sách mang lại tầm hiểu biết cho con người, sách cho con
người những hiểu biết về đất nước, lịch sử, về các loài động thực vật…
19. Qua mẹ em học được rất nhiều điều, luôn biết nhường nhịn, quan tâm
giúp đỡ, chia sẻ buồn vui và cố gắng học tập không để phụ lòng cha mẹ
20. Ai sinh ra cũng đều có mẹ. Mẹ là người sinh ra ta, cùng cha nuôi
nấng dạy dỗ ta. Khi ta vấp ngã, mẹ là người luôn lo lắng ủng hộ động viên em
bước tiếp. Mẹ là người thân thiết nhất của tôi luôn cho tôi niềm tin và sự dũng
cảm. Tôi rất cảm ơn mẹ vì đã sinh ra tôi cho tôi cuộc sống
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9403.pdf