Lời cảm ơn
Để hoàn thành đề tài tốt nghiệp của mình ngoài sự nỗ lực của bản thân, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của bạn bè cùng lớp, thầy cô và gia đình.
Trước tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô ThS. Phạm Thị Thanh Thuỷ người đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài này cũng như trong quá trình hoàn thành báo cáo thực tập.
Em xin cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Kỹ Thuật Nông Nghiệp trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng đã nhiệt tình giúp đỡ tạo điều kiện cho
59 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1790 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá (Fish Plus Bloom, Solotek Bloom, Đầu trâu 502) đến sự sinh trưởng phát triển và năng suất chất lượng dưa lê Ngân Huy trồng vụ xuân- Hè 2009 tại Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
em trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài này.
Em cảm ơn trung tâm phát triển Nông Lâm Công Nghệ Cao Hải Phòng đã giúp đỡ tạo điều kiện cho em học tập và thực hiện đề tài.
Cuối cùng em xin cảm ơn tới tất cả bạn bè và người thân đã động viên tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành đề tài tốt nghiệp này.
Trong thời gian thực tập do kiến thức thực tế chưa nhiều lên đồ án không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, bạn bè, những người làm công tác nghiên cứu để đồ án ngày càng hoàn thiện hơn.
Hải phòng, ngày 20 tháng 7 năm 2009
Sinh viên
Phạm Văn Quý
Phần I: mở đầu
đặt vấn đề
Dưa cũng nhiều các loại cây trồng khác muốn sinh trưởng, phát triển cho năng suất cao và chất lượng tốt cần phải bón đầy đủ chất dinh dưỡng. Không chỉ dinh dưỡng đa lượng, trung lượng mà vi lượng là những nguyên tố quan trọng trong việc cấu thành nên năng suất và chất lượng của dưa. Tuy nhiên, việc sử dụng phân bón không đúng cách, đúng liều lượng, bón không cân đối cũng làm giảm hiệu lực của phân bón đến cây trồng nói chung và cây dưa nói riêng.
Hiện nay trong sản xuất nông nghiệp việc sử dụng quá nhiều phân vô cơ bón cho cây không bổ sung thêm dinh dưỡng hữu cơ và vi lượng cho cây đã làm cho đất trở nên trai cứng, ô nhiễm môi trờng. Để từng bước bổ sung các nguyên tố dinh dưỡng hữu cơ, vi lượng, thân thiện với môi trường các công ty phân bón trong nước và ngoài nước đã tiến hành nghiên cứu và sản xuất ra hàng loạt các loại phân bón sinh học, chế phẩm sinh học được sản xuất bằng công nghệ tiến tiến nhân một số vi sinh vật hữu ích có thể “ tiêu thụ” các chất hữu cơ trong môi trường hoặc đối kháng với vi sinh vật có hại khác để tạo thêm nguồn dinh dưỡng cho cây trồng đồng thời giúp cho cây có khả năng chống chịu tốt với sâu bệnh hại. Đối với mục tiêu cải tạo đất thì các nhóm vi sinh có khả năng giải phóng kim loại nặng và các hoá chất dùng trừ sâu bệnh trên cây trồng được chọn lựa ứng dụng. Thông thường, nhóm vi sinh này tập trung ở vùng rễ cây và tự tạo ra các axit hữu cơ để gắn kết kim loại nặng, kim loại độc hại không xâm nhập vào cây trồng.
Dưa lê nói chung, dưa lê Ngân Huy nói riêng là loại quả có giá trị dinh dưỡng cao, hình thái quả hấp dẫn, có hương vị đặc trưng, giá cả hợp lý nên được người tiêu dùng sử dụng để ăn tươi với số lượng nhiều và quanh năm. Ngoài ra trồng dưa còn đem lại hiệu quả kinh tế khá cao so với một số loại quả và cây trồng khác do vậy cây dưa lê đặc biệt là giống dưa lê Ngân Huy đang là giống dưa được người trồng trọt quan tâm và nó đăng là đối tượng cây trồng có giá trị kinh tế cao của một số địa phương có thế mạnh về trồng dưa. Tuy nhiên người trồng dưa hiện nay vẫn chưa yên tâm vì trong thực tế sản xuất mới chỉ sản xuất manh mún, chưa có quy trình kỹ thuât trồng trọt và chăm sóc chuẩn cho cây dưa lê. Quá trình sinh trưởng phát triển của dưa được quyết định bởi nhiều yếu tố như điều kiện ngoại cảnh, sâu bệnh hại, dinh dưỡng cung cấp cho cây... việc cung cấp quá nhiều dinh dưỡng cho cây cũng như dinh dưỡng ở dạng khó tiêu cây khó hấp thụ có thể dẫn tới cây sinh trưởng phát triển kém đồng thời còn gây hại cho đất, sản phẩm không an toàn mà còn làm tăng chi phí mua phân bón. Để khắc phục những hạn chế của phân bón vô cơ đến cây dưa nói chung và cây dưa lê Ngân Huy nói riêng là việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ mới về công nghệ phân bón … trong đó có công nghệ sử dụng một số loại phân bón lá bón cho cây vì phân bón lá là những loại phân bón trong thành phần có khá đầy đủ các nguyên tố đa lượng, trung lượng và vi lượng ở dạng dễ tiêu lá cây có thể hấp thụ được một cách dễ dàng giúp cho cây đạt được năng suất cao và chất lượng tốt. Được sự phân công của Khoa Kỹ Thuật Nông nghiệp Trường Đại học Dân lập Hải Phòng, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ ảnh hưởng của một số loại phân bón lá ( Fish Plus Bloom, Solotek Bloom, Đầu Trâu 502 ) đến sự sinh trưởng phát triển và năng suất chất lượng dưa Lê Ngân Huy trồng vụ Xuân-Hè 2009 tại Hải Phòng”
Mục đích – yêu cầu.
2.1. Mục đích:
Xác định được mức độ ảnh hưởng của phân bón lá (Fish Plus Bloom, Solotek Bloom, Đầu Trâu 502 ) đến sự sinh trưởng, phát triển và năng suất chất lượng của dưa lê Ngân Huy. Trên cơ sở đó lựa chọn phân bón lá thích hợp cho dưa lê Ngân Huy nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của dưa lê Ngân Huy trồng trong nhà kính.
2.2. Yêu cầu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón lá Fish Plus Bloom, Solotek Bloom, Đầu Trâu 502 đến sinh trưởng phát triển và năng suất chất lượng của dưa lê Ngân Huy.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ phân bón lá Fish Plus Bloom, Solotek Bloom đến sinh trưởng phát triển và năng suất chất lượng của dưa lê Ngân Huy.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của từng loại phân bón lá khi sử dụng cho cây dưa lê Ngân Huy.
Phần II: Tổng quan tài liệu
2.1 Giới thiệu chung về cây dưa
2.1.1. Nguồn gốc và phân loại
Theo một số tài liệu nghiên cứu( Tạ Thị Thu Cúc, Hồ Hữu An, Nghiêm Thị Bích Hà) [1].Cây dưa có nguồn gốc ở châu Phi, người Ai Cập mô tả và sử dụng dưa hấu ít nhất là 4000 năm. Nhà truyền giáo David Livingstone(1857) đã phát hiện thấy cả 2 loài dưa Melon đắng và ngọt hoang dại sinh trưởng ở châu Phi. Ông để ý thấy người địa phương dùng chúng như nguồn nước trong mùa khô. Vì vậy châu Phi được xác định là trung tâm nguồn gốc của dưa hấu. ở vùng cận nhiệt đới châu Phi vẫn còn những vùng dưa hấu rộng lớn tồn tại cho tới ngày nay.
Tên dưa đã xuất hiện trong ngôn ngữ văn chương của nhiều dân tộc trên thế giới như: ả rập, tiếng Phạm, tiếng Tây Ban Nha,….
Dưa được đưa đến Trung quốc và miền Đông Liên Xô vào thế kỷ thứ 10 và đến Anh vào năm 1600. Những đoàn khách lữ hành đã mang dưa đến các vùng ấm áp của châu Phi. Các thương gia châu Phi đã mang hạt dưa đến bán ở nhiều vùng của châu Mỹ, những năm 1640 dưa được trồng rộng rãi ở Mỹ, giống tốt đã được sản xuất tại Mỹ đó là Alabama sweet(1850),Peerless (1960) và 2 giống Phinney early và Gerogia Rattlenake(1870),sau đó là giống Charleston Gray (1954) và Crim sweet, Jubibe(1964),…
ở nước ta lịch sử trồng dưa đã có từ rất lâu và được trồng rộng rãi cho đến ngày nay.
Trong nhiều năm quả dưa vẫn được phân loại là Citrllus vulgaris schrrad.Nhưng đến năm 1963, thieret đã đặt tên chính xác là Citrullus lanatus(thunb.) Mansf.
Coginiaux và Harms (1923) đã trích dẫn tài liệu của Shimotsuma cho rằng có 4 loài Citrullus, Viz. C. vulgaris Schrrad. Bây giờ gọi là:
Citrllus lanatus (thunb.) Mansf
Citrllus colocynthis (L.) schrad
Citrllus ecirrhosus cogn. Và
Citrllus naudinianus (sond.) Hook.
Shimotsuma đã mô tả các loài đó như sau:
- C.lanatus (thunb.) Mansf là cây hàng năm, nguồn gốc ở miền nam châu Phi. Loại này được cung cấp rộng rãi ở Ai Cập và miền Nam, miền Tây và trung á. Lá lớn và xanh, chia thùy sâu từ 3-5 cánh, đôi khi thùy đơn giản. Hoa trung bình, đơn tính cùng gốc. Quả từ trung bình đến lớn,vỏ quả dày,thịt quả chắc có nhiều nước. Màu sắc thịt quả có thể đỏ, vàng, trắng.
- C. colocynthis là cây lưu niên, có nguồn gốc ở Bắc Phi, loài này khác với C. vulgaris chủ yếu hình thái các bộ phận trên cây. Lá nhỏ, thùy lá hẹp, lông phủ trên thân lá màu xám. Hoa đơn tính cùng gốc.Hạt nhỏ, màu hạt nâu.
- C. naudinianus và C. ecirrhosus cogn. Cả 2 đều có nguồn gốc ở vùng sa mạc Nam Phi và Tây Phi. Đặc điểm sinh trưởng dinh dưỡng của C. naudinianus khác với các loài trên ở lá hình chân vịt, xẻ thùy sâu, phủ đầy lông. Tua cuốn đơn giản, kéo dài hoặc mảnh mai
Hoa đơn tính cùng gốc, ra hoa ở năm thứ 2.
Tất cả 4 loài có thể thụ phấn chéo lẫn với nhau.hạt nảy mầm tốt,F1 sinh trưởng tốt.[1]
2.1.2. Kỹ thuật canh tác
2.1.2.1. Thời vụ trồng. Thích hợp nhất là vụ Đông Xuân và Xuân Hè
2.1.2.2. Chuẩn bị đất trồng.
Đất trồng cần thoát nước tốt, tưới nước thuận lợi, có tầng đất mặt dày, loại đất cát hoặc cát pha có chứa nhiều chất hữu cơ. Đất có độ PH: 6 - 6,8 là thích hợp nhất. Đất trồng dưa trước đó phải luân canh với lúa nước hoặc đậu, bắp ( không luân canh với họ bầu bí như: dưa leo, khổ qua, bầu bí…) Đất phải cày bừa tơi xốp bón vôi 100% cả vụ bào 10 - 15 ngày trước khi bón lót. Lượng vôi: nhìn chung đất miền trung thường chua, nên bón 30 - 40 kg/sào (500m2). Bón lót: 100%phân chuồng + 100% lân hữu cơ sinh học Sông Gianh + 40 - 50% lượng phân hoá học cho cả vụ + Nitrat Canxi 5 - 6 kg lên luống rộng 0.6 - 0.8 m, cao 30 - 40 cm, khoảng cách giữa hai rãnh là 4,5 - 5m, rãnh rộng 0,4 - 0,5 m. Trải bạt Plastic lên luống ( cuộn bạt dài 400m x 1,2 - 1,4m dùng cho 1000m2) nhằm giảm bốc thoát nước hạn chế cỏ dại và sâu bệnh, tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Đục lỗ bạt nhựa đường kính 7 - 8 cm, ở vị trí cao 2/3 so với chiều cao của luống. Cây x cây 45 - 50 cm.
2.1.2.3. Chuẩn bị hạt giống và cây con
Để trồng 500 m2 cần khoảng 20g hạt giống
a. Xử lý ngâm ủ hạt giống: Ngâm hạt giống trong dung dịch thuốc ViBen-C hoặc Topsin M. Pha thuốc trong nước theo tỷ lệ 1/1000 ( 1gr/1 lít nước), thời gian 15-30 phút. Vớt hạt ra, rửa sạch cho hấp thụ nhiệt cho đến vừa ẩm. Ngâm trong nước ấm 34-350C ( tỉ lệ 2 sôi, 3 lạnh ) 4-6 giờ. Vớt hạt ra, rửa cho sạch cho hết nhớt. Bọc vào khăn ẩm, sạch gói lại, cho vào bao nilon ủ hơi ấm ( nhiệt độ thích hợp 28-300C) trong 24-36 giờ ( nếu không đủ ẩm và ấm hạt có thể nhú sau 36-48 giờ )
b. Gieo hạt
- Gieo vào bầu: có thể làm bằng lá chuối hoặc lá dừa có đường kính 5-7 cm chiều cao 8-10 cm. Nếu dùng bao nilon phải khoét lỗ tránh đọng nước. Dùng đất vào bầu được trộn giữa: Đất-tro trấu-phân chuồng hoai mục-lân ( Super) theo tỷ lệ 3-1-1-0,5. Không dùng tro mới. Đặt hạt nằm ngang hoặc nằm nghiêng một góc 450, sâu 1 cm ( chú ý phần nhú mầm quay xuống đất). Khi cây có 1 - 2 lá nhám ( khoảng 6-8 ngày sau gieo) đem trồng ngoài đồng.
- Gieo thẳng: khi có điều kiện thời tiết, độ ẩm thuận lợi, đất bằng phẳng tơi xốp thì có thể gieo hạt đã nảy mầm lên luống trồng. Dù gieo bầu hay gieo thẳng cũng phải dự phòng 10 - 15% cây con trong bầu để dặm
2.1.2.4. Phân bón: Lượng phân bón tuỳ thuộc vào độ màu mỡ của đất. Đất cát, đất bạc màu nghèo dinh dưỡng lượng phân bón phải nhiều hơn. Lượng phân bón 500 m2 như sau: (tham khảo)
- Phân chuồng hoai mục: 500 - 1000 kg + Lân hữu cơ sinh học: 40 - 60 kg + Bao hạt vàng: 10 - 15 kg + NPK: 28 - 30 kg + Urê : 5 - 6 kg + kali: 5 kg-Bón lót: 100% phân chuồng + 40 - 60 kg HCSH + 20 kg NPK 12:11:18 ( phân xanh Đức ) + kg bao hạt vàng.
+ Thúc lần 1 ( khi dưa bò ngọn 20 - 30 cm): 8 -10 kg NPK 12:11:18 ( phân xanh Đức) + 1,5 - 2 kg Kali + 5 kg bao hạt vàng.
+ Thúc lần 2 ( sau khi thụ phấn 7 - 10 ngày): 2,5-3 kg Urê + 2 kg Kali
+ Thúc lần 3 ( sau khi thúc lần 2: 4 - 5 ngày): 2,5 kg Urê + 1-1,5 kg Kali
Tuỳ theo tính chất đất đai của từng vùng mà điều chỉnh lượng phân bón cho phù hợp.
Sau khi trồng lúc cây còn nhỏ, tuỳ theo tình hình sinh trưởng của cây có thể ngâm DAP ( 18 - 46 ) pha loãng tưới để thúc đẩy sinh trưởng của cây.
Ngoài những lần bón thúc chính thức nên phối hợp phân bón lá phun 7 - 10 ngày/lần. Bắt đầu phun khi cây có 4 - 5 lá thật và ngừng phun trước khi thu hoạch từ 10 - 15 ngày.
2.1.2.5. Tưới nước: Dưa chịu hạn, sợ úng, tuy vậy trồng dưa phải tưới nước, việc tiết nước rất ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây và chất lượng quả. ở giai đoạn cây cần nhiều nước nhất là lúc ra hoa, kết trái, nuôi trái nên tưới đủ nước ( dùng phương pháp tưới thấm ). Đối với những giống dưa vỏ trái có dạng lưới, chờ khi vỏ trái xuất hiện vân lưới ( sau khi đậu trái khoảng 20 ngày ) thì phải giữ cho mặt đất khô ráo để tránh cho trái bị thối hoặc bị nứt. Thời gian trái chín cũng phải giữ cho đất khô ráo, như vậy trái mới đạt chất lượng tốt.
2.1.2.6. Tỉa nhánh, thụ phấn, chọn trái: Bấm ngọn lần đầu tiên lúc cây con vừa chồi ra ở nách lá từ lá thứ 1 đến lá thứ 5 trên nhánh con. Nhánh từ nách lá thứ 6-9 bắt đầu để trái, mỗi nhánh chỉ để 1 trái. Nhánh cháu ssau khi đậu trái chừa 1 lá bấm ngọn nhánh. Mỗi nhánh con chỉ để nuôi 1 trái. Thụ phấn bổ sung: Trong thời gian chọn trái để trái lớn đều, màu vỏ đẹp và hạn chế thối trái, sâu ăn tạp ( cạp vỏ ). Có điều kiện nên cắm cọc treo trái. Cọc cao 30 - 35cm, cọc cách gốc dưa khoảng 40 - 50cm, lấy dây kẽm hoặc nilon loại lớn căng trên đỉnh cọc. Lờy dây nilon móc cuống trái vào.
2.1.2.7. Phòng trừ sâu bệnh: Cần chú ý một số đối tượng gây hại chính:
- Sâu ăn tạp, sâu xanh: sử dụng Delfin, Match, Success, Vertimec,…
- Bọ trĩ, rệp, rầy: sử dụng Confidor, Regent, Admire,…
- Bệnh héo cây con: Sử dụng Moncerene 250SC, Anvil 5SG, Validacin 3-5SL…
- Bệnh thán thư, sương mai: sử dụng: Daconil50-75WP, Ridomil68-72WP, TopsinM, Poliram 80DF, ThanM, Bavistin50FL…
- Héo rũ tái xanh: Phòng bệnh: Luân canh, bón vôi, tiêu diệt nguồn bệnh. Tưới và phun: Kasumin 2L, Staner 20WP, Phytoxyl-VS,…
Ngưng tưới nước 7 ngày trước khi thu hoạch. Thu hoạch khí trái đã lên màu chuẩn hoặc lưới đều, tua đã khô ngọn, thường thu hoạch 30-35 ngày sau thụ phấn. Thời gian thích hợp thu hoạch là lúc xế chiều. [8]
2.2. tình hình sử dụng phân bón hiện nay
2.2.1. Phân bón vô cơ:
ở các nước trên thế giới, vai trò của phân bón trong việc tăng năng suất, phẩm chất cây trồng và tăng độ phì của đất đã được xác nhận.
Nhà bác học Rumani Davideson (5/1957) trong hội nghị quốc tế đã nói:” Cơ sở nông nghiệp là độ phì nhiêu của đất và cơ sở của độ phì nhiêu của đất là phân bón. Nhờ có phân bón mà diện tích nhỏ cho năng suất cao”, với 26 năm kinh nghiệm nghiên cứu tại viện khoa học, ông đã chứng minh rằng không có cách nào hiệu quả hơn là nâng cao năng suất bằng cách sử dụng phân bón,ông nêu nên vai trò của phân bón trong việc nâng cao năng suất và chất lượng nông sản khi diện tích đất đai ngày càng thu hẹp dần. Năm 1989, toàn thế giới đã sử dụng 147 triệu tấn phân hóa học. Song việc bón phân vô cơ về lâu dài như ở Việt Nam làm đất chua (PH cao), tỷ lệ mùn giảm,đất chai cứng, gây ô nhiễm môi trường, dẫn đến năng suất và chất lượng nông sản giảm, đồng thời trong nông sản thường tích rụ nhiều độc tố gây hại đến sức khỏe của con người, vì vậy bón phân vô cơ không phải là phương án tối ưu khi sản xuất về lâu dài.
2.2.2 Phân bón hữu cơ :
Phân hữu cơ tạo ra sản phẩm chất lượng cao, an toàn cho người tiêu dùng ( thành phần kim loại nặng, hàm lượng NO3- đều rất thấp ),thành phần dinh dưỡng trong rau cao, phân hữu cơ còn làm tăng độ tơi xốp cho đất, làm cho đất không bị trai cứng và bạc màu. Hiện nay ở các nước trên thế giới đang quan tâm đến việc sử dụng các loại phân bón hữu cơ (phân bón sinh học )và các chế phẩm sinh học bao gồm các loại phân chuồng, phân ủ, phân xanh các loại, phân vi sinh. ở ấn Độ, hàng năm sản xuất ra khoảng 265 triệu tấn phân ủ, lượng bón bình quân 2 tạ/ha/năm,tương đương với 3,5-4 triệu tấn NPK và 6,7 triệu ha cây phân xanh,mỗi ha thu được 40-50 kg đạm,ước tính thu được khoảng 0,3 triệu tấn đạm(theo tác giả Phạm Văn Toản năm 2004).
Đặc biệt Trung Quốc là nước sử dụng phân bón hữu cơ rất lớn nhất là phân chuồng, phân xanh rơm rạ, tương đương với 9,8 tấn NPK nguyên chất, và sử dụng nhiều loại phân sinh học trên đồng ruộng. Phân sinh học sử dụng cho 1 ha tương đương với 65 kg (N+ P2O5 +K2O ).
Bón các loại phân hữu cơ vào trong đất, có tác dụng làm cho đất về lâu dài có điều kiện để tích lũy thêm được mùn do đó tăng độ phì của đất.
Việc bón phân hữu cơ có khả năng cải thiện tính chất lý, hóa sinh của đất rõ rệt và trong điều kiện đất nhiệt đới của nước ta, điều đáng chú ý hơn hết là việc tăng thêm dung tích hấp thu cho đất, nhờ đó mà khả năng hấp thu và dự trữ dinh dưỡng cho cây.
Tác dụng của bùn ao khô dầu…cũng được nêu lên từ thế kỷ 13 trong cuốn” Nông trang tạp yếu” của Phương nguyên, đời nguyên.Than bùn chứa đầy đủ các hợp chất hữu cơ, vô cơ cũng như các loại phân hữu cơ khác,trong đó chất hữu cơ chiếm từ 39,5 – 60,5 % trong chất hữu cơ thường tỷ lệ axit humic khá cao.
Axit humic có dung tích hấp thụ và khả năng giữ ẩm cao. Tác dụng sinh lý, hóa nông của axit humic là kích thước tác dụng có bộ rễ làm cho cây sinh trưởng mạnh. Chính vì vậy ở Liên Xô,ngoài việc dùng than bùn độn chuồng, chế biến các loại phân khác, than bùn còn dùng để điều chế các loại phân kích thích như : Humat natri, Humophot…
Từ hàng năm nay, Rong biển cũng như một loại phân hữu cơ, được dùng trong nông nghiệp để cải tạo những loại đất có môi trường hóa học bất thuận cho cây trồng và để làm phân bón. Rong bón vào đất giải phóng chất hữu cơ và chất khoáng vi lượng giúp ích cho cấu trúc đất thêm tơi xốp và tăng độ màu mỡ. ở Mỹ, Canada và một số nước phát triển, các loại phân bón sinh học mới sử dụng trong nông nghiệp đều cho nông sản đạt giá trị hữu cơ,Cà chua trồng trong nhà kính đạt tới 740 tấn/ha/năm,dưa chuột đật 1000 tấn/ ha/năm. ở Thái Lan việc sử dụng các chế phẩm sinh học hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp đã làm chi giá trị nông sản của nước này có vị thế rất cao trên thị trường thế giới.
Hiện nay ngoài việc sử dụng phân hữu cơ thì người sản xuất rau còn dùng các chế phẩm hữu cơ. Tại thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều loại chế phẩm sinh học với thành phần chủ yếu là các nguyên tố vi lượng, chất điều hòa sinh trưởng dưới dựng hỗn hợp hoặc dùng riêng lẻ. Thực tế sản xuất trong thời gian đã cho thấy một số loại đã cho thấy một số loại đã và đang được dùng phổ bến trên nhiều loại cây trồng như Rubi, Seahumic, KumicAtonik… đã đem lại kết quả rõ rệt.
Rubi và Seahumic do trung tâm nghiên cứu nông dược triển khai, không gây ô nhiễm, đáp ứng tiêu chuẩn đề ra cho những sản phẩm trong hệ thống nông nghiệp hữu cơ. Rubi và Seahumic là sản phẩm có nguồn gốc từ rong,tảo biển,được chế biến thao cách tách triết thủy phân, dùng nguyên liệu là: ascophllum nodosum, một loại rong nâu được xem là thực vật biển tốt nhất được dùng trong nông nghiệp.
Phân Komic do công ty sinh hóa nông nghiệp và thương mại Thiên Sinh sản xuất. Là loại phân sinh hóa hữu cơ sử dụng quy trình lên men vi sinh vật để hoạt hóa than bùn(hoặc rác thải) rồi phối trộn với các loại phân hóa học (đạm, lân, kali, lưu huỳnh…) các nguyên tố trung lượng, vi lượng cùng các chất giữ ẩm, các chất điều tiết cho cây trồng.
Phân bón sinh hóa “Thiên Nông” do công ty hóa phẩm Thiên Nông sản xuất, sản phẩm được triết suất từ than bùn, rong biển và cá biển với enzim sinh tố được triết suất từ giống giun hồng(nuôi theo công nghiệp). Có đầy đủ NPK vi lượng để bón cho các loại cây trồng qua đường lá. Bón phân qua lá,cây hấp thụ nhanh, không mất mát lãng phí, hoa mau cứng khỏe, hiệu quả kinh tế cao.
Thuốc kích thích sinh trưởng cây trồng Atonik do hãng hóa chất Asahi- nhật bản sản xuất. Asahi là thuốc kích thích sinh trưởng cây trồng thế hệ mới. Cũng như các vitamin,làm tăng khả năng sinh trưởng, bảo vệ cây trồng tránh khỏi những ảnh hưởng xấu của điều kiện sinh trưởng không thuận lợi gây ra.Asahi có tác dụng làm tăng khả năng ra rễ, tăng năng suất và chất lượng nông sản. [19]
2.3 . Tình hình sử dụng phân bón ở Việt Nam
Mỗi năm nông dân Việt Nam sử dụng khoảng 5 triệu tấn phân bón vô cơ quy chuẩn, không phân hữu cơ và các phân khác do các cơ sở tư nhân và công ty TNHH sản xuất, cung ứng.
Từ năm 1985 đến nay, mức tiêu thụ trung bình 7,2%/ năm, phân lân tăng 13,9%/năm, riêng kali có mức tăng cao nhất là 23,9%/năm. Tổng sử dụng N+ P2O5 + K2O trong 15 năm qua tăng trung bình 9,0 %/ năm và trong thời gian tới có xu hướng tăng 10%/ năm. Trong 15 năm qua, ở các giai đoạn : 1985-1990 ;1991 – 1995 ; 1996 – 2001 lượng tiêu thụ phân kali ở Việt Nam tăng rất nhanh và liên tục. ở các giai đoạn : 1985 – 1990 ; 1991 – 1995 ; 1996 – 2001 mức tiêu thụ phân đạm tăng hàng năm là 10,3 %; 16,7%; 8,2% tương ứng. Như vậy trong 5 năm trở lại đây mức tiêu thụ phân đạm đã giảm dần. ở 3 giai đoạn trên, mức tiêu thụ phân lên là 13,4 %, 26,8%,21,1% tương ứng và cũng có xu hướng giảm mức tăng như phân đạm. Theo kết quả điều tra tại vùng sản xuất rau ở xã Tú Sơn – Kiến Thụy – Hải Phòng, người trồng rau tại đây sử dụng chủ yếu là đạm, lân, và phân tươi tưới cho rau.
Hiện nay ngành sản xuất phân hóa học ở nước ta mới đáp ứng được 45% nhu cầu của nông nghiệp còn lại phải nhập khẩu hầu như toàn bộ phân đạm ure, kali và phân phức hợp DAP, một lượng khá lớn NPK với tổng số 3 triệu tấn /năm riêng đối với phân khoáng kali, do phải nhập khẩu hoàn toàn nên tiêu thụ kali ở nước ta bị phụ thuộc thị trường nước ngoài.
Vấn đề sử dụng phân bón ở Miền Bắc:
Trước những năm 70 ở Miền Bắc Việt Nam, nông nghiệp sử dụng phân hữu cơ là chủ yếu. Phân bón chủ yếu là phaan compot, phân rác phân xanh các loại…Từ khi bắt đầu cuộc “ Cách Mạng Xanh” đến nay, với các cơ cấu cây trồng mới, giống mới (đặc biệt là các giống lai), hệ thống tưới tiêu được cải thiện, khả năng cung ứng
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật được tăng cường. Đặc biệt sau khi một số điều trong luật đất đai được sửa đổi(12/1998), sản xuất nông nghiệp nước ta đã đi theo hướng thâm canh, tăng vụ để tăng năng suất, chất lượng nông sản với yêu cầu của thị trường.
Trong số các thiếu hụt về dinh dưỡng cho cây trồng trên các loại đất ở Việt Nam, lớn nhất và quan trọng nhất vẫn là sự thiếu hụt về đạm, kali, lân. Đây cũng là các chất dinh dưỡng mà cây trồng hấp thụ với lượng lớn nhất và sẽ chi phối hướng sử dụng phân bón. Mặt khác, khi bón phân người ta cũng bắt đầu tính đến nhu cầu dinh dưỡng của từng loại cây trồng, thậm chí cho từng giống cụ thể, trong các vụ gieo trồng trên từng loại đất riêng. Vì vậy trong việc bố trí cơ cấu sản phẩm phân bón, vấn đề quan trọng là phải nắm được cơ cấu ding dưỡng cây trồng trong vụ đồng thời có tính đến đặc điểm của các loại cây trồng vụ trước.
Thực tế cũng chứng minh, phân hữu cơ chỉ có thể là một loại phân bón bổ sung chứ không thể thây thế hoàn toàn phân vô cơ ( phân khoáng). Do vậy, để đảm bảo cho một nền nông nghiệp phát triển bền vững, phải tăng cường sử dụng phân bón trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa phân vô cơ và phân hữu cơ, trong các loại phân bón được sử dụng không những cân đối về tỷ lệ mà phải cân đối với lượng hấp thụ để bù lại lượng thiếu hụt do cây trồng lấy đi từ đất.
Vì vậy nông nghiệp nước ta nói chung và Miền Bắc nói riêng không thể chấp nhận được nguyên lý “ tuyệt đối không sử dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu hóa học” đặc biệt trong điều kiện chúng ta ngày càng trồng nhiều giống cây trồng có năng suất cao. Định hướng phát triển nông nghiệp bền vững đang đặt ra yêu cầu sử dụng phân bón hợp lý và phù hợp với điều kiện thực tế. Trước hết phải tăng cường sử dụng phân hữu cơ cùng với các biện pháp kỹ thuật khác như: cày vặn rạ, cày vùi các loại phụ phẩm cây trồng (đặc biệt là các loại cây họ đậu) hoặc trồng xen loại cây họ đậu lớn cây bóng mát ở vườn cà phê hay vườn cây ăn quả… Trên cơ sở đó dùng một loại phân bón hóa học hợp lý bón cân đối cho mỗi loại cây trồng trong hệ thống cơ cấu cây trồng trên từng loại đất.
Kết quả điều tra tình hình sử dụng phân bón ở viện thổ nhưỡng – nông hóa và các viện, trường Đại Học Nông Nghiệp từ năm 1995 đến nay cho thấy một số hạn chế về việc sử dụng phân bón Miền Bắc nước ta như sau:
- Việc bón phân mới chỉ chú trọng ở đồng bằng nơi có một số cây trồng có lượng nông sả hàng hóa tương đối lớn như : lúa, ngô, lạc, khoai tây, rau vụ đông…ở đất đồi núi,người ta chỉ chú trọng bón phân cho các vùng chuyên canh như chè, mía. Trong 10 năm qua, tỷ lệ bón phân N, P, K đã cân đối hơn (tỷ lệ N: P: K của các năm 1990, 1995, và 2000 là 1: 0,12 : 0,05; 1: 0,46 : 0,12; 1:0,44 :0,37 tương ứng. Tuy nhiên, tỷ lệ bón phân NPK vẫn còn mất cân đối, đậc biệt đối với cây trồng trên đất dốc (tỷ lệ kali còn rất thấp so với tỷ lệ đạm, lân). Do công tác khuyến nông về kỹ thuật bón phân cân đối chưa được làm tốt và tâm lý ưa chuộng phân đạm của nông dân nên việc tăng bón đạm đã trầm trọng thêm sự mất cân đối dinh dưỡng trong đất làm hiệu quả kinh tế sử dụng phân bón chưa cao.
- Lượng phân bón trên một ha tuy đã được tăng lên (ở các năm 1990 – 1995 – 2000 tổng lượng bón N +P2O5 +K2O (kg /ha) là 58,7 : 117,7 : 170,8 tương ứng, chủ yếu trên đất đồng bằng và so với các nước phát triển thì mức phát triển trên vẫn còn thấp (ở Mỹ, Hàn Quốc, Pháp, Nhật Bản tổng lượng NPK tiêu thụ khoảng 240 – 400 kg/ha). Trên đất đồi núi của nước ta, mức sử dụng phân bón còn thấp hơn nhiều, đặc biệt phân kali được bón quá ít như đã nêu ở trên.
- Sử dụng phân bón không đồng đều giữa các vùng sinh thái và các thửa ruộng ở các tiểu vùng. Vì vậy trồng trọt ở các vùng đồng bằng đã chia cho các hộ gia đình, nên lượng phân bón cho nhu cầu của mỗi loại cây trồng cũng rất khác nhau, phụ thuộc vào khả năng chăn nuôi và tiềm lực kinh tế của mỗi hộ. Mặt khác, diện tích đất trồng trọt của mỗi hộ gia đình ở vùng đồng bằng là rất thấp, trung bình là 0,3 ha/ hộ, hơn nữa lại chia ra rất nhiều thửa ruộng ở các tiểu địa hình trong xã (trung bình mỗi hộ có từ 4-5 thửa, nhiêu nơi mỗi hộ có tới 10-12 thửa ruộng ) nên để tạo tâm lý cho nông dân không muốn bón phân đầy đủ cho cây trồng ở mỗi thửa của mình. Trên đất đồi núi, việc đầu tư cho phân bón lại rất thấp, đặc biệt đối với cây công nghiệp, cây thực phẩm lâu năm, cây ăn quả, cây rừng đồng cỏ. Người ta rất ít chú trọng đến bón phân cho các vùng trồng rừng trong kế hoạch phủ xanh đất trống, đồi trọc.
- Sử dụng phân bón còn gây nguy cơ ô nhiễm môi trường. Sử dụng phân chuồng và phân rác không hợp vệ sinh gây ra nhiều bệnh về đường hô hấp, tiêu hóa…ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng. Phân vô cơ thuộc nhón chua sinh lý (ure, SA, K2SO4, KCL, supe lân còn dư lượng axit) đã làm chua hóa đất nên đã làm nghèo kiệt các ion bazo và làm xuất hiện nhiều nguyên tố độc hại mà chủ yếu là Al3+, Fe3+, Mn2+ di động có hại cho cây trồng, làm giảm hoạt tings sinh học của đất. Ngoài ra, việc bón nhiều và bón muộn phân đạm cho rau đã làm tăng lên đáng kể hàm lượng nitrat trong sản phẩm rau.
- Chất và lượng các nguyên tố dinh dưỡng của nhiều loại phân bón không đảm bảo nân khi sử dụng đã ảnh hưởng xấu đến cây trồng. Bón các loại phân này không những không tăng năng suất cây trồng và chất lượng nông sản mà còn gây thiệt hại kinh tế cho các hộ nông dân. Các loại phân này chủ yếu thuộc các nhóm : Phân trộn (phân hỗn hợp), phân hữu vơ sinh học, phân vi sinh, phân hữu cơ- khoáng, phân bón lá do các đơn vị tư nhân sản xuất bằng các phương thức lạc hậu hoặc cố ý lừa đảo. Các loại phân đó không đạt tiêu chuẩn Việt Nam về liều lượng, tỷ lệ các nguyên tố dinh dưỡng và hàm lượng các nguyên tố độc hại, khi bón sẽ gây ô nhiễm môi trường.
- ở nước ta việc sản xuất và mở rộng diện tích rau an toàn đã được triển khai ở hầu hết các thành phố lớn như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Đà Lạt…Diện tích trồng rau an toàn tăng dần qua các năm từ 162 ha năm 1995 đến năm 1999 đạt 1082,5 ha đưa sản lượng rau an toàn từ 259 tấn đến 14 nghìn tấn rau an toàn mỗi năm( theo số liệu sở nông nghiệp và phát triển nông thôn – Hà Nội.
Ngoài ra nhiều địa phương đã xây dựng nhiều mô hình sản xuất rau an toàn như: Hải Phòng, Đà Nẵng, Vinh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh…
Theo kết quả nghiên cứu khảo nghiệm của viện Nông Hóa Thổ Nhưỡng năm 2006 ở diện rộng và diện hẹp của một số cây trồng trong năm 2002-2003 trên một số loại đất miền bắc[19]:
Trên cây lúa phun Bio-plant-99 trên lúa của đất miền bắc tăng 9,9 đến 15,0 tạ/ ha, thu nhập thêm 1547.500- 2567.500 đồng/ha. Còn khi phun Pro-plant-99 tăng từ 8,0-10,6 tạ/ha thu nhập thêm 942.900 – 1422.900 đồng/ha. Khi phối hợp 2 loại phân trên và giảm 25 % lượng phân bón vô cơ (N, P, K) làm tăng 6,2 đến 17,2 tạ/ha thu nhập thêm 742.400- 2918.400 đồng/ha. (nguồn Viện Nông Hóa Thổ Nhưỡng).
Trên cây bắp cải: Khi phun phân Super vegetable trên cây bắp cải ở đất Hà Tây tăng 64 đến 72 tạ/ ha, làm giảm lượng nitrat 3.8mg/kg và thu nhập thêm 9.167.500 – 19.368.500 đồng/ha. Khi phun Pro-plant-9 tăng 76 – 84 tạ/ha giảm hàm lượng nitrat 29 mg/kg thu nhập 10.742.900 – 10.942.900 phân bón vô cơ làm tăng 96 tạ/ha thu nhập thêm 14.136.900 – 14.140.700 đồng/ha.
Theo kết quả nghiên cứu của trung tâm Hà Tây trên cây rau cải bắp tại xã Song Phương, huyện Hoài Đức(2004) cho thấy khi sử dụng phân Bio-plant, Pro-plant, Super vegetable 11 -2 – 7 và phân đơn để sản xuất rau an toàn tiết kiệm được chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn 1.470.000 hạn chế phun thuốc phòng trừ dịch hại và đảm bảo được sức khỏe của người trồng rau và giảm ô nhiễm môi trường.
Theo nguồn tin từ Sở khoa học – Công nghệ tỉnh Vĩnh Phúc, năm 2007 cho biết nhằm khảo nghiệm và đánh giá tác dụng của phân bón hữu cơ thế hệ mới đối với các loại cây trồng ở tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 2006, Trung Tâm ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ Vĩnh Phúc thực hiện đề tài:” Nghiên Cứu thử nghiệm phân bón hữu cơ cao phân tử Polyhumate để sản xuất rau an toàn tại tỉnh Vĩnh Phúc” mục tiêu của đề tài là nghiên cứu, thử nghiệm phân bón cao phân tử trong sản xuất rau an toàn cho tỉnh. Theo dõi sự sinh trưởng, phát triển và năng suất thu được sau khi dùng phân bón Polyhumate so với phân bón thông thường được sử dụng trong trồng rau ở tỉnh Vĩnh Phúc làm cơ sở để ứng dụng trong thực tiễn.
Trung tâm đã xây dựng mô hình trình diễn thực tế với diện tichs1000 m2 tại xã Địa Trung – Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc các loại rau tham gia thí nghiệm là : cải xanh, cà chua, cải bắp được trồng 3 vụ trên năm. Phân bón được sử dụng là loại: phân Super K – Humate USA do công ty Vinacal Air Supply Products (Mỹ) sản xuất và được phân phối độc quyền ở Việt Nam bởi công ty TNHH phân bón An Tường Hưng- Sài Gòn. Thành Phần ding dưỡng của phân bón như sau: N: 90%,P: 9%, K: 9%, K- humate 4% tổng khoáng đa lượng và trung lượng 0,5 %, tổng vi lượng 2200 ppm.
Kết quả thực nghiệm của phân K- humate trên rau cải bắp; được trồng ở vụ thu và vụ đông năm 2006, giống NS – Coss, cây giống 25 ngày tuổi, có 5-6 lá mậy độ trồng 1200 lá/sào theo mật độ 50 60 cm. Bố trí 2 công thức thí nghiệm/vụ mỗi công thức với diện tích là 120 m2, nhắc lại 3 lần. Công thức thí nghiệm dung phân K-humate được bố trí: phân hữu cơ hoai mục 500kg/sào, NPK 15 kg/sào, kali 6kg/sào, ure 10kg/sào, được phun khi bón lót, kết quả thực nghiệm cho thấy có sự khác biệt giữa công thức dùng phân K-humate và công thức không dùng phân K-humate, trọng lượng trung bình/bắp của công thức có dùng phân cao hơn công thức không dùng phân K-humate, năng suất tăng 276,5kg/sào
Kết quả thực nghiệm phân K- humate trên cây rau cải xanh ngọt Hồng Công, được trồng 3 vụ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6.PhamVanQuy.doc